Thư Cho Con: 41 Năm Quốc Hận Đại Nạn Công An Phiệt & Miền Nam Bị Phá Nát Lần Nửa – Giáo Già

Cac Bai Khac

No sub-categories

Thư Cho Con: 41 Năm Quốc Hận Đại Nạn Công An Phiệt & Miền Nam Bị Phá Nát Lần Nửa – Giáo Già

Ngày 29 tháng 4 năm 2016

H,

Còn 1 ngày nữa là 30 tháng tư. 41 năm trước, CS Bắc Việt hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam VN khiến người miền Nam tháo chạy, vượt biên… trong cơn binh biến; và trong thời gian dài sau đó. Cho đến nay, suốt 41 năm, toàn dân Việt Nam vẫn đang tháo chạy khỏi đất nước vì nhiều lý do:

  • Người có nhiều tiền, tạm gọi là đại gia, đang tháo chạy công khai bằng các diện đầu tư và bảo lãnh…;
  • Các cô dâu chú rể, thế hệ thanh niên đang tháo chạy khỏi Việt Nam bằng những tờ hôn thú giả…;
  • Các du học sinh và chất xám của đất nước…cũng đang tìm đường tháo chạy để tìm việc nơi xứ người; vì hầu như chẳng em nào muốn quay về, trừ con cái các quý tộc đỏ hồi hương để tiếp nối con đường bóc lột dân tộc của cha anh đương quyền lãnh đạo đất nước…
  • Các gia đình có tiền đang râm ran bàn cách cho con cái đi học để chờ ngày không xa theo con định cư nước ngoài…

Do vậy, phải gọi ngày 30-4 là ngày Quốc Hận. Đừng gọi nó bằng một cái tên khác. Cho tới nay, đã qua rồi 41 mùa quốc hận, nhưng mối quốc hận vẫn không hề phai lạt, mà càng ngày càng đậm nét; vì chính những kẻ gây ra quốc hận càng ngày lún sâu vào con đường phản bội dân tộc, làm cho quốc hận càng thêm sôi sục.

Tiếp nhận một gia tài khổng lồ, phồn thịnh là miền Nam Việt Nam, ngay từ ngày quốc hận đó, CS đã đưa miền nam đến chỗ bệ rạc, bế tắc về tất cả các mặt văn hóa, kinh tế, chính trị…; khinh thường dân chúng một cách trắng trợn, và nhất là chỉ vì mưu cầu quyền lực và quyền lợi, tập đoàn lãnh đạo CS đang bí mật đưa cả nước Việt Nam vào con đường Hán hóa, bán đứt đất đai, biển đảo do tổ tiên để lại cho kẻ thù phương bắc.

Trong bài viết “CÓ NHỮNG SỰ THẬT KHÔNG CÃI ĐƯỢC” Huy Phương đã nhận định, Giáo Già xin trích nguyên văn:

“– Ở xã hội ấy (VC) cái gì cũng mua được bằng tiền, cái gì cũng được đem bán, và người ta sẵn sàng bán đi những cái gì quý nhất.

– Ở xã hội ấy, người ta không biết hổ thẹn vì nhân cách, nhưng cảm thấy hổ thẹn khi thua sút những người chung quanh vì cái nhà, cái xe, cái điện thoại, cái xách tay…

– Ở xã hội ấy, ai cũng muốn bỏ đi, những ai còn ở lại là không đi được, hay đang còn kiếm được tiền để chuẩn bị đi hay lo cho những người đã đi.

– Con người là vốn quý như ai đó đã từng nói, nhưng một mạng người không đáng giá bằng một con chó!

– Con người là vốn quý, nhưng người ta coi rẻ sinh mạng của nhau, cầm dao giết nhau chỉ vì một cái nhìn, một chuyện tranh cãi hay để cướp đoạt tài sản của người khác.

– Con người là vốn quý, nhưng công an, thế lực của chế độ, sẵn sàng đánh chết dân vì dân không chịu nhận tội mình không làm.

– Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người, nhưng người vá xe sẵn sàng rải đinh trên đường để cho tiệm mình đông khách, thêm lợi nhuận.

– Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người nhưng bọn phục vụ cho dân, ăn gian, làm dối, sống chết mặc bay.

– Cộng sản đã từng ca tụng: “Chủ Nghĩa Xã Hội là đỉnh cao trí tuệ loài người!” “Hà Nội là lương tri của nhân loại!” Báo Quân Đội Nhân Dân đã ca tụng “đỉnh cao của khí phách và trí tuệ Việt Nam”, nhưng ngày nay nhân dân Việt Nam đi đến đâu đều được mọi người có những cái nhìn thiếu thiện cảm. Nhật, Thái Lan, Nam Hàn, Singapore… kết án người Việt trộm cắp, ăn tham, xả rác, bán dâm… khiến hình ảnh Việt Nam đang dần trở nên xấu xa. Cả nhân viên nhà nước cũng buôn lậu, ăn cắp, hối lộ, vậy người Việt ra nước ngoài còn dám ngẩng mặt nhìn ai?

– Ở trong nước dân Việt đã bày tỏ dân trí bằng cách ẩu đả, chửi bới nhau để chen lấn mua bánh Trung Thu ở Hà Nội, giành giật đạp lên nhau để giành được một miếng sushi miễn phí ở một cửa hàng mới khai trương, hỗn loạn trèo lên đầu nhau để mua bằng được lá ấn trong lễ khai ấn đền Trần, hôi của khi có tai nạn qua đường như rơi tiền, đổ bia… Người ngoại quốc và các tòa đại sứ ở Việt Nam thì bắt đầu “sợ” dân Việt khi những cây anh đào được đem từ Nhật đến bị đám đông nhào đến vặt sạch, chính phủ Hòa Lan tổ chức phát 3,000 chiếc áo mưa cho dân chúng để tỏ tình hữu nghị thì đám đông ào ạt, hung dữ nhào lên sân khấu cướp từ tay các tình nguyện viên và nhân viên đại sứ quán…”

Đó là đại nạn. Nó càng trầm trọng hơn với đại nạn “Công An Phiệt”, mà những kẻ cầm quyền bố trí cho nhau những chức vụ hàng đầu đều là công an, như [Giáo Già xin nhắc lại vài chi tiết đã ghi trong Thư Cho Con ngày 7-4-2016]:

  1. Chủ tịch nước: Đại tá công an Trần Đại Quang;
  2. Bộ trưởng Công an: Thượng tướng công an Tô Lâm;
  3. Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao: Trung tướng công an Trương Hòa Bình;
  4. Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao: Thiếu tướng công an Nguyễn Hòa Bình.

Xin ghi lại đây một số trường hợp điển hình người dân gặp nạn vì đại nạn công an phiệt:

–  Sáng ngày 17/4/2016 một loạt hội viên Hội nhà báo độc lập Việt Nam bị chặn tại nhà hoặc tạo cớ đưa về đồn công an câu lưu, không cho đến tham dự cuộc tọa đàm “Obama đến Việt Nam – The change we need”. Đó là:

  • Tại Thanh Trì, vào lúc 7 giờ sáng, ông Nguyễn Tường Thụy, phó chủ tịch Hội ra khỏi nhà để đi dự họp thì gặp rất đông công an mai phục sẵn từ trước kiên quyết không cho đi;
  • Cũng tại Thanh Trì, anh Vũ Quốc Ngữ cũng bị rất đông công an đến chặn, không cho ra khỏi nhà;
  • Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội từ Sài Gòn và Nhà thơ Bùi Minh Quốc từ Đà Lạt ra Hà Nội từ hôm trước để tham dự tọa đàm. Ông Phạm Chí Dũng mượn xe máy của một người bạn, chưa kịp đi thì có một xe khác tông vào rất khó hiểu(!?). Lấy lý do đụng xe, ông bị đưa đến công an phường Giảng Võ để câu lưu. Nhà thơ Bùi Minh Quốc bị giữ ở công an phường Kim Liên với lý do kiểm tra hộ khẩu. Nhà báo Phạm Đoan Trang là khách mời bị giữ trên đường đi. Cô bị ép lên vỉa hè lúc 8 giờ và bị đưa về đồn công an. Họ giữ cô ở đó đến 12 giờ mới chịu thả.

– Sáng ngày 22/4/2016, Tòa án tỉnh Tây Ninh mở phiên tòa phúc thẩm (lần 2) xử anh Nguyễn Văn Thông, phạm tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ” theo Điều 258 Bộ luật hình sự. Tại tòa anh Thông một mực kêu oan, vì cho rằng anh chỉ là người đi khiếu nại để đòi nhà nước chi trả tiền bồi thường đúng qui định của pháp luật, chứ không có mục đích lợi dụng các quyền tự do dân chủ như quy kết của bản án sơ thẩm. Các luật sư bào chữa cho anh Thông đều đưa ra những chứng cứ chứng minh việc anh Thông khiếu nại là đúng, các quyết định bồi thường là sai nghiêm trọng; anh Thông hoàn toàn không lợi dụng các quyền tự do dân chủ như bản án sơ thẩm đã quy kết và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên anh Thông vô tội. Nhưng, kết thúc phiên tòa Hội đồng xét xử tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm, phạt anh Thông 03 năm 06 tháng tù giam, làm các luật sư và hàng trăm người có mặt tại hội trường vô cùng ngỡ ngàng, thất vọng. Sau đó, lực lượng cảnh sát vội vàng áp giải anh Thông lên xe thùng chở về trại giam, cùng tiếng la hét của người nhà anh Thông.

– Theo đơn tố cáo của nhà báo Trần Đại của báo Pháp Luật Xã Hội, khi anh và một đồng nghiệp đang ghi hình trên đường phố về tình trạng nhiều thanh niên lạng lách, cho xe đánh võng, gây mất an toàn giao thông ở thành phố Thanh Hóa, thì có một người mặc sắc phục màu xanh điều khiển phương tiện lạng lách qua nhiều con đường cũng bị ghi hình. Sau đó, anh và đồng nghiệp đã bị một người đi xe mô tô mang biển số 36B4-665.88 dọa đánh và dùng bình xịt hơi cay xịt vào mặt. Sau khi đơn tố cáo của nhà báo Trần Đại được gửi cho cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Thanh Hóa, chiếc xe mô tô trên đã được xác minh là của ông Nguyễn Ngọc Cường, hiện mang quân hàm thượng sĩ, đang công tác tại đội đặc nhiệm tiểu đoàn Cảnh sát cơ động, Phòng Cảnh sát cơ động tỉnh Thanh Hóa.

– Nhà hoạt động Ngô Duy Quyền thuộc Hội Bầu bí Tương Thân, là chồng của cựu tù nhân lương tâm Lê Thị Công Nhân, đồng thời cũng là anh của cựu tù nhân chính trị Ngô Quỳnh, bị công an bắt đi làm việc từ lúc 4 giờ chiều đến 11 giờ tối mới được thả ra; chỉ vì tội viết thư gửi Bộ trưởng công an Trần Đại Quang nói về một số nhà hoạt động nhân quyền như các anh Nguyễn Chí Tuyến, Đinh Quang Tuyến, facebooker Gió Lang Thang Trịnh Anh Tuấn bị hành hung… Trước đó nữa có những người dân bị hành hung đến chết hoặc bị trọng thương trong đồn công an… như trường hợp em Đỗ Đăng Dư…

– Ngày 20/4 những thông tin về việc Công an Huyện Bình Chánh khởi tố, và Viện KS cùng cấp; phê duyệt Lệnh khởi tố chủ quán café Xin Chào vì dám cạnh tranh với Căng tin của Công an Huyện, khiến Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Bí thư Thành ủy Sài Gòn Đinh La Thăng phải lên tiếng chỉ đạo Trung tướng Giám đốc công an TP.HCM, Viện trưởng VKSND TP.HCM cấp thời làm rõ vụ việc. Sau đó, chiều ngày 22/4, Viện KSND TP.HCM họp với TAND TP.HCM và Công an TP.HCM, thống nhất đình chỉ vụ án. Kết quả cũng cho thấy VKS Nhân dân Tối cao ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với ông Hồ Văn Son, kiểm sát viên sơ cấp Viện KSND huyện Bình Chánh và ông Lê Thanh Tòng, Phó Viện trưởng Viện KSND quận 6, nguyên Phó Viện trưởng Viện KSND huyện Bình Chánh, người ký quyết định truy tố ông Nguyễn Văn Tấn, Chủ quán cà phê Xin chào. Nó cũng khiến đại tá công an Nguyễn Văn Quý bị kỷ luật và làm lộ căn biệt thự nguy nga của đương sự [xem hình].

– Trước đó cũng có một số nạn nhơn điển hình của đại nạn công an phiệt được ghi nhận, gồm:

  • Một cô gái ở quận 12 TP.HCM vì tát CSGT giữa phố vào tháng 7.2011 đã bị phạt 9 tháng tù; sau đó giảm còn 6 tháng;
  • Anh Nguyễn Công Nhựt (nguyên trưởng Phòng Quản lý sản phẩm Công ty Kumho-chuyên sản xuất lốp ô tô) chết tại nhà tạm giữ Công an huyện Bến Cát ngày 25.4.2011, phía công an tuyên bố anh Nhựt tự tử;
  • Nghi can Trần Giang Nam bị cho là “tự tử” tại phòng giam giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, ngày 5.8.2014;
  • Nghi can Nguyễn Đức Duân tử vong sau gần 1 tháng bị tạm giam tại phòng tạm giam công an huyện Khoái Châu, Hưng Yên, ngày 8.4.2015;
  • Thiếu niên Trịnh Xuân Quyền, 16 tuổi, ngụ xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, chết bất thường sau hai tuần bị công an huyện tạm giam;

Cùng với đại nạn công an phiệt, trên đường xâm lăng Miền Nam Việt Nam [bên dưới vĩ tuyến 17] lần nữa, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đưa Ủy viên Bộ Chánh trị gốc Bắc [Nam Định] Đnh La Thăng, nổi tiếng là “Thăng nổ”, vào Nam làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn, mang theo thùng đạn bắn nổ tứ tung. Hắn nói hắn muốn Sài Gòn trở lại danh tiếng “Hòn Ngọc Viễn Đông”, nhưng lại có những hành động dứt khoát làm nát thành phố vốn là “Hòn Ngọc Viễn Đông”, nơi đã bị CS Bắc Việt xâm lăng năm 1975 phá nát chưa kịp hồi phục, bằng ít nhứt ba hành động quyết liệt:

  1. Cho xuất cả ngàn tỷ đồng tiền thuế của dân Sài Gòn để lót lề đường bằng đá hoa cương khu Catinat [thời trước người Pháp gọi là tiểu Paris], thời VNCH đổi thành đường Tự Do; thay vì lo giải quyết nạn kẹt xe, cung cấp nước sạch cho cư dân, chống ngập khi mưa, chống nạn nước cống tràn lan làm hôi thúi sông rạch… Ngay những thành phố lớn, giàu sang như Paris, Berlin, New York, San Francisco… người ta cũng chỉ lót đá xanh trên vỉa hè… Việc Thăng làm chỉ làm lợi cho cán bộ đảng viên CS rút ruột công trình…
  2. Ra lịnh cho cơ quan quản lý đường sắt TP/HCM đốn hạ 300 cây cổ thụ trên đường Tôn đức Thắng để phục vụ cho dự án giao thông gồm tuyến tàu điện ngầm, cầu Thủ Thiêm 2, nhà ga Ba Son. Đây là hàng cây 100 năm tuổi che bóng mất trên đường Tôn Đức Thắng, tức đường Cường Để của Saigon trước 1975. Rồi tiếp tục đốn hạ 70 cây xanh tại trung tâm thành phố để làm tuyến tàu điện ngầm Bến Thành – Suối Tiên, đoạn công trình từ ga Nhà hát TP đến ga Bến Thành. Trước đó những hàng cây trên đường Nguyễn Huệ, trước Nhà hát TP cũng bị đốn hạ để xây dựng phố đi bộ, đồng thời là ga Nhà hát TP. Hàng cây xanh thuộc công viên 23/9 (giao lộ Trần Hưng Đạo-Phạm Ngũ Lão) và đường Lê Lợi cũng bị đốn hạ; trong đó có nhiều cổ thụ cao hơn 15 m, làm trơ trụi thành phố, hư nát lá phổi của Saigon
  3. Cắt đất trong khuôn viên của Thư viện Khoa học thành phố, trước đây là thư viện lớn nhứt và lịch sử văn hoá kỳ cựu của Saigon, để giao cho một doanh nghiệp tư nhân xây cao ốc 20 tầng, cao khoảng 80m để làm văn phòng và khách sạn nhiều sao cho mướn, giống như CS Bắc Việt hồi mới cưỡng chiếm được Saigon ra lịnh tịch thu sách vở đem đốt… nhằm mục đích cào bằng văn hoá Saigon, văn hoá của người Việt ở Miền Nam

Bao nhiêu đó đủ cho thấy ý đồ của Bí Thư Thành uỷ Đinh La Thăng trong việc phá nát Sài Gòn khiến các trang mạng xã hội và trí thức yêu nước đồng loạt lên tiếng phản đối. Điển hình như Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, một người Nam sống ở Saigon qua ba thơi kỳ, nói rằng: “Khi người Pháp xây dựng Sài Gòn họ đã đi trước tất cả, từ Hồng Kông cho đến Singapore. Các nơi này còn thua kém nhiều… Phải tôn trọng tất cả những kiến trúc có giá trị vừa văn hóa vừa lịch sử…”

Mặt khác, nên biết, 30/4 năm nay, một cuộc chiến “Xâm Lăng Miền Nam” khác mang bóng dáng của Trung Quốc đang âm thầm phủ bóng lên quê hương đang hình thành rõ rệt, bao gồm thực phẩm, hàng hoá, văn hoá mới, môi trường, chính trị…; với nạn ung thư về thực phẩm tăng nhanh trong toàn dân, nền kinh tế lệ thuộc leo thang một cách ngu ngốc vào Bắc Kinh, biển và đất liền bị công khai cưỡng đoạt dần dần, người Tàu di cư ồ ạt và thiếu minh bạch vào Việt Nam, biến nhiều điểm quan yếu của tổ quốc thành tô giới riêng của chúng. Thậm chí năm 2016, đã có những nơi chỉ buôn bán, sinh hoạt cho người Tàu; và dùng tiền nhân dân tệ, không tiếp người Việt…

Giờ đây, cuộc chiến “Xâm Lăng Miền Nam” lần nữa lại đến. Khắp nơi, cuộc chiến không tiếng sung đang diễn ra, chỉ có tiếng vỗ tay… mà vụ án Formosa ở Vũng Áng, Hà Tỉnh, là minh chứng hùng hồn cho tham vọng của Nguyễn Phú Trọng và đám công an phiệt ngồi ở Bắc bộ phủ Hà Nội.

Nếu chiến thắng ngày 30/4 của CSVN mở ra một trang sử mới cực kỳ đen tối cho nước nhà, với đại nạn tham nhũng lên ngôi, đạo đức lùi bước, giả dối ngự trị, hận thù triền miên… thì tiếp theo sau vụ Đinh La Thăng vừa ngồi vào ghế Bí thư thành ủy Sài Gòn đã mau chóng lên kế hoạch phá nát thành phố từng có tên là Hòn Ngọc Viễn Đông; Nguyễn Phú Trọng vào thị sát Hà Tỉnh, ngày 22 tháng 4 năm 2016, mà cứ tỉnh bơ coi như không có đại nạn cá chết từ những ngày cuối tháng 4/2016, nằm dọc bờ biển Việt Nam như những xác người.

Theo báo chí mô tả thì trong chuyến đi Trọng dừng chân ở Thạch Hà vào sáng ngày 22, thăm cơ sở trồng trọt rau tại địa phương này. Sau đó Trọng mới đi tiếp 70 cây số nữa vào khu công nghiệp Vũng Áng. Trọng ca ngợi và khuyến khích trồng rau, xem xét và hài lòng về tiến độ các dự án ở khu công nghiệp Vũng Áng. Trọng cũng khen thành tựu kinh tế mà khu công nghiệp này đã mang lại. Tuyệt nhiên không có dòng nào Trọng nhắc đến chuyện cá chết mà dân chúng đang lo lắng [http://vov.vn/chinh-tri/tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tham-va-lam-viec-tai-ha-tinh-503287.vov] [xem hình].

Nhiều người Việt vẫn nghĩ rằng Formosa Hà Tĩnh chỉ là công ty Đài Loan; nhưng tiết lộ trên trang web Trần Đại Quang [tên của Đại tướng công an, chủ tịch nước hiện tại ở Việt Nam] cho biết hệ thống đó hoàn toàn của Trung Quốc. Tin cho biết, theo công văn số 1407114 của Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh đề đạt với chính quyền Hà Tĩnh thì đã có đến 25 công ty Trung Quốc (không phải Đài Loan), trong số 28 công ty thầu. Số lượng công nhân Trung Quốc cũng lên đến 10.000 người. Bài viết trên trang web Trần Đại Quang còn làm một phân tích ngắn về số tiền đầu tư và cổ phần mà các công ty mang nhãn hiệu Đài Loan đại diện ở Vũng Áng. Nó đã chỉ ra một khoảng trống bí mật, cho thấy các công ty vỏ bọc này sau một thời gian ra mặt đã im lặng rút dần, nhường chỗ cho “ông chủ” mới, ẩn danh, chiếm gần 50% vốn. Nguyên văn của bài viết, khẳng định rằng “Formosa Hà Tĩnh không còn là doanh nghiệp nước ngoài 100% vốn Đài Loan như đã đăng ký”. Một chi tiết không được quên là Hà Tỉnh và các tỉnh bị ảnh hưởng “độc chất Formosa” đều ở Miền Nam vĩ tuyến 17. Do đó Miền Nam VN “lãnh đủ”.

Còn nhớ, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng, sau là Chủ tịch Quốc hội, đã từng dự báo:

  • Giai đoạn một, ngân sách Hà Tĩnh sẽ đạt mức từ 5.000 – 7.000 tỷ.
  • Giai đoạn hai, sau năm 2015, nguồn thu ngân sách sẽ trên 10 nghìn tỷ đồng/năm.
  • Ðể có một khu kinh tế Vũng Áng và những dự án tầm cỡ quốc tế như Formosa là công lao của các thế hệ lãnh đạo, sự vào cuộc của toàn Ðảng bộ, quân và dân Hà Tĩnh…

Nhưng, giờ đây, 5.000, 10.000 tỷ đồng ngân sách đâu không thấy, chỉ thấy tôm cá chết la liệt khắp nơi, người dân ở 4 tỉnh có cá chết, cũng sắp chết theo vì chẳng còn tôm cá đâu mà ăn!

Do vậy, Nguyễn Phú Trọng quyết định đi Hà Tĩnh để ngầm tỏ ý bảo kê cho lãnh đạo Hà Tĩnh và Formosa, như một cách đưa thông điệp “có ta đây”, có Tổng bí thư đảng, người quyền lực nhất nước, bên cạnh rồi, đừng lo dư luận. Trọng dùng thủ đoạn tinh vi khi đi thăm nơi trồng rau xanh tại một tỉnh mà cá biển chết hôi thối, ruồi nhặng bâu đầy. Qua đó để lấy hình ảnh trồng trọt che lấp làm mờ đi hình ảnh cá chết. Trọng biểu dương tiến độ dự án, biểu dương những thành quả của Hà Tĩnh đạt được là đi đúng hướng, đúng chủ trương của đảng. Chắc ai cũng hiểu, một khi ở vị trí tối cao hắn đã công khai khen như thế là hắn đã ra mặt ủng hộ và sẵn sàng bênh vực cho lãnh đạo Hà Tĩnh và Formosa.
Đừng quên, trước đó, trong buổi họp báo tối ngày 27/4/2016, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường Võ Tuấn Nhân cũng đã lên tiếng bênh vực việc xả chất thải độc hại của tập đoàn Formosa khi tuyên bố: “Chưa có bằng chứng để xác định Formosa và cảng Vũng Áng có liên quan đến cá chết”. Sau đó, trong cuộc phỏng vấn được phát hình trực tiếp trên facebook báo Thanh Niên, vị thứ trưởng này tỏ thái độ tức giận, rồi bỏ đi, khi một nữ phóng viên chất vấn về việc kim loại nặng Crom trong nước biển Lăng Cô cao gấp 9 lần mức cho phép. Theo Nhân câu hỏi này đã “gây tổn hại cho đất nước”, đồng thời yêu cầu các phóng viên phải tắt máy. Mặt khác, ông Đặng Ngọc Sơn Phó chủ tịch UBND Hà Tỉnh nói bừa là “Bà con yên tâm ăn hải sản còn sống, tắm biển ở Vũng Áng” [xem hình]. Nhưng thực tế vừa cho thấy Anh Trương Như La bị nhập viện sau khi ăn cá biển vì các nốt ban đỏ khắp người, mặt, cổ, miệng bị lở loét khiến bệnh nhân không thể ăn hay nuốt được [Xem hình]. Cũng xin ghi lại đây thành tích của Formosa như sau:

  • Năm 1998, Formosa gửi sang Campuchia 300 tấn rác được bọc kỹ bằng những tấm nhựa dày. Thấy những tấm nhựa này quá tốt, người nghèo ở Sihanoukville, Campuchia, xúm vào gỡ những tấm nhựa đó mang về nhà làm mái, làm vách. Ít ngày sau, những người nghèo đó bị sốt, bị tiêu chảy rồi có người lăn ra chết… Hóa ra rác được bọc trong các tấm nhựa là rác nhiễm thủy ngân! Những tấm nhựa tất nhiên cũng vậy. Dân chúng nổi giận và nổi loạn. Riêng chuyện nổi loạn và dẹp loạn làm thêm năm người chết. Trong vụ này, Việt Nam đã gửi giúp Campuchia 500 mặt nạ và đồ bảo hộ để hỗ trợ tẩy độc ở Sihanoukville. Khi mời Formosa CS Việt Nam có lẽ đã quên chuyện này!
  • Năm 2009, Formosa bị EPA (Cơ quan Bảo vệ Môi trường) của Hoa Kỳ, phạt 2,8 triệu Mỹ kim vì không thông báo cho dân chúng địa phương tác hại của các chất mà Formosa thải ra và bị buộc phải chi 10 triệu Mỹ kim để khắc phục ô nhiễm tại Tiểu bang Texas và Louisiana. Vụ Formosa là một “case” được giới thiệu trong giáo trình về Luật Môi trường của Barry Hill tại Hoa Kỳ (Environmental Justice, Legal Theory and Practice, Barry Hill, 3rd Edition, 2014).
  • Năm 2009 cũng là năm Formosa được trao giải “Hành tinh Đen”. Đây là giải đặc biệt mà Ethecon – một tổ chức bảo vệ môi trường ở Đức xét trao cho những cá nhân/tổ chức hủy diệt môi trường.
  • Tại Đài Loan, các chuyên gia y tế và môi trường cũng đã từng cảnh báo công nghệ của Formosa thải ra ở Yulin chứa các chất gây ung thư và phá hủy gan.
  • Tháng 2 năm 2014, dân Đài Loan từng biểu tình trước trụ sở Formosa, phản đối tập đoàn này hủy diệt môi trường.
  • Phải nhấn mạnh rằng: bất kể Formosa thế nào, gây hậu quả ra sao, nếu vùng biển khu vực Vũng Áng trở thành biển chết, tôm, cá, thậm chí con người, suốt dải đồng bằng ven biên miền Trung lăn ra chết, thì nơi đáng lên án cũng phải là Formosa.

Từ đó, câu hỏi được đặt ra là: “Tại sao lại chọn Formosa và ai đã mời Formosa vào xứ này?”.

Một nguồn tin cho biết, trong ngày 28/4, Ban tuyên giáo trung ương đã chỉ đạo các cơ quan thông tấn báo chí ngừng đưa tin về “khủng hoảng Vũng Áng”. Đồng thời cũng không đưa thêm bất cứ thông tin hay hình ảnh gì về việc cá chết dọc các bờ biển Bắc Trung bộ. Thậm chí, nếu cá có tiếp tục chết cũng không được thông tin. Ngoài ra, cũng tuyệt đối không được đưa tin về các cuộc xuống đường biểu tình của nhân dân các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh… phản đối nhà máy gang thép Formosa trong khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh). Nhưng, cuộc biểu tình đã có [Xem hình Dân làng biển Cảnh Dương, Quảng Trạch, Quảng Bình đã tập trung giương cờ và khẩu hiệu, cùng nhau biểu tình phản đối dự án xây dựng nhà máy thép Formosa gây thảm họa môi trường. Ảnh: Facebook]]

Thêm nữa, 300 tấn hóa chất được Formosa nhập về sử dụng để tẩy rửa một số đường ống nói là không gây hại. Nhưng Kết luận của lãnh đạo Formosa rất mập mờ và khó hiểu, gây phẫn nộ cho rất nhiều người dân Việt Nam. Câu hỏi được đặt ra là hóa chất tẩy rửa đường ống đó có tên hóa học là gì? Nếu lãnh đạo Formosa không trả lời được thì xin cho biết tên thương mại của nó là gì? Chi cục Hải Quan Hà Tĩnh có thể cho dân biết thông tin cụ thể về 300 tấn hóa chất này không?

Mới đây, lãnh đạo Formosa còn tuyên bố “Để phát triển kinh tế việc chết vài con cá biển là chuyện nhỏ và là cái giá phải đánh đổi”. Nhưng, đừng tin Formosa, mà phải coi “Sự việc nghiêm trọng này là thảm họa khôn lường và lâu dài”.

Phải gọi đây là một đại hoạ, vì nó không chỉ gây ô nhiễm môi trường biển trên diện rộng khiến cá chết rất nhiều, mà nó đang khiến hàng triệu con người lâm vào cảnh sống chết mong manh. Biển là mạng sống của hàng triệu ngư dân miền trung. Nếu biển nhiễm độc thì mạng sống của hàng triệu con người đó cũng đang bị nhiễm độc. Biển bị nhiễm độc nên cá chết, cá chết thì ngư dân cũng chết. Ngành thuỷ hải sản ở mấy tỉnh này cũng chết. Mà không chỉ ngư dân chết, ngành du lịch biển cũng chết. Biển nhiễm độc ai còn dám ra bãi biển tắm. Không chỉ ngành du lịch biển chết, toàn bộ người dân Việt Nam cũng sẽ điêu đứng vì sự nhiễm độc này. Đang có những thông tin về những thương lái thu gom cá chết để chế biến nhằm tung ra thị trường khi sự việc này lắng xuống. Hơn nữa, đã có những thông tin về người chết do nhiễm độc từ biển, trong đó có anh thợ lặn phát hiện ra đường ống xả nước thải của một tập đoàn nước ngoài. Từ đó, họa sĩ biếm họa Babui đã gởi Nguyễn Phú Trọng và CSVN bức biếm họa đính kèm [trích từ các Web].

Để góp phần giải quyết vấn đề, ngày 27/04, một nhóm các nhà hoạt động xã hội tại Việt Nam đã đưa lên mạng bản “Tuyên bố về tội ác đầu độc biển miền Trung“, chỉ sau một ngày đã nhận được hơn 500 chữ ký, đến ngày 29-4 đã lên tới 880 người [xem phụ đính]. Trước đó, trên mạng cũng lan truyền “Lời kêu gọi xuống đường vì môi trường” tại Hà Nội, Sài Gòn… vào ngày Chủ nhật 01/05.

Bên cạnh đó, một bản kiến nghị hiện có hơn 118.000 chữ ký trên mạng We the People của Tòa Bạch Ốc đề nghị “Tổng thống Obama giúp nhân dân Việt Nam bằng cách đánh giá tác động môi trường độc lập về nhà máy thép Formosa; và Tổng thống Obama hãy nêu vấn đề này với CS Việt Nam trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5”. Được biết, trang mạng We the People cho biết nếu có đủ 100.000 chữ k‎ý trong 30 ngày về một kiến nghị nào đó thì Tòa Bạch Ốc sẽ xem thư, đưa cho các chuyên gia và rồi có trả lời chính thức. Mời xem Bản đồ người TQ có mặt khắp lãnh thổ VN và những công nhân TQ ở VN [Nguồn: internet].

Cũng từ đó, nên xem Câu chuyện Formosa là một phần trong cuôc chiến thầm lặng “xâm lăng” miền Nam lần nữa của CSVN, bắt đầu bằng cuộc tận diệt môi sinh và con người suốt hàng trăm cây số bờ biển. Nên xem những ngày cuối tháng 4/2016, những con cá chết nằm dọc bờ biển Việt Nam như những xác người, nhắc cho hàng triệu người nhớ về một cuộc chiến từ năm 1975 đã dừng tiếng súng, nhưng rồi mở ra một cuộc chiến khác khốc liệt hơn. Cuộc chiến không có tiếng súng, chỉ có tiếng vỗ tay… và chất độc.

Hẹn con thư sau,

Giáo Già (Đại gia đình Nguyễn Ngọc Huy)

 

Phụ Đính

Tuyên Bố Về Tội Ác Đầu Độc Biển Miền Trung Việt Nam (Cập Nhật Đợt 3, Tổng Cộng 880 Người Ký) 

Vụ nước biển miền Trung bị nhiễm độc nặng nề, mà chứng cứ là hàng chục tấn cá biển lớn nhỏ chết giạt vào bờ từ đầu tháng 4/2016 vẫn tiếp tục đến hôm nay, lan từ Hà Tĩnh, vào Quảng Bình, Quảng Trị, đến Thừa Thiên-Huế,… đã gây ra sự phẫn nộ chưa từng có trong toàn thể nhân dân Việt Nam.

Đại hoạ thảm khốc trên không chỉ hủy hoại ngư trường của hàng vạn người dân ven biển miền Trung, hủy hoại môi sinh ven bờ, gây ra tình trạng lan tràn thực phẩm độc hại cho các vùng khác, mà còn gây hậu quả nghiêm trọng và lâu dài đối với các ngành kinh tế khác của Việt Nam như dịch vụ nghề cá, sản xuất muối, nuôi trồng thủy hải sản ven sông biển, du lịch, các dự án đầu tư khu nghỉ dưỡng ven biển…

Tình trạng ô nhiễm biển nặng nề như trên không chỉ gây hậu quả xấu đối với kinh tế biển Việt Nam mà chắc chắn sẽ lan sang một số nước khác trong khu vực.

Đây là một tội ác hủy hoại môi trường sinh thái và diệt chủng tiềm tàng. Trước mắt là cá và các loài thủy hải sản chết hàng loạt, và đã có người chết; sau đó sẽ gây ra bệnh tật nguy hiểm cho con người và các vật nuôi như đã từng xảy ra ở một số nơi trên thế giới trước đây cùng nhiều hệ lụy chưa thể lường hết được.

Cho đến hôm nay, mặc dù được một số thế lực bao che và tìm cách hoãn binh để phi tang, nhiều bằng chứng đã chỉ ra nghi phạm số một của vụ đầu độc biển Vũng Áng: Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Đài Loan đóng tại Vũng Áng Hà Tĩnh (Formosa Hà Tĩnh) đã xả số lượng lớn chất cực độc ra biển trong quá trình súc rửa đường ống xả thải.

Vụ Formosa càng bộc lộ rõ hơn sự vô trách nhiệm, vô cảm và bất chấp lợi ích quốc gia, cuộc sống của người dân, cũng như bất lực của cả một hệ thống quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương trước một đại nạn quy mô lớn của quốc gia,khi vụ việc được người dân phát hiện gần một tháng mới có sự khởi động điều tra. Sự chậm trễ ấy rất nhiều khả năng đã tạo điều kiện cho nghi can có thì giờ xoá tang tích để thoát tội.

Người dân càng phẫn nộ trước phát ngôn hàm ý bao che cho nghi phạm, đánh lừa, xoa dịu dư luận của một số quan chức cấp bộ và tỉnh, trước hành vi hết sức khó hiểu của người đứng đầu Đảng Cộng sản – tổ chức tự cho mình độc quyền lãnh đạo toàn diện quốc gia – đã đến thăm nghi can số một, thay vì thăm hỏi người dân bị nạn,đúng vào thời điểm mọi mũi dùi công luận chĩa hết vào nghi can ấy.

Không thể không nhắc đến những ưu đãi khác thường mà lãnh đạo Hà Tĩnh và trung ương đã dễ dãi cấp cho Formosa Hà Tĩnh, từ thời hạn sử dụng dài hết mức (70 năm) đối với một diện tích đất đai rộng lớn tại một vị trí xung yếu về quốc phòng, đến những lỏng lẻo trong quản lý, như về lao động (với số lượng lớn lao động đơn giản China Đại lục không có giấy phép lao động), về thuế, về kiểm soát nước thải (hoàn toàn lệ thuộc công ty). Những người có quyền quản trị quốc gia đã cho phép Formosa Hà Tĩnh được hoạt động như một đặc khu, các cơ quan chức năng của Việt Nam không dễ gì được vào để kiểm tra kiểm soát về an toàn môi trường cũng như mọi hoạt động của nó, như thực tế đã cho thấy trong vụ cá chết vừa qua.

Trước đại nạn biển miền Trung nhiễm độc và những hệ lụy của nó, chúng tôi, những người tha thiết với vận mệnh đất nước, yêu cầu nhà cầm quyền:

1/ Thi hành mọi biện pháp hỗ trợ người dân ven biển miền Trung nạn nhân vụ biển bị nhiễm độc khôi phục sự sống cả trước mắt và lâu dài.Tạm đình chỉ ngay việc sử dụng đường ống xả thải này trước khi các cơ quan chức năng bảo đảm được công tác kiểm tra an toàn nước thải do nó xả ra biển.

2/ Sử dụng mọi quyền lực nhà nước và biện pháp cần thiết, huy động mọi lực lượng xã hội như giới khoa học kỹ thuật, luật gia, nhà báo độc lập, nếu cần thì mời cả chuyên gia quốc tế,để nhanh chóng đưa thủ phạm vụ đầu độc biển miền Trung ra trước pháp luật; trừng trị nghiêm khắc, đích đáng, bắt chúng bồi thường mọi thiệt hại về người và của cho người dân bị liên lụy, cho những tác hại môi sinh của nước nhà.

3/ Gấp rút điều tra để trả lời câu hỏi: Vì sao Formosa, một công ty sản xuất thép với công nghệ lạc hậu và những thành tích bất hảo phá hoại môi sinh ở nhiều nước, như gần đây đã bộc lộ, lại được hưởng những ưu đãi chưa từng có, vi phạm chủ quyền quốc gia như thế?

4/ Có biện pháp kiểm soát chặt chẽ, không để Formosa thi hành việc xả thải gây ô nhiễm từ từ thay vì gây độc cấp tính như vừa qua, làm công luận phẫn uất. Hậu quả của biện pháp đối phó này sẽ là cá, người và biển chết từ từ.

5/ Sẵn sàng xoá bỏ dự án Formosa, nếu những nguy hiểm tiềm tàng mà dự án gây ra không thể triệt tiêu được.

6/ Kỷ luật các quan chức trung ương và địa phương vô trách nhiệm và có thể có tham nhũng, tiêu cực trong việc xử lý vụ đầu độc biển miền Trung.

Đây là giọt nước tràn ly sau quá nhiều tai hoạ do các dự án từ khai khoáng (như bauxite Tây Nguyên) đến thủy điện, nhiệt điện, chế biến… tràn lan khắp đất nước bất chấp những cảnh báo tâm huyết của trí thức và nhân dân. Đã đến lúc nhà cầm quyền phải nghiêm túc rà soát, điều chỉnh, nếu cần thì hủy bỏ các dự án bất lợi cho sự phát triển bền vững, cho an ninh quốc phòng, nhất là các dự án của China, không để tiếp tục xảy ra những tai hoạ về môi sinh cũng như về các mặt khác.

  • Người dân Việt Nam quyết không chọn con đường tăng trưởng kinh tế với cái giá hi sinh môi sinh của đất nước, hisinh quyền lợi của dân nghèo, hisinh chủ quyền quốc gia;
  • Người dân Việt Nam quyết không chấp nhận những kẻ cầm quyền ngu dốt, tham lam, bán rẻ dân tộc vì lợi lộc, tham vọng cá nhân và phe đảng;
  • Người dân Việt Nam quyết không chịu chết thảm như những con cá nhiễm độc ở Biển Đông!

 

Danh Sách Ký Tên Vào Tuyên Bố Về Tội Ácđầu Độc Biển Miền Trung Việt Nam

ĐỢT 1

1. Nguyễn Quang A, TS Khoa học Điện tử viễn thông, nguyên Chủ tịch Viện Nghiên cứu phát triển IDS, nguyên Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Hà Nội

2. Hoàng Hưng, nhà thơ, nguyên Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ báo Lao Động, TPHCM

3. Phạm Gia Minh,TS Kinh tế, Hà Nội

4. Trần Minh Thảo, viết văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng

5. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ Lâm Đồng

6. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang

7. Phan Hoàng Oanh, TSHoá, TPHCM

8. Vũ Trọng Khải, PGS TS Kinh tế, nguyên Hiệu trưởng trường Cán bộ quản lý nông nghiệp II, TPHCM

9. Phạm Nguyên Trường, dịch giả, Vũng Tàu

10. Nguyễn Xuân Diện, TS Hán-Nôm, Hà Nội

11. Vũ Ngọc Tiến, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội

12. Đào Tiến Thi, Thạc sĩ Ngữ văn, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội

13. Vũ Thư Hiên, nhà văn, Pháp

14. J.B. Nguyễn Hữu Vinh, kỹ sư, nhà báo tự do, Hà Nội

15. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TPHCM

16. Nguyễn Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội

17. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège Bỉ, TPHCM

18. Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), nhà báo, TPHCM

19. Phạm Toàn, nhà văn, nhà giáo dục, người sáng lập nhóm giáo dục Cánh Buồm, Hà Nội

20. Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An

21. Ý Nhi, nhà thơ, TPHCM

22. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TPHCM

23. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, TPHCM

24. Tô Lê Sơn, kỹ sư, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, TPHCM

25. Nguyễn Huệ Chi, GS Văn học, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội

26. Đặng Thị Hảo, TS Văn học, Hà Nội

27. Trần Đức Quế, chuyên viên Bộ Giao thông Vận tải hưu trí, Hà Nội

28. Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn, Đà Lạt

29. Nguyễn Ngọc Giao, giảng viên Đại học về hưu, Pháp

30. Phạm Tư Thanh Thiện, nhà báo, Pháp

31. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TPHCM

32. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp

33. Nguyễn Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp

34. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội

35. Tô Hải, nhạc sĩ, Sài Gòn

36. Lâm Thị Ái, Nội trợ,Sài Gòn

37. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ,Sài Gòn

38. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TPHCM

39. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, Hà Nội

40. Nguyễn Thúy Hạnh, Hà Nội

41. Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu), TSSinh học,Đà Lạt

42. Nguyễn Tường Thụy, Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, Hà Nội

43. Trần Tiến Đức, nhà báo độc lập, đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội

44. André Menras – Hồ Cương Quyết, nhà giáo, Pháp

45. Vũ Linh, nguyên giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội

46. Nguyễn Thị Kim Chi, Nghệ sĩ Ưu tú, Hà Nội

47. Nguyễn Thị Mười, TPHCM

48. Lê Phú Khải, nhà báo, nguyên phóng viên thường trú Đài Tiếng nói VN tại đb sông Cửu Long, TPHCM

49. Nguyễn Khắc Mai, nhà nghiên cứu, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội

50. Trần Thị Băng Thanh, PGS TS Văn học, Hà Nội

51. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, Hội An

52. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TPHCM

53. Nguyễn Thanh Giang, TS Địa chất, Hà Nội

54. Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà văn, Hoa Kỳ

55. Trần Thị Tuyết, thành viên Cánh Buồm, nhân viên Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội

56. Mạc Văn Trang, PGS TS Tâm lý học, Hà Nội

57. Vũ Thế Khôi, Nhà giáo Ưu tú, nguyên Trưởng khoa Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, Hà Nội

58. Nguyễn Thị Thanh Bình, nhà văn, Hoa Kỳ

59. Dương Thuấn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa, Hà Nội

60. Bùi Hiền, nhà thơ, Canada

61. Thuỳ Linh, nhà văn, Hà nội

62. Lê Mai Đậu, chuyên viên Địa chất Công trình (hưu trí), Hà Nội

63. Nguyễn Duy, nhà thơ, TPHCM

64. Từ Quốc Hoài, nhà thơ, TPHCM

65. Hoàng Minh Tường, nhà văn, Hà Nội

66. Trần Kiêm Đoàn,TS Tâm lý học,GS, nhà văn, Hoa Kỳ

67. Thụy Khuê, nhà nghiên cứu văn học – lịch sử, Pháp

68. Lê Hiền Đức, Hà Nội

69. Nguyễn Thái Nguyên, TSKinh tế Nông nghiệp, Hà Nội

70. Lê Tuấn Khanh, Sài Gòn

71. Nguyễn Huy Chương, San Jose, Hoa Kỳ

72. Lê Thanh Bình, kỹ sư Xây dựng, Cử nhân Kinh tế, Huế

73. Phan Thành Vinh, Bình Định

74. Manh Phu Nguyen, Philadelphia, PA, USA

75. Nguyễn Văn Nhân, Thạc sĩKinh tế,Khánh Hòa

76. Nguyễn Minh Tâm (Lộc Sơn Hải), giáo viên, Krông Buk, Đắc Lắc

77. Nguyễn Thanh Tâm, cựu Phó Chủ tịch Nội vụ Ban Chấp hành CĐ VN Oregon, Portland, Oregon, H K

78. Nguyễn Hùng Cường, nhân viên văn phòng, Hà Nội

79. Nguyễn Thị Khánh Trâm, hưu trí,TPHCM

80. Hà Văn Thùy, nhà văn, TPHCM

81. Chien Tran, Nürnberg, Đức

82. Nguyễn Anh Tuấn, Tester – Coder Web & Application, Sài Gòn

83. Văn Thị Nghĩa, giáo viên về hưu, Phan Thiết, Bình Thuận

84. Trịnh Quốc Hậu, thương nhân, TP Ninh Bình, Ninh Bình

85. Đinh Đức Long, TS, bác sĩ Y khoa, TPHCM

86. Đặng Công Thiệu, kinh doanh, Nha Trang, Khánh Hòa

87. Ngô Hoàng Hưng, kinh doanh, Sài Gòn

88. Tăng Bá Hùng, giáo viên cấp 2, Hải Dương

89. Lê Phước Sinh, dạy học, Sài Gòn

90. Antôn Phan Trọng Khánh, Nghệ An

91. Trần Song Hào (Sao Hồng), hưu trí, TP Nha Trang, Khánh Hoà

92. Nguyễn Trọng Thành, công dân Việt Nam, Vilnius, Lithuania

93. Thành Đoàn, kỹ sư phần mềm, Thạc sĩ, London, Vương quốc Anh

94. Nguyễn Anh Tuấn, kỹ sư, Hà Nội

95. Phạm Thanh Nghiên, thành viên Mạng lưới Blogger Việt Nam, cựu Tù nhân Lương tâm, Hải Phòng

96. Huỳnh Anh Tú, thành viên Mạng lưới Blogger Việt Nam, Sài Gòn

97. Vũ Chí Cương, giáo viên, Hải Dương

98. Trần Tuấn Lộc, Cử nhân Kinh tế, Cử nhân Luật,kế toán trưởng, TPHCM

99. Nguyễn Văn Hải, kỹ sư, Tân Bình, TPHCM

100. Nguyễn Thanh Nhàn,thương binh, giáo viên nghỉ hưu, Hà Đông, Hà Nội

101. Đào Hiếu, nhà văn, TPHCM

102. Le Thanh Hong, TPHCM

103. Lê Vương, giáo viên, Thanh Hóa

104. Nguyễn Thị Hoàng Ý, sinh viên, điều tra viên tự do, TPHCM

105. Nguyễn Hoàng Khôi, TPHCM

106. Hoàng Quân, sinh viên, Tampa, Hoa Kỳ

107. Tiết Hùng Thái (Hiếu Tân), dịch giả, Vũng Tàu

108. Nguyễn Gia Hảo, chuyên gia tư vấn độc lập (Kinh tế Đối ngoại), Hà Nội

109. Ly Hoàng Ly, nghệ sĩ thị giác, TPHCM

110. Đoàn Thanh Liêm, luật sư đã nghỉ hưu, Califonia, Hoa Kỳ

111. Nguyễn Đình Nguyên, TS, bác sĩ, Australia

112. Trần Trung Chính, nhà báo, Hà Nội

113. Hoàng Dũng, PGS TS, TPHCM

ĐỢT 2

114. Tuấn Khanh, nhạc sĩ, Sài Gòn

115. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh

116. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TPHCM

117. JM Lê Quốc Thăng, Linh mục Tổng giáo phận Sài Gòn

118. GB Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn

119. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TPHCM

120. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TPHCM

121. Hiền Phương, nhà văn, TPHCM

122. Nguyễn Hồng Anh, giảng viên, TPHCM

123. Hà Dương Tường, cựu GS Đại học, Pháp

124. Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia công nghệ thông tin, Pháp

125. Arlette Quỳnh-anh Trần, nhóm Art Labor, Sài Gòn

126. Hoàng Tường, kỹ sư Nông nghiệp, Hà Tĩnh

127. Chu Hảo, Giám đốc nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội

128. Huynh Son Thuc Anh, nghệ sĩ, TPHCM

129. Trương Minh Quang, sinh viên, Đaklak

130. Nguyễn Văn An, cán bộ hưu trí, TPHCM

131. Ha Uyên Thy, TPHCM

132. Phan Tấn Hải, nhà văn, Hoa Kỳ

133. Trần Bá Thoại, TS, bác sĩ, Hội Nội tiết Đái tháo đường Việt Nam (VADE), Đà Nẵng

134. Thế Dũng, nhà văn, CHLB Đức

135. Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu độc lập, Đà Lạt

136. Dạ Ngân, nhà văn, Sài Gòn

137. Nguyễn Thị Quy, bút danh Minh Hiền, chuyên viên Viện Thông tin KH Xã hội, đã nghỉ hưu, Hà Nội

138. Giáng Vân, nhà thơ, Hà Nội

139. Trần Công Thạch, nhà giáo nghỉ hưu, TPHCM

140. Hoàng Tăng Văn Danh, kỹ sư phần mềm, TPHCM

141. Hoàng Nguyên Hồng, luật sư, Hà Nội

142. Phạm Kỳ Đăng, làm thơ, viết báo, dịch thuật, CHLB Đức

143. Dương Huy Hoàng, hội viên hội Văn học Nghệ thuật An Giang

144. Đặng Ngọc Hưng, Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội

145. Trần Văn Tiến, Praha, Czech

146. Trần Nghi Hoàng, nhà văn, Pennsylvania, Hoa Kỳ

147. Khánh Phương, nhà văn, Pensylvania, Hoa Kỳ

148. Trần Xuân Hoài, kế toán, Hà Nội

149. Bùi Bình Thoại, nhà kinh doanh Hà Nội

150. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Long Biên, Hà Nội

151. Hoàng Ngọc Biên, nhà thơ, San Jose, Hoa Kỳ

152. Nguyễn Tường Vân, thiết kế, Sài Gòn

153. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư Tin học, Genève, Thụy Sĩ

154. Nguyễn Phương Đông, công chức, Hà Nội

155. Võ Thanh Tân, giảng viên, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, TPHCM

156. Nguyễn Văn Dũng, công dân Việt Nam, Czech

157. Phạm Huy Việt, kỹ sư Điện, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã nghỉ hưu, Nghệ An

158. Quan Vinh, chuyên viên Tin học, Roma, Italia

159. Trần Đình Sơn Cước, luật gia, nguyên hội viên Hội Luật gia tp Hồ Chí Minh, California, Hoa Kỳ

160. Trương Lợi, kỹ sư, Bình Thạnh, TPHCM

161. Nguyễn Quang Tuyến, nghệ sĩ thị giác, San Francisco, Hoa Kỳ

162. Phạm Trung, phê bình mỹ thuật, Hà Nội

163. Phạm Hữu Uyển, IT, Praha, Czech

164. Nguyễn Quang Thân, nhà văn, TPHCM

165. Cao Xuân Lý, nhà văn, Australia

166. Nguyễn Thị Hải Yến, TS. chuyên ngành Sinh thái Môi trường, CHLB Đức

167. Tuan Le, Senior Medical Scientist, Brisbane, Australia

168. Trần Công Thắng, bác sĩ, cư ngụ Nauy

169. Đỗ Tuyết Khanh, thông dịch viên, Thuỵ Sĩ

170. Phạm Xuân Yêm, nguyên Giám đốc Nghiên cứu CNRS, Đại học Paris VI, Pháp

171. Uong-Nguyen Thi Xuan Huong, Thụy Sĩ

172. Đào nguyên Ngọc, kinh doanh tự do, Berlin, CHLB Đức

173. Hau Phamova, Praha, Cộng hòa Czech

174. Kenneth Pham, học viên Cao học tại University of New Haven, Connecticut, Hoa Kỳ

175. Đỗ Xuân Cang, Praha, Cộng hòa Czech

176. Trần Thanh Vân, sáng lập viên, chủ dự án Khoa học Sinh thái Nhân văn, Công ty Cổ phần Kiến trúc và Môi trường, Hà Nội

177. Nguyễn Xuân Bách, kỹ sư cơ khí, CHLB Đức

178. Phùng Mạnh Cường, CHLB Đức

179. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ, Paris, Pháp

180. Nguyễn Cường, Praha, Cộng hòa Czech

181. Mai Nghiêm, chuyên gia sinh học, Canada

182. Phạm Toàn Thắng, kinh doanh, Cộng hoà Czech

183. Inrasara, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Cham, Sài Gòn

184. Lê Quốc Hoàn, công nhân, Cao Hùng, Đài Loan

185. Hồ Nguyên Huy, kỹ sư, TPHCM

186. Phạm Văn Thành, Hiệp hội Tranh đấu Nhân quyền cho Việt Nam, Paris, Pháp

187. Đoàn Hòa, phiên dịch và tư vấn, Cộng hòa Czech

188. Đào Văn Tùng, cán bộ nghỉ hưu, Mỹ Tho, Tiền Giang

189. Ma Van Dung, Sydney, Australia

190. Hòa Nguyễn, bác sĩ, Sydney, Australia

191. Quang Hà, giảng dạy Đại học, Sydney, Australia

192. Nguyễn Thăng Long, nấu bếp, Munich, Đức

193. Phan Thanh Thai, công chức, Hoa Kỳ

194. Nguyễn Thị Hồng Loan, Quản lý nhân sự, TPHCM

195. Hoanh Tran, sinh viên, London, Anh Quốc

196. Nghiêm Hồng Sơn, nghiên cứu viên cao cấp, Đại học Công nghệ Queensland, Australia

197. Phan Tu Quỳnh, giáo viên, Hoa Kỳ

198. Võ Tòng Xuân, GSTS, nguyên Hiệu trưởng Đại học An Giang, Hiệu trưởng Đại học Nam Cần Thơ

199. Trần Quốc Hùng, cựu giáo viên, quận 12, TPHCM

200. Nguyễn Văn Dũng, Ohio, Hoa Kỳ

201. Lê Dũng, Giám đốc công nghệ, Công ty Tư vấn Công nghệ cao, Hà Đông, Hà Nội

202. Pham Dang Ai, nhân viên hưu trí, Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ

203. Triệu thị Kim Loan 60 tuổi giáo viên về hưu TPHCM

204. Hoàng Thanh Tâm, sáng tác nhạc, Sydney, Australia

205. Hoàng Thị Hà, hưu trí, Hà Nội

206. Nguyễn Đức Khá, cử nhân lịch sử, Bắc Ninh

207. Lê Anh Dũng, giáo viên, Nha Trang

208. Thường Quán, nhà thơ, Melbourne, Australia

209. Trương Thanh Cảnh, PGS TS Môi trường, TPHCM

210. Nguyễn Đình Bổn, nhà văn tự do, Sài Gòn

211. Mai Toàn Hảo, dịch thuật, thành phố Hồ Chí Minh.

212. Đinh Văn Hương, bác sĩ Y khoa, TPHCM

213. Nguyễn Trung Thành, kỹ sư Giao thông Vận tải, Việt Trì, Phú Thọ

214. Trần Ngọc Lợi, kỹ sư Điện, Minnesota, Hoa Kỳ

215. Nhật Tiến, nhà văn, Hoa Kỳ

216. Lê Công Định, luật gia, cựu tù chính trị, Sài Gòn

217. Phay Van, blogger, Đồng Nai

218. Hoàng N. Liên, kỹ sư Vật lý Hạt nhân, Thạc sĩ Công Nghệ và Chính sách, giảng viên Đại học, Hà Nội

219. Tạ Phong Tần, luật gia, nhà báo tự do, California, Hoa Kỳ

220. Đào Minh Châu, TS, Tư vấn hành chính công và chính sách công, Hà Nội

221. Văn Giá, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội

222. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội

223. Đặng Viết Trường, nhà báo, Hà Nội

224. Nguyễn Xuân Nghĩa, kỹ sư cơ khí, trưởng phòng QA, Hải Phòng

225. Nguyễn Hữu Liêm, luật sư, California, Hoa Kỳ

226. Nguyễn Hữu Tuyến, kỹ sư hưu trí, TPHCM

227. Vũ Hoàng Minh, TS Hóa học, cựu công chức Tổng cục Địa chất, đã nghỉ hưu, Hà Nội

228. Lê Văn, TS Vật lý, đã nghỉ hưu, Sài Gòn

229. Lê Khánh Hùng, TS, Công nghệ Thông tin, Hà Nội

230. Nguyễn Văn Lịch, kỹ sư cơ khí, Đống Đa, Hà Nội

231. Tôn Phi, sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM

232. Nguyễn Văn Sĩ, Bảo Lộc, Lâm Đồng

233. Nguyễn Hồng Đức, kỹ sư, Hà Nội

234. Hoàng Đức Doanh, nghỉ hưu, Phủ Lý, Hà Nam

235. Nguyễn Đình Đăng, TSKH, nhà vật lý và hoạ sĩ, Saitama, Nhật Bản

236. Đinhh Thị Thùy Mai, Saitama, Nhật Bản

237. Nguyễn Thanh Tùng, chuyên viên văn phòng, TPHCM

238. Đỗ Như Ly, kỹ sư hưu trí, TPHCM

239. Nguyễn Ngọc Ánh, kỹ sư Nuôi trồng Thủy sản, Bến Tre

240. Hoàng Văn Quang, kỹ sư cơ khí, TPHCM

241. Trần Minh Bách, kiến trúc sư, Hà Nội

242. Lê Tuyết, kỹ sư Điện, Nha Trang

243. Bùi Tuấn Dương, Đắk Nông

244. Nguyễn Thị Ngọc Lan, viết văn, Hoa Kỳ

245. Đỗ Thịnh, Hà Nội

246. Nguyễn Anh Ngọc, TP. Hải Dương

247. Đỗ Thành Nhân, MBA – Quản lý doanh nghiệp, Quảng Ngãi

248. Chu Sơn, nhà thơ, TPHCM

249. Nguyễn Thị Kim Thoa, bác sĩ TPHCM

250. Lý Đăng Thạnh, người chép sử, TPHCM

251. Hoàng Kiến Quốc, Đồng Nai

252. Đào Đăng Hiếu, nhân viên văn phòng, Hà Nội

253. Trần Thái Hòa, Sài Gòn

254. Nguyễn Đức Hiệp, TS, chuyên gia khoa học khí quyển và biến đổi khí hậu, Sydney, Australia

255. Nguyễn Kế Quang, nghề xây dựng, Quy Nhơn, Bình Định

256. Lê Xuân Cương, PGS TS, Giám đốc Trung tâm Công nghệ Sinh học Nông nghiệp (ABC), thuộc Hội Sinh học Việt Nam, Bình Thạnh, TPHCM

257. Ngô Thái Uyên, nhà Thiết kế Thời trang, Massachusette, Hoa Kỳ

258. Nguyễn Huy Dũng, dân thường, TP Vũng Tàu

259. Đỗ Quang Tuyến, kỹ sư, Hoa Kỳ

260. Vi Nhân Nghĩa, kinh doanh tự do, Quảng Ninh

261. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội

262. Nguyễn Thị Tuyết Xuân, giáo viên hưu trí, Sài Gòn

263. Trần Đĩnh, nhà văn, TPHCM

264. Mai Hoàng Ân, Bình Dương

265. Lê Gia Vinh, TS (PhD), chuyên gia Công nghệ Thông tin, Calgary, Alberta, Canada

266. Nghiêm Việt Anh, kỹ sư Xây dựng, đã nghỉ hưu, Đống Đa, Hà Nội

267. Đỗ Thị Kim Oanh, nội trợ, Sài Gòn

268. Trần Trọng Huy, kỹ sư, California, Hoa Kỳ

269. Trương Hữu Vinh, phân tích tài chính, Saigon

270. David Hoang, Australia

271. Nguyễn Trọng Việt, Hà Nội

272. Nguyễn Văn Đông, họa sĩ, Sài Gòn

273. Phùng Hoài Ngọc, thạc sĩ, cựu giảng viên đại học, An Giang

274. Lê Văn Tâm, TS Kỹ thuật Hóa học, Matsudo City, Nhật Bản

275. Tương Lai, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của ThT Võ Văn Kiệt, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học

276. Đào Công Tiến, PGS, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP HCM, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của thủ tướng Phan Văn Khải, TPHCM

277. Đào Tấn Phần, lao công thư viện, trường THPT Trần Quốc Tuấn, Phú Hòa, Phú Yên

278. Trương Văn Cường, sinh viên, TPHCM

279. Trần Văn Bang, kỹ sư Máy xây dựng, Bình Thạnh, Sài Gòn

280. Nguyễn Văn Đức, California, Hoa Kỳ

281. Hoàng Ngọc Cầm, TSKH, Hà Đông, Hà Nội

282. Hoàng Ngọc Lĩnh, về hưu, Canada

283. Nguyễn Văn Tú, công dân Việt Nam, nghiên cứu sinh tại Pusan National University, Hàn Quốc

284. Nguyễn Thanh Phụng, lao động tự do, Gia Lai

285. Trịnh Hồng Kỳ, nhân viên kinh doanh xuất nhập khẩu, Long Xuyên, An Giang

286. Nguyễn Xuân Quy, nghề tự do, Tiền Giang

287. Nguyen Nong, hưu trí, Michigan, Hoa Kỳ

288. Dương Thị Hoàng Minh, nhân viên văn phòng, Bình Thạnh, TPHCM

289. Trần Việt Thắng, kỹ sư Truyền thông, Hà Nội

290. Phạm Thị Tình, sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội

291. Nguyễn Mai Oanh, TPHCM

292. Trần Vũ Việt Trung, kỹ sư, cựu sĩ quan chống Mỹ, chống Trung Quốc 1979, TPHCM

293. Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, Hà Nội

294. Lê Đình Thụ, kỹ sư Viễn thông, đã nghỉ hưu.

295. Phạm Thị Duyên Anh, nghiên cứu sinh, Đại học Queensland, Australia

296. Phạm Quang Tuấn, Sydney, Australia

297. Lê Công Vinh, Công nghệ Thông tin, Vũng Tàu

298. Huynh Van Que, nguyên Hiệu trưởng trường cấp 2 và 3, Phú Lộc, Thừa Thiên – Huế

299. Nguyễn Ngọc Thanh, kinh doanh, TP Quảng Ngãi

300. Trần Thanh Cảnh, nhà văn, Hà Nội

301. Huỳng Văn Thắng, quận 3, TPHCM

302. Trương Long Điền, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hoàng Mai, Hà Nội

303. Ngô Phương Trạch, 66 tuổi, cựu chiến binh, Bà Rịa Vũng Tàu.

304. Phạm Thị Uyên Chi, TPHCM

305. Phùng Chí Kiên, designer, Hai Bà Trưng, Hà Nội

306. Mai An Nguyễn Anh Tuấn, đạo diễn phim, nhà báo, Hà Nội

307. Đoàn Công Nghị, Nha Trang

308. Nguyễn Hữu Huế, lao động tự do, Thanh Chương, Nghệ An

309. Dương Quốc Huy, cựu chiến binh, Hà Nội

310. Phan Văn Song, nguyên quyền Hiệu trưởng truờng THPT Chuyên Bến Tre, Sydney, Australia

311. Nguyễn Hồng Lam, nhà báo, TPHCM

312. Nguyễn Văn Quảng, nghiên cứu sinh, Hàn Quốc

313. Lưu Thành, nhà thơ, Bình Phước

314. Nguyễn Minh Thiện, công chức, Tây Ninh

315. Đông Quang Vinh, cán bộ hưu trí, Khánh Hòa

316. Nguyễn Minh Thúy, kế toán, TPHCM

317. Cao Anh Thư, kế toán, HCM

318. Tư Núi Cấm, nông dân, An Giang

319. Huỳnh Xuân Tín, bác sĩ, Đông Hà, Quảng Trị

320. Phạm Vương Ánh, kỹ sư kinh tế, cựu Sỹ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, Vinh, Nghệ An

321. Doãn Kiều Anh, kỹ sư, TPHCM

322. Luc LE, họa sĩ, Edmonton, Canada

323. Nguyễn Tiến Bính, hưu trí, Hà Nội

324. Trần Đình Nghĩa, cử nhân cầu đường, Đà Nẵng

325. Phạm Văn Hiền, công chức nghỉ hưu, Hải Phòng

326. Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu, TPHCM

327. Phi Vũ, Anaheim, California, Hoa Kỳ

328. Đặng Đình Mạnh, luật sư, Sài Gòn

329. Huỳnh Thành Pháp, cử nhân Luật, Bình Tân, TPHCM

330. Đặng Minh Phi, cử nhân Tin học, TPHCM

331. Lê Thị Thanh Huyền, cán bộ chương trình, Hà Nội

332. Văn Thị Hạnh, TS Sinh học, TPHCM

333. Kiều Thị Xin, TSKH, hưu trí, nguyên giảng dạy tại Đại học KH Tự nhiên, Đại học Quốc gia HN, Hà Nội

334. Pham Terry, The KCI Medical Canada, Vancouver, Canada

335. Le Dinh Hong, kế toán hưu trí, Vancouver, Canada

336. Le Thi Nhan, hưu trí, Vancouver, Canada

337. Bùi Chát, hoạt động xuất bản độc lập, Sài Gòn

338. Đỗ Phương Khanh, nhà văn, Hoa Kỳ

339. Trương Long Điền, công chức hưu trí, Long Xuyên, An Giang

340. Trần Hưng Thịnh, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hoàng Mai, Hà Nội

341. Lê Thị Thu Hằng, Hà Đông, Hà Nội

342. Hồ Thị Thanh Quỳnh, cán bộ hưu trí, Thanh Hóa

343. Nguyễn Thành, California, Hoa Kỳ

344. Vũ Thị Chín, bác sĩ về hưu, nguyên cán bộ Ủy Ban bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em, Hà Nội

345. Nguyễn Đức Tuyên, sửa chữa máy vi tính, điện tử, Bình Thuận

346. Tạ Thị Hậu, nhân viên Ngân hàng NCB, Hà Nội

347. Nguyễn Quốc Toản, kỹ sư phần mềm, Sài Gòn

348. Nguyễn Thị Bình, PGS TS, Hà Nội

349. Lê Văn Oanh, kỹ sư xây dựng, Hà Nội

350. Trần Khánh Ly, viết báo tự do, Sài Gòn

351. Nguyễn Thị Duyên, nhân viên văn phòng, Cầu Giấy, Hà Nội

352. Nguyễn Đình Cống, nguyên GS trường Đại học Xây dựng, Hà Nội

353. Trần Thị Thảo, giáo viên nghỉ hưu, Hà Nội

354. Trần Thị Thanh Nga, nhân viên văn phòng, Hà Nội

355. Minh Trung, phóng viên, TPHCM

356. Mã Thành Long, cán sự điện toán, California, Hoa Kỳ

357. Duong Quynh Nga, sinh viên, Tokyo, Nhật Bản

358. Lê Anh Hùng, nhà báo độc lập, Hà Nội

359. Dinh Hồng, Burlington, Canada

360. Vũ Thị Phương Anh, TS, giảng viên về hưu, TPHCM

361. Đỗ Ngọc Việt Dũng, hội viên Hội Nhà văn Cộng hòa Czech

362. Nguyễn Thị Thúy Hà, Trưởng phòng, quận 1, TPHCM

363. Vũ Hồng Ánh, nghệ sỹ cello, Sài Gòn

364. Minh Cận, Đà Nẵng

365. Phạm Xuân Đài, nhà báo, California, Hoa Kỳ

366. Thai Pham Tuan Vu, Creative Manager, TPHCM

367. Trần Văn Hữu Trí, sinh viên, Điện Bàn, Quảng Nam

368. Trần Đình Thắng, cựu giảng viên, TPHCM

369. Hoàng Thị Dạ Thư, biên tập viên, Huế

370. Bùi Kế Nhãn, cựu chiến binh, cựu Thanh niên Xung phong, TP Vũng Tàu

371. Lưu Anh Tuấn, người lao động, Warsaw, Ba Lan

372. Vũ Hải Long, TSKH, quận 3, TPHCM

373. Đỗ Đình Oai, giáo viên, Quảng Ngãi

374. Nguyễn Phong, Electronics Engineer, California, Hoa Kỳ

375. Nguyễn Hoàng Nhựt, Cử nhân Công nghệ Thông tin, Mỹ Tho, Tiền Giang

376. Nguyễn Ngọc Lý, Bắc Giang

377. Võ Hoàng Quỳnh, giáo viên, quận 5, TPHCM

378. Phan Nhật Tín, sinh viên, Đà Nẵng

379. Nguyễn Thị Kim Thái, phường Hồng Gai, Hạ Long, Quảng ninh

380. Tư Đồ Tuệ, Toronto, Canada

381. Nguyễn Thị Thanh Hoa, Hà Nội

382. Hao Nhu Phan Anthony, California, Hoa Kỳ

383. Tô Oanh, giáo viên THPT, đã nghỉ hưu, Bắc Giang

384. Lê Hạnh, kỹ sư, Hà Nội

385. Nguyễn Văn Chinh, nhân viên thiết kế công ty TNHH Emtopia Việt Nam, Đông Anh, Hà Nội

386. Kimthoa Thị Ngo, chủ tiệm kinh doanh, California, Hoa Kỳ

387. Tuyet Anh Jethwa, Cử nhân Kinh tế Ngoại thương, Hà Nội

388. Trịnh Quốc Việt, kỹ sư, Hà Nội

389. Trần Thu Dung, nhà nghiên cứu văn hóa, Pháp

390. Hoàng Thanh Vĩnh Phong, họa sĩ, Hội An

391. Lê Hồng Hà, công nhân, bang Washington, Hoa Kỳ

392. Đặng Trần Tùng, kiểm toán viên, Hà Nội

393. Nguyễn Mậu Quân, hưu trí, Quảng Bình

394. Nguyễn Lê Thanh Thảo, dược sĩ, Hà Nội

395. Trần Ngọc Báu, Fribourg, Thụy Sĩ

396. Huỳnh Kim-Giám, M.D., Hoa Kỳ

397. Thái Thành Cương, kỹ sư, Tân Bình, TPHCM

398. Trần Minh Xuân, GS, đã nghỉ hưu, California, Hoa Kỳ

399. Hồ Văn Nhãn,giáo viên hưu trí, TPHCM

400. Phạm Duy Quí, xích lô, Sài Gòn

401. Trịnh Kim Thuấn, nông dân, Chợ Mới, An Giang

402. Huỳnh Công Thuận, blogger, cựu quân nhân, Sài Gòn

403. Võ Thị Thanh Hải, giáo viên, Sài Gòn

404. Võ Thị Hải Hòa, chuyên viên tư vấn độc lập, TPHCM

405. Nguyễn Hoàng Công, Thạc sĩ Khoa học Kỹ thuật, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, HN.

406. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Lạt, Lâm Đồng

407. Trần Thanh Ngọc Ánh, sinh viên, Hanover, CHLB Đức

408. Bùi Văn Mạnh, Cử nhân kinh tế, Chương Mỹ, Hà Nội

409. Vũ Ngọc Thăng, dịch giả, Canada

410. Võ Văn Cường, nhân viên kinh doanh, TPHCM

411. Trần Quang Ninh, giảng viên đại học, TPHCM

412. Trần Ngọc Tuấn, nhà văn, nhà báo, Cộng hòa Czech

413. Nguyễn Thanh Loan, Gò Vấp, TPHCM

414. Đặng Mai Lan, nhà văn, Paris, Pháp

415. Hồ Thị Thu Hường, kế toán, Thanh Trì, Hà Nội​

416. Lê Anh Phong, đại diện Thiểu số Việt trong Ủy ban tỉnh Karlovy Vary, Cộng hòa Czech

417. Trần Văn Khoản, hưu trí, Vũng Tàu

418. Đặng Xuân Thảo, Directeur de Recherche CNRS, Viện Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, Pháp

419. Đỗ Bảo Trung, kinh doanh, Hà Nội

420. Long Dang, Cộng hòa Czech

421. Trần Đăng Khoa, kinh doanh, Hà Nội

422. La Thúy Ngoan, designer, Hà Nội

423. Trần Tuấn Anh (Ken), Công ty Mychemist, Australia

424. Nguyễn Tấn Hưng, nghiên cứu sinh, TPHCM

425. Nguyễn Thị Ngọc Trai, nhà văn, nhà báo, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn nghệ, Hội NV VN, HN

426. Nguyễn Hả Hùng Chương, giảng viên, TPHCM

427. Trần Văn Tùng, PGS TS Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

428. Phạm Gia Thắng, người Việt tỵ nạn tại Tokyo, Nhật Bản

429. Nguyen Thi Ven, Adelaide, Australia

430. Nguyễn Phương Thùy, luật sư, Phần Lan

431. Võ Quang Dũng, kinh doanh, CHLB Đức

432. Cao Nam Long, Praha, Cộng hòa Czech

433. Trần Thị Thanh Mai, kế toán, Hà Nội

434. Nguyễn Đức Hạnh, kỹ sư, Hà Nội

435. Hà Huy Sơn, luật sư, Công ty Luật TNHH Hà Sơn, Cầu Giấy, Hà Nội

436. Nguyễn Thị Thương, nhân viên văn phòng, Hải Phòng

437. Đặng Xương Hùng, Thụy Sĩ

438. Nguyễn Thành Long, kinh doanh, Brno, Cộng hoà Czech

439. Nguyễn Minh Khanh, kỹ sư Tin học, Paris

440. Đào Đình Bình, kỹ sư hưu trí, Hà Nội

441. Nguyễn Thiện Nhân, kế toán, Bình Dương

442. Nguyễn Phước, kinh doanh, Đà Nẵng

443. Trịnh Quang Công, sinh viên, Hà Nội

444. Ngô Đức Thọ, PGS TS Ngữ văn Hán Nôm, Ba Đình, Hà Nội

445. Phạm Đặng Thái Minh, kiến trúc sư, Hai Bà Trưng, Hà Nội

446. Hồ Văn Quang, sinh viên trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Đà Nẵng

447. Nguyễn Cường Anh, kỹ sư, Hà Nội

448. Hà Đình Lực, kỹ sư, Hà Nội

449. Võ Thị Hảo, nhà văn, Berlin, CHLB Đức

450. Đặng Đình Cung, kỹ sư tư vấn, Pháp

451. Dương Tường, nhà thơ, Hà Nội

452. Hoàng Thị Như Hoa, bộ đội đã nghỉ hưu, Hà Nội

453. Nguyễn Quốc Bình, Phó Tổng giám đốc công ty Cổ phần Kỹ thuật Môi trường, Tân Bình, TPHCM

454. Hồ Sỹ Hải, kỹ sư đã nghỉ hưu, Hà Nội

455. Nguyễn Quốc Dũng,nghiên cứu sinh, Cologne University, CHLB Đức

456. Lê Văn Chinh, kỹ sư Xây dựng, Đà Nẵng

457. Đặng Hồng Phương, đã nghỉ hưu, Sài Gòn

458. Lê Chiến Thắng, hưu trí, CHLB Đức

459. Nguyễn Hữu Thanh, công nhân, quận10, Sài Gòn

460. Ngô Đăng Vinh, kinh doanh, Hà Nội

461. Ngô-Anh Tuấn, kỹ sư Điện toán, đã nghỉ hưu (IBM R&D), Hà Lan

462. Trần Văn Hoàn, hưu trí, Vụ Bản, Nam Định

463. Đinh Nam Thang, kỹ sư kinh tế, Cộng hòa Czech

464. Lưu Thị Quyên, Czech

465. Mai Thành Nam, sinh viên nhạc viện Aubervilliers, Cộng hoà Pháp

466. Ta Quang Duoc, Thạc sĩ Môi trường và Năng lượng Tái tạo, Gifu University, Nhật Bản

467. Lê Như Nhất, kiến trúc sư, Hà Nội

468. Đặng Đăng Phước, giáo viên, Đăk Lăk

469. Phan Thanh Tuấn, cán bộ về hưu, TPHCM

470. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu văn học, Hà Nội

471. Lư Văn Bảy, nghề tự do, Kiên Giang

472. Nguyễn Văn Tạc, giáo học hưu trí, Hà Nội

473. Trần Kim Long, công nhân, CHLB Đức

474. Bảo Giang, nhà văn, Australia

475. Chu Thị Thanh Hà, free lancer, Sài Gòn

476. Lê Văn Hai, kỹ sư, Hội Cựu chiến binh Việt Nam tại Hungary

477. Đỗ Thanh Đại, nhân viên văn phòng, TPHCM

478. Trần Minh Khôi, kỹ sư Điện toán, Berlin, CHLB Đức

479. Nguyễn Hồng Tiến, kỹ sư Khoa học Máy tính, Phú Nhuận, TPHCM

480. Hoàng Thị Nhật Lệ, hưu trí, Bình Thạnh,TPHCM

481. Trần Quang, kỹ sư, Đông Hà, Quảng Trị

482. Anh Chi, nhà thơ, Hà Nội

483. Trần Xuân Toàn, kinh doanh, Hà Nội

484. Phạm Huy Thông, TS, Phó Trưởng ban Tư duy Tôn giáo, Trung tâm Khoa học Tư duy (CTS), Hà Nội

485. Nguyễn Tiến Đức, kỹ sư Công trình Cảng – Đường thủy, đã nghỉ hưu, TPHCM

486. Văn Phú Mai, kinh doanh, Quảng Nam

487. Nguyễn Xuân Thọ, kỹ sư truyền thông, Cologne, CHLB Đức

488. Mau Le, engineer, Orlando, Hoa Kỳ

489. Phạm Minh Hoàng, cựu giảng viên Đại học Bách khoa TPHCM, Sài Gòn

490. Lê Đức Quang, TS, giảng viên Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế

491. Nguyễn Tâm, kỹ sư Điện cơ, TPHCM

492. Tạ Hoàng Lân, Cheb, Cộng hòa Czech

493. Huỳnh Thị Kim Liên, thường dân, Sài Gòn

494. Nguyễn Hồng Khoái, Hà Nội

495. Kiều Mai Sơn, nhà báo, Hà Nội

496. Huỳnh Gia Vũ, kỹ sư Xây dựng, Vancouver, Canada

497. Trần Viết Dung, nhân viên, Sydney, Australia

498. Nguyễn Điền, Canberra

499. Võ Thị Thu Thủy, Quảng Ngãi

500. Nguyen Duc Quyet, kỹ sư Xây dựng, Munich, CHLB Đức

501. Nguyễn Anh Minh, kỹ sư, London, Anh Quốc

502. Trần Thu Thủy, nội trợ, sống ở CHLB Đức

503. Trần Văn Cung, kỹ sư luyện thép, nghỉ hưu, CHLB Đức

504. Hoàng Minh Đề, kỹ sư Điện, Quảng Nam

505. Đoàn Văn Nhân, quận 1, TPHCM

506. Lê Đình Phương, bác sĩ, Sài Gòn

507. Đinh Ngọc, doanh nghiệp tư nhân, Praha, Cộng hòa Czech

508. Bửu Nam, PGS TS, Huế

509. Đỗ Quang Huy, kiến trúc sư, TPHCM

510. Nguyễn Thị Thanh Loan, nhân viên kinh doanh, TPHCM

511. Đinh Lê Na, Thạc sĩ, viên chức, Gia Lai

512. Châu Ngọc Đáo, nhân viên, thành phố Long Xuyên, An Giang

513. Nguyễn Văn Dũng, nhà giáo, TP Huế

514. Trần Xuân Quang, Vinh, Nghệ An

515. Đoàn Văn Tiết, nhà giáo, Sài Gòn

516. Phạm Ngọc Cảnh Nam, nhà văn, Đà Nẵng

517. Nguyễn Thị Thanh Xuân, giảng viên, trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia TPHCM

518. Nguyen Doan Truong, Praha, Cộng hòa Czech

519. Phạm Văn Khá, Tân Bình, TPHCM

520. Đặng Trần Quý, hưu trí, Everett, Washington, Hoa Kỳ

521. Le Thi Phi Van, chuyên gia Kinh tế Nông nghiệp, Hà Nội

522. Lê Thị Kiều Oanh, nội trợ, Sài Gòn

523. Bùi Như Hương, nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật, Hà Nội

524. Trần Minh Thảo, sinh viên, Đại học Oxford, Anh Quốc

525. Kiều Việt Hùng, kiến trúc sư, Hoa Lư, Ninh Bình

526. Nguyễn Văn Hiệp, du học sinh, Advanced Institute of Science and Technology (KAIST), Hàn Quốc

527. Trần Trọng Giang, chung cư Conic, Sài Gòn

528. Vũ Quang Chính, nhà lý luận phê bình phim, Hà Nội

529. Ha Tran, retired physician, Canada

530. Huỳnh Tấn Mẫm, TS, BS, nguyên Chủ tịch Tổng Hội sinh viên Sài Gòn, nguyên Tổng Biên tập báo Thanh niên, hiện là Ủy viên Ủy ban MT TQ TPHCM, Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ Bệnh nhân nghèo TPHCM

531. Nguyễn Tuấn Hiệp, lao động tự do, Vinh, Nghệ An

532. Trần Thị Tuyết, lao động tự do, Vinh, Nghệ An

533. Kim Ngọc Cương, chuyên viên kinh tế, đã nghỉ hưu, Hà Nội

534. Nguyễn Thị Nhân, Bố Trạch, Quảng Bình

535. Nguyễn Xuân Thiệp, nhà văn tự do (freelance writer), Texas, Hoa Kỳ

536. Vũ Thị Khánh Dần, TS Ngữ Văn, Hà Giang

537. Tran Thi Au Hanh, quản lý nhân sự, Thủ Đức, TPHCM

538. Hồ Thị Hoà, nghiên cứu sinh ngành Truyền thông, Paris, Pháp

539. Đỗ Trung Quân, nhà thơ, TPHCM

540. Phùng Thanh Tuyến, kiến trúc sư, Quảng Ngãi

541. Nguyễn Phương Hoa, giáo viên tự do, Gò Vấp, TPHCM

542. Hoàng Gia Vũ, kỹ sư phần mềm, Sài Gòn

543. Vũ Giang, Orange county, California, Hoa Kỳ

544. Hoàng Cơ Định, TS Hóa học, San Jose, California, Hoa Kỳ

545. Nguyen Giang, kỹ sư, Sài Gòn

546. Nguyễn Thị Hoài Hương, bác sĩ, Paris, Pháp

547. Trần Hải Hạc, nguyên PGS trường Đại học Paris 13, Paris, Pháp

548. Luong Van Dung, hướng dẫn viên du lịch quốc tế, Nam Từ Liêm,Hà Nội

549. Duong Ngoc Tu Uyen, họa sĩ, TPHCM

550. Nguyễn Thanh Cương, kinh doanh, Karlovy Vary, Cộng hòa Czech

551. Thái Văn Dung, cựu tù nhân lương tâm, Diễn Châu, Nghệ An

552. Nguyễn Kim Sơn, TS Hóa học, Hemsbach, CHLB Đức

553. Nguyễn Thị Vân, Hemsbach, CHLB Đức

554. Nguyễn Văn Hòa, kỹ sư Điện, CHLB Đức

555. Nguyễn Thị Kiều Phương, nhà báo, Sài Gòn

ĐỢT 3

556. Trịnh Y Thư, nhà thơ, Hoa Kỳ

557. Nguyễn Văn Lộc, Nam Úc Tuần Báo

558. Hiep Tran, machine operator, Hoa Kỳ

559. Đỗ Xuân Quý, cựu công dân miền Trung Việt Nam, California, Hoa Kỳ

560. Trần Thu Hương, nhân viên Ngân hàng Agribank, Hà Nội

561. Hồ Quang Huy, kỹ sư đường sắt, TP Nha Trang, Khánh Hòa

562. Nguyễn Văn Lượm, TP Nha Trang, Khánh Hòa

563. Phan Hoàng My, Vancouver, Canada

564. Tran Thi Bao Anh, kỹ sư, Cộng hòa Czech

565. Trần Viết Tuyên, kiến trúc sư về hưu, CHLB Đức

566. Tôn Nữ Ngọc Diệp, kỹ sư về hưu, CHLB Đức

567. Lê Bá Diễm Chi (Song Chi), nhà báo tự do, Oslo, Na Uy

568. Hoàng Phong Tuấn, TS, TPHCM

569. Chau Vo, kỹ sư, quận Tân Bình, TPHCM

570. Ngô Đắc Lợi, nhạc sĩ, Cần Thơ

571. Tạ Thị Phi Hằng, về hưu, Hà Nội

572. Pham Quynh Huong, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Xã hội học, Hà Nội

573. Nguyễn Hữu Tiến, San Francisco, California, Hoa Kỳ

574. Chu Minh Toàn, Thạc sĩ Công nghệ Thông tin, Lyon, Pháp

575. Nguyễn Thị Thu Hương, giáo viên, Nha Trang

576. Nguyen Phuc Thanh, dịch giả, Sài Gòn

577. Nguyễn Trọng Cương, giáo viên, Quảng Ninh

578. Nguyễn Thị Thu Hương, Malden, Hoa Kỳ

579. Nghiêm Sĩ Cường, kinh doanh, Hà Nội

580. Lê Nhiên, giáo viên, TPHCM

581. Chu Văn Sơn, nhà phê bình văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội

582. Vũ Bích Chi, điều phối viên, Hà Nội

583. Chu Văn Khang, cán bộ hưu trí, quận 7, Sài Gòn

584. Lương Nguyễn Khoa Trường, kỹ sư Cơ khí nghỉ hưu, Hà Nội

585. Nguyễn Thị Yến, giảng viên tiếng Anh, Tân Phú, TPHCM

586. Nguyễn Phương Chi, nguyên biên tập viên chính, Hà Nội

587. Trần Đình Nam, nguyên biên tập viên, Hà Nội

588. Ngô Kiều Oanh, TS, nguyên cán bộ Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam, Hà Nội

589. Lê Mạnh Hùng, kỹ sư, CHLB Đức

590. Nguyễn Thiện Công, kỹ sư cơ khí hãng Mercedes Benz Düsselorf, CHLB Đức

591. Bùi Xuân Huy, dược sĩ, huyện Bình Chánh, Sài Gòn

592. Matthew Nguyễn Hường, hướng dẫn viên du lịch nói tiếng Pháp

593. Ngô Chí Nhân, quận Phú Nhuận, Sài Gòn

594. Nguyễn Thúy Mai, kỹ sư, Hà Nội

595. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TPHCM

596. Uyên Vũ, nhà báo, Garden Grove, California, Hoa Kỳ

597. Le Thanh Hiep, kinh doanh, TPHCM

598. Nguyễn Thị Túy Vân, nội trợ, TPHCM

599. Phan Thị Công Minh, giảng viên, Đại học Ngoại Ngữ và Tin học TPHCM

600. Trần Thị Diễm Chi, nội trợ, TPHCM

601. Trần Ngọc Khánh, nhân viên văn phòng, TPHCM

602. Trương Đại Nghĩa, Stanton, California, Hoa Kỳ

603. Hoàng Nguyễn Thụy Khê, quản trị nhân sự, quận 2, Sài Gòn

604. Johnny Nguyen, Fremont, California, Hoa Kỳ

605. Trần Khắc Oai, sinh viên, Đà Lạt

606. Nguyễn Ngọc Đức, kỹ sư Tin học, Pháp

607. Vũ Mạnh Hùng, nguyên giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Thương mại, hiện là cán bộ quản lý khu nội trú, Thanh Xuân, Hà Nội

608. Phạm Tiến Đạt, kỹ sư Xây dựng, quận Tân Bình, TPHCM

609. Nguyễn Kim Sơn, TS Hóa học, CHLB Đức

610. Tống Văn Công, nhà báo, TPHCM

611. Phùng Thanh Tuyến, kiến trúc sư, công việc thiết kế tự do, Quảng Ngãi

612. Dinh Tri, về hưu, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ

613. Duc Dinh, sinh viên, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ

614. Minh Dinh, sinh viên, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ

615. Di Dang, về hưu, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ

616. Vũ Việt Hà, cán bộ nghiên cứu đã nghỉ hưu, chuyên ngành Sinh học Môi trường, Trung tâm Bảo vệ Môi trường, Viện Kỹ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ môi trường, TPHCM

617. Trần Công Khánh, về hưu, Lê Chân, Hải Phòng

618. Pham Anh Tuan, Cộng hòa Czech

619. Phạm Khiêm Ích, nhà nghiên cứu kh, nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin Kh xã hội, Hà Nội

620. Cao Thị Nhung, giảng viên khoa Hóa, Đại học Bách khoa TPHCM

621. Lê Thắng, Cộng hòa Czech

622. Huyền Lâm, nhà thơ, Hoa Kỳ

623. Đỗ Thục Hiền, Pháp

624. Hoàng Xuân Sơn, làm thơ, Canada

625. Công Tằng Tôn Nữ Bích Phượng, Đà Nẵng

626. Đào Văn Bính, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội

627. Trần Quốc Vũ, công nhân, CHLB Đức

628. Nguyễn Đắc Thắng, kỹ sư Hóa học, Genève, Thụy Sĩ

629. Nguyễn Hoàng, kĩ sư công nghệ thông tin hưu trí, Hoa Kỳ

630. Nguyen Thinh Le, giảng viên Đại học Humboldt-Universität zu Berlin, CHLB Đức

631. Tran Quoc Tuan, kinh doanh quần áo, CHLB Đức

632. Nguyễn Thị Diệp Thúy, Hoa Kỳ

633. Huynh Bich Ngoc, CHLB Đức

634. Phan Anh Hồng, kiểm soát thuế vụ, Dallas, TX, Hoa Kỳ

635. Phạm Thị Thảo, nhà giáo nghỉ hưu, Hoa Kỳ

636. Hoàng Văn Khẩn, TS Sinh hoá học, Genève, Thụy Sĩ

637. Đài Đoàn, chủ tiệm Spa, Georgia, Hoa Kỳ

638. Nguyễn Lưu, Almere, Hòa Lan

639. Khanh Lan, doanh nhân, Cộng hòa Czech

640. Trần Thanh Bình, kỹ sư, Italia

641. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đại học Đà Nẵng

642. Vũ Thế Cường, TS Cơ khí, CHLB Đức

643. Nguyễn Th Hiền, CHLB Đức

644. Đỗ Nguyễn Đông Khánh, kỹ sư phần mềm, Stuttgart, CHLB Đức

645. Lê Ngọc An, cựu giáo viên, Đà Nẵng

646. Đỗ Minh Tuấn, Nghệ sĩ Ưu tú, nhà văn, đạo diễn, Hà Nội

647. Nguyen Thanh Trang, Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, San Diego, California, Hoa Kỳ

648. Dennis Nguyễn Ph.D, bác sĩ, California, Hoa Kỳ

649. Kim Thái Quỳnh, Lyon, Pháp

650. Nguyễn Trọng Hoàng, TS Vật lý, Frankfurt, CHLB Đức

651. Nguyễn Bá Dũng, kỹ sư, Hà Nội

652. Nguyễn Bá Trinh, TS, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

653. Nguyen Bao, GS Điện tử, California, Hoa Kỳ

654. Lương Ngọc Châu, kỹ sư Điện toán (hưu trí), Mainz, CHLB Đức

655. Ha Nguyen, California, Hoa Kỳ

656. Nguyễn Hữu Thái, giảng viên đại học, TS Toán, CHLB Đức

657. Nguyễn Hữu Huy, TS Xây dựng, TPHCM

658. Trang Nguyen (Nguyễn Thị Thuỳ Trang), TS, làm việc cho chính phủ Australia

659. Nguyễn Vĩnh Tráng, TS Toán Ứng dụng, đã về hưu, Pháp

660. Cù Huy Hà Vũ, TS Luật, Đại học Luật Northwestern, Hoa Kỳ

661. Nguyễn Thị Dương Hà, luật sư, Hà Nội

662. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, Sài Gòn

663. Trịnh Đình Hoà, Hà Nội

664. Võ Văn Rân, hưu trí, Walled Lake, Michigan, Hoa Kỳ

665. Nguyễn Văn Ký, kỹ sư hóa, trợ lý nghiên cứu cho giáo sư, Seoul, Hàn Quốc

666. Đỗ Hùng, nhà văn, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ

667. Trương Khánh Ngọc, kỹ sư Xây dựng, Huế

668. Dương Tùng, chăn nuôi, Thuận An, Bình Dương

669. Nguyễn Văn Thông, hoạt động nhân quyền, Nghệ An

670. Nguyễn Đình Nguyên, cán bộ hưu trí, Phú Lợi, Bình Dương

671.  Phạm Lưu Vũ, kỹ sư, viết văn tự do, Tây Hồ, Hà Nội

672. Ngô Ngọc Hà, Thủ Dầu Một, Bình Dương

673.  Hoàng Tấn Trung, nhà thơ, nhà thư pháp, Quảng Trị

674. Lê Văn Duyệt, lao động tự do, Quảng Trị

675. Nguyễn Đức Dương, nghiên cứu tiếng Việt, TPHCM

676. Mai Xuân Đông, TS Hóa học, Hà Nội

677. Đoàn Quỳnh Như, Hamburg, CHLB Đức

678. Ngô Thái Văn, Hoa Kỳ

679. Đào Tăng Lực, kiến trúc sư, TPHCM

680. Huỳnh Kim Ân, kỹ sư xây dựng, Thủ Đức, TPHCM

681. Ngụy Hữu Tâm, TS Vật lý, dịch giả, Hà Nội

682. Cao Lập, hưu trí, Hoa Kỳ

683. Mai Dung, Đà Nẵng

684. Đỗ Thị Kim Chi, giảng viên, TPHCM

685. Phạm Thị Thu Hương, ks nông nghiệp, Viện Cây lương thực Cây tp Liên Hồng, Gia Lộc, Hải Dương

686. Bắc Phong, nhà thơ, Canada

687. Bùi Oanh, hưu trí, TPHCM

688. Trang Nguyên, TS Giáo dục học, Australia

689. Phạm Minh Vũ, sinh viên, Quảng Trị

690. Nguyễn Đức Long, Ba Đình, Hà Nội

691.  Lê Minh Đức, kỹ Sư, Sài Gòn

692. Nguyễn Thanh Thủy, Vinh, Nghệ An

693. Nguyễn Tiến Dũng, Vinh, Nghệ An

694. Lê Ngọc Tâm, kỹ sư, TPHCM

695. Nguyễn Thị Hồng (tức bà Nguyễn Văn Mậu – tên chồng), Cachan, Pháp

696. Trần Văn Long, Cachan, Pháp

697. Bùi Thu, nội trợ, Sài Gòn

698. Nguyễn Tiến Thư, kỹ sư xây dựng, Sài Gòn

699. Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ hưu trí, Đà Lạt

700. Nguyễn T.Việt, quận 3, TPHCM

701. Phan M. Loan, quận 3, TPHCM

702. Nguyễn T. Vinh, quận 3, TPHCM

703. Nguyễn T. Ly, quận 3, TPHCM

704. Nguyễn Thượng Long, dạy học và viết báo, Hà Đông, Hà Nội

705. Hương Nam, Sydney, Australia

706. Võ Văn Cường, thầy thuốc Đông y, Biên Hoà, Đồng Nai

707. Nguyen Van Luong, TS, chuyên gia kinh tế Quốc tế, Florida, Hoa Kỳ

708. Võ Đăng Khoa, JD. Houston, Texas, Hoa Kỳ

709. Tran Anh Chuong, kỹ sư, Ph.D, Hoa Kỳ

710. Nguyễn Quang Tuấn, linh mục giáo phận Vinh, Nhà thờ Trang Cảnh, Nghi Xuân, Nghi Lộc, Nghệ An

711. Nguyễn Văn Dương, hưu trí, Hà Nội

712. Hồ Quốc Minh Huy, học sinh, Los Angeles, Hoa Kỳ

713. Nguyễn Hồng Cúc, nghiên cứu độc lập, Sài Gòn

714. Phạm Anh Tuấn, dịch giả, dạy học, Hà Nội

715. Hoàng Nguyên Hông, luật sư, Hà Nội

716. Lữ Thị Tường Uyên, trị liệu tâm lý, Hà Lan

717. Dương Viết Đạo, Cử nhân kinh tế, Cần Thơ

718. Trần Van Thanh, cán bộ phòng Tài chính – Kế hoạch, Triệu Phong, Quảng Trị

719. Trần Đình Am, TS, Ottawa, Canada

720. Hoàng Vũ Linh, học sinh, Kỳ Anh, Hà Tĩnh

721. Đinh Hữu Tuấn Vũ, Hà Tĩnh, tạm trú Sài Gòn

722. Nguyễn Ngọc Sẵng, Ph. D, hưu trí, Hoa Kỳ

723. Vũ Thị Thu Nhi, Thạc sĩ Kỹ thuật Môi trường, TPHCM

724. Nguyễn Quang Trường, hưu trí, Kolding, Đan Mạch

725. Trần Đức Thạch, nhà thơ, cựu tù nhân lương tâm, Nghệ An

726. Nguyễn Ngọc Diệp, hưu trí, Cầu Giấy, Hà Nội

727. Linh Vong, sinh viên, New Jersey, Hoa Kỳ

728. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức yêu nước TPHCM

729. Trần Quang Vinh, lái xe, Đà Nẵng

730. Don Vo, Fountain Valley CA, Hoa Kỳ

731. Võ Đình Ngoạn, Maryland, Hoa Kỳ

732. Trần Minh Nhật, phóng viên, cựu tù nhân lương tâm, Lâm Đồng

733. Tống Thùy Trang, kinh doanh, TPHCM

734. Nguyễn Thanh Tân, dạy học, Sài Gòn

735. Nguyễn Thị Bích Hạnh, giáo viên, quận 3, TPHCM

736. Trần Đình Ky, Barrie, Ontario, Canada

737. Dinh Thị Xuyến, Barrie, Ontario, Canada

738. Phan Văn Phong, Hoàn Kiếm, Hà Nội

739. Hà Khánh Linh, kế toán, Tây Hồ, Hà Nội

740. Nguyen B. Dong, hưu trí, Hoa Kỳ

741. Ken Nguyen, hưu trí, Hoa Kỳ

742. Vũ Thu Giang, cán bộ hưu trí, Hà Nội

743. Nguyễn Đăng Nghĩa, TS Nông nghiệp, TT Nghiên cứu & Tư vấn NN Nhiệt đới, quận 1, TPHCM

744. Nguyễn Liên Phương, hưu trí, quận Tân Bình, Sài Gòn

745. Ngô Văn Hiền, kỹ sư, Sài Gòn

746. Bùi Văn Phú, nhà giáo, nhà báo, California, Hoa Kỳ

747. Nguyễn Chính, về hưu, Hoa Kỳ

748. Nguyễn Đôn Phước, dịch giả, TPHCM

749. Phan Văn Lưu, kinh doanh, Sài Gòn

750. Nguyễn Văn Nghiêm, thợ hớt tóc, TP Hòa Bình, Hòa Bình

751. Duong Le, kỹ sư, Pamdale, California, Hoa Kỳ

752. Nguyễn Thị Ngọc Giao, Virginia, Hoa Kỳ

753. Chu Tất Tiến, nhà văn, Thạc sĩ Khoa học, California, Hoa Kỳ

754. Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí đã nghỉ hưu, quận 1, TPHCM

755. Đặng Hoàng Hùng, nhân viên, Sài Gòn

756. Chu Minh Thức, nhân viên văn phòng, TPHCM

757. Trương Kim Long, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp

758. Trần Văn Thiệp, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp

759. Tô Văn Mảnh, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp

760. Đặng Thành Tân, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp

761. Lưu Văn So, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp

762. Nguyễn Văn Dẽo, cư sĩ, Phú Tân, An Giang

763. Nguyễn Vũ Tâm, cư sĩ, Châu Phú, An Giang

764. Đặng Văn Ngoãn, cư sĩ, Chợ Mới, An Giang

765. Tri Nguyễn, công chức Bộ Y tế, Australia

766. Nguyễn Thạch Cương, TS Nông nghiệp, đã nghỉ hưu, Hà Nội

767. Andy Vu, công nhân, Sydney, Australia

768. Nguyen Dang Khoa, kỹ sư điện, Washington State, Hoa Kỳ

769. Nguyễn Hữu Chiến, TS Toán, Hà Nội

770. Hoàng Quý Thân, TS, hưu trí, Hà Nội

771. Trần Thoại Nguyên, thi sĩ, Sài Gòn

772. Võ Việt Linh, cựu Thanh niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh, Gò Vấp, Sài Gòn

773. Hồ Uy Liêm, cán bộ khoa học về hưu, Hà Nội

774. Phí Mạnh Hồng, PGS TS Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

775. Đặng Văn Sinh, nhà văn, Hải Dương

776. Đỗ Nam Trung, lao động tự do, Hà Nội

777. Nguyễn Khắc Bá, linh mục, giáo phận Vinh

778. Đoàn Đình Hoàng, giảng viên, Sài Gòn

779. Petrus Nguyễn Văn Hương, Đại chủng viện Vinh Thanh, Nghi Diên, Nghi Lộc, Nghệ An

780. Nguyễn Văn Phượng, lao động tự do, TP Lai Châu, tỉnh Lai Châu

781. Trần Thị Vân Lương, nội trợ, Hà Nội

782. Uông Đắc Đạo, cử nhân Luật, hưu trí, Hoa Kỳ

783. Lê Hưng, Garden Grove, California, Hoa Kỳ

784. Nguyễn Khánh Linh, sinh viên, biên/phiên dịch viên tự do, Hà Nội

785. Nguyễn Thị Thúy, kinh doanh tự do, quận Bình Thạnh, TPHCM

786. Huynh Nhat Tan, Đà Lạt

787. Ken Nguyen, Banking retiree, California, Hoa Kỳ

788. Mã Lam, nhà thơ, TPHCM

789. Phan Đông Bích, kỹ sư, cựu Chủ tịch Cộng đồng người Việt Tự do Úc Châu/NSW, Sydney, Australia

790. Võ Thanh Hùng, Pleiku, Gia Lai

791. Su Mai, công nhân, Houston, Texas, Hoa Kỳ

792. Nguyễn Khắc Nhượng, nhà báo, TPHCM

793. April Lương, sinh viên trường Đại học Monash, Melbourne, Victoria, Australia

794. Hà Thúc Huy, PGS TS Hóa học, giảng viên, Sài Gòn

795. Nguyễn Quang Đạo, Melbourne, Australia

796. Trần Văn Huynh, Melbourne, Australia

797. Pham Van Hoi, TS, Hà Nội

798. Tran Hung, kỹ sư, CHLB Đức

799. Pham Duy Lương, thông dịch viên tiếng Việt, Cộng hòa Czech

800. Trần Số Mười, sinh viên, Kỳ Anh, Hà Tĩnh

801. Đoàn Viết Hiệp, kỹ sư Điện toán, Anton, Pháp

802. Hồ Minh Phương, nhân viên thiết kế, TPHCM

803. Ngô Thị Thu Huyền, kỹ sư, Hà Nội

804. Nguyen Thanh Binh, Director, Nhật Bản

805. Le Thanh Loi, kỹ sư về hưu, CHLB Đức

806. Hoàng Minh Tuấn, kỹ sư, lao động tự do, quận 3, Sài Gòn

807. Lê Quang Huy, công dân Việt Nam, Sài Gòn

808. Lê Tiến Dũng, giáo viên, Bình Phước

809. Phùng Thị Mến, sinh viên, TPHCM

810. Nguyễn Ngọc Xuân, làm vườn, Xuyên Mộc, Bà Rịa Vũng Tàu

811. Ngô Thị Kim Xuyến, giám đốc công ty TNHH, Vương quốc Anh

812. Trần Đức Cường, linh mục, Đà Nẵng

813.  Phan Châu Danh, kinh doanh tự do, Bỉ

814. Tran Van Tan, kỹ sư, Berlin, CHLB Đức

815. Phan Đức Thông, hưu trí, Augsburg, CHLB Đức

816. Dương Thị Tuyết Mai, TPHCM

817. Nguyễn Kỳ Nam, nhiếp ảnh, Hà Nội

818. Trần Trọng Cảm, bác sĩ Bệnh viện quận Tân Phú, TPHCM

819. Trương Thanh Đạm, Dr. (hưu trí), Hà Lan

820. Lưu Hồng Thắng, công nhân, Morgan City, Los Angeles, Hoa Kỳ

821. Nguyễn Hữu Minh, dược sĩ, Hóc Môn, TPHCM

822. Nguyễn Trần Hải, người lao động về hưu, Hải Phòng

823. Nguyễn Chữ, kỹ sư Tin học tự động công nghiệp, Torino, Italia

824. Trương Ngọc Viễn, kỹ sư Xây dựng, Thủ Đức, TPHCM

825. Nguyễn Thanh Loan, kỹ sư Hóa học, Sài Gòn

826. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội

827. Bùi Thị Hạnh, lao động tự do, Thủy Nguyên, Hải Phòng

828. Dương Sanh, cựu giáo chức, Vạn Ninh, Khánh Hòa

829. Nguyễn Hoàng Quân, kỹ sư, Sài Gòn

830. Nguyễn Đăng Khoa, giảng viên ngoại ngữ trường kỹ sư INSA, Lyon, Pháp

831. Anh Vu Ngo, nhà báo, Da Nang Daily Newspaper, Đà Nẵng

832. Trần Kế Dũng, Electrolux, Australia

833. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, TPHCM

834. Hồ Nhật Minh, lao động tự do, Biên Hòa, Đồng Nai

835. Tran Kim Thanh, hưu trí, Hà Nội

836. Nguyễn Chí Trung, công chức, Sở Giao thông Vĩnh Phúc, TP Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc

837. Triệu Sang, làm ruộng, Sóc Trăng

838. Ngo Kim Dung, bác sĩ, Pháp

839. Lê Văn Tài, nhân viên quản lý, Quy Nhơn

840. Trần Ngọc Trình, nghiên cứu sinh, CHLB Đức

841. Trần Ngọc Tiến, nông dân, Đà Lạt, Lâm Đồng

842. Anh Tuan Ta, kỹ sư Môi trường, Bangkok, Thái Lan

843. Vũ Hải Hà, nhân viên văn phòng, Hà Nội

844. Hồ Ngọc Nhuận, nhà báo, Sài Gòn

845. Tran Bao, giáo viên, Hà Nội

846. Pham M Khoi, giám đốc, quận 9, TPHCM

847. Lê Văn Thuyết, kỹ sư, TPHCM

848. Đặng Ngọc Quỳnh, cán bộ hưu trí, Hà Nội

849. Đỗ Trọng Nhân, nghề tự do, Ngô Quyền, Hải Phòng

850. Lê Vũ Hoàng Oanh, giáo viên, Quy Nhơn, Bình Định

851. Trần Thiện Phụng, chuyên gia Tin học, Thụy Sĩ

852. Nguyễn Thiện Phương Hạnh, Pianist, nguyên Phó Trưởng khoa piano Nhạc viện TPHCM, TPHCM

853. Nguyễn Thuy Georges, nhà giáo, nhà văn, đã về hưu, Pháp

854. Nguyễn Mạnh Thắng, kiến trúc sư, Hà Nội

855. Bùi Văn Chưởng, Tân Biên, Đồng Nai

856. Lê Duy Thiện, Brisbane, Australia

857. Nguyễn Quang Ngọc, kỹ sư, Hà Nội

858. Lê Thị Thanh Thuỷ, TS Y khoa, Osaka, Nhật Bản

859. Nguyễn Công Kiểm, bác sĩ, TPHCM

860. Nguyễn Hữu Toàn, kỹ sư Cầu đường, đã nghỉ hưu, Hà Nội

861. Bùi Phương Oanh, kế toán tài chính, đã nghỉ hưu, Hà Nội

862. Nguyễn Văn Thanh, Cử nhân kinh tế, Gò Vấp, Sài Gòn

863. Dương Tấn Trung, kỹ sư Điện toán, Sydney, Australia

864. Nguyễn Chính, luật gia, nhà báo, Nha Trang

865. Hoàng Văn Hoan, TS Thú y, Hà Nội

866. Nguyen Van Dinh, Montréal, Canada

867. Lê Thành Chung, kỹ sư Tin học tại ngân hàng Berliner Sparkasse (bang Berlin), Berlin, CHLB Đức

868. Phạm Văn Thành, công nhân cơ khí Pipe fitter, Ninh Bình

869. Võ Văn Giáp, kỹ sư Cơ khí, Mississauga, Ontario, Canada

870. Lê Mỹ Hạnh, công chức nghỉ hưu, Pháp

871. Luân Hoán, làm thơ, Montréal, Canada

872. Nguyễn Hải Vân, sinh viên, Hà Nội

873. Phan Kim Phẩm, ThS LC/MS Marketing Specialist, San Jose California, Hoa Kỳ

874. Nguyễn Quang Tùng, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội

875. Nguyễn Văn Chung, kỹ sư, Sài Gòn

876. Trần Phong Vũ, nhà báo, thành viên Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, California, Hoa Kỳ

877. Đăng Chương Ngạn, viết văn, Sài Gòn

878. Le Khanh Luan, TS Toán, quận 5, TPHCM

879. Song Thao, nhà văn, Canada

880. Hoàng Thị Thu Hiền, giáo viên, TPHCM

Xin mời quý ông/bà/anh/chị/em ký tên vào Tuyên bố này với tên họ, nghề nghiệp/ chức danh (nếu có), nơi cư trú, và gửi về địa chỉ: tuyenboformosa@gmail.com