Tập San Tân Đại Việt – Số 4/2019 – Số tưởng niệm ngày Quốc Hận 30.04.1975

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tập San Tân Đại Việt – Số 4/2019 – Số tưởng niệm ngày Quốc Hận 30.04.1975

Mục Lục

Hoàng Đình Khuê: Cảm nghĩ ngày 30 tháng Tu

Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi: 30.04.1975: Ngày mất nuớc? Phải làm gì?

Vi Anh: Quốc Hận Năm Thứ 44

Fb Miennamvietnam: Cái chết của một người Việt tên Nam!

Lê Nguyên Bình: Ngày tàn của cuộc chiến

Trần văn Tài: Tháng Tư Đen và gương anh hùng của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn 

Đại Tướng Barry McCaffrey/Hoàng Long: Người lính dù bị lãng quên

Người lính cũ: Người chiến sĩ VNCH ngày cuối cùng của cuộc chiến

Võ Ngọc Ẩn: Chuyện từ trên quốc lộ 20

Bạch Thế Thức: Những ngày cuối cùng ở Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng, 03/1975

Trần Văn Lương: Thơ

Đừng Oán Trách Trời Kia

 – Hãy chụp dùm tôi

Hà Bắc: Giậu đổ bìm leo 30-4-1975

Ngô Minh Hằng: thơ Anh hùng vô danh

Phan Văn Song: Nam Việt Nam,  năm Cộng Sản thứ 44:  Một Đất Nước, Hai Loại Dân

Nguyễn thị Cỏ May:  Những người góp tâm huyết cho ngày 30 tháng 4/1975

Nhữ Đình Hùng: thơ Cảm tác ….trang 39

Lính Già Trần Nam Ca: thơ Sao Ta Biệt Xứ!

Lê-Ngọc Châu: Nhìn lại mình sau 42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975

Kim Thanh / Người Linh Già Oregon: Đá nát vàng phai

Nguyên Nhung: Những Người Không Đất Đứng

 

Cảm nghĩ ngày 30 tháng Tu – Hoàng Đình Khuê

Đúng ngày này của 44 năm trước, ngày 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu cuộc chiến tranh Việt nam đã kết thúc một cách  đau lòng sau 21 năm diễn ra tàn khốc (1954-1975). Đây chỉ là chấm dứt một cuộc chiến tại chiến trường Việt nam, nhưng vẫn tiếp diễn trong phạm vi rộng lớn trong suốt 44 năm nay.

Và hàng năm cứ đến ngày 30 tháng 4, người dân VN lại đau thương và uất hận, cho nên mới có cụm từ Ngày Quốc Hận và Tháng 4 Đen, một cụm từ xác đáng để nói lên nổi đau thương và uất hận của nhân dân miền Nam

Ngày ấy chế độ Tự do Dân chủ ở miền Nam đã bị bức tử và miền Nam đã rơi vào sự thống trị của chế độ độc tải toàn trị csvn.

Đây là một cuộc chiến ý thức hệ, một bên là phe Phi chính nghĩa/ Tà phái – cs miền Bắc xâm lăng miền Nam theo lệnh quan thầy Trung cộng và Liên xô; còn bên kia là phe Chính nghĩa-

miền Nam VNCH đã tự vệ để bảo vệ nền Tự do Độc lập cho miền Nam với sự yểm trợ của HK. Nhưng rồi phe Phi chính nghĩa đã Thắng cuộc và phe Chính nghĩa Thua cuộc vì sự phản bội của người bạn đồng minh chỉ vì nhu cầu thay đổi chiến lược quốc tế qua một đồng minh khác, cũng như sự trao đổi bán đứng miền Nam với thị trường hơn 1 tỷ dân.

Họ còn biện minh cuộc chiến bị thua chỉ vì chánh quyền miền Nam độc tài  tham nhũng, cấp lãnh đạo bất tài và người lính VNCH thiếu tinh thần chiến đấu để lấy cớ rút quân trong danh dự  và trao đổi tù binh…  

Đây là âm mưu của một nhóm siêu quyền lực ( Illuminati, Bilderberg) đã áp lực chánh quyền Mỹ, Hành pháp lẫn Lập pháp, khống chế Truyền thông Mỹ và giật dây phe Phản chiến để rút khỏi Viêt Nam. Họ đã tạo ra một cuộc chiến tranh mà Họ gọi là “Chiến tranh Giới hạn” (Limited War) với “Chủ trương Không Thắng“ (No win Policy).

Một cuộc chiến không thua không thắng bắt buộc phải kéo dài từ năm này qua năm khác để có cơ hội tiêu thụ hết số vũ khí và chiến cụ thời đệ II Thế chiến và có cơ hội thí nghiệm các loại vũ khí mới được chế tạo trên chiến trường miến Nam.

Ted Gunderson, một đặc vụ CIA, từng làm Trưởng cơ sở tình báo ở Los Angeles đã tiết lộ nhiều sự thật về những vụ gian dối, đã từng bị ám hại nhiều lần nhưng thoát chết, sau này đã bị đầu độc. Ông đã tiết lộ một tin mật do đàn em làm trong ban Truyền tin Ngũ Giác Đài cho biết:  

môt hôm họ nhận được điện tín của Hà Nôi muốn xin hàng vô điều kiện, họ liền báo lên cấp trên thì 24 giờ sau tất cả nhân viên trong ban Truyền tin bị đổi hết và thay vào đó là nhân viên truyền tin của bộ Ngoại giao (???)…

Chưa kể Kissinger còn làm áp lực với Tổng thống Đệ II Cộng hòa ký Hiệp định Ba lê mà chỉ Hoa Kỳ và Hà Nội âm thầm soạn thảo với những điều khoản bất lợi cho phe miền Nam, chẳng hạn trong  Chương II, Điều 5: Trong vòng 60 ngày kể từ khi Hiêp Định có hiệu lực, Hoa Kỳ và Đồng Minh phải rút hết khỏi miền Nam; còn 300,000 quân cs Bắc Việt vẫn ở lại miền Nam vì họ không phải là người nước ngoài…

Ngày 30 tháng 4 không chỉ đến với chúng tôi trong Tháng 4 đen, mà bất kỳ thời điểm nào cũng là Ngày 30 Tháng 4 tùy theo sự kiện và hình ảnh gợi lại:

 – Hình ảnh của Năm vị Tướng Vị Quốc Vong Thân, của Đại tá Hồ ngọc Cẩn, Trung tá Nguyễn Văn Long  và các vị quân nhân khác, là Ngày 30 Tháng 4.

 – Hình ảnh chết chóc và la khóc cùng với bom đạn, pháo kích vào đồng bảo di tản trên Quốc lộ số 1 là Ngày 30 Tháng 4.

 – Hình ảnh các mồ chôn tập thể trong Tết Mậu Thân là Ngày 30 Tháng 4.

 – Hình ảnh của các nhân vật như Kissinger, Westmoreland, Ted Turner, Jane Fonda, John Kerry cũng là Ngày 30 Tháng 4.

Ôi! Ngày miền Nam đã bị bức tử và Quân nhân QLVNCH phải chịu tủi nhục, tức tưởi buông súng trong khi cuộc chiến trên đà thắng thế.

Càng đau lòng chúng tôi càng hận mình cũng có phần trách nhiệm đã không giữ được miền Nam . Chính miền Nam mất đi đã để lại hậu quả nghiêm trọng lâu dài cho đất nước và dân tộc VN:

– Người dân VN phải chịu ách thống trị, tù tội bởi bọn lãnh đạo và công an độc ác, tham nhũng, cướp cạn, hèn với giăc ác với dân.

– Tương lai thế hệ con cháu phải chịu thiệt thòi với một nền giáo dục bảo thủ, lạc hậu, sai lầm sẽ đưa các thanh thiếu niên hư hỏng nhân cách, suy đồi đạo đức từ đó đưa đến những tệ đoan xã hội, những thảm cảnh giết người kinh hoàng mà đa số thủ phạm đều ở tuổi thiếu niên.

– Các Dân Quân Cán Chính phải chịu tủi nhục và tù đầy trong lao tù cs. Đa số họ đã bị trả thù bằng tra tấn, bị chết vì bệnh tật và đói khát.

– Các đồng đội và chiến hữu của chúng tôi đã bỏ xác hay một phần cơ phận trên chiến trường miền Nam, hiện đang sống vất vưởng, đói khổ hèn hạ trên các vỉa hè của đường phố Sài Gòn và còn nhiều…

Chúng tôi thiết tha kêu gọi :

 – Tổ chức Ngày 30 Tháng 4 không những khơi lại những đau thương và uất hận mà làm sống lại  hình ảnh hào hùng của những chiến sĩ anh hùng thà chết chứ không đầu hàng kẻ thù vì Danh Dự  và Trách Nhiệm.

 – Tổ chức Ngày 30 Tháng 4 để tưởng niệm những người lính VNCH đã bỏ mình trong bóng tối mênh mông, trên chiến trường đẩm máu hay trong lao tù cộng sản để bảo vệ sinh mạng và sự bình an cho chúng ta và gia đình chúng ta.

Chúng tôi cũng kêu gọi:

– Những người còn chút lương tâm, còn chút lòng yêu quê hương dân tộc không tổ chức những chương trình văn nghệ vui chơi, đàn ca hát xướng trong những ngày của Tháng 4 Đen. Đó là những việc làm vô cảm trên sự đau khổ của người dân miền Nam, trên xương rơi máu đổ của đồng bào bỏ mình vì tìm Tự do hay trên thân xác của các chiến sĩ anh hùng QLVN.

– Những ai có ý định hay mục đích gì muốn đổi tên 30 Tháng 4 thành một tên khác xin hãy quên đi vì đó là phản bội đồng bào, phản bội chánh nghĩa quốc gia, đi ngược lại công cuộc đấu tranh của đồng bào trong nước và hải ngoại…

Trong lời Kết, chúng tôi muốn lấy bài học 30 Tháng 4 là một kinh nghiệm đau thương cho dân tộc VN. Đừng quá ỷ lại vào bất cứ môt lực lượng nào hay một quốc gia nào trong việc xây dựng nền độc lập dân chủ cho đất nước.

Trong bang giao không có quốc gia nào tốt bụng hay tình cảm yêu thương mình, chỉ có quyền lợi của quốc gia là trên hết. Phù hợp quyền lợi là BẠN, xung khắc quyền lợi là THÙ.

Và không có nước nào là BẠN vĩnh viễn, cũng không có nước nào là THÙ muôn đời.

Xin Hồn Thiêng Sông Núi Phù hộ cho Dân tộc VN. 

Hoàng Đình Khuê.

Ngày 22 tháng 4 năm 2019

 

30.04.1975: Ngày mất nuớc? Phải làm gì? – Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi

I/ Nổi đau nào lớn hơn nổi đau mất nước ?

Đại thi hào Hy Lạp Eupirides trong vở kịch Medea đã có câu nói bất hủ:  “Không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau mất nước” (xem Nguồn 1 phía dưới).

Không phải tình cờ mà Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn tại Úc đã khắc ghi điều này cho hậu thế biết trên một Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân tại đó.

Đúng vậy: 30.04.1975 là ngày mất nước và là ngày đau buồn nhất cho dân tộc Việt Nam. Sau 44 năm, nếu mổi người Việt nhìn trở lại thì ai cũng thấy rỏ nổi đau này. Gia đình nào cũng tan nát phân tán khắp nơi. Đúng là: “Nước mất nhà tan”. Cũng như còn nổi nhục nào cái nhục này, khi biết được nhan nhản trên báo chí Trung Cộng đăng lời rao bán đàn bà, con gái Việt Nam:

“Mua một cô vợ Việt Nam giá 6,000 USD

– Bảo đảm còn trinh;

– Bảo đảm giao hàng trong vòng 90 ngày;

– Không phụ phí;

– Nếu cô ta trốn đi trong vòng 1 năm, được 1 cô khác miễn phí”.

Sự thực hiển nhiên cho thấy dân tộc Việt Nam trải qua nổi nhục nhằn đó từ khi thế lực cộng sản thống trị trên đất nước và sẽ là cơ hội dể dàng để Trung Cộng đặt ách đô hộ. Sau mật ước Thành Đô 1990, VN chúng ta lần lượt mất vô số lãnh thổ vào tay Trung Cộng. Điển hình như Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc … bị cướp đi và Trung Cộng cho di dân ào ạt qua VN mua đất đai để tính kế lâu dài. Đó đúng là “Đại Hoạ Mất Nước” sắp tới nơi rồi (xem Nguồn 2)

II/ Kinh nghiệm thắng được Cộng sản tại Ba Lan & Đông Âu

Muốn thoát khỏi đại họa mất nước gần kề, mổi người dân Việt phải sáng suốt coi công cuộc tranh đấu là quan trọng nhứt với tinh thần “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”và sẳn sàng học hỏi kinh nghệm thành công từ các quốc gia đã từng thoát được ách cộng sản.

Chẳng hạn như Đông Âu, mà điển hình là trường hợp Ba Lan đã thành công rực rỡ nhờ:

1) Ở quốc nội dân chúng Ba Lan sáng suốt tranh đấu ôn hoà dưới sự hướng dẫn của lãnh tụ Walesa / Công Đoàn Liên Đới (Solidarity) không tạo ra tình thế bạo động cực đoan khiến bị đàn áp đẫm máu như đã xảy ra tại Đông Bá Linh (1953), Hung Gia Lợi Budapest (1956), Tiệp Khắc Prague (1968) … dẫn đến thất bại làm mất tiềm lực tranh đấu cả hàng chục năm sau..

2) Tại quốc ngoại, Cộng đồng Tỵ nạn Ba Lan vận động yểm trợ quốc nội trên mọi lãnh vực như:

a) quyên tiền gửi cho tổ chức tại quốc nội để có phương tiện nuôi dưỡng tranh đấu.

b) thông tin cho quốc tế biết về công cuộc tranh đấu tại Ba Lan để phá tan tuyên truyền láo lếu (fake news) của hệ thống tuyên truyền cộng sản & thiên tả.

c) phát triển & đoàn kết lại giữa các Cộng đồng Tỵ nạn Ba Lan ở các cường quốc Tây Phương.

3) Quan trọng và quyết định nhứt là tìm kiếm sự yểm trợ hữu hiệu của quốc tế. 

Đặc biệt là của siêu cường Hoa Kỳ, vì thực tế cho thấy chỉ quốc gia này mới đủ sức và dám đương đầu Cộng sản Liên Sô. Cộng đồng Tỵ nạn Ba Lan tại Mỹ đã sáng suốt biết đầu tư trong cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ vào năm 1980 qua sự ủng hộ Liên Danh TT Reagan & PTT Bush để được thắng cử và nhờ đó sau này TT Reagan mới có cơ hội thực hiện chánh sách “đánh & diệt” Cộng sản  Liên Xô.

Đây là nước cờ tối quan trọng đã khiến Liên Sô sụp đỗ vào đầu năm 1991 và đã khiến tự động mấy chục nước Cộng sản Đông Âu đều thoát ách độc tài, mà chả cần phải vô cùng gian khổ tranh đấu như mấy chục năm trước đó.

Cộng đồng Tỵ nạn Ba Lan đã can đàm dứt khoát dám chọn ủng hộ một ứng cử viên Tổng Thống ngang tàng kiểu “cao bồi Texas” như ông Reagan.

Điều này rõ ràng qua sự kiện TT Reagan đã dám tới ngay Bức Tường Ô Nhục Bá Linh (Berlin) thách thức cấp lãnh đạo cộng sản Liên Sô phải phá bỏ bức tường này vào ngày 12/0671987 (xem Nguồn 3 & Nguồn 4).

Kết quả thực đúng như lời kêu gọi ngang tàng này, Bức Tường Ô Nhục Bá Linh – sau đó 2 năm – đã bị “sụp đỗ” vào ngày 09/11/1989 (xem Nguồn 5).

III/ Phải làm gì ?

Nhìn kỹ lại: Hiện nay tình hình biến chuyển có chiều hướng thuận lợi tương tự như thời kỳ chánh phủ Reagan (1981 – 1989) với chánh phủ Mỹ có chủ trương “đánh & trị Trung Cộng”. Nếu hòn đá tang

Trung Cộng để dựa vào không còn nữa – như Liên Sô – thì VN chúng ta không còn lo “đại họa mất nước” và chắc chắn tự động thoát khỏi ách cộng sản như đã xảy ra tại Đông Âu. Qua bài học Ba Lan, mỗi người dân VN chúng ta ở trong và ngoài nước ai cũng đều có thể làm được tương tự như vậy tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng mồi cá nhân.

Quan trọng nhứt là đồng bào VN với tư cách cử tri tại Mỹ tích cực thuyết phục gia đình và bạn bè quen biết ủng hộ một chánh phủ với một chính đảng cầm quyền xứng đáng có chánh sách phù hợp sự sinh tồn dân tộc VN chúng ta. Thực vậy chúng ta cần một chánh phủ Mỹ cầm quyền lâu dài như thời kỳ Reagan & Bush để đủ sức mạnh gây áp lực ngăn chặn được mưu đồ Trung Cộng toan chiếm Biển Đông và uy hiếp các quốc gia láng giềng.

Rất có thể nhờ vậy cuộc khủng hoảng kinh tế của Trung Cộng sẽ còn tiếp tục kéo dài và dẫn đến sụp đỗ toàn diện như đã xảy ra cho Liên Sô vào năm 1991. Lúc đó VN chúng ta có quyền hãnh diện và không còn buồn tủi khi mổi năm tháng tư ló dạng.

Mong sẽ được như vậy!

 

 

Quốc Hận Năm Thứ 44 – Vi Anh

Đã bắt đầu vào tháng Tư, năm 2019. Thế là bắt đầu thêm một Quốc Hận, Quốc Hận thứ 44, kể từ 30 tháng 4 năm 1975. Quốc Hận là Quốc Hận là sự kiện lịch sử Ông Trời cũng không thay đổi được, chớ đừng nói một vài cá nhân háo danh léng phéng muốn nổi danh toan đổi tên bị người dân Việt chống CS tẩy chay, loại bỏ.

Lịch sử sẽ vô ích nếu Con Người không vận dụng, nếu Con Người không nhớ để rút kinh nghiệm, để ôn cố tri tân. Để chống lại kẻ gian ác, để kẻ gian ác không thể tái diễn tai họa cho quốc gia dân tộc hay cộng đồng nữa. Nhớ và tưởng niệm Quốc Hận vì thế là bổn phận của cá nhân và nghĩa vụ của tập thể, xã hội trong dòng lịch sử, trên phương diện nhân sinh quan cũng như vũ trụ quan.

Nên mạnh dạn dẹp qua một bên những lời khuyên giả đạo đức, thực dụng và lợi dụng, bảo “để quá khứ ra phía sau, hướng về tương lai phía trước”, của những đám tàn dư Phản Chiến Mỹ, những chánh trị gia thiên Tả, người thân Cộng thập thò đi đêm với CSVN.

 Những người CSVN mà Thượng nghị sĩ McCain có lần đi Hà nội đã nói đó là “bọn ác đã thắng” và đang thống trị Việt Nam. Những người CSVN đã từng tuyên truyền dối gạt, dụ dỗ nữ tài tử Jane Fonda ngồi lên và khen cây súng và các “chiến sĩ” của CS Bắc Việt đã bắn phi cơ Mỹ ở Hà nội để chụp hình tuyên truyền chống Mỹ, nhưng sau này Bà hối hận, khóc trước những cựu chiến binh Mỹ tham chiến tại VN.

Nhớ Ba Mươi Tháng Tư là Ngày Quốc Hận là cơ hội tưởng niệm, là bổn phận của người đi sau nhứt là thế hệ trẻ sanh sau Chiến tranh VN nhớ những người đi trước, nhớ những biến cố đau thương đã qua để rút kinh nghiệm. Ở Âu Châu, nhơn cơ hội kỷ niệm 60 năm ngày được giải thoát ra khỏi gông cùm Hitler và Đức Quốc Xã, lớp trẻ nhớ 6 triệu người Do Thái đã bị Đức Quốc Xã diệt chủng bằng lò thiêu và bằng nhiều hình thức khủng bố đen, trắng, xám trong Đệ Nhị Thế Chiến. Thảm kịch trần gian ấy được các nước Âu Châu kể cả Đức Quốc chánh thức ghi và đem vào chương trình môn lịch sử bó buộc học ở các trường trung tiểu học – gọi là Holocaust hay Shoah.

Ở Mỹ cũng thế, người Mỹ đem vào chương trình học sử của trung tiểu học để thường xuyên nhắc nhở cuộc Nội Chiến vì lý do nô lệ Da Đen thời Hoa kỳ còn non trẻ, Con Đường Nước Mắt chánh quyền Mỹ cưỡng bức dời cư Thổ dân thời Viễn Tây, lập khu tập trung cấm cố người Nhựt thời Thế Chiến 2. Để tuổi trẻ đừng quên – lớp trẻ có bổn phận nhớ vì đó là môn thi ở trường lớp, đó cũng là bài học để chống sai lầm của cá nhân cầm quyền diệt chủng, gây tội ác chống Nhân Loại.

Ở Âu châu chẳng những giáo dục ở trường lớp mà còn tổ chức du khảo, cho sinh viên học sinh thăm Trại Tập Trung Auschwitz ở Ba Lan, để tận mắt thấy những lò thiêu, thấy những hành động dã man, tàn ác và dối trá mà những người Đức Quốc Xã đối với người Do Thái. Nhiều học sinh, sinh viên nam nữ, đứng chết trân hoặc hét lên kêu Thượng Đế khi thấy hình ảnh hàng ngàn người mẹ Do Thái mình không quần áo, tay bồng con, đứng chờ đi vào chỗ chết mà tưởng đi tắm vì nghe “quản giáo” bảo xếp hàng để đi tắm.

Làm như thế người Âu Châu lẫn người Mỹ chánh yếu muốn thảm cảnh trần gian diệt chủng đừng tái diễn trong hiện tại và tương lai nữa. Làm thế là để giúp cho đàn hậu tấn có những thông tin, những dữ kiện đầy đủ để biết rõ một lãnh tụ độc tài bịnh hoạn như Hitler, một ý thức hệ phi nhân như Đức Quốc xã đã giết người hàng loạt, giết hàng triệu lương dân chết oan uổng. Để từ đó đàn hậu tấn thấy có nhiệm vụ ngăn chận thảm cảnh trần gian, tránh sai lầm của chế độ.

Thì tại sao thế hệ trẻ Việt ở Hải ngoại, nhất là ở Mỹ không có bổn phận nhớ, thế hệ lớn tuổi không nhiệm nói. Rằng phụ huynh mình, gần 300.000 quân dân cán chánh VN Cộng Hòa, do Ủy Ban Quân Quản của CS Hà Nội gọi trình diện “học tập cải tạo” trong vòng một tháng để bị đày đi tù biệt xứ và lao động khổ sai hàng chục năm mà không có xét xử.

Rằng Ô. Hồ Chí Minh và Đảng CSVN đã gây vô vàn đau thương, tang tóc, máu đổ thịt rơi, mồ hôi nước mắt cho hàng triệu đồng bào Việt suốt nửa thế kỷ. Theo cuốn “Hắc Thư về Cộng sản” của nhà sử học Stephane Courtois, tội ác giết người của Cộng sản Đệ Tam tính ra hàng trăm triệu. Và Ô. Hồ chí Minh trong thành tích diệt chủng Việt, tính ra còn cao hơn Paul Pot, Mao Trạch Đông và Staline cộng lại nữa. 1 triệu người Việt Miền Bắc phải di cư tỵ nạn CS vào Nam năm 1954. Gần 4 triệu tỵ nạn CS ra khỏi nước, trong đó 1 triệu dùng thuyền nan vượt đại dương đến bến bờ và nửa triệu làm mồi cho cá.

Cả thế giới bàng hoàng, lương tâm Nhân Loại chấn động, Con Người chánh trực đồng cảm, thương tâm. Toàn dân Việt rúng động. Thảm kịch này chưa xảy ra lần nào trong lịch sử nước nhà VN. Chưa xảy ra suốt ba lần Bắc Thuộc, một lần Pháp Thuộc. Và cũng chưa thấy lần nào trong lịch sử thế giới với qui mô lớn như vậy. CS Nga, Tàu, Đông Âu, Cuba, không có nước nào làm cho dân phải vượt biên tỵ nạn CS đông như vậy.

Lớp trẻ có bổn phận nhớ nếu không có những thân nhân là quân dân cán chính VNCH dẫn theo trên đường tỵ nạn CS và định cư ở Mỹ, thì dù đậu tiến sĩ đôi ba bằng nếu không có gia đình là quân dân cán chính VN Cộng hoà, không phải là con cháu HO, con cháu thuyền nhân cũng không thể được ở lại Mỹ, được hưởng nhiều cơ hội tiến thân trăm lần hơn những bạn đồng trang lứa còn kẹt sống trong chế độ CSVN.

Thế mà gần đây CS Hà Nội và một số nhà chánh trị thiên tả, thực dụng và lợi dụng và một số tài phiệt siêu quốc gia ở Mỹ, lớn tiếng kêu gọi bỏ quá khứ ra phía sau và hướng về tương lai phía trước. Những người đó vì quyền lợi riêng tư, phe đảng đã tung hỏa mù. Một mặt để thế hệ trẻ Mỹ Việt xem thảm cảnh diệt chủng của CS ở VN suốt nửa thế kỷ như không có. Mặt khác chụp mũ “quá khích” cho những người nhớ bài học lịch sử đau thương nhứt của người Việt với nhãn hiệu “nặng quá khứ nên quá khích” với CSVN.

Âu Châu là căn cứ địa lâu đời của văn minh Tây Phương. Lịch sử Âu châu dài cả chục lần hơn lịch sử Mỹ. Người Âu Châu vì thế có nhiều kinh nghiệm đau thương với độc tài dưới mọi hình thức và với ý thức hệ phi nhân hơn người Mỹ. Giáo quyền độc tôn trên thế quyền thời Trung Cổ Đen Tối; Đức Quốc Xã; Cộng sản chủ nghĩa thời cách mạng kỹ nghệ đều xuất phát từ Âu Châu. Nên người Âu Châu chú trọng bài học lịch sử hơn. Người đi trước cảm thấy có nhiệm vụ truyền đạt kinh nghiệm đau thương cho lớp trẻ. Còn lớp trẻ cũng nhận thấy có “ bổn phận phải nhớ” (devoir de mémoire) để ngăn chận lịch sử đen tối đừng tái diễn.

Người Việt Nam ở sát nước Tàu khổng lồ coi mình là Thiên Tử Con Trời, coi các nước xung quanh là nhược tiểu, man di, dị tộc hễ có dịp là xâm lăng, thôn tính, nên người Việt có kinh nghiệm lịch sử đau khổ còn hơn người Âu Châu nữa. Nên người Việt coi ôn cố tri tân là bổn phận. Kinh nghiệm đau thương nhứt và gần đây nhứt là kinh nghiệm CS độc tài, đảng trị toàn diện, đoạ đày nhân dân, suy sụp đất nước.

Do vậy nhiều người lớn tuổi cảm thấy rất ấm lòng khi dầm mưa dãi nắng, chịu nóng, chịu lạnh, tham dự các cuộc biểu tình chống CS. Ngày Quốc Hận người Việt không tiếc thì giờ và tiền bạc, chuẩn bị cả tháng trước trong việc tổ chức cả một chuỗi sinh hoạt cộng đồng, đoàn thể, tôn giáo tưởng nhớ Quốc Hận 30 tháng Tư. Không phải mới làm đây, mà làm suốt bốn mươi mấy năm rồi, làm liên tục và còn làm nữa vì đó là tình liên đới của các thế hệ, bài học ôn cố tri tân của Con Người trong dòng lịch sử./.

Vi Anh

http://www.diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=19934:vi-anh–quc-hn-nm-th-44&catid=51:tac-gia-vi-anh&Itemid=9

 

 

Cái chết của một người Việt tên Nam! – Fb Miennamvietnam

Tôi bắt đầu tháng 4 năm nay, khuya 31/3 – 1/4, bằng giấc ngủ chập chờn. Suốt đêm là như thế ! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt một người đàn ông với hai hàng nước mắt !

Người đàn ông đó là thiếu tướng Nguyễn khoa Nam!

Những ngày này, 44 năm xưa, trong khi phân nửa lãnh thổ “di tản”, chiến trường vùng 3 đang sôi động thì “Quân đoàn – Quân khu 4 chưa mất một tấc đất, quân số và vũ khí vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta cứ bình tĩnh chiến đấu, không phải chạy đi đâu cả”, đó là những tuyên bố, nhắc nhở của tướng Nam trong các buổi họp tham mưu.

Hai tháng cuối cùng của VNCH, biết bao nhiêu là hình ảnh tang thương, uất hận đã làm ứa máu trái tim, đứt đoạn lòng người, qua những bài viết, lời kể của các chứng nhân: những người lính, người dân có cơ may rời nước đến được bến “tự do”, những người trở về từ trại tập trung, trở về từ cõi chết … vv Tôi đã thấy, như trước mắt, diễn tiến các cuộc tự sát tập thể của lính mũ xanh, mũ đỏ hay những giây phút cuối cùng của quân nhân các cấp, các binh chủng trên đường lui quân, trong ngày mất nước…

Đó là những hình ảnh làm nước sôi, đá mềm, ngạ quỷ còn phải nhắm mắt, Chúa Phật còn phải thở dài.

Nhưng không biết sao, cái hình ảnh luôn đi về trong tôi, từ gần 20 năm nay, lại là những giọt nước mắt âm thầm của tướng Nguyễn Khoa Nam, trong chiều 30/4 và sáng 1/5, vài mươi phút, trước khi tự sát !

Trung úy Lê Ngọc Danh, tùy viên tướng Nam, thuật lại trong quyển “Nguyễn Khoa Nam” (Hội phát huy văn hóa Việt Nam, 2001).

Chiều 30/4/1975 ( bắt đầu từ 18h30 )

“….. Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:

– Vết thương của em đã lành chưa?

– Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu, chưa lành.

Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm thì anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:

– Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng.

– Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.

Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa ta nâng sửa cặp kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:

– Em cố gắng điều trị… có qua ở đây ….”

Sáng 1/5/1975 (khoảng 30 phút trước khi tướng Nam tự sát)

“ … Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra Đại Lộ Hòa Bình trước cửa cửa dinh, tôi đứng bên phải Tư Lệnh, anh Việt ( *) đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xe qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy…”.

(*) Trung úy Việt : sĩ quan liên lạc

Tối 30/4 , sau lệnh đầu hàng, trong khi nhiều “đại bàng” tìm cách thoát thân, thì tướng Nam là vị chỉ huy quân sự có cấp bậc cao nhất, có lực lượng hùng hậu nhất, (hơn cả quyền Tổng tham mưu trưởng QLVNCH: Chuẩn tướng nằm vùng Nguyễn Hữu (vô ?) Hạnh), lại bỏ ngày giờ đi thăm hết các thương binh, thể hiện tình “huynh đệ chi binh”, như môt câu trong bài hát của ns Anh Bằng: “… Sống chết có nhau là / huynh đệ chi binh ” !

Nói với người thương binh cụt hai chân: “Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em”. Ông Nam nói và ông Nam làm: ông đã ở lại, vĩnh viễn ở lại, “Người ở lại Tây Đô” không chỉ ở lại với Cần Thơ, với “các em” thương binh trong quân y viện Phan thanh Giản, mà còn ở lại trong lòng người dân Việt Nam Cộng Hòa. Mà không chỉ với người Cộng Hòa, theo như lời kể (2014) của “cựu” tù nhân CS, luật sư Lê Công Định.

“Vào ngày 1/5/1980, sau bữa ăn trưa, ba tôi ngồi uống trà và trò chuyện với các anh em chúng tôi về những ngày tháng Tư của 5 năm về trước. Ba tôi, người thuộc bên thắng cuộc phía miền Nam, đã tham gia chiến tranh vì mơ ước hòa bình và, cũng như nhiều người đương thời, ông đã vỡ mộng vài năm sau khi cuộc chiến kết thúc. Ông kể với lòng kính phục về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), vị danh tướng đã tuẫn tiết sau khi Sài Gòn thất thủ”.

Ông Định viết them:

“Trở lại câu chuyện ban đầu, hình ảnh về tướng Nguyễn Khoa Nam do ba tôi kể lại đã khiến tôi lao vào tìm hiểu nhiều hơn về các vị danh tướng VNCH khác, mà thật lòng tôi rất kính trọng, giống ba tôi. Đọc quyển sách “Chân dung các tướng ngụy Sài Gòn” được bên thắng cuộc in và tái bản nhiều lần sau 1975 nhằm mục đích bôi nhọ quân đội và tướng lĩnh của bên thua cuộc, tôi không khỏi bật cười với ý nghĩ rằng chân dung tồi tệ mà tác giả muốn phác họa cho các tướng VNCH thật ra thích hợp và xứng đáng dành cho những sĩ quan Quân Đội Nhân Dân VN thời bình ngày nay hơn. 

https://www.facebook.com/LSLeCongDi…/posts/1412420875698359… ) !

Ở đây, trong một vài buổi dạ tiệc, dạ vũ, với phần đầu chương trình “cùng (?) hát, cùng… chịu trận (!!!)”, thỉnh thoảng tôi lại nghe (!) câu hát “nước mắt đàn ông không rơi từng giọt / nước mắt đàn ông chôn sâu trong lòng…”, một câu tuy “cải lương” nhưng nghĩ lại cũng không sai .

Đàn ông rất ít ai khóc (trừ… ca sĩ Anh Khoa), nói gì đến “lính Dù lên điểm” Nguyễn khoa Nam, vào sinh ra tử hằng ngày, lon lá đều lên ở chiến trường (ngoài 5 năm “chịu trận” với chức vụ Đại Đội Trưởng Kỹ Thuật Nhảy Dù). 1961 – 1972 từ Đại úy trưởng ban 3 / TĐoàn 3 Dù lên đến Thiếu tướng Tư lệnh sư đoàn 7. Chưa nói Tướng Nam, qua ký ức những người tiếp cận, là một người ăn nói điềm đạm, ít khi biểu lộ tình cảm. Thế mà cuối cùng ông lại khóc trước mặt thuộc cấp ! Khóc những hai lần !

Hình dung buổi chiều ghê rợn ấy, buổi chiều 30/4, không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, khi đã có lệnh trên buông súng, khi đang ào ào kẻ chạy, người đi. Nhưng xe Tư Lệnh vẫn cắm cờ, hiên ngang, phom phom vào quân y viện. Hình dung buổi sáng 1/5, từ lầu cao tư dinh, 3 thầy trò im lặng đứng bên nhau nhìn ra Hòa Bình, cái đại lộ thường nhật ngựa xe như nước, bây giờ chỉ hớt hãi dăm bóng người qua. Rồi một người bật khóc, hai người khác khóc theo !

Đó là những người đàn ông, những người trai thời loạn, đã quen tiếng đạn bom, đã kề với cái chết. Thế mà bây giờ lại khóc. Sử sách chỉ ghi điều chánh yếu, không ghi chi tiết nhưng ai dám quả quyết rằng, trước khi tự sát, Hoàng Diệu không khóc, Võ Tánh không khóc, Phan thanh Giản không khóc…. Vv ? Khóc không vì sợ, không vì yếu lòng, “xưa nay chinh chiến mấy ai về”. Nước mắt này là nước mắt uất hận, tức tối, đau thương… Như muốn cắn lưỡi phun máu hỏi trời “Tại sao lại là như thế ?!”

Cũng những ngày này, 47 năm trước, 12/4/1972: Trung tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu đoàn trưởng 11 Dù, đã ở lại “Charlie”, sau 5 ngày quần thảo với 1 đối phương đông gấp 6 lần (2 trung đoàn bộ binh + 1 trung đoàn pháo) !

Ông Bảo là đàn em ông Nam. Cả hai ông đều ăn gạo sấy, uống bi-đông Nhảy-Dù từ lúc là sĩ quan mới ra trường lên đến cấp chỉ huy. Khi ông đại tá Nam nắm Lữ Đoàn 3 thì ông thiếu tá Bảo là một tiểu đoàn phó. Bây giờ “người ở lại Charlie”, “kẻ ngã xuống Cần Thơ”.

Charlie hay Cần Thơ đều bắt đầu bằng “C”, khác chăng một bên đồi cao, một bên thành phố !

Khóc anh Bảo, nhạc sĩ Trần thiện Thanh viết: “Nhớ anh trời làm cơn bão”. Cơn bão âm ỉ từ 72 biến thành hồng thủy, địa chấn 75: nước mất, nhà tan, với biết bao nhiêu là xác người Nam Việt: xác lính can trường, xác dân vô tội. Trong số những cái chết can trường, có cái chết tự sát của một người Việt tên Nam.

Tôi đã trãi qua (hầu như) trắng đêm 1/4/2019 ! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt cương ngh , oai nghiêm của một người đàn ông. Với hai hàng nước mắt !

Người đàn ông đó là Thiếu tướng tư lệnh vùng 4 Nguyễn khoa Nam ! Hai hàng nước mắt đó là những giọt lệ cuối đời ông. Một cuối đời đúng nghĩa. Bởi, chỉ vài mươi phút sau, ông đã kê súng bắn vào màng tang tự sát.

“Tư Lệnh thà chết chứ không bàn giao !”

https://www.facebook.com/groups/miennamvietnam/permalink/2405344916371729/

 

 

Ngày tàn của cuộc chiếnLê Nguyên Bình

(Trích Ðặc san Nguyễn Khoa Nam -Tiểu đề do tòa soạn đặt)  

LTS: Tác giả bài dưới đây, Ðại tá Lê Nguyên Bình, là một chiến hữu nguyên là sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ở phương vị này, Ðại tá Bình đã có dịp được chứng kiến nhiều sự kiện đã xảy ra trong và ngoài khuôn viên của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV trong ngày cuối cùng của cuộc chiến đấu cho tự do.  

Ðọc những lời tường thuật của một nhân chứng trong cuộc, và đặc biệt những lời tường thuật chưa hề được tiết lộ trên báo chí, người đọc, nhất là những cựu quân nhân chúng ta, không khỏi bồi hồi, xúc động nghĩ rằng chúng ta đã có những vị tướng, tá như thế mà đành phải thất trận, không cứu vãn nổi tự do thì âu cũng là tại lòng Trời còn muốn đày đọa dân Việt vậy.  

Những tràng đại liên chính xác từ bốn chiếc trực thăng võ trang thuộc Sư đoàn 4 Không quân đổ trên đầu toán tuần thám thuộc Trung đoàn Cộng Sản D1 miền Tây Nam Bộ, đang vượt kinh Thác Lác với ý đồ mở đường cho Trung đoàn này xâm nhập vòng đai Alpha bao quanh thị trấn Cần Thơ và phi trường Trà Nóc. Tiếng gào thét rợn trời, từng xác người tung lên khỏi mặt nước như xé tan bầu trời, sau đó trả lại cho màn đêm dần dần phủ kín lớp sông dài.  

Ðội hình hàng dọc các đơn vị thuộc Trung đoàn D1 được lệnh phân tán tại chỗ, chờ động tĩnh. Những bóng đen xì với những chiếc nón tre bọc lưới, ẩn hiện nhấp nhô như những bóng ma sau đám cây, những bụi chun bàu. Dưới sông, đám bèo tây vẫn lững lờ vô tình trôi, cuốn theo vài xác chết.  

Thời gian trôi qua khoảng chừng tàn một nén nhang, Thủ trưởng Trung đoàn ra lệnh toàn bộ vượt sông với hàng trăm ghe xuồng lớn nhỏ đã được bố trí từ buổi sáng. Tiếng đập của mái chèo khua nước dồn dập như cố thúc đẩy những con thuyền gia tăng tốc độ chóng qua bờ. Tiếng người xì xào nho nhỏ pha trộn hai giọng Bắc và Nam tạo nên nhưng âm thanh kỳ lạ, bí ẩn. Cuộc vượt sông tưởng như diễn tiến tốt đẹp.  

Ðột nhiên, những “coup départ” khai pháo từ phi trường Bình Thủy, từ Tiểu đoàn 21 Bộ binh ở Vị Thanh, từ các pháo đội địa phương Rạch Gỏi, Cầu Nhím, Phong Ðiền như xé bầu không khí nổ tới tấp theo tuyến vượt sông, dọc theo hai bờ kinh, mưa trên đầu các đơn vị từ tiền phong tới hậu tập.  

Tiếng người xô đẩy chạy ngược xuôi, khi hàng ngũ rối loạn. Cuộc tiến quân bất thành vì bị bại lộ. Trung đoàn D1 bị cắt làm hai, phải phân tán vào các thôn xóm lân cận hai bên bờ sông.  

Yên lặng lại trở về trong màn đêm cho miền Tây hiền hòa. Bấy giờ là vào khoảng thượng tuần tháng Tư năm 1975.

Tôi ngồi trước bản đồ Quân khu IV. Màu đỏ chỉ những vị trí của Việt Cộng, tạo thành một vòng đai bao quanh các thị trấn Quân khu 4. Ðúng theo nghị quyết số 14 của Trung Ương Cục Miền Nam, Cộng Sản bỏ nông thôn tiến về thành thị theo kế hoạch thanh toán toàn miền Nam theo chỉ thị của Trung Ương Ðảng Cộng Sản. Màu xanh trên bản đồ chỉ những vị trí của các đơn vị bạn được tái phối trí chặt chẽ hơn. Sư đoàn 21 phụ trách việc bảo vệ vòng đai Alpha, từ phi trường Bình Thủy tiếp nối liên tỉnh lộ Cần Thơ Chương Thiện. Sư đoàn 9 trải quân trấn giữ con lộ huyết mạch của Quân đoàn 4, từ phà Mỹ Thuận đến ngã ba Trung Lương. Sư đoàn 7 Bộ binh, đơn vị lừng danh của QLVNCH đã từng xóa bỏ Sư đoàn 5 và 9 của cộng sản giữ ải địa đầu của Quân khu 4, đoạn vòng cung từ Chợ Thày Yên, Bến Tranh đến ranh tỉnh Long An.  

Lập căn cứ ở Quân khu 4?

Trong thời gian này, tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân khu 4 và Quân đoàn 4 đã đặt nỗ lực vào việc xây cất nhiều địa ốc thật kiên cố, chuẩn bị cho Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Lực và các đơn vị bạn, khi cần, có thể rút về giữ tuyến cuối cùng bảo vệ đất nước. Tình hình chung lúc ấy là, sau cuộc rút lui của Quân khu 2, kế tiếp là Quân khu 1, vòng đai của Quân khu 3 bảo vệ Thủ đô Sài Gòn dần dần bị thu hẹp. Vì những rối loạn chính trị đương thời tại thủ đô, vì Quân khu 3 thiếu yếu tố địa thế hiểm trở, chắc chắn việc tử thủ tại thủ đô sẽ gây ra nhiều tổn thất cho quân lực và dân chúng. Tôi liên tưởng tới sự thành công của cuộc phòng thủ Quân khu 4, mảnh đất cuối cùng của đất nước.

Với vị trí thiên nhiên của sông Tiền Giang cắt ngang miền Nam, với địa thế sình lầy của vùng Ðồng Tháp có thể làm giảm thiểu tốc độ chuyển quân của địch, sự di chuyển của chiến xa và trọng pháo sẽ bị trở ngại. Với sự tồn tại của toàn bộ các thị trấn, chưa nơi nào lọt vào tay địch; với các căn cứ Không quân và Hải quân vẫn còn nguyên vẹn dùng làm căn cứ cho các lực lượng liên hệ từ các quân khu khác rút về. Với ba Sư đoàn Bộ binh, cộng thêm gần nửa triệu Ðịa phương và Nghĩa quân, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chống cự một thời gian chờ cơn sốt chánh trị gây rối loạn và hoang mang trong hàng ngũ qua đi, chúng ta sẽ tìm thế phản công trong tương lai, chiếm lại phần đất nước đã bị mất. Tôi nghĩ đến gương của nước người, nước Trung Hoa vĩ đại của Tưởng Giới Thạch với hàng triệu binh sĩ, đã không đánh mà tan, phải bỏ chạy trước đạo quân của Mao Trạch Ðông. Ðến khi tàn quân chạy ra Ðài Loan, một mảnh đất nhỏ bé, họ Tưởng đã tổ chức lại hàng ngũ, đẩy lui bao nhiêu cuộc tiến công của cộng sản, rồi tổ chức được một xã hội bền vững đến bây giờ.  

Tôi nghĩ lại nước Việt Nam thân yêu rồi sẽ đi về đâu. Tưởng Giới Thạch còn có Ðài Loan, mình thì có gì? Phú Quốc? Hòn đảo này quá nhỏ và quá gần đất liền, không bảo toàn được. Tôi nghĩ đến giải đất vùng biên giới Việt Miên, bao gồm các khu vực có giáo dân Hòa Hảo sinh sống, có dẫy Thất Sơn, có căn cứ an toàn, có ba, bốn ngàn hang động hiểm trở thành những phòng tuyến kiên cố chống giữ các cuộc tiến công từ biên giới sang thì việc phòng thủ Quân khu 4 sẽ lâu bền hơn. Tôi mang ý kiến ra bàn với vị Tư lệnh Quân đoàn, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam thì được sự tán thành của ông ngay. Nhưng rủi thay, việc hợp tác với giáo dân Hòa Hảo đã gặp trở ngại ngay từ bước đầu vì trước đó Thiếu tướng Nam đã có lần nhận chỉ thị của Tổng thống Thiệu để giải giới lực lượng Hòa Hảo Huỳnh Trung Hiếu và bắt giữ ông Hai Tập nên đã gây ra sự nghi kỵ và hiềm thù trong lòng những người bạn Hòa Hảo.

Khoảng trung tuần tháng Tư năm 1975, Thiếu tướng Nam cùng tôi qua Mỹ Tho họp với các Tư lệnh Sư đoàn các Tỉnh trưởng miền Hậu Giang để thảo luận về kế hoạch ngăn chặn hoạt động của Cộng sản gây ảnh hưởng với tình hình an ninh Quân khu 4, Tướng Ngô Quang Trưởng từ Bộ Tổng Tham Mưu xuống tham dự buổi họp. Trong buổi họp, tôi có trình bầy tường tận về nghị quyết “Tổng tấn công, Tổng khởi nghĩa” để đi đến dứt điểm chiến trường của Cộng Sản. Một số sĩ quan tham dự buổi họp tỏ vẻ hoài nghi về khả năng của Cộng sản để thực hiện nghị quyết ấy ở miền Tây. Vào cuối tháng Tư, tại các vùng khác quân ta phải triệt thoái liên miên; riêng Vùng 4, cho đến ngày cuối cùng vẫn giữ được sự toàn vẹn lãnh thổ. Cuộc phòng thủ Bộ Chỉ Huy cuối cùng của quân đội vẫn được ráo riết thực hiện. Các đà sắt làm cầu được xuất kho để hoàn thành những nhà hầm kiên cố, có thiết trí hệ thống truyền tin, chuẩn bị đoán tiếp Bộ Tổng Tham Mưu nếu Sài Gòn thất thủ.  

Chiều 26 tháng Tư, Thiếu tướng Nam cho lệnh họp các sĩ quan của Bộ Tổng Tham Mưu và các đơn vị trưởng thuộc Quân đoàn 4 tại Trung tâm Hành quân. Họp xong, ông yêu cầu tôi lấy cuốn phim tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng chiếu cho mọi người xem. Ðó là cuốn phim “Chiến thắng Hạ Lào” liên quan đến cuộc hành quân Lam Sơn 719 của quân đội ta. Tôi còn nhớ khi phim chiếu cảnh bọn Việt Cộng dẫn giải những chiến sĩ QLVNCH bị chúng bắt, những khuôn mặt quen thuộc hiện ra trên màn ảnh làm rung động sự cảm xúc của mọi người. Ðại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ đoàn trưởng 3 Nhảy dù hiện thoáng qua; anh bị thương phải chống gậy. Anh vẫn mặc bộ quân phục Dù, ốm hẳn đi nhưng khuôn mặt vẫn còn nét rắn rỏi. Theo sát anh là một tên Việt Cộng bé con, mặt còn non, hờm khẩu AK như chực nhả đạn. Hình ảnh này làm máu tôi sôi lên trong huyết quản. Tôi liếc nhìn Thiếu tướng Nam, ngồi bên cạnh, ông cũng nhìn lại tôi với cặp mắt buồn. Tôi biết rằng ông còn xúc động hơn tôi vì ông nguyên là Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù trước khi nhận lãnh chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh. Ông khẽ bảo tôi: “Nếu đời mình như thế là hết!”  

Ngày hôm sau, để nhận định thêm tình hình, tôi qua thăm Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 12 thuộc Sư đoàn 7, đóng tại Tân Lý Tây, quận Bến Tranh. Tôi gặp Ðại tá Ðặng Phương Thanh, Trung đoàn trưởng, cho biết tình hình trận chiến. Anh nhận định trung đoàn của anh đủ khả năng đối đầu với Sư đoàn Công trường 5 Cộng Sản đang dàn quân trước trận tuyến của anh. Anh đưa tôi đi xem chiến địa, nơi vừa xảy ra giao tranh ngày hôm qua. Xác địch còn nằm ngổn ngang trên các bờ bụi. Nhìn anh Thanh với dáng đi lầm lũi, chắc nịch, tôi cảm thấy anh là sĩ quan sẽ không hề lùi bước trước địch. Tốt nghiệp Khóa 16 Võ Bị Ðà Lạt, suốt thời gian trong quân ngũ, anh luôn có mặt tại đơn vị chiến đấu và mới được thăng cấp Ðại tá vào hôm trước. Sau này, tôi được biết anh đã lựa chọn thà tự sát còn hơn đầu hàng địch.

Chúng ta là quân nhân…

Thời gian lặng lẽ trôi, bi thảm dần dần tới. Lúc đó vào khoảng tối 28 tháng Tư 1975, tiếng nói của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu vang lên từ Ðài phát thanh Sài Gòn yêu cầu toàn bộ Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ và Cơ Quan D.A.O. rút ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Lời yêu cầu trên được lập lại nhiều lần như xoáy vào tim óc, như nổ trong lồng ngực. Thế là hết! Họ đã âm mưu bỏ chúng ta thực sự rồi. Thành tích bao nhiêu năm chiến đấu đã tan thành mây khói. Ðêm đó và sáng hôm sau, quang cảnh thị xã Cần Thơ nhộn nhịp hẳn. Các loại xe ba bánh chở đồ từ các cơ sở Mỹ chạy ngược xuôi. Những trực thăng Air America không ngừng lên xuống các tàu nhỏ nhưng nhiều mã lực của Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ rời bến trực chỉ hướng Ðại Ngãi, đem theo toàn bộ người Hoa Kỳ và nhiều người Việt làm việc với họ.

Cảm nghĩ của tôi lúc đó là tôi không nuối tiếc sự ra đi của người Mỹ; vì dù họ có ở lại cũng không đóng góp được gì cho công cuộc chống Cộng của chúng ta. Nhưng sự ra đi của họ, trong bối cảnh bấy giờ đã trở thành một đoàn cân não trí mạng, đánh mạnh vào tâm trạng hoang mang của toàn thể nhân dân Việt Nam và làm suy yếu hẳn sự kháng cự cộng sản của QLVNCH.  

Trọn ngày 29, tôi có dịp gặp Thiếu tướng Nam nhiều lần nhưng chỉ bàn qua về tình hình có ảnh hưởng trực tiếp đến Quân khu 4 mà thôi. Nhìn ông trầm tư, tôi không nhắc tới chuyện thiết lập mật khu vì tôi biết ông cũng cảm thông với những gì tôi muốn nói.  

Chiều hôm đó, khi đi qua sân Bộ Tư Lệnh trở về phòng làm việc, tôi có gặp Chuẩn tướng Tham mưu trưởng Quân khu 4. Ðây là lần cuối tôi gặp ông vì nửa đêm hôm đó, tôi bắt được nghị quyết số 15 của cộng sản đề cập đến việc chuẩn bị tiếp thu các thành phố, đến kế hoạch thâm độc nhắm tiêu diệt những quân nhân và cán bộ quốc gia một khi chúng nắm được quyền hành.  

Sáng sớm ngày 30 tháng Tư, không khí Bộ tư lệnh Quân khu 4 có vẻ khẩn trương vì sự ra đi của Chuẩn tướng TMT và một số sĩ quan trong đêm trước. Tiếp theo đó, qua đài phát thanh Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh toàn bộ QLVNCH buông súng đầu hàng địch và chuẩn bị bàn giao căn cứ cho chúng. Mọi người đều rúng động; không khí căng thẳng đến cực độ. Sự thật quá phũ phàng. Trước đó, có người còn hy vọng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống để sửa soạn một giải pháp trung lập, hòa giải chứ đâu có ngờ ông ta lên làm Tổng thống để đầu hàng địch.

Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh được chỉ định thay thế Chuẩn tướng TMT để triệu tập tất cả sĩ quan có mặt tại Bộ tư lệnh và các đơn vị trực thuộc và vị Tỉnh trưởng Cần Thơ tại Trung tâm Hành Quân để Thiếu tướng Nam nói chuyện.

10 giờ 30 sáng, Thiếu tướng bước vào Hội trường, mọi người nghiêm chỉnh đứng lên chào. Ông từ từ tiến lên bục cao, xoay mình đối diện với các sĩ quan trực thuộc, khuôn mặt vẫn đầy cương nghị nhưng ánh mắt thật buồn.

“Các sĩ quan thân mến”, ông nói, “Như anh em đều biết, đất nước chúng ta đang rẽ vào khúc quanh quan trọng nhất của lịch sử. Chúng ta là quân nhân thì phải tuyệt đối tuân lệnh chánh phủ. vậy tôi để các anh lát nữa trở về đơn vị, tùy tiện sắp xếp công việc để bàn giao cho họ. Về phần tôi, mặc dù có sẵn trực thăng, tôi sẽ không đi đâu hết”.

Nói xong, ông rời phòng hội để về văn phòng ông. Tôi đẩy cửa bước theo để được nói chuyện với ông lần cuối: “Ông Tướng ơi, ông đành chịu vậy sao?” Tôi vẫn xưng hô kiểu đó khi chuyện vãn chỉ có ông và tôi. Ông cười buồn: “Biết làm sao được bây giờ hả anh.” Rồi ông im lặng hút thuốc, thở khói nhè nhẹ, vẻ mặt đăm chiêu. Trước mặt ông là cái gạt tàn thuốc lá khổng lồ đầy ắp, chắc đêm qua ông đã thức trắng đêm. Trong thâm tâm, tôi muốn đề nghị với ông cùng tìm cách thoát hiểm nhưng tôi không mở lời được vì biết ông sẽ từ chối.

Một lúc sau, tôi đứng thẳng người, kính cẩn chào cấp chỉ huy lần cuối rồi quay trở về phòng.

Bấy giờ, tôi còn nhớ rõ, Trung uý Danh, Sĩ quan Tùy viên của Thiếu tướng Nam chạy theo, gọi tôi nhờ chỉ dẫn cách sử dụng khẩu súng lục màu xanh biếc mà Thiếu tướng vừa cho anh vào buổi sáng. Tôi không hiểu ông đã cho sĩ quan tùy viên khẩu súng xinh xắn để làm gì?

Tôi âm thầm đếm bước chân trên lối đi dẫn về phòng tôi ở. Tôi liên tưởng ngày mai đây, cũng trên những bước đi này, bàn chân kẻ thù cũng sẽ bước chồng lên dấu chân tôi. Cuộc chiến này đã kéo dài trong bao năm trường, không ngờ lại tàn nhanh đến thế. Lòng tôi đầy bi phẫn. Mặc dù tôi không có cách gì để kháng cự địch nữa nhưng tôi không cam lòng đầu hàng chúng. Suy nghĩ mãi, tôi thấy mình phải tìm cách thoát hiểm, dù bỏ mạng trên đường thoát hiểm cũng đành. Ý nghĩ này làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi nhảy lên xe jep, lái ngang qua Tiểu khu Cần Thơ gặp Ðại tá Huỳnh Ngọc Diệp, một sĩ quan trừ bị bạn đồng khóa với Thiếu tướng Nam, để tìm phương thoát hiểm. Tôi trình bầy với anh về nghị quyết 15 của cộng sản và những tủi nhục và chúng sẽ dành cho mình khi chúng chiếm được phần đất này. Tôi đề nghị anh cùng tìm cách thoát hiểm. Ban đầu anh từ chối lời đề nghị, nhất quyết tử thủ. Nhưng sau tôi thành công trong sự thuyết phục anh và chúng tôi tìm phương tiện di chuyển.

Chúng tôi rời bến Cần Thơ vào chiều ngày 30 tháng Tư 1975 trên một con đò máy chật hẹp, hướng ra cửa biển. Cuộc hành trình đầy cam go, tổn thất đã đánh dấu sự chấm dứt binh nghiệp của chúng tôi, trong sự tủi nhục, ê chề. Trên đường vượt thoát, được tin Thiếu tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng và một số bạn hữu đã tự sát hoặc bị cầm tù, tôi đã nhắm nghiền cặp mắt để nén lệ trào ra, lòng ngậm ngùi nhớ đến những khuôn mặt thân yêu đó mà trọn đời tôi sẽ không bao giờ quên…

https://dongsongcu.wordpress.com/2018/05/14/hoi-ky-ngay-tan-cua-cuoc-chien/

 

Đọc đỡ buồn

Một năm thời thập niên 70, Đảng Cộng sản Liên Xô công bố một cuộc thi tạc tượng nhân dịp kỷ niệm ngày sinh nhà văn Pushkin. Giải ba thuộc về một tượng Pushkin đang ngồi đọc sách. Giải nhì thuộc về một tượng nhà cách mạng Lenin đang ngồi đọc một cuốn sách của Pushkin. Giải nhất được hoành tráng trao cho một tượng Pushkin đang ngồi chăm chú đọc một cuốn sách của Lenin. Có lạ chi mô?

Ừ thì chỉ là… ông Pushkin qua đời 33 năm trước khi ông Lenin ra đời.

 

“Một ông cha đạo chết và lên thiên đường. Ông được hỏi có ước nguyện gì trước khi vào thiên đường không. Ông bèn nói là ông muốn được đi tham quan địa ngục một chuyến. Thế là ông được đưa xuống một trong những hang địa ngục sâu nhất dành riêng cho những con người cực kỳ độc ác. Tại đó ông thấy một cái hồ đầy phân đang sôi sùng sục.

Trong hồ có Hitler và Stalin đang đứng. Trên mặt hồ, Stalin lộ phần thân từ thắt lưng trở lên, còn Hitler thì chỉ lộ có nửa mặt tính từ mũi.

“Thật quá quắt,” vị cha đạo nói. “Sao Hitler lại bị phạt nặng hơn Stalin? Tôi đã chịu khổ đau dưới cả hai và Stalin cũng ác như Hitler vậy thôi.”

Ông hướng dẫn viên bèn giải thích: “Cha không hiểu rồi, Stalin đang đứng trên vai Lenin đó.”

 

“Một cậu học sinh đang thi kiểm tra vấn đáp về lịch sử Xô Viết. Đang trả lời tốt thì ông giáo sư hỏi:

“Cách mạng Bolshevik diễn ra năm nào? – “Em không biết” – “Rồi, thế ai viết Tư Bản Luận?” – “Không rõ” “Đồng chí Lenin là ai?” – “Em chưa nghe tên người này bao giờ,” cậu học sinh trả lời không bối rối. “Này cậu trai trẻ, cậu phải trả lời được câu này: Đồng chí Brezhnev là ai?”

“Br-, Br- gì cơ?” “Nghe này, cậu từ đâu đến hả”

“Em đến từ làng Petrovka ở Siberia.”

Vị giáo sư mặt chợt đầy suy tư, lẩm bẩm “Petrovka, Petrovka… Nghe cứ như tên một chốn thiên đường ấy nhỉ!””

 

 

Tháng Tư Đen và gương anh hùng của Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn – Trần văn Tài

Dân Mỹ từng chai mặt vô cảm với bức ảnh “The Execution” này đối với tù nhân chiến tranh Hồ Ngọc Cẩn 

Đại-tá Hồ Ngọc-Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần-thơ. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc-gia Việt-Nam. Thủa nhỏ ông rất khỏe mạnh, tính tình hiền hậu, giản dị, trầm tư, và ít nói. Khi ông bắt đầu đi học (1945) thì chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn, và mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu-Sinh-Quân (TSQ). Hồ Ngọc Cẩn được thu nhận vào lớp nhì trường TSQ đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương trình Pháp. Ông đỗ Tiểu Học năm 1952. Cuối năm 1952, trường TSQ đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia-Định về Mỹ-Tho. Hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954,.Ngày 19 tháng 8 năm 1954 trường TSQ đệ tam quân khu di chuyển từ Hà-nội vào và sát nhập với trường TSQ đệ nhất quân khu ở Mỹ-Tho. Niên học 1954-1955, trường TSQ đệ nhất quân quân khu bắt đầu dạy chương trình Việt và chỉ mở tới lớp đệ ngũ.

Hồ Ngọc- Cẩn học xuất sắc về môn Việt-văn; trong các kỳ luận văn bài của Hồ Ngọc Cẩn thường được tuyển chọn là bài xuất sắc và đọc cho cả lớp nghe. Hồ Ngọc Cẩn rất thích thơ văn, cho nên Ông bắt đầu làm thơ từ thời gian mộng mơ này.

Năm 1955-1956, Hồ Ngọc Cẩn được gửi lên học tại Liên Trường Võ Khoa Thủ-đức về vũ khí. Sau ba tháng, Ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó,Ông đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu nhập ngủ vào quân đội với cấp bậc Binh Nhì.

Quy chế dành cho các TSQ Việt-Nam Cộng Hòa thời ấy như sau: một học sinh ra trường với ba tháng đầu với cấp bậc Binh Nhì, ba tháng sau với cấp bậc Hạ Sĩ, ba tháng sau thăng Hạ Sĩ Nhất, và ba tháng sau nữa thăng Trung Sĩ. Chín tháng sau Hồ Ngọc Cẩn là Trung Sĩ huấn luyện viên về vũ khí.

Từ năm 1957 bọn Bắc cộng bắt đầu cướp phá Dân Quân Việt Nam Cộng Hòa; bọn chúng giết hại dân lành và đánh phá quân đội. Để có đủ sức mạnh bảo vệ lảnh thổ và dân chúng, Quân Đội VNCH cần phải có nhiều đơn vi thiện chiến và nhiều sĩ quan, cho nên Bộ Quốc-Phòng VNCH cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được nhập học trường sĩ quan, tất cả các Hạ Sĩ Quan có trên năm năm công vụ và có bằng Trung-học đệ nhất cấp. Với sự nâng đỡ đặc biệt của Đại Tướng Lê Văn-Tỵ Tổng Tham Mưu Trưởng, cựu Thiếu Sinh Quân; các Hạ Sĩ Quan xuất thân từ trường TSQ có thâm niên công vụ đều được nhập học trường sĩ quạn. Với sự nâng đỡ đặc biệt này, đất nước VNCH có rất nhiều sĩ quan anh dũng trên chiến trường, gương mẩu, và anh hùng trong Quân Đội VNCH.

Hồ Ngọc-Cẩn tốt nghiệp khóa 2 sĩ quan đặc biệt với cấp bậc Chuẩn Úy. Sau khi ra trường, Chuẩn Úy Hồ Ngọc-Cẩn theo học một khóa huấn luyện Biệt Động Quân với chức vụ Trung Đội Trưởng và về phục vụ tại Khu 42 chiến thuật gồm các tỉnh Cần-Thơ (Phong-Dinh), Chương-Thiện, Sóc-Trăng (Ba-Xuyên), Bặc-Liêu, Cà-Mau (An-Xuyên). Tiểu đoàn Chuẩn Úy Hồ Ngọc Cẩn phục vụ là Tiểu đoàn 42 BĐQ đóng tại Bặc-liêu, được tặng danh hiệu là tiểu đoàn Cọp Ba Đầu Rằn. Tiểu đoàn mang số 44 đóng tại Ba-xuyên, được tặng danh hiệu là Cọp Xám U Minh Hạ. Ông nói về sự chiến đấu hữu hiệu của Quân Đội VNCH như sau:

“Lương bổng cho người lính VNCH chỉ gọi là tạm đủ ăn, doanh trại đơn sơ, và trang bị thiếu thốn; nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử.”

Sau cuộc hành quân tiêu diệt tiểu đoàn cơ động Sóc Trăng địch, Trung Úy Hồ Ngọc Cẩn được thăng cấp Đại Úy. Cuối năm 1966, Đại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42 BĐQ, được giao phó nhiệm vụ mới: Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 33 Sư Đoàn 21. Việc đầu tiên của Đại úy Hồ Ngọc Cẩn khi làm Tiểu Đoàn Trưởng là xin Tư Lệnh Sư Đoàn cho tất cả các sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường TSQ về chiến đấu cùng với mình để truyền lại kinh nghiệm chiến trường mà tại quân trường không đi vào chi tiết; hơn nữa, truyền thống của TSQ khi ra trận thà chết chứ không lùi. Đại úy Hồ Ngọc Cẩn đã được thỏa mãn một phần yêu cầu.

Suốt năm 1967, Tiểu Đoàn Trưởng Hồ Ngọc Cẩn với tiểu đoàn 1/33 Sư Đoàn 21 tung hoành trên khắp lãnh thổ miền Hậu-giang: Đại-ngãi, Tắc-Vân, Kiên-Hưng, Thác-Lác, và Cờ-Đỏ. Sau trận tổng công kích Tết Mậu-Thân, Đại Úy Hồ Ngọc Cẩn được thăng cấp Thiếu Tá. Năm 1968,

Thiếu Tá Hồ Ngọc Cẩn là người có nhiều huy chương nhất trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa gồm

– 1 Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 

– 25 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu, 

– 45 Anh Dũng Bội Tinh với các loại Ngôi Sao, 

– 3 Chiến Thương Bội Tinh và 

– 4 Huy Chương Hoa Kỳ.

Năm 1970, Thiếu Tá Hồ Ngọc Cẩn được thăng cấp Trung Tá, Ông rời Tiểu Đoàn 1/33 Sư Đoàn 21 nhận nhiệm vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 15 Sư Đoàn 9.

Năm 1972, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn được lệnh di chuyển Trung Đoàn 15 từ miền Tây lên giải tỏa An-Lộc.

Cuối năm 1973, Trung Tá Hồ Ngọc Cẩn được thăng cấp Đại Tá và trở về chiến trường sình lầy với chức vụ Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Chương-Thiện, Vị Tỉnh Trưởng trẻ tuổi nhất của nước Việt Nam Cộng Hòa lúc ông mới có 35 tuổi. Khác với các vị Tỉnh Trưởng, Ông nói: “Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua, gối chưa mỏi, và kinh nghiệm vẫn chưa đầy đủ. Chỉ huy Trung Đoàn là được rồi.”

ĐạiTá Hồ Ngọc Cẩn đã đóng góp rất rất nhiều công lao trong công cuộc bảo vệ lảnh thổ nước Việt Nam Cộng Hòa. Suốt một đời người đã tận tụy hy sinh với nước non, Ông luôn luôn đảm nhận những chức vụ khó khăn nhưng lúc nào cũng khiêm nhường hết mực, giữ cuộc sống trong sáng và thanh liêm, và tâm tư lúc nào cũng hướng về những thế hệ đàn em. Mặc dù danh tiếng của Ông rất lừng lẫy nhưng Ông luôn dùng lời khiêm tốn và hết sức chân thành, Ông nói: “Làm Tỉnh Trưởng một vài năm, tôi phải ra đi để có chỗ tiến thân cho đàn em. Bấy giờ tôi xin về trường TSQ phụ trách các lớp huấn luyện Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, và đem những kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh mà tôi trải qua.”

Ôi cao cả biết mấy! Một tấm chân tình với nước với non với thế hệ chiến binh đàn em của Người.

Bất hạnh thay !.Ước muốn đó chưa thành sự thật… Ngày ma quỉ lại đến.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Thủ Đô Sài Gòn vào lúc 9 giờ bảy phút sáng; Dương Văn-Minh, quyền Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa, đã khiếp nhược đọc lệnh đầu hàng. Nhưng, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Chương-Thiện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn cương quyết giữ vững lòng yêu nước Việt Nam Cộng Hòa, giữ gìn từng tấc đất thân yêu của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa cho đến viên đạn cuối cùng. Tiểu Khu Chương-Thiện hưởng thêm hơn 15 giờ tự do. Bọn ác quỉ cộng-quân, tay sai Tàu Cộng, tấn công Tiểu Khu Chương Thiện và đã bị tổn thất rất nhiều do sự chống trả của lực lượng Hồ Ngọc Cẩn. Nhưng cuối cùng Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Chương-Thiện Hồ Ngọc Cẩn bị bọn ác quỉ cộng-quân bắt. Toàn thể Dân Quân Việt Nam Cộng Hòa đều khóc cho vị anh hùng dân tộc.

Bọn cướp Bắc cộng để Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lên một chiếc xe mui trần, chở đi khắp thành phố Chương-thiện cho dân chúng xem để làm nhục Ông. Ngồi trên xe, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn thản nhiên mỉm cười, vẫy tay chào dân chúng. Sau đó, bọn chúng tập hợp bọn lâu la ngay trước tòa hành chánh để kết tội Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn theo lệnh của Tàu cộng. Bọn ác quỉ kêu gọi dân chúng đứng lên tố cáo Ông, rồi muốn đánh muốn chửi tùy thích. Nhưng chỉ có vài tên trong bọn chúng tố cáo Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là ác ôn có nợ máu. Dân chúng không có ai lên tiếng cả.

Bọn ác quỉ tiếp tục hỏi: Ai đồng ý xử tử Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn thì dơ tay lên. Không một ai dơ tay cả. Thế là cuộc giết người hèn hạ ngừng lại.

Bọn ác quỉ Bắc cộng không thi hành đúng lệnh quan thầy Tàu cộng “giết ngay, giết sạch những người Việt Nam yêu nước vì Tàu cộng sợ rằng môṭ ngày nào đó Dân Quân Việt Nam đánh đuổi bọn tay sai Băć cộng và lấy lại nước Việt Nam. Bọn man rợ Bắc Cộng bị khiển trách nặng nề cho nên chúng vội vã tập hợp đủ thứ lâu la và dùng mọi thủ đoạn để giết ngay Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn.

Ba tuần sau, cuộc hành xử Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lại diễn ra ở sân vận động Cần-thơ. Lần này bọn tay sai Tàu cộng chuẩn bị kỹ hơn, chúng cho tụi bò vàng, bò rằn, bò đen xen lẫn với những người theo chúng. Cũng bản cũ soạn lại, nhưng chúng khôn khéo hơn, chúng không hỏi Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn có nợ máu với ai thì hãy ra mà xỉ vả và đánh đập. Bọn chúng chỉ hỏi: Ai đồng ý xử tử Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn thì dơ tay. Đám bò dơ tay và một số trong gia đình bọn chúng dơ tay. Dân chúng không dơ tay. Bọn chúng hỏi Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn có nhận những tội mà tòa án nêu ra không? Đại Tá cười nhạt, Ông nói:

“Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân Việt Nam Cộng Hòa. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt”.

Rồi Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Chương-Thiện Hồ Ngọc Cẩn hô to: “Việt-Nam Cộng Hòa Muôn Năm! Đả đảo Cộng-sản.” 

Sau khi Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Chương-Thiện Hồ Ngọc Cẩn bị bắn chết, dân chúng hiện diện khóc như mưa như gió. Trời tháng năm đang nắng chói chang, tự nhiên sấm chớp nổ rung động không gian rồi một trận mưa như trút xuống. Nắng mưa là hiện tượng bình thường của trời đất. Nhưng dân chúng Cần-Thơ thì cho rằng: Trời khóc thương cho người anh hùng, gặp cơn nguy nan của đất nước.

Trời Đất cũng đồng tình cảm nhận sự đau thương của dân tộc Việt-Nam Cộng Hòa.

Hàng năm vào ngày 30 tháng tư, dù ở bất cứ nơi nào Dân Quân Việt Nam Cộng Hòa cũng nhắc nhớ đến công ơn Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn, người mua bó hoa, người mua nhan đèn vào chùa hoặc nhà thờ hoặc là những nơi làm lễ Tưởng Niệm Ngày 30 Tháng Tư Ngày Quốc Hận đặt hoa hay đốt nhan cầu nguyện cho linh hồn Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn được siêu thoát.

Dân Quân Việt Nam Cộng Hòa nguyện rằng: “Một ngày không xa, Dân Quân Việt Nam Cộng Hòa sẽ quét sạch bọn hôi tanh ra khỏi Dinh Tỉnh Trưởng Chương Thiện để làm Đền Thờ cho Ông”

Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Chương-Thiện Hồ Ngọc Cẩn, làmột nhà yêu nước vì Ông chiến đấu không những cho người dân Việt Nam Cộng Hòa mà cho cả mọi người dân Việt, ông bị bọn ác quỉ Bắc cộng tay sai Tàu cộng hành quyết dã man; nhưng lòng yêu nước của Ông được người dânViệt Nam muôn đời ghi nhớ, kính phục và noi theo .

Trần Văn Tài

Sinh Viên Sĩ Quan Thủ-Đức, Khóa 4/70

* Trong thời gian 1951-1952, trên toàn lãnh thổ VN có 7 trường TSQ, phân phối như sau: _ Trường TSQ đệ nhất quân khu, ở Gia-định. _ Trường TSQ đệ nhị quân khu ở Huế. _ Trường TSQ đệ tam quân khu ở Hà-nội. _ Trường TSQ Móng- cáy dành cho sắc dân Nùng. _ Trường TSQ đệ tứ quân khu ở Ban-Mê-Thuột. _ Trường TSQ Đà-lạt của quân đội Pháp. _ Trường TSQ Đông-Dương của quân đội Pháp, ở Vũng-Tầu.

**Trong quyển sách “Ngũ Hổ U-Minh”, tác giả hết lòng ca ngợi năm Tiểu Đoàn Trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, và phong lưu tiêu sái tại chiến trường cực Nam năm 1966.

– Đai-úy Hồ Ngọc-Cẩn, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/33 Sư Đoàn 21,

– Thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 42 BĐQ.

– Thiếu-tá Nguyễn Văn-Huy, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 BĐQ,

– Thiếu-tá Lê Văn-Hưng, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/31 Sư Đoàn 21.

– Đại-úy Vương Văn-Trổ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/33 Sư Đoàn 21.

*** Cuộc xử Đại Tá Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Chương Thiện Hồ Ngọc Cẩn do hai nhân chứng thuật lại:

– Một là Trung-tá Bùi Văn Địch (Hiện sống ở Berlin, Đức), xuất thân trường Thiếu-sinh-quân Hà-nội, sau di vào Mỹ-tho. Trung-tá Địch đã sống với Cẩn 2 năm tại trường Thiếu-sinh-quân Mỹ-tho. Thời gian 1972, cả hai từng cùng phục vụ tại sư đoàn 9 bộ binh.

– Hai là phu nhân của Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, nhũ danh Vũ-thị Quỳnh-Chi (Hiện sống ở Marseille), em ruột của cựu Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang. Anh Quang là người nạp đạn cho Cẩn xử dụng khẩu đại liên 30, bắn đến viên đạn cuối cùng trong công sự chiến đấu tiểu khu Chương-thiện. Bà Bodoret chứng kiến tận mắt hai cuộc xử án Cẩn.

 

Tài liệu tham khảo:

– Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Anh Hùng Tử Khí Hùng Không Tử (Yên tử cư si ̃ Trần Đại Sĩ) 

– Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân (Phạm Phong Dinh)

http://www.lucluongsiquanthuduc-quanlucvietnamconghoa.com/hongoccan.html

 

 

Người lính dù bị lãng quên – Đại Tướng Barry McCaffrey

Trong khi cuốn “The Vietnam War” của Ken Burns chuẩn bị chiếu trên đài truyền hình PBS, thì cựu Tướng 4 sao của Hoa Kỳ – Barry McCaffrey viết một bài đăng trên tờ New York Time với đề tài: “The Forgotten South Vietnamese Airborne (Người lính Nhảy Dù Nam Việt Nam bị bỏ quên)” – Bài viết khá trung thực với những chiến sĩ Mũ Đỏ VNCH tung hoành trên 4 vùng chiến thuật. Qua bài viết này, dù không trực tiếp chỉ trích bộ phim “The Vietnam War” nhưng đã nói lên rằng “the Vietnam War” là thiếu khách quan và trung thực.  Ngụ ý cho rằng “Tôi – Đại Tướng Hoa Kỳ đã một thời chiến đấu với tư cách cố vấn trong binh chủng Nhảy Dù VNCH, họ can đảm và anh dũng như thế nào”.

Vài nét về tướng 4 sao Bary Mc Cafffrey

Barry McCaffrey sinh ngày 17 tháng 11 năm 1942 là cựu Đại Tướng Quân Đội Hoa Kỳ và nhà bình luận và tham vấn kinh doanh. Ông đã được chính phủ Hoa Kỳ trao tặng ba huy chương Purple Heart vì bị thương trong suốt thời gian phục vụ tại Việt Nam, hai Huy Chương Bạc Anh Dũng Bội Tinh, và hai Distinguished Service Crosses – huy hiệu ban thưởng quân đội Hoa Kỳ thứ nhì cho những chiến binh dũng cảm. Ông được bổ nhiệm vào Phòng Tham Mưu Quân đội Hoa Kỳ tại Trung tâm Bộ binh Hoa Kỳ tại Fort Benning năm 2007. Ông đã là giáo sư của Học viện Quân sự West Point, Hoa Kỳ và Giáo sư Nghiên cứu An ninh Quốc tế của Bradley từ năm 2001 đến năm 2008. Ông Tốt nghiệp Học viện Quân West Point. Ông đã từng chiến đấu và chỉ huy trên các chiến trường Việt Nam, Trung Đông, chỉ huy cấp Tiểu đoàn, Trung Đoàn, Sư Đoàn và Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ ở phía Nam châu Mỹ (United States Southern Command). Ông Chỉ huy chiến dịch chống ma tuý của Hoa Kỳ  (Director of Office of National Drug Control Policy) dưới thời TT Bill Clinton. Ông về hưu vào cuối nhiệm kỳ của TT Clinton. Hiện là chuyên gia phân tích quân sự của đài TV NBC và MSNBC cũng như chủ tịch của công ty tư vấn BR McCaffrey Associates. Ông phục vụ trong nhiều ban giám đốc của các công ty. Ông là người bênh vực thẳng thắn về sự sòng phẳng bảo hiểm, tòa án về tội phạm ma túy và các tòa án cựu chiến binh và là diễn giả thường xuyên tại các hội nghị. Dưới đây là chuyển ngữ bài viết của cựu Đại Tướng  Barry McCaffrey: “The Forgotten South Vietnamese Airborne” đang trên tờ New York Time – Bản tiếng Anh: 

https://www.nytimes.com/2017/08/08/opinion/south-vietnam-airborne.html

“The Forgotten South Vietnamese Airborne” Người lính dù bị bỏ quên

Tôi [Barry McCaffrey] đến Việt Nam vào Tháng Bảy, 1966, và năm sau sẽ bổ nhiệm làm việc với Sư Ðoàn Nhảy Dù [Việt Nam Cộng Hoà]. Ðó là năm cuối cùng chúng tôi nghĩ sẽ chiến thắng. Ðó là năm cuối cùng mà chúng tôi có thể định nghĩa chiến thắng sẽ là thế. Đó là một năm lạc quan, sức mạnh quân đội Hoa Kỳ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời danh sách lính Mỹ tổn thất cũng gia tang.

Đến cuối năm 1967, có 486,000 binh sĩ Hoa Kỳ tham chiến tại chiến trường Nam Việt Nam. Số quân nhân tử trận của quân đội Hoa Kỳ năm đó tăng gấp đôi so với năm 1966. Trong toàn bộ tiến trình đó, sự hy sinh dũng cảm và quyết tâm của quân đội miền Nam Việt Nam đã làm biến mất phần lớn sự thiếu hiểu biết của những chính trị gia và giới truyền thông ở Hoa Kỳ.

Sư Ðoàn Nhảy Dù mà tôi tham gia với tư cách là một phụ tá cố vấn cấp tiểu đoàn, là một đơn vị chiến đấu tinh nhuệ. Vào năm 1967 những người lính này trong đồng phục ngụy trang của binh chủng nhảy dù với những chiếc mũ bê rê màu đỏ đặc biệt, sư đoàn có quân số đến 13,000 người, tất cả đều là lính tình nguyện. Những người trong chúng tôi hân hạnh được phục vụ bên cạnh họ, rất thán phục sự can đảm và chiến thuật tấn công của họ. Các sĩ quan cao cấp và hạ sĩ quan Nhảy Dù có đầy bản lãnh và dày dạn kinh nghiệm chiến trường, đừng quên rằng khi người Mỹ mới đến Việt Nam thì nhiều chiến binh trong Sư Đoàn Nhảy Dù đã chiến đấu trên chiến trường từ năm 1951.

Là cố vấn, chúng tôi chủ yếu hoạt động như các viên chức liên lạc ở cấp tiểu đoàn và lữ đoàn. Chúng tôi trải qua một năm chuẩn bị ở tiểu bang California, bao gồm 16 tiếng đồng hồ hằng ngày huấn luyện văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam  tại Học Viện Ngôn Ngữ Quốc Phòng. Rồi học tiếng Việt đàm thoại trôi chảy, tôi được đào tạo chiến thuật chống du kích tại căn cứ Fort Bragg, North Carolina, và cách sử dụng vũ khí thời Thế Chiến 2 mà quân đội Việt Nam vẫn còn sử dung.

Chúng tôi còn làm nhiều việc hơn nữa như yểm trợ pháo binh và không quân, sắp xếp các chuyến bốc người bằng trực thăng và tải thương cũng như cung cấp tình báo và hỗ trợ tiếp vận. Chúng tôi [cố vấn Mỹ] không ra lệnh, và không cần làm điều đó. Các đồng nhiệm người Việt Nam là những người mà chúng tôi rất ngưỡng mộ, và họ rất vui khi có chúng tôi – và hỏa lực của Mỹ – bên cạnh họ. Chúng tôi cùng ăn chung với họ,  và nói tiếng Việt với các binh sĩ VNCH, tôi hoàn toàn tin tưởng vào người Việt Nam. Nhóm của tôi thường có một người lính nhảy dù bảo vệ và cũng một người điều khiển máy vô tuyến.

Thông thường, một toán cố vấn cấp tiểu đoàn như tôi, gồm có ba quân nhân Hoa Kỳ: một đại úy, một trung úy và một hạ sĩ quan, thường là trung sĩ. Các trung sĩ là chủ yếu. Trong khi các sĩ quan cố vấn thường luân chuyển đơn vị, thì trung sĩ ở lại với đơn vị miền Nam được chỉ định, cho đến khi kết thúc chiến tranh – hoặc cho đến khi họ tử trận, hoặc bị thương loại ra khỏi vòng chiến.

Việc tham gia vào chiến tranh Việt Nam của tôi là một kinh nghiệm đẫm máu. Chúng tôi bày binh bố trận bằng các tàucủa Hải Quân và trực thăng quân đội trong vùng đầm lầy phía nam Sài Gòn. Ðây là cuộc chiến không có vinh quang, chiến đấu và chết đuối trong mương rãnh nước mặn. Không có một cuộc mạo hiểm nào như vậy mà tôi đã cảm nhận trong trường Biệt Động Quân. Một đại úy, cố vấn cao cấp của tôi, chuyên nghiệp và đầy khả năng, bị tử trận. Khi trở về căn cứ, tôi giúp mang thi thể của ông ra khỏi trực thăng. Đó chỉ là bước khởi đầu.

Hành quân với lính nhảy dù được bốn tháng, chúng tôi tham gia một trận đánh lớn, đẫm máu, hỗ trợ các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phía Bắc Ðông Hà, gần bờ biển phía Bắc của Nam Việt Nam. Hai tiểu đoàn [nhảy dù VN] của chúng tôi được trực thăng vận vào Khu Phi Quân Sự để chận đứng một lực lượng Bắc Việt đông đảo, đang tiến về phía Nam. Trận chiến mãnh liệt và đẫm máu kéo dài ba ngày. Cố vấn cấp trên của tôi bị tử thương. Trung Sĩ Nhất Rudy Ortiz [trong đoàn cố vấn], vô cùng can đảm, bị trúng đạn từ đầu đến chân. Anh yêu cầu tôi nạp đạn vào khẩu M-16 để lên ngực anh, để anh có thể “chiến đấu đến chết” với những người cố vấn còn lại (may mắn thay, anh sống sót).

Chúng tôi có hàng trăm thương vong và đơn vị gần bị Cộng quân tràn ngập. Nhưng những người lính Nhảy Dù VNCH đã ngoan cường, can đảm bám chặt mục tiêu chiến đấu. Vào thời điểm quan trọng, với sự hỗ trợ của không quân và hỏa lực hải quân, chúng tôi đã phản công. Sĩ quan tiểu đoàn trưởng người Việt Nam của tôi đứng thẳng lưng, băng qua những lằn đạn súng liên thanh của Cộng quân, để chạy tới vị trí tôi trú ẩn. Ông nói với tôi “Trung úy giờ chết đến rồi”. Tôi cảm thấy ớn lạnh nhớ những lời anh nói”.

Ngoài chiến trận, người chiến sĩ miền Nam Việt Nam không bỏ những đồng đội chết hoặc bị thương và vũ khí ngoài chiến trường. Trong một trận chiến khác, anh Tommy Kerns, bạn đồng môn ở trường West Point của tôi, một cầu thủ football lục quân to con, bị thương nặng và bị kẹt trong một rãnh hẹp khi tiểu đoàn Nhảy Dù VNCH của anh cố gắng phá vỡ một lực lượng cộng quân Bắc Việt. Những người lính Nhảy Dù VNCH cùng anh, nhỏ con hơn Tommy, không thể khiêng anh ra khỏi cái rãnh. Thay vì rút lui và để anh lại, họ cố gắng giữ truyền thống binh chủng và chiến thắng được Cộng quân cứu được người bị thương với thân thể nặng nề cao lớn.  Tommy Kerns sống sót nhờ sự dũng cảm của họ”.

Các cố vấn Hoa Kỳ và hầu hết Sư Ðoàn Nhảy Dù đóng quân tại Sài Gòn và quanh vòng đai thủ đô. Chúng tôi thích tính năng động và niềm vui của thành phố. Chúng tôi cũng thích văn hóa, ngôn ngữ và người Việt Nam, và rất tự hào sát cánh với sư đoàn Mũ Đỏ.

Chúng tôi chắc chắn rằng cả thế giới ghen tị với công việc của chúng tôi – chúng tôi làm việc với giới tinh hoa của đất nước. Với phụ cấp tác chiến và nhảy dù, chúng tôi có vẻ như có cả tấn tiền. Chúng tôi sống trong khu có máy điều hòa không khí. Chúng tôi còn trẻ, ham hố và tích cực. Các đại tá và các trung tá Mỹ điều hành các cố vấn là những người lớn tuổi hơn, ổn định và được tôi luyện chiến trường, họ nhận thấy đây là một cuộc chiến khó khăn hơn nhiều so với Đệ II Thế Chiến và và chiến tranh Triều Tiên.

Đời sống của một cố vấn trong Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam là không thể lường trước được. Trách nhiệm của sư đoàn Nhảy Dù VNCH là phục vụ như là đơn vị tổng trừ bị, được đưa đi chiến đấu bất cứ khi nào các cấp chỉ huy cần đó là một lợi thế. Một tiểu đoàn Nhảy Dù Việt Nam hoặc một lữ đoàn đầy đủ được điều động trong tình trạng khẩn cấp vào nửa đêm. Chúng tôi được nhét vào ngồi trong máy bay vận tải của Không Quân Hoa Kỳ và Việt Nam, những chiếc máy bay trực sẵn, tiếng động cơ rống lên, xếp hàng dài tại phi trường Tân Sơn Nhứt, gần Sài Gòn. Lãnh quân trang, đạn dược, đôi khi cả dù, và hối hả chuẩn bị ra chiến trường,”

Và rồi – trong nhốn nháo, các tiểu đoàn nhảy dù được đưa đến bất cứ nơi nào cần họ. Chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào trên toàn cõi miền Nam Việt Nam đều thấy chúng tôi ở giữa một chiến trường máu lửa. Nhiều cố vấn Hoa Kỳ và hàng trăm lính Nhảy Dù Việt Nam mà tôi phục vụ, đã không trở lại sau các cuộc hành quân này. Cho đến bây giờ, tôi vẫn có thể nhìn thấy những khuôn mặt trẻ của họ. Ðại Úy Gary Brux, Ðại Úy Bill Deuel, Trung Úy Chuck Hemmingway. Trung Sĩ Carl Arvin, Nhân viên vô tuyến rất trẻ của tôi, Hạ Sĩ Michael Randall. Họ đều chết. Can đảm. Tự hào.

Việt Nam không phải là chiến trường tôi đến lần đầu tiên. Sau khi tốt nghiệp trường đại học quân sự West Point, tôi phục vụ trong sư đoàn 82 Nhảy Dù Hoa Kỳ được đưa tới Cộng Hoà Dominican năm 1965. Chúng tôi đã mở ra trận chiến trên đảo để phá vỡ một cuộc nổi dậy do Cộng Sản Cuba gây nên, và chúng tôi đóng quân ở đó như một lực lượng gìn giữ hoà bình của Hoa Kỳ. Chúng tôi nghĩ rằng đó là chiến tranh, và chúng tôi trở về trại Fort Bragg, chúng tôi mong muốn sẽ đến Việt Nam – một số trung uý trong tiểu đoàn của tôi nhảy lên xe và lái đến bộ chỉ huy Lục Quân Hoa Kỳ tại Washington DC tình nguyện ra chiến trường. Chúng tôi nghĩ rằng sẽ bỏ lỡ cơ hội tham gia chiến tranh [Việt Nam].

Bây giờ thì chúng ta đã biết đoạn kết câu chuyện. Hai triệu người Việt Nam có thể đã chết. Hoa Kỳ mất đi 58,000 quân nhân và khoảng 303,000 người khác bị thương. Nước Mỹ lâm vào một cuộc nội bộ cay đắng và giằng co chính trị. Lúc đó chúng tôi không biết gì về cuộc chiến Việt Nam. Tôi rất tự hào đã được chọn để phục vụ trong Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam. Người vợ mới và xinh đẹp của tôi, người mà tôi yêu quý, biết tôi phải ra đi. Cha tôi, một tướng lãnh Lục Quân, sẽ hãnh diện vì tôi nếu tôi hy sinh.

Tất cả điều này đã hơn 50 năm trước đây. Những người lính Sư Đoàn Nhảy Dù VNCH sống sót sau sự sụp đổ của Nam Việt Nam đã trốn thoát qua đường Campuchia, hoặc trải qua hàng thập kỷ ở trại tù cải tạo “tàn bạo” của Cộng sản Việt Nam. Phần đông trong số họ đã đến Hoa Kỳ. Chúng tôi có một hiệp hội của các cố vấn Mỹ và các chiến hữu Việt Nam, và có một đài tưởng niệm tại Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Chúng tôi tụ tập ở đó mỗi năm và nhớ lại một thời chúng tôi chiến đấu với nhau. Chúng tôi đội chiếc mũ beret màu đỏ binh chủng nhảy dù. Chúng tôi vui cười với những mẫu chuyện cũ, nhưng có một nỗi buồn sâu sắc là chúng tôi đã hy sinh rất nhiều, và kết quả chẳng được gì hết.

Người ta thường hỏi tôi về những bài học của chiến tranh Việt Nam. Những người trong chúng tôi đã chiến đấu với Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam không phải là những người đặt câu hỏi. Tất cả những gì chúng tôi nhớ và biết, là hiện thân của sự can đảm và quyết tâm của các người lính Nhảy Dù Việt Nam xông pha ngoài trận tuyến. Họ không có tượng đài ngoại trừ trong những ký ức của chúng ta.” 

Hoàng Long chuyển ngữ

http://chinhnghiavietnamconghoa.com/nguoi-linh-du-vnch-bi-lang-quen-dai-tuong-barry-mccaffrey/

 

 

Người chiến sĩ VNCH ngày cuối cùng của cuộc chiến

Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:

1- Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không Lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ. Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng Lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng Ðông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29 Tháng Tư, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.

Canh bạc chưa chơi mà hết vốn

Cờ còn nước đánh phải đành thu

Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 Tháng Tư, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh.”

2- Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến Đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 Tháng Tư, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 Tháng Tư, Tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy Dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon. Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, Tướng Phát và họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 Tháng Tư, ở Vùng Một và Vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác). Những người lính chiến đấu này không có… radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hy vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng Sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng Sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ ngã tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng… bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng.

Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhảy Dù án ngữ. Quân Nhảy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu diệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 Tháng Tư, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon. Tất cả hai cánh quân Việt Cộng đều khựng lại.

Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho Tướng Lâm Văn Phát, Thiếu Tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.

Một câu chuyện khác do Tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói:

“Vĩnh biệt thiếu tướng,” rồi rút súng bắn vào đầu tự tử. Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, Tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó Tướng Ba Hồng mời Tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (Tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 Tháng Mười, 1998).

Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 Tháng Tư. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…

3- Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 Tháng Năm, 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc. Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn.”

4- Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 Tháng Tư, 1975. Thứ Hai, 28 Tháng Tư, 1975, Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”

Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với Tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”

Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…”

Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của Đại Tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra

ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, Đại Tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Darcourt cho biết Đại Tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.

(Người lính cũ tổng hợp tin từ báo chí nước ngoài)

https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/ccb-nguoi-chien-si-vnch-ngay-cuoi-cung-cua-cuoc-chien/

 

 

Chuyện từ trên quốc lộ 20 – Võ Ngọc Ẩn

” … Anh chàng Chuẩn úy cao hứng nhảy lên cái nóc lô cốt có từ thời tây đứng xoa tay quan sát. Trước mặt Anh là QL20 thênh thang vắng ngắt. Xa xa là các xứ đạo khu Gia Kiệm, bên trái nghĩa địa của giáo xứ Thanh Sơn im lìm, phần lớn người dân đã tản cư về Biên Hòa.

 Sáng nay theo lệnh của Hằng Minh (danh hiệu truyền tin của Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh SĐ18BB), Tiểu đoàn đã lui về sau xa khu dân cư vì Ông Tướng không muốn người dân phải hứng chịu những trận pháo kích điên cuồng của đối phương.

 Vì thế, bây giờ Trung đội của Anh với 16 tay súng là cái chốt chặn đầu tiên trên Quốc lộ này. Anh chàng tắc lưỡi nghĩ thầm … 15 thằng … cũng được rồi !

 Anh hiểu rằng chỉ vài giờ nữa, địch sẽ tung ra hàng Tiểu đoàn thậm chí hàng Trung đoàn có cả xe tank yểm trợ để đè bẹp các anh, những người lính bộ binh của Trung đoàn 52/SĐ18BB này.

 Tiếng súng, tiếng pháo, tiếng máy bay gầm rú từ mặt trận phía đông dội về. Mặc mẹ nó, muốn vượt qua đây, xe tank nó phải cán qua xác anh và lính của anh cái đã. Mà đâu có dễ ăn như vậy !

 Có tiếng gọi Anh :

 – Chuẩn úy nhìn kìa.

 Anh chàng Trung đội trưởng tuột xuống nhìn sang bên phải. Từ trong lô cao su, một toán chừng 5,6 người bước ra. Họ mặc đồng phuc NDTV (Nhân Dân Tự Vệ), trên người lỉnh kỉnh nào là M16 nào là M72, họ đi thành hàng một, đều đặn và nghiêm chỉnh.

 Người đi đầu trạc 50 ngoài đi thẳng tới chổ anh, giơ tay chào và dõng dạc:

 – Chúng tôi là NDTV ấp BĐ, gia đình bọn tôi tản cư rồi, chúng tôi ra đây phụ với các anh.

 Viên Chuẩn úy trố mắt nhìn họ, họ già có trẻ có, họ có vẻ hào hứng lắm khi tham gia một trận đánh chính quy này.

 Anh chàng Sĩ quan trẻ vồn vã :

 – Con cám ơn bác, nhưng thôi bác dẩn anh em về nghỉ đi, chỗ này nguy hiểm lắm. Hơn nữa đây là việc của tụi con.

Lần đầu tiên, Anh nhìn thấy môt cơn giận dữ. Ông cụ sấn tới, mặt mày đỏ ké nói như quát vào mặt anh :

 – Chuyện của anh à, thế cái đất nước này là của bố anh để lại cho riêng anh chắc ! Mặc xác anh.

 Ông quay sang những người NDTV :

 – Theo tao !

 Họ băng qua đường, chiếm một vị trí cạnh những gốc cây to.

Viên Chuẩn úy lặng người, 15 người lính cũng lặng người.

 Anh đi lai chỗ nhóm NDTV bố trí, người trưởng toán nhìn anh. Đột nhiên, viên Chuẩn úy giơ tay lên và hét to :

– Nghiêm !

Cả Trung đội bật dậy nghiêm như những pho tượng. Viên Chuẩn úy giơ tay chào người trưởng toán, mắt anh sũng nước … họ ôm chầm lấy nhau …”

 Người chủ quán cà phê, một người lính ĐPQ cụt một chân vì tham gia trận đánh ở Ngã Ba Dầu Giây ngưng kể, anh ngập ngừng.

 Tôi hiểu anh không muốn nhắc lại nữa. Anh vừa chỉ về một vạt rừng gần đó và nói :

 – Trời mưa chứ không tôi dẫn anh đi thăm họ, tất cả họ đều ở đó …!!

 Tất cả họ đều ở đó … Tất cả họ đều ở đó …

Nước mắt tôi bổng ứa ra. Trời vẫn còn mưa …..

 (Trích từ bài đăng Facebook của  Võ Ngọc Ẩn, cựu quân nhân QLVNCH)

https://vulep-books-links.blogspot.com/2019/04/chuyen-tren-quoc-lo-20.html

 

 

Những ngày cuối cùng ở Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng, 03/1975 – Bạch Thế Thức

Hiệp định đình chiến Paris có hiệu lực từ ngày 27 tháng Giêng năm 1973 với niềm hân hoan và phấn khởi của mọi người mọi giới nhất là những người đang mặc quân phục với suy nghĩ về một cơ hội sớm giã từ vũ khí để xây dựng lại đất nước sau bao nhiêu năm tang thương đổ vỡ do chiến cuộc điêu tàn; nhưng rồi: chỉ là một nỗi thất vọng ê chề. Vỏn vẹn 2 ngày sau cái ngày hòa bình ma quái này, Trung Tâm Tiếp Huyết báo động đang thiếu máu trầm trọng và Y sĩ Đại tá Chỉ Huy Trưởng Trường Quân Y kêu gọi Sinh Viên Quân Y hiến máu ngay chính dưới cột cờ ở Vũ Đình Trường, nơi mà 2 ngày trước đây họ đã làm lễ chào mừng ngày hòa bình và tưởng niệm các chiến sĩ vị quốc vong thân thật cảm động.

Hòa bình đâu không thấy, chỉ thấy chiến cuộc ngày một khốc liệt hơn với sự thất lợi ở phía Việt nam Cộng Hòa. Nhu cầu về nhân lực cho chiến trường và các đơn vị yểm trở vẫn đòi hỏi rất cao. Ngày 20 tháng 2 năm 1975, khoá 21 Quân Y Hiện Dịch chúng tôi gặp nhau lần cuối để nhận nhiệm sở; 68 Y sĩ, 8 Dược sĩ và 5 Nha sĩ được phân phối đi phục vụ trên toàn quốc trong lúc cuộc chiến đang diễn ra một cách khốc liệt khắp mọi nơi. Chúng tôi chỉ còn đủ thì giờ để chụp tấm hình kỷ niệm với Y Sĩ Đại Tá Hoàng Cơ Lân chỉ huy trưởng trường Quân Y trước khi chia tay ra đơn vị.

Chiến trường đang sôi động, hầu hết các Quân Y sĩ đều ra phuc vụ ở các binh đoàn, Thủ khoa Nguyễn Phan Khuê đuợc bổ nhiệm về QYV Ban Mê thuột.  Và vì nhu cầu trong chiến tranh, một số các cựu nội trú Ngoại khoa được bổ nhiệm về các Quân Y viện. Phan Thanh Hải và tôi về Tổng Y viện Duy Tân, Đà Nẵng, Nguyễn Dương Mỹ về QYV Nguyễn Tri Phương, Huế, Nguyễn Chí Vỹ và Trần Ngưu Tử về QYV Pleiku, Trần Văn Cương về QYV Ban Mê Thuột.

Và Mọi người rồi sẽ vất vả.

Bồi hồi khi trở lại Đà nẵng, nơi tôi đã lớn khôn dưới mái trường Trung Học Phan Chu Trinh; phấn khởi khi tìm lại những kỷ niệm ở chốn cũ trường xưa. Đầu tháng 3/1975, chúng tôi đã tìm phương tiện ra đà nẵng đến trình diện Y sĩ Trung Tá Lê Xuân Thảo (chỉ Huy Trưởng ) và Y sĩ Trung Tá Tạ Thúc Phú, chỉ Huy Phó. Đứng nghiêm, chào tay và xưng danh: “tôi Y sĩ Trung Uý BT Thức trình diện Trung tá Chỉ Huy Trưởng…” Hai vị đàn anh thấy thế khoát tay và nói ngay: “anh khỏi phải xưng danh trình diện nữa, tôi biết anh là ai rồi, anh có thể ngồi xuống đây nói chuyện….” 

Bác sĩ Thảo và BS Phú lật quyển kỷ yếu của khoá 21 Hiện dịch của chúng tôi và cho biết các anh đã đọc qua và thông hiểu mọi thứ. Hai anh niềm nỡ chào đón chúng tôi và cho người đưa chúng tôi về thẳng khối Ngoại Khoa. Trưởng khối Ngoại Khoa là Y sĩ Thiếu tá Phạm Văn Lương và phụ tá là Y sĩ Đại Uý Phạm Bá Khá. Tôi đã nghe danh Thiếu tá Lương từ nhiều năm trước, khi ông mang lựu đạn ngồi trước thềm Hạ Nghị Viện để phản đối chính phủ và đòi điều tra về cái chết của bạn anh: BS Hà Thúc Nhơn. Giờ được diện kiến anh, người nhỏ nhằn rắn chắc, quyết đoán, nói giọng Miền Trung, nhỏ nhẹ, lưu loát.  Anh chào đón chúng tôi chờ sự hợp tác nhiệt tình và hứa giúp đỡ những gì chúng tôi cần thiết trong phạm vi quyền hạn.

Trại Ngoại Khoa có khoảng 10 bác sĩ giải phẫu: ngoài anh Lương và anh Pham Bá Khá có anh Vũ Quốc Cương, Trưỏng khoa gây mê, các anh Nguyễn Ngọc Khôi, Trương Ngọc Thạch, Khưu Ngọc Tiên, anh Tuấn (không nhớ họ) trên tôi vài lớp, xuất thân từ khu tai mũi họng (ORL) của Bệnh viện Nguyễn Văn Học… Tôi và Phan Thanh Hải là hai tân binh.

Một ngày sau khi chúng tôi trình diện thì anh Nguyễn Văn Hiếu cũng đến trình diện. Anh Hiếu trên chúng tôi mấy lớp vì trục trắc về tình trạng Quân dịch nên trình diện trễ vào khoá Trưng tập 16, học chung hành Chánh Quân Y với chúng tôi. Anh Hiếu rất nhiều năm làm Nội trú ở Khu Thần Kinh Giải phẩu, là đệ tử của thầy Đặng Văn Chiếu.

Ba người “chân ướt” chúng tôi được giao nhiệm vụ ngay. Anh Hiếu coi khu Thần Kinh Giải Phẩu thay Y sĩ  Đại Uý Nguyễn Đăng Tri thuyên chuyên đi nơi khác, Phan Thanh Hải về khu chỉnh trực (Orthopédie) còn tôi thì về khu Tê Liệt thay thế Y sĩ Trung Uý Đặng Văn Chất được thuyên chuyển về Sài gòn. Tôi thất vọng khi về khu Tê Liệt vì đây không phải là chuyên môn của tôi, nhưng là lính mới tò te, tôi chấp nhận nhiệm sở, cố gắng hòan thành nhiệm vụ và hy vọng ngày mai trời lại sáng.

Khi xuống trại Tê Liệt, ông Y tá trưởng, Thượng sĩ Thọ đã cho nhân viên “dàn chào” tiếp đón tôi. Tất cả

15 Y tá và nhân viên xếp 2 hàng, nghiêm chỉnh chào tay khi tôi bước về bàn giấy. Một chút ngỡ ngàng và hãnh diện vì là lần đầu tiên trong đời tôi được chào đón theo nghi lễ với chút địa vị và trách nhiệm đi kèm.

Bàn giấy còn tên của BS tiền nhiệm: Y Sĩ Trung Uý Đặng Văn Chất, Trưởng Khu Tê Liệt; bên cạnh là điện thoại và tủ sắt đựng dụng cụ Y khoa, một ít thuốc men và vật dụng cá nhân; tôi được trao chìa khoá để xử dụng. Sau vài câu chào đón và đáp lễ, Thượng sĩ Thọ lấy lòng tôi: “mong rằng chúng em được học hỏi thêm nhiều kiến thức Y khoa từ Bác sĩ.”  Tôi cũng nói vài câu đưa đẩy nhưng không khách sáo.

Vạn sự khởi đầu nan, một việc khó xử đối với tôi chỉ vài phút sau đó. Thượng sĩ Thọ đưa ra một xấp giấy khá dày và xin tôi ký tên, ông nói đó là danh sách thuốc của bệnh nhân ngày hôm nay; nếu không có chữ ký của tôi, tất cả bệnh nhân trong trại khoảng 60 người sẽ không có thuốc dùng. Tôi ú ớ, không biết mô tê gì cả.

Thuốc cho bệnh nhân nhưng bệnh nhân là những ai? Họ bị bệnh ra sao, đã dùng thuốc bao lâu rồi, tất cả tôi đều không biết gì hết. Tôi dùng dằng chưa muốn ký, định đi hỏi anh Lương và anh Khá nhưng thì giờ không cho phép. Tôi phải cắn răng mà ký tên và định sẽ đem vấn đề này trình với anh Lương.

Y sĩ Trung úy Nguyễn Đăng Tri người tạm thay anh Chất kiêm nhiệm Trại Tê liệt hướng dẫn tôi đi coi bệnh trong trại để bàn giao. Phải mất 3 giờ, đi suốt trại, xem lại từng người bệnh. Anh Tri đã giúp tôi có một ý niệm về cách sinh hoạt tại trại này.  Tôi có cảm tưởng trại này sinh hoạt như một viện điều dưỡng (Nursing home).

Tất cả bệnh nhân trong trại đều đã bị thương tích phải tê liệt vĩnh viễn vì chiến thương, bệnh tật hoặc những di chứng của các bệnh khác; họ đã ở đây nhiều năm tháng vì những bệnh lý kinh niên; vấn đề điều trị cấp tính gần như không còn cần thiết nữa. Bệnh nhân cần Vật lý trị liệu và trợ cấp xã hội để làm lại cuộc đời mới, nhưng vì phương tiện của Quân đội không có đủ nên họ không còn chỗ nào khác để sinh sống, họ tiếp tục ở lại trại tê liệt nhiều năm tháng và gia đình, vợ con cũng đến giăng mùng, kê giường tá túc với họ, trông thật tội nghiệp. Mỗi buổi sáng tôi phải ký giấy để họ lãnh thuốc và đồ ăn sống qua ngày.

Công việc hằng ngày của chúng tôi ngoài việc thăm khám bệnh nhân ở trại, còn khám bệnh ngọai chẩn, khám bệnh nhân ra Hội Đồng Miễn Dịch và coi và điều trị bệnh nhân ở phòng Cấp cứu trong ngày trực. Việc khám và phân loại bệnh nhân ở Hội Đồng Miễn dich đối với tôi là một việc mới mẻ mặc dù từ trước chúng tôi đã qua các khoá Hành Chánh Quân Y và Hồi sinh cấp cứu trước khi nhận nhiệm sở. Chúng tôi chưa nắm vững những tiêu chuẩn để phân loaị tàn phế của thương binh để có những quyết định đúng đắn cho thương binh đúng theo điều kiện và quyền lợi của họ. Việc này khá rắc rối và tế nhị vì tôi vẫn biết “bút sa gà chết” nên tôi rất nhiều lần phải chạy tới chạy lui để hoỉ ý kiến của các vị đàn anh.

Khó khăn nhất là trong những phiên trực của tôi thỉnh thoảng có vài anh y tá  mang đến cho tôi một số chứng từ nhờ tôi ký cho những bệnh nhân mà tôi không hề biết, với lý do là các vi bác sĩ điều trị, những đàn anh của tôi quên ký mà giấy tờ thì phải cần ký cho kịp ngày giờ… Đó là điều làm tôi lo ngại nhất vì không biết phải làm sao.

Về vấn đề chuyên môn tôi thấy thoải mái và tự tin hơn, tôi không cảm thấy rụt rè hay lo ngại; những điều học hỏi từ trong trường và những kinh nghiệm khi làm nội trú được đưa ra áp dụng cho bệnh nhân và đã được nhiều thành quả tốt đẹp. Anh Phạm văn Lương nhiều lần đến trại xem tôi làm việc và bàn luận về những trường hợp bệnh lý phức tạp, hẳn anh nghĩ rằng tồi vừa mới rời trường Y khoa, còn nhớ nhiều baì vở. Tôi đã đối đáp theo những điều hiểu biết với kiến thức của mình. Có lẽ anh Lương đã tin tưởng ở tôi nhiều hơn, điều này làm tôi tự tin hơn.

Phiên trực được phân chia mỗi 4 ngày trực một ngày.  Trong ngày trực 2 Bác sĩ làm việc trong Bệnh viện, hai bác sĩ ứng trực taị nhà, chờ tăng cường nếu tình hình đòi hỏi. Trong phiên trực, chúng tôi phải lo giải quyết tất cả mọi trường hợp cần phảỉ giảỉ quyết gấp. Tôi lo ngại nhất là khi phải đối phó với những trường hợp không thuộc về chuyên môn của mình ví dụ nhu các trường hợp về thần kinh giải phẩu; còn anh Hiếu thì rất ngại ngùng khi phải đốí phó với những thương tich ở bụng ngực, ruột gan.  Chúng tôi có chung niềm lo lắng với những trường hợp không thuộc chuyên  mon của mình. Chúng tôi thoả thuận với nhau: Anh Hiếu chuyên về Thần Kinh Giaỉ Phẩu sẽ giùp tôi khi tôi gặp trường hợp Thần Kinh Giaỉ Phẩu, và tôi sẽ giúp anh nếu anh gặp những trường hợp khẩn cấp về bụng ngực hay các thuơng tổn phần mềm, mạch máu… Tôi chưa có một chút kinh nghiệm nào về Thân Kinh Giải Phẫu, chưa bao giờ khoan sọ; giờ đây nhờ lời hứa của anh Hiếu tôi cảm thấy an tâm. Và như thế tôi và anh Hiếu an tâm làm việc cho đến ngày cuối cùng phải từ giã Tổng Y viện Duy Tân.       

Nhưng mọi việc nhiều lúc không theo sự tính toán và xếp đặt của mình, chỉ một tuần lễ sau khi chúng tôi nhận nhiệm sở, trận chiến trở nên khốc liệt. Ban Mê Thuột nguy kịch và thất thủ sau mấy ngày kịch chiến, Quân đoàn II triệt thoái từ Pleiku qua ngả Phú Bổn như một cuộc hành quân không được định liệu kỹ lưỡng đưa đến những suy sụp khó cứu chữa làm mọi người hoang mang. Chúng tôi lo lắng cho số phận những người bạn đồng khoá được bổ nhiệm về Quân khu II: Nguyễn Chí Vỹ, Trần ngưu Tử, Thái Văn Châu, Phan Ngọc Hà, Thịnh “điếc”, Tân, Nghĩa, Khuê, Cương, …, Nhất là Khuê, Nguyễn Phan Khuê, chàng Thủ Khoa chân chỉ hạt bột, chỉ biết có sách vở không biết có đủ khéo léo và can đảm trong cuộc đào thoát này?

Chúng tôi đã mất liên lạc với nhau từ ngày rời Trường Quân Y, cuối tháng 2 năm 75, và Nguyễn Đình Ngọc, người bạn thân đồng khoá về Sư đoàn I cùng với Chu Kỳ Đức, Nguyễn Đỗ Quan cũng đã mất liên lạc từ dạo đó.

Một tuần sau khi đáo nhậm nhiệm sở, Phan Thanh Hải được phép 7 ngày về Trường Y khoa trình luận án tốt nghiệp nên thoát dược “cơn hồng thủy” ở Đà nẵng. Thấy tình hình ở Đà nẵng đã có những bất ổn và suy sụp nhanh chóng, nhân dịp Hải về lại Saigòn tôi gửi về Gia đình vài vật tuỳ thân trong ấy nhớ có quyển Principal of Surgery của Sabiston và chiếc béret màu tím than mà tôi đã dùng từ năm đầu tiên vào Trường Quân Y.

Tình hình chiến sự từng ngày càng bi quan: Qui nhơn, Quảng Ngãi , Quảng Tín mất liên lạc vô tuyến, chúng tôi ở Đà nẵng bị cô lập như một hòn đảo giữa đại dương cách lìa Quê hương, đất nước và gia đình, tuy vậy chúng tôi vẫn phải làm việc để chu toàn trách nhiệm của một y sĩ; hằng đêm lúc ngồi nghỉ mệt giũa các ca mổ chúng tôi chỉ biêt nghe đài BBC và VOA để theo dõi tình hình nhưng chỉ nghe được toàn những tin tức bi quan làm cho chúng tôi chỉ biết tuyệt vọng.

Giữa tháng 3 năm 1975, anh Truong Ngọc Thạch đi phép, tôi được kiêm nhiệm thêm phần điều trị cho các bệnh nhân của anh Thạch, trại Giải Phẩu lồng ngục, tôi thầm mơ ước một ngày đẹp trời nào sẽ chính thức về làm việc tại đây theo đúng chuyên mon và sở thích của tôi, nhưng điều mơ ước này đã không bao giờ thành hiện thực vì…

Ngày 25 tháng 3 là ngày sinh nhật của tôi.  Dù không phải là ngày trực, vì công việc rất bận rôn, bệnh nhân tràn ngập, tôi phải cố gắng giải quyết công việc mãi đến 10 giờ đêm mới có thể ra về, quá mệt mỏi nằm lăn ra ngủ. Ngày hôm đó, là ngày Huý nhật của cụ Phan Châu Trinh, năm nào Trường Phan Châu Trinh cũng tổ chức buổi lễ rất trang nghiêm để nhớ ơn cụ, tôi đã chờ đợi và mong mỏi được trở lại mái trường xưa trong ngày lễ này để ôn lại những kỷ niệm thời thơ ấu, nhưng vì quá bận rộn không về sớm được mà tình hình chiến sự thì ngày một cam go, Quảng trị, Huế đã bị bỏ rơi, hàng trăm ngàn người dân tị nạn ào ào chạy về đà nẵng. Đường phố đông nghẹt người và xe cộ. Dân tị nạn đổ dồn về bất cứ nơi nào họ có thể tạm tá túc: nhà thờ, chùa chiền, trường học nên buổi lễ Húy nhật cụ Phan không thể thực hiện được.

Ngày 27 tháng 3 nhằm phiên trực của tôi và anh Tuấn, thương bệnh binh rất đông, anh Phạm Bá Khả vào tăng cường. Lúc 8 giờ sáng vào phòng cấp cứu tôi phải đối phó với trường hợp một em bé trạc 3-4 tuổi bị thương nặng vì trúng đạn pháo kích rơi vào nhà cướp ngay sinh mạng của 5 người trong nhà, chỉ còn em bé còn thoi thóp với vết thương sọ não. Tôi đến nơi em vừa ngưng thở. Cấp cứ tim phổi bằng cách xoa bóp lồng ngực (CPR) mong cố hồi sinh cho em nhưng với phương tiện thiếu thốn, không còn ống thông khí quản để giúp thở, nước biển còn rất ít, thuốc men gần cạn sạch, tôi chích 1 ống epinephrine, tiếp tục xoa bóp tim phổi nhưng vô hiệu; nửa giờ sau phải khai tử cho em. Người cha khóc lóc kêu gào bên xác con làm tôi ứa lệ. Lời khóc than rưng rức: “tại sao ông trời lại để một mình ông sống sót khi quả đạn nổ trong nhà lúc nửa đêm?”.

Chiến tranh thật là tàn nhẫn khiến dân lành chịu nhiều mất mát thiệt thòi. Suốt ngày hôm ấy, bệnh nhân tràn ngập phòng cấp cứu, mỗi đợt xe cứu thương mang về hàng chục nếu không muốn nói hàng trăm thương binh. Bệnh binh thì nhiều mà nhân lực, phương tiện tiếp liệu và thì giờ thì quá eo hẹp, dù chúng tôi tả xung hữu đột cũng không cách nào chữa trị cho tất cả mọi người. Những người ngắc ngoải sắp chết chúng tôi chỉ biết để cho họ ra đi êm thắm, chúng tôi phải dành thì giờ, nhân lực và thuốc men cho những người có cơ may sống còn. Thuốc men, y cụ, nước biển còn rất ít, không còn dồi dào như thuở Thanh Bình trước đây.  Giống như anh bạn tôi y sĩ Trung úy Phạm Anh Dũng ở SĐ3 tả lại:  Binh sĩ tại đơn vị anh vì thiếu đạn dược đã có người phải bỏ tiền túi ra để mua đạn.

Vì số thương binh tràn ngập , suốt ngày hôm đó có 3 bác sĩ giải phẫu ứng trực làm việc suốt ngày cùng với 2 phòng mổ và nhân viên làm việc liên tục từ sáng sớm.

Chúng tôi mổ xẻ, rửa ráy vết thương, bó bột và băng bó vết thường rồi chuyển bệnh nhân về trại. Một bệnh nhân bị thương ở đầu gối, động mạch bắp chân (popliteal artery) bị tổn thương, tuần hòan tắc nghẽn và chân tím, lạnh ngắt. Tôi mổ xẻ và mất gần 3 giờ đồng hồ để khâu vá lại động mạch, tái lập tuần hòan cho hạ chi từ dưới đầu gối và may mắn cứu được cái chân bị thương của người bệnh đó.

Đang tối tăm mày mặt, ngẩng mặt lên thấy Nguyễn Đình Ngọc, người bạn thân di tản từ Sư đoàn 1. Không cần hỏi tôi đã biết Sư đoàn 1 đã tan rã và Ngọc là một trong số rất ít người may mắn thoát hiểm sau thảm hoạ ở Huế và Thuận an, về Đà nẵng tìm tôi. Ngọc hôm nay đen kịt, quần áo lấm lem rách rưới với những thay đổi trong bộ quân phục: hai bông mai màu đen, bảng tên màu màu đen trên nền xanh olive cùng với huy hiệu Sư đoàn 1 cũng màu xanh-đen. Tôi mừng rỡ ôm chầm lấy Ngọc.  Nhìn Ngọc tôi sực nhớ cho đến giờ, gần một tháng phục vụ tại Duy Tân, tôi vẫn còn mặc quân phục của Trường Quân y vói 2 bông mai vàng trên cổ áo, bảng tên màu đen trên nền trắng và nhất là huy hiệu màu đỏ của Trường Quân Y vẫn còn trên bờ vai trái. Biến chuyển chung quanh quá dồn dập khiến tôi không có thì giờ để nhìn lại mình đang mặc một bộ quân phục không hợp thời.

Nhìn Ngọc đang rã rời, xác xơ tơi tả tôi biết Ngọc đã trải qua một cuộc đào thoát hiểm nguy và gian khổ, tôi tìm một ít đồ ăn và đưa Ngọc về phòng trực của tôi nghỉ ngơi cho lại sức.  Sau đó tôi lại ra tay quần thảo với hàng chục bệnh nhân đủ mọi loại vết thương cần băng bó, rửa ráy mổ xẻ và thuốc men. Tôi mổ 3 ca lớn từ sáng cho đến khoảng 6 giờ chiều. Lúc này bệnh nhân đã ổn định, tôi đi tìm Ngọc rủ đi ăn tối, nhờ anh Hiếu thay tôi khi tôi vắng mặt. Gặp anh Lương đi vào kiểm tra và thăm dò công việc, và hỏi tôi có cần giúp gì không. Tôi báo cáo mọi việc xảy ra từ sáng , anh có vẻ hài lòng vì hầu hết bệnh nhân mới về đã được chăm sóc và chữa trị chu đáo, và anh đồng ý cho phép tôi ra ngoài ăn tối với Ngọc.

Trời đã nhá nhem tối, đèn đường đã lên, chúng tôi ngồi trên vỉa hè một quán ăn và gọi đồ dùng bữa tối. Sau vài lời thăm hỏi, Ngọc khuyên tôi phải tìm cách đào thoát càng sớm càng tột, ráng tránh cái thảm hoạ mà Ngọc biết sẽ xảy đến với chúng tôi bất cứ lúc nào, cái thảm hoạ mà Ngọc vừa mói trải qua ngày hôm trước và vì đó những người bạn đồng khoá của chúng tôi ở mặt trận Huế, Quảng trị đều hòan toàn biệt tăm. Tôi nghĩ đến Vũ Đức Giang và Nguyễn Tiến Dũng, hai người bạn đã tình nguyện về Thuỷ Quân Lục Chiến khi chọn nhiệm sở. Họ tình nguyện về đơn vị thật sự “đánh đấm”, giờ này hai người bạn nghệ sĩ ấy, một tay chơi trống và một tay chơi Tây ban cầm, nhạc cổ điển giờ xoay xuở ra sao? Và còn Bá Linh, Châu, Sĩ, Hiền, H Đ Đại, Bùi Ngọc Sĩ…các bạn ra sao?

Tôi tự hỏi có thể làm được gì trong đêm tối này và nhất là tôi còn phải làm nhiệm vụ trực bệnh viện đêm nay và còn biết bao nhiêu thương binh đang cần sự giúp đỡ chữa trị.

Tôi tìm cách trấn an Ngọc và khuyên Ngọc sáng hôm sau tìm mọi cách thoát hiểm về miền Nam, còn tôi, tôi còn nhiệm sở, tôi cũng sẽ tìm cách xoay xuở tuỳ theo tình thế biến chuyển thế nào. Tôi không thể bỏ đơn vị vào lúc này. Sau nhiều lần thuyết phục mà không lung lạc được tôi, Ngọc bật khóc: “nếu tôi thoát hiểm và về được Sài gòn một mình tôi sẽ nói sao vói bà xã Thuý San của Thức và Gia đình Thức “.

Tôi thuyết phục Ngọc rằng tôi tôi chỉ có một mình cũng dễ xoay trở và khi tình hình cho phép sẽ có quyết định đúng. Hẹn gặp lại Ngọc một ngày gần đây.

Bữa ăn chấm dứt, tôi không nhớ tối hôm đó chúng tôi ăn những gì, đưa Ngọc về phòng trọ của tôi trong thành phố để tránh pháo kích, còn tôi trở lại bệnh viện tiếp tục quần thảo với thương binh.

Tôi làm việc thâu đêm. Vừa xong một ca mổ trở xuống phòng cấp cứu đã 3 giờ sáng, gặp một bệnh nhân bị thương ở ổ bụng đã 2 ngày và rõ ràng đã bị viêm phúc mạc (péritonite), tôi đưa bệnh nhân lên phòng mổ và quyết đinh mổ ngay.  Nhóm Y tá làm việc với tôi đêm đó than phiền: “Bác sĩ bắt chúng em làm việc nhiều quá ai cũng mỏi mệt kiệt lực hết, ngày trước các Bác sĩ Phạm Hà Thanh, Nguyễn Quang Huấn, … họ có phải làm việc nhiều như thế này đâu?”. Tôi cảm thấy bị xúc phạm khi họ đem tên tuổi của các đại huynh trưởng ra hù doạ tôi, nhất là thời các vị đó làm việc ở đây, chiến tranh đâu đã khốc liệt như bây giờ. Tôi trả lời với họ rằng chính tôi, tôi cũng đã mệt mỏi vì tôi đã làm việc không nghỉ từ sáng hôm qua. Nhưng đây là việc cần phải làm chúng tôi phải làm ngay và tôi hỏi lại họ nếu đây là thân nhân của họ, họ có muốn đi ngủ, bỏ bẽnh nhân lại cho phiên trực ngày mai không? Và chúng tôi đã mổ bệnh nhân đó với vết thương  bụng lủng ruột làm viêm phúc mạc. Ca mổ chấm dứt lúc 6 giờ sáng, tôi có một giờ để chợp mắt trong phòng trực.

Bảy giờ rưỡi sáng, một đợt thương binh 5-7 người được đưa đến phòng cấp cứu. Nhóm bệnh nhân này không có gì trầm trọng, chỉ những vết thương ở phần mềm tứ chi, chúng tôi rửa ráy thay băng và  cho thuốc ổn định thì nhóm bác sĩ trực ngày hôm sau, (ngày 28 tháng 3) vừa đến. Gặp Y sĩ Đại Úy Nguyễn Ngọc Khôi, tôi bàn giao phiên trực, anh Khôi nói: “toa khỏi bàn giao bệnh nhân cho moa, ra mà bàn giao với VC ngoài hàng rào kia kìa”.

Tôi giật mình bừng tỉnh và ý thức được rằng tình hình tuyệt vọng đang xảy ra trong thành phố.

Ngay sau đó chúng tôi được lệnh tập họp ở văn phòng trưởng khu Ngoại khoa để gặp anh Lương. Giờ phút này tôi tin rằng những điều Ngọc nói đêm qua là đúng. Tình hình đã tuyệt vong, đã đến lúc phải thoát hiểm.

Buổi họp hôm đó có hầu hết mọi người trong khu Ngoại khoa: anh Lương, anh Khôi, anh Vũ Quốc Cương, anh Tuấn anh Khá (phó trưởng khối ngoại khoa), anh Hiếu, anh Khưu Ngọc Tiên và cả Nguyễn Đình Ngọc (thuộc Tiểu đoàn 1 QY), cả anh Trương Ngọc Thạch vừa đi phép ở Saigòn mới ra trình diện sáng nay. Mọi người xúm lại hỏi tại sao anh Thạch dại vậy. Anh Luong thông báo với chúng tôi là tình hình đã hòan toàn suy sụp, Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 đã di tản, không còn gì có thể cứu vãn được nữa; anh không thể điều hành và chịu trách nhiệm về chúng tôi đuợc nữa.   Anh nói đến lúc này các anh nên tự lo liệu thoát thân. Lệnh tan hàng đã chính thức ban ra, chúng tôi hết sức lo lắng, cuống quít chẳng biết làm gì.

Anh Khưu Ngọc Tiên than phiền rằng phải chi lệnh tan hàng ban bố sớm hơn, vào đêm hôm qua thì tôi có thể đưa các anh lên tàu Đồng nai vì tàu vẫn còn đậu ở sông Hàn tối hôm qua, bây giờ không biết phải làm sao! “Chúng tôi vội vã bắt tay nhau và rời bệnh viện. Tôi đến chào từ biệt anh Phạm Văn Lương. Thiếu tá Lương bắt tay tôi và nói: “rất tiếc, anh mới ra đơn vị, chúng tôi chưa làm lễ tiếp đón anh mà bây giờ chúng ta phải chia tay.”  Anh hỏi tôi sẽ làm gì, tôi đáp:  “em phải tìm cách xuôi Nam về với gia đình”. Anh chúc tôi may mắn. Tôi hỏi lại anh sẽ làm gì. Anh trả lời (nguyên văn): “tôi không thể sống được với chế độ cũ nhưng cũng sẽ không thể sống được với chế độ mới”. Đó là câu nói cuối cùng của anh đối với tôi. Lúc bắt tay anh, nhìn xuống bàn giấy tôi còn thấy 2 quả lựu đạn trong chiếc xắc tay đang để mở của anh. Chúng tôi rời TYV

Duy Tân lúc 10 giờ sáng và chạy ra bến tàu. Thành phố ngập xe cộ, giao thông tắc nghẽn, mọi sinh hoạt đều tê liệt, mọi người đều hốt hoảng tìm cách chạy lấy thân.

Năm giờ chiều, sau nhiều giờ ngược xuôi chen lấn trong hàng chục ngàn người chạy loạn, như một phép lành, tôi và Ngọc lên được một chiếc tàu đậu ở quân cảng Đà nẵng. Tàu Trường Sơn là chiếc tàu dân sự duy nhất còn lại. Chúng tôi bỏ lại hết mọi thứ chỉ lo chạy lấy thân. Chỉ 15-20 phút từ lúc tôi và Ngọc nhảy được lên tàu, tàu nhổ neo và chỉ chở khoảng 100 người tị nạn. Tàu đậu lại qua đêm ở vịnh Đà nẵng và nhổ neo xuôi Nam sáng hôm sau khi thành phố đã đổi chủ.

Đó là những kinh nghiệm và kỷ niệm của tôi trong những ngày cuối cùng phục vụ tại TYV Duy Tân. Những đóng góp của chúng tôi cho quân đội quá ít ỏi nếu không muốn nói là không đáng kể. Quê hương và đất nước đã sớm mất trước khi chúng tôi có dịp đóng góp kiến thức và khả năng cho xã hội. Các bạn đồng khóa 21QY Hiện dịch với tôi cũng đã tan tác trong biến cố di tản từ miền Trung, nhiều bạn đã hy sinh, nhiều bạn bị bắt cầm tù và một sộ bạn may mắn thoát được về Nam, để rồi sau đó một số lớn phải vào trại tập trung của Cộng sản sau ngày sụp đổ của nền Cộng Hòa non trẻ của quê hương Việt nam.

Ngày 28 tháng 3 năm 1975 là ngày cuối cùng tôi từ giã Tổng Y viện Duy Tân và các đồng nghiệp đàn anh với lời chúc may mắn. Anh Phạm Văn Lương tôi không còn dịp nào gặp lại nữa, anh đã tự vận trong trại tù Cộng sản khoảng năm 1976. Tôi không có tin tức gì về anh Tuấn và anh Phạm Bá Khá. Các anh Nguyễn Ngọc Khôi, Trương Ngọc Thạch và Vũ Quốc Cương định cư ở miền Nam California ( anh Cương vừa tạ thế 2-3 năm trước), anh Khưu Ngọc Tiên hình như đang ở Fresno, miền Trung California, anh Hiếu đang ở San Jose. Phan Thanh Hải vẫn ở lại Saigon và ngày nay đã trở thành một đại gia.

Nguyễn Đình Ngọc và tôi thoát được về Miền Nam, tôi may mắn thoát khỏi Việt nam vào ngày cuối cùng của chế độ Cộng hòa, trôi dạt sang Mỹ từ năm 1975 và may mắn không “được đi học tập cải tạo” như những người bạn khác; nhưng Nguyễn Đình Ngọc bị kẹt lại ở quê nhà, tinh thần suy sụp trong cảnh “nước đau dân khổ” và vừa mất vì bạo bệnh khoảng 3-4 năm trước.

“Những người muôn năm cũ.”

“Hồn ở đâu bây giờ?”

Hồi tưởng lại những kỷ niệm 40 năm trước, ngày tôi rời Đà nẵng và Tổng Y Viện Duy Tân, là những ngày cuối cùng tôi phục vụ đất nước và quân đội. Chúng tôi đã chu toàn nhiệm vụ của một quân Y sĩ cho đến phút cuối cùng khi có lệnh đào thoát trước khi Đà nẵng rơi vào tay Cộng sản.  Chúng tôi không tự rời bỏ nhiệm sở như những người khác đã nói và đã làm..

Gần đây, có một bài báo đăng trên tuần báo KBC viết về Quân Y (tháng 11/2014), tác giả là một Quân Y sĩ của Sư Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến, đã tả lại những ngày giờ cuối cùng ở Đà nẵng (bên cạnh các vị chỉ huy cao cấp ở vùng 1) với những chi tiết về ngày giờ khác hẳn những gì chúng tôi đã trải qua ở Duy Tân.

Tác giả đã viết rằng: “Tổng Y Viện Duy Tân đã hòan toàn bỏ ngỏ vì tối ngày 25/ 3/75, ông vào Bệnh viện và thấy Bệnh viện trống trơn, tối om chỉ có vài y tá còn làm việc.  Ông tìm mãi mới thấy một bóng người đơn độc đi trong bóng tối, mang quân phục Nhảy Dù và đeo lon Thiếu Tá, hỏi ra mới biết đó là Y sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương”. Theo ông kể: Bác sĩ Lương nói rằng mọi người đã bỏ đi hết rồi.

Thật sự, trong suốt thời gian làm việc tại Tổng Y Viện Duy tân, tôi chưa bao giờ thấy Thiếu tá Lương mặc quân phục Nhảy Dù và tôi nhớ rất rõ những thời điểm này vì ngày 25/3 là ngày sinh nhật của tôi, tôi và các bạn đồng ngũ đã làm việc bất kể giờ giấc ngày đêm và mãi đến sáng ngày 28 tháng 3 chúng tôi mới đào thoát khi có lệnh tan hàng. Chính anh Trương Ngọc Thạch (hiện ở Pomona) trở lại trình diện đơn vị sau những ngày phép ở Sài gòn cũng có mặt sáng hôm 28/3 ấy cùng với hầu hết các Quân Y sĩ cơ hữu của Khối ngoại thương Tổng Y Viện Duy Tân.

Có lẽ vì lý do TYV Duy Tân đã bỏ ngỏ từ ngày 25/3/75, mà người đồng nghiệp Thuỷ Quân Lục Chiến đã đưa Đại tá Nguyễn Thế Lương, Lữ Đoàn Trưởng Lữ đoàn 147 TQLC với vết thương với mảnh đạn còn nằm ở đầu gối về Bệnh Xá Cam ranh để tự mổ, thay vì đưa vào Duy Tân để chữa trị.

Xong rồi một cuộc can qua dai dẳng, nhưng dâu bể khó quên. Tổng Y viện Duy Tân ngày nào sinh hoạt nhộn nhịp, chẳng biết bây giờ ra sao. Có chăng là:

Dấu binh lửa nước non như cũ
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương
(Đoàn Thị Diểm: Chinh Phụ Ngâm)

Passadena, Tháng 3/2015
Bạch Thế Thức
Nguồn Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân y

https://hung-viet.org/a26061/nhung-ngay-cuoi-cung-o-tong-y-vien-duy-tan-da-nang-03-1975

 

 

Đọc đỡ buồn 

Số là khi phi thuyền Vuốt tóc (Vodstock) của thời còn Liên Sô bay vào không gian thì trên đó có 2 người và 1 khách. Hai người là phi hành gia Depkhualepxep (dép khua lép xép) của Nga và 1 là Vespakhongcop (vespa không cốp) của Balan, Còn khách đây là đồng chí phạm tuân của cộng hòa xếp hàng cả ngày VN. Sở dĩ gọi là khách vì dc phạm tuân ta chẳng biết gì về không gian hay điều khiển phi thuyền gì cả mà chung quy là “đi ké” để mang “tai tiếng” ủa quên tăm tiếng về cho cái nước nghèo sặc gạch mà lại có toàn đỉnh cao trí tuệ loài chôm chôm lãnh đạo.

Phi thuyền Vuốt tóc (Vodstock) đang bay vào quỹ đạo thì dc PT nhà ta ngồi hoài một chỗ buồn quá nên ngứa tay bấm…lộn nút. Và kết quả là Vốt tóc rớt vào 1 hành tinh lạ.

Khi đáp xuống hành tinh lạ này, cả ba được người hành tinh mời đi thăm các nơi xong ăn uống và cuối cùng cả ba cùng xin phép……về.

Thì người lãnh đạo hành tinh lắc đầu và nói:

– Không được. Luật lệ của chúng tôi là các anh đến đây thì ở đây luôn còn muốn đi về phải hỏi chúng tôi 1 câu mà không ai trả lòi đươc tôi sẽ cho về.

Nghe vậy anh Nga hăng hái nói: _ để tui để tui – Nga là ” đầu tầu XHCN ” mà. Để tui, Và anh hăm hở quay lại hỏi người lãnh đạo hành tinh:  – Vậy chứ cái gì là Phương trình không gian trong khối trục tròn xoay trong không gian n- chiều ở định vị dy +2xy dx / x dx

Người lãnh đạo hành tinh nhìn anh chàng Nga bằng con mắt….thương hại và nói: -Thú thật với anh là cách đây mây…thê’ kỷ tụi tôi cũng hơi bị khó khăn còn bây giờ thì đã đưa cái Phương trình không gian đó vào lớp mẫu giáo rồi.

Anh Nga tái mặt lui ra, anh Balan hăng hái bước vào:

_ Thế thì Calculator là gì?

Người lãnh đạo hành tinh nở nụ cười….khinh bỉ:

-Thú thật với anh là trong…..Bảo tàng viện tiền sử của chúng tôi may ra còn giữ 1 , 2 cái để triễn lãm.

Anh phi hành gia Nga và Balan nhìn dc Phạm tuân gầm gừ:

-Mày làm chúng ông kẹt ở đây bây giờ mày mà không hỏi câu gì để chúng ông trở về lại trái đất là chúng ông “wýnh bỏ bu”. Nói xong hai anh đạp cho Phạm tuân 1 cái bay vào…..trước mặt người lãnh đạo hành tinh.

Phạm Tuân “lơ xe” nhà ta quýnh quá gãi đầu gãi tai hỏi…..bừa:

– Thế thì……thế thì…”đảng ủy” là gì?

Vị lãnh đạo hành tinh đang ngồi cười hỉ hả, mặt bỗng tái lại xong hóa xanh và lắp bắp:

– Anh cho phép chúng tôi họp bàn vài ngày rồi sẽ trả lời

Ba ngày sau, Vị lãnh đạo hành tinh triệu tập cả ba vào và nói:

_ Thú thật với các anh là ba ngày qua chúng tôi đã họp bàn và chẳng tìm được câu trả lời………..

Vừa nghe Vị lãnh đạo hành tinh nói đến đây Phạm tuân nhảy nhỏm lên và la:

_ Thì chính là NÓ đó !

Vị lãnh đạo hành tinh không hiểu hỏi lại:

_ Thưa anh nói Nó là cái gì ạ!

Phạm tuân nhảy tung tưng và la lên:

_ Thì mấy ông vừa nói mấy ông Họp ba ngày ba đêm bàn ra tán vào mà chẳng được cái mẹ gì hết thì NÓ chính là ĐẢNG ỦY chứ còn cái gì nữa.

Vị lãnh đạo hành tinh:???

 

 

Lắm đứa được Vẹm bốc thơm bốc thối,
Đem lương tâm đánh đổi chút hư danh

Đứa bày trò làm “từ thiện” loanh quanh,
Hãnh diện nghĩ mình sắp thành “Bồ tát”,
Đứa lạy lục được bạo quyền cho hát,
Nói những câu đốn mạt đến kinh hoàng,
Đứa “yêng hùng” ra mắt sách rềnh rang,
Ngồi họp báo, mặt thếp vàng lơ láo.
Sau rốt hãy trách mình khờ khạo,
Vẫn tin lời quảng cáo ba hoa,
Lũ hoạt đầu lúc tranh cử tung ra,
Nên chọn rặt “dân ta” mà bỏ phiếu.
Có chức tước, chúng trổ mòi bất tiếu,
Đứa mặt mày kênh kiệu, khác ngày xưa,
Đứa về quê kiếm chác chút cơm thừa,
Đứa trắng trợn trở cờ, không che đậy.
Dân ta hỡi, sao còn chưa đứng dậy,
Vẫn ngủ yên, trông cậy mãi người ngoài?
Bao năm rồi nào có thấy một ai
Vì dân Việt mà ra tay “tế độ”!
Đã đến lúc phải cùng nhau tỉnh ngộ,
Để thấy rằng chỉ có chính dân Nam
Mới một lòng vì đất nước giang san,
Chấp nhận cảnh máu đào loang ngập đất.
x
x        x
Gió khẽ rít, người bàng hoàng dụi mắt,
Thoáng rùng mình, nghe lạnh ngắt toàn thân.
Tiếng lá rớt ngoài sân,
Thoảng như tiếng bước chân về thiên cổ.
Trên bàn thờ Quốc Tổ,
Ngọn nến tàn vẫn đổ lệ triền miên.

Cali, Tháng Tư Đen 2019

 

Hãy chụp dùm tôi

Đừng khoe tôi, hỡi người bạn tài hoa,

Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục,

Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,

Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa.

Đừng khoe tôi hình ảnh một quê nhà,

Mà bạn nghĩ đang trên đà ‘’đổi mới’’,

Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,

Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ.

Đừng khoe tôi những cảnh tượng xô bồ,

Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.

Đất nước đã từ lâu không khói lửa,

Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh.

Đừng khoe tôi những yến tiệc linh đình,

Những phố xá ngập phồn vinh giả tạo,

Nơi thiểu số tung tiền như xác pháo,

Khi dân nghèo không muỗng cháo cầm hơi.

Đừng khoe tôi cảnh tụ họp ăn chơi,

Của những kẻ đã một thời chui nhủi,

Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,

Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.

Đừng khoe tôi những con phố ‘’bưng biền’’,

Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,

Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,

Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.

 

Thơ Trần Văn Lương

Đừng than con Tạo vô tình,
Chính mình làm hại dân mình đấy thôi.

Cóc cuối tuần:

Đừng Oán Trách Trời Kia

Đêm giãy giụa, gió lùa qua khe cửa,
Bàn thờ khuya, ánh nến thở phập phồng,
Người gục đầu, xót cho phận lưu vong,
Gần hết kiếp còn lông bông xa xứ.
Rồi nghĩ ngợi lan man về quá khứ,
Hết đổ thừa, lại trách cứ lang bang.
Trong phút giây nửa tỉnh nửa mơ màng,
Dường vẳng tiếng ai nhẹ nhàng khoan nhặt.
xxx

Đừng oán trách trời kia không có mắt,
Bắt dân mình luôn mắc cảnh điêu linh,
Cao xanh vốn dĩ vô tình,
Chỉ vận chuyển theo lộ trình sẵ
Đừng trách mãi chuyện đồng minh trở mặt,
Lật lọng là cố tật chúng lâu nay,
Tiếc thay mình nhược tiểu lại non tay,
Thêm nội phản, nên giờ đây mạt lộ.
Đừng trách lỗi người dân đen thấp cổ,
Họ bao năm luôn đói khổ miệt mài,
Ăn bữa rày, chắc gì có bữa mai,
Nước có mất vào tay ai cũng thế.
Đừng trách kẻ đem xác thân bán rẻ,
Hoặc chạy tiền làm nô lệ bốn phương,
Họ là người bị lừa gạt đáng thương,
Đâu biết được Thiên đường kia chẳng có.
Hãy oán trách lũ tội đồ đầu sỏ,
Đám tay sai Tàu đỏ ở Ba Đình,
Bán giang san rồi khóa miệng dân mình
Bằng tù ngục, bằng cực hình thảm thiết.
Rồi kế đến bọn mang dòng máu Việt,
Vì lợi danh mà quên hết tổ tiên,
Trực tiếp hay gián tiếp giúp bạo quyền,
Để bọn chúng gây nên nghìn thứ tội.
Trách những kẻ đã một thời nông nổi,
Chuyên chở che bọn nón cối tà ma,
Giấu đặc công, du kích ở trong nhà,
Gom gạo, thuốc… chuyển ra bưng từng chuyến.
Trách những đứa xưa đua đòi “phản chiến”,
Tuổi sinh viên chẳng lo chuyện học hành,
Hùa theo bầy thân Cộng để “đấu tranh”,
Lúc nhúc khắp nẻo thị thành gây rối,
Trong khi những thanh niên cùng lứa tuổi,
Phải hy sinh lặn lội khắp chiến trường,
Quyết liều thân để bảo vệ quê hương,
Số phận đến, đành xương phơi.
Hãy trách bọn có hành vi khả ố,
Quên hẳn thời khốn khổ chạy qua đây,
Được chút tiền chưa kịp ấm bàn tay,
Đã cuống quít về loay hoay xoay xở.
Đứa gần chết còn no cơm rửng mỡ,
Bỏ vợ nhà chuồn trở lại quê xưa,
Tồi bại chơi trò “cháo múc tiền đưa”,
Kết lũ kết bè, say sưa sớm tối.      

Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,

Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,

Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,

Đang uốn mình theo gió đón hương bay.

Đừng khoe tôi ảnh Hà Nội hôm nay,

Thành phố đã chết từ ngày tháng đó,

Khi bị ép khoác lên màu cờ đỏ,

Khi triệu người phải trốn bỏ vô Nam.

Đừng khoe tôi những cảnh tượng giàu sang,

Đã được bạn tóm càn vô ống kính,

Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,

Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.

Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,

Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,

Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,

Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan.

Chụp giùm tôi đàn thiếu nữ Việt Nam,

Thân trần trụi xếp hàng chờ được lựa,

Hay bầy trẻ mặt chưa phai mùi sữa,

Bị bán làm nô lệ ở phương xa.

Chụp giùm tôi đôi mắt mẹ, mắt cha,

Mà suối lệ chỉ còn là máu đỏ,

Khóc con cháu ra đi từ năm đó,

Biển dập vùi, đà tách ngõ u minh.

Chụp giùm tôi số phận những thương binh,

Đã vì nước quên mình trên chiến trận,

Mà giờ đây ôm hận,

Tấm thân tàn lận đận giữa phong ba.

Chụp giùm tôi hình ảnh những cụ già,

Bọn đầu nậu gom ra đường hành khất,

Để đêm đến, nộp hết tiền góp nhặt,

Đổi chén cơm dầm nước mắt nuôi thân.

Chụp giùm tôi xác chết những ngư dân,

Bị Tàu giết bao lần trên biển rộng,

Hay những chiếc quan tài chưa kịp đóng,

Chở cha, anh lao động Mã Lai về.

Chụp giùm tôi thảm cảnh những dân quê,

Chịu đánh đập chán chê dù vô tội,

Hay cảnh những anh hùng không uốn gối,

Gánh đọa đày trong ngục tối bao la.

Chụp giùm tôi mốc biên giới Việt Hoa,

Lấn vào đất của ông cha để lại,

Hay lãnh thổ cao nguyên còn hoang dại,

Lũ sài lang hèn nhát lạy dâng Tàu.

Chụp giùm tôi những nghĩa địa buồn đau,

Chúng tàn phá, chẳng còn đâu bia mộ.

Kẻ sống sót đã đành cam chịu khổ,

Người chết sao cũng khốn khó trăm đường.

Hãy chụp giùm tôi hết những tang thương,

Hình ảnh thật một quê hương bất hạnh,

Nơi mà bạn, xưa đêm trường gió lạnh,

Đã căm hờn quyết mạnh dạn ra khơi.

Chiếc thuyền con, ca nước lã cầm hơi,

Mạng sống nhỏ đem phơi đầu sóng dữ.

Rồi tha phương lữ thứ,

Tháng năm dài, quá khứ cũng dần phai.

Lòng người chóng nguôi ngoai,

Tháng Tư đến, có mấy ai còn nhớ!

 

Giậu đổ bìm leo 30-4-1975

Họ lợi dụng Dân Chủ để được bảo vệ trước pháp luật bản xứ; lợi dụng Tự Do bản xứ để chửi quân cán chính VNCH, những người đã hy sinh cho họ được an lành ấm no suốt 20 năm điêu linh ở miền Nam vì mưu đồ bán nước của CSBV. Họ đồng lõa với quan thầy VC trong âm mưu dìm hồn thiêng sông núi vào vũng bùn bồn rửa; bôi bác một tôn giáo đã có công sản sinh ra chữ quốc ngữ Việt và là nền tảng tạo dựng nên cường quốc đang cho họ dung thân phì gia! Họ có còn xứng đáng là con người; nhất là con người lưu vong biết tự trọng với căn cước tị nạn; không “nhổ rồi lại liếm”

*_ Trận mùa Xuân 1975 đã kết thúc với một bên hết đạn phải buông súng; một bên được viện trợ gấp bội để xé bỏ hoàn toàn Hiệp Định Paris 1973 và hoàn tất mưu đồ xâm lăng của đế quốc Cộng-sản Nga Tàu. Từ đó thấm thoát đã 40 năm -gần nửa thế kỷ- để thế hệ lưu vong suy tư và “ôn cố tri tân”; ngõ hầu gây dựng cho thế hệ con cháu một chiến lược hoàn chỉnh cho cuộc chiến giành Tự Do, Dân Chủ vẫn chưa kết thúc để lấy lại giang san mà các vua Hùng đã ngàn năm tạo lập; các vua Đinh, Lê, L‎ý, Trần, Nguyễn đã mở mang bờ cõi và hai nền đệ I & II Việt Nam Cộng Hòa đã bảo vệ vẹn toàn. Bài học 40 năm ấy cho thấy chế độ nhân bản VNCH không chỉ lo đem lại cơm no áo ấm cho toàn dân -kể cả thân nhân kẻ bên kia chiến tuyến-  mà còn phải cùng lúc lo đối phó với xâm lược triền miên không ngưng nghỉ; với phản bội từ bên ngoài và nhất là những phản trắc từ bên trong. Do đó mới có ngày 1/11/1963 và hậu quả tất yếu của nó là ngày 30/4/1975.

Cảnh “giậu đổ bìm leo” 40 năm ấy được ghi nhận bởi các ký giả nước ngoài ít ỏi có cơ may mục kích tại chỗ và các sử gia chuyên nghiệp ghi chép lại một cách trung thực. Nayan Chanda, Pierre Darcourt, Tiziano Terzani là các cây bút trong số đó. Dẫn chứng của các tay đương kim hay cựu trùm cộng sản tuy không có giá trị sử học nhưng cũng lột trần được sự thật mà chính họ từ bên kia bức màn sắt từng lừa dối quốc tế, đồng bào và lừa dối lẫn nhau.

1_ Quân lực VNCH Hết Đạn:

https://www.youtube.com/watch?v=Fgcko7vUWUE

Tướng Soviet Nicolai Firyubin sớm đến Hà Nội giúp trang bị tối đa vũ khí cho CSBV (Cộng sản BắcViệt). Ngay từ đầu 1975 sau những vi phạm lớn nhỏ để thăm dò phản ứng và thấy Mỹ bất động sau ngày BMT thất thủ 10/3, CSBV đã tăng tốc kế hoạch chiếm miền Nam mà họ dự trù kết thúc năm 1976 bằng các hoạt động quân sự ráo riết.

Dù vậy, TT Thiệu vẫn can đảm đến An Lộc để thăm quân sĩ đang đánh bật CSBV khỏi đây sau khi thất thủ hôm 21/3. CSBV tàn sát 250 người Thượng ở Dakson, VC (Việt Cộng) giết hơn 300 tín đồ Cao Đài ở Tây Ninh sau 30 giờ tấn công; đem 1,500 đặc công vào bố trí quanh TSN với 4 khẩu 105 ly tháo rời từng mảnh. BCH của họ đặt tại quận 7 Saigon có một Thiếu Tướng VC và cả 1 thành viên trung ương đảng CS từ 26/4.

Tướng VC Trần Văn Trà có mặt tại Biên Hòa cùng 5 sư đoàn BV từ hôm 25/4. Có tin CSBV dành 300,000 đạn 130 ly để pháo Saigon. SĐ 25BB đóng ở Gò Dầu Hạ thiếu đạn 105 ly và 155 ly trầm trọng: mỗi ngày chỉ được bắn vài tràng! Ở miền Trung, CSBV áp dụng cưỡng bức hôn nhân; buộc gái miền Nam lấy thương phế binh BV như hồi 1955 ở miền Bắc; cụ thể là tại nơi chiếm đóng Quảng Nam.

CSBV và VC vào Saigon bằng 4 hướng, BCH (bộ chỉ huy) ở Biên Hòa: xa lộ 13 hướng bắc vào đường Hai Bà Trưng, hướng Tây vào ngã tư Bảy Hiền từ Tây Ninh, hướng tây nam vào Chợ Lớn và hướng đông hùng hậu nhất với hàng trăm tăng, quân xa, đội phòng không 203 từ Hố Nai vào đường PhanThanh Giản và Hồng Thập Tự. Xe tăng số 843 do Bùi Quang Thân chỉ huy, tài xế Lữ Văn Hàng, 2 xạ thủ Thái Bá Minh, Nguyễn Văn Kỷ và chính ủy Bùi Văn Tùng. Xe khởi hành từ 5g sáng; đến Thị Nghè lúc 11g trưa. Thân gặp 2 quân nhân VNCH dọc đường Mạc Đỉnh Chi; bắt một người lên xe chỉ đường đến dinh ĐL (Độc Lập) và ngừng xe hỏi đường một cô gái đi Honda. Xe bắn chỉ thiên khi đến nhà thờ Đức Bà. Một số quân xa VNCH bị xóa dấu vết và bị trưng dụng chở bộ đội Bắc Việt theo sau.

Các tòa đại sứ đồng minh bắt đầu di tản nhân viên. TQLC Mỹ đốt giấy tờ mật và cả một số tờ $100 USD lấy từ két của tòa đại sứ. TQLC Mỹ không kịp phá bỏ bảng đồng gắn nơi đồng đội của họ tử thương hồi Tết 1968; nguyên văn trích từ Lawrence of Arabia “. . . bởi đó là chiến tranh của họ và thời gian của ta ở đây có hạn”. Dân Ấn và Pháp treo cờ nước họ trước nhà và các cơ sở kinh doanh, trường sở để tránh bị VC tấn công lầm. Sân bay TSN còn ngổn ngang hơn 100 xác máy bay các loại nhưng tháp điều khiển còn nguyên. Ký giả Ý Terzani dùng ảnh chụp chung đã lâu để xin vào TSN gặp Võ Đ. Giang nhờ chuyển tin sớm nhất về 30/4 cho báo Đức “Der Spiegel” ở Hamburg qua ngã Hà Nội -East Berlin. Số phôn của Giang để liên lạc là 924-5149 mà ký giả ngoại quốc ai cũng biết do Thiếu tá VC Phương Nam trực máy. Vài thành viên Canada trong ICCS bị CSBV bắt làm tù binh nhiều ngày nên sau này CP Canada phải rút lui.

2_ Saigon Thất Thủ

Tại dinh Độc Lập (ĐL), xây lại suốt gần 1 năm tốn 1.5 triệu USD; khánh thành hôm 30/10/1966), Tướng nằm vùng VC Nguyễn Hữu Hạnh mặc quân phục đeo 1 sao cùng với Vũ Văn Mẫu, Lý Qúy Chung, Ng.V. Ba và nội các đứng đón Thân. Thân quát hỏi “Dương Văn Minh đâu?”. Big Minh bước tới trả lời “xin bình tĩnh; chúng tôi đã đầu hàng rồi!”.

Sinh viên Nguyễn Hữu Thái chỉ lối cho Thân leo lên tầng trên treo cờ Mặt Trận Giải Phóng hồi 12:15 trưa 30/4. Chính ủy Tùng đến sau 10 phút; tự giới thiệu với Big Minh và bảo Minh cùng 18 thành viên nội các rằng họ cứ tự nhiên. Thân ra lệnh “Anh Minh” đến đài phát thanh đọc lệnh đầu hàng chính thức do chính ủy Tùng viết tay. Lời tuyên bố ngừng bắn của Big Minh trước đó đã được thu âm vào máy của kí giả Đức Boris Gallash (Bùi Tín-HXT tr.53).

Bọn sinh viên Thái đến đài trước nhưng không biết dùng nên loay hoay 2 giờ sau và vài lần thử mới phát thanh được lúc 2:30 chiều. Sau khi đọc lệnh đầu hàng, Big Minh ra lệnh giải tán Chính quyền quốc gia ở mọi cấp. Ls Vũ Văn Mẫu, thủ tướng hô hào toàn dân đón chào “hòa bình” và ra lệnh công chức trở lại làm việc. Minh và Mẫu được Cộng sản Bắc Việt chở về dinh ĐL. Phó TT. Nguyễn Văn Huyền về nhà nằm nghỉ. Nửa giờ sau, tăng Cộng sản Bắc Việt vào dinh. Người nhà ông đã chở ông bằng xe Honda đến dinh trình diện hồi 5g chiều.

Hàng chữ “The Noble Sacrifice of The Allied Soldiers Will Never Be Forgotten” ở Tân Sơn Nhất đã bị bôi bằng sơn trắng. Trại Davis bị chiếm hồi 1g trưa. Lm Chân Tín mô tả đêm hôm 29/4 trong hầm trú ẩn của VC: “. . .khi nghe DVM tuyên bố đầu hàng trên radio, cảnh tượng (trong hầm) hết sức vui mừng. Chúng tôi ra khỏi hầm gặp Tướng Tuấn. Bộ đội ôm nhau nhảy và đi tới lui. Tướng Tuấn cho giết con gà và đem chai rượu ra ăn mừng. Chúng tôi thấy chiếc T54 đầu tiên hồi giữa trưa nhưng không rời trại cho đến 6g chiều vì vẫn còn giao tranh ở Bộ TổngTham Mưu . . .Võ Đ. Giang ký cho chúng tôi giấy phép đầu tiên để đi đường hôm 30/4”. VC ở Lộc Ninh sắm dép mới cho cán bộ về thành. Tướng Trà đến dinh ĐL lúc 5:30 chiều cùng chính ủy Bùi Thanh Khiết. Phạm Hùng ẩn nấp lâu ngày không bị lộ diện ở quận 7 Saigon; nay cũng đến đó. Lê Đức Thọ đến Saigon hôm 1/5 từ Lộc Ninh và Biên Hòa. Y làm bài thơ dài gởi Bắc Bộ Phủ mừng chiến thắng. Chiều 30/4, Hải quân Bắc Việt đến Saigon để gom tàu thuyền còn kẹt lại. Hồi 12:50, một chiếc Mi-6 của KQ. CSBV đến TSN để “tiếp quản”; có ký giả Lê Bá Thuyên của tờ “Hanoi Illustrated Review”, dân Saigon tập kết tháp tùng. 

3_ Saigon Hỗn Loạn

https://www.youtube.com/watch?v=QkKVOYe_qp4

 Sau khi TT Thiệu từ chức hôm 21/4, hoang mang và hỗn loạn bắt đầu diễn ra ở Saigon không kém ở miền Trung. Nhóm Lm Tín, Gs Luân và Ls Liễng từ nhà Big Minh ở số 3 Trần Quí Cáp đến trại Davis gặp VC Võ Đông Giang và phải ngủ lại đêm 29/4. Triệu Quốc Mạnh thay Tướng Nguyễn Khắc Bình đã thả 300 tù VC rồi từ chức. Đã có hơn 150 chiến đấu cơ VNCH di tản sang Utapao. Tướng Phú tự tử bằng thuốc sốt rét Novakin tại nhà. Sau khi bị cộng sản Bắc Việt bắt sống hồi 1954 với cấp bậc Đại úy, ông được thả nhờ sinh viên học sinh ở Saigon biểu tình áp lực trước cửa phái bộ Bắc Việt do Văn Tiến Dũng cầm đầu hôm 20/7/1955. Chỉ còn 136/219 vị dân cử lưỡng viện đến Quốc Hội bầu Big Minh làm Tổng Thống. Lý Qúy Chung đề nghị đầu hàng VC nhưng Tướng Minh không chịu. CSBV không chấp nhận tướng Đôn hay ông Lắm làm Thủ tướng vì 2 người này là “tay chân của Thiệu”. Ông Lắm từng ký HĐ Paris và bị TT Thiệu bãi chức do khi kí đã “hug” VC Nguyễn T. Bình. Ông Huyền từ chối chức này để tránh tiếng là thân Công giáo (CG). Cựu Tướng Pháp Vanuxem, cố vấn TT Thiệu đến gặp Big Minh bảo đừng đầu hàng; chờ Liên-xô, TC can thiệp. Sau khi Big Minh tuyên bố đầu hàng lúc 10:20 sáng 30/4, bồi bàn “Joseph” nằm vùng ở Caravelle Hotel la lớn “C’est fini, c’est fini!” (thế là xong!)

Một đám sinh viên Vạn Hạnh do Nguyễn Hữu Thái cầm đầu chiếm trường Đại học Vạn Hạnh; tự xưng là “Phật tử Yêu nước” rồi 2 giờ sau tự xưng “Hội Đồng Cách Mạng” in giấy phép đi đường cấp cho quân cán chính VNCH. Thái một mình đến Ấn Quang nhờ VC Thích Trí Quang thuyết phục Big Minh

đầu hàng VC và thông báo cho MTGP 10 trung tâm Phật Giáo (PG) để họ tránh đừng pháo kích nhưng MT không trả lời! Thái nghe Vũ V. Mẫu nói trên phôn “nhờ Trí Quang xin MTGP cho một số viên chức nội các rời VN và cho đại diện quân sự của Big Minh gặp MT để thảo luận đầu hàng”. Thái rời trường Vạn Hạnh đi tìm Lý Qúy Chung tại dinh ĐL để xin vào đài phát thanh nhưng tài xế không chịu đi. Thái (cha là Sĩ quan VNCH) tâm sự y theo VC khi gặp chúng trong tù hồi 1964 khi y biểu tình chống Chính phủ Nguyễn Khánh. Thái được Đ. Tá Mỹ Wilson, cố vấn của tướng Kỳ che chở nên bị VC nghi ngờ và bị thất sủng sau này. Thái bị bắt lần 2 năm 1966 tù 2 năm; ra tù vào bưng ở Quế Sơn, Đà Nẵng nhưng VC không tin dùng. Y bị động viên vào TTVB Thủ Đức năm 1968. Y giúp VC với bí danh “Hai Hòa” phụ trách giao liên với nhóm VC ở Ấn Quang; tổ chức ám sát Trần Q. Bửu 2 lần hụt nhưng thành công giết Gs Bông. Ra tù 1974, Thái lại liên hệ nhóm Ấn Quang và Mẫu nên được có mặt trong dinh ĐL hôm 30/4. Y than “vào Đảng không dễ” vì lí lịch và giai cấp; hơn nữa y trông cậy vào tổ trưởng VC vụ giết Gs Bông để tên này khai tên y ra mà lập công; khốn nỗi tên VC này lại hợp tác với địch để tránh bị án tử nên mộng vào đảng CS của y tan thành mây khói!

Big Minh được CSBV thả hồi 7:30 tối 2/5. Big Minh từng quen biết Huỳnh Tấn Phát hồi 1945. Lễ trả tự do có mặt chính ủy Bùi Thanh Khiết, Tướng Trà – chủ tịch Ủy Ban Quân Quản và Cao Đăng Chiếm phụ tá. Trà phát biểu tuyên truyền: “. . .vinh quang dành cho mọi người Việt”. Big Minh đáp từ: “Tôi 60 tuổi hôm nay vinh dự được một lần nữa làm công dân Việt Nam tự do”! Big Minh và nội các được miễn tù cải tạo. Nhà ông nay không còn VC canh gác nhưng phôn bị cắt và ít ai còn lui tới. Nhà PTT Huyền ở 181 Hồng Thập Tự cũng vậy. Ông Huyền tiết lộ có một số SQ. VNCH đến nhà Big Minh phản đối lệnh đầu hàng nhưng tướng Minh trấn an được họ nên cũng êm. Vũ V. Mẫu xác nhận “lực lượng thứ ba” không còn hiện hữu. Nguyễn Văn Hảo được mời vào dinh ĐL để báo cáo về kinh tế. Hảo nộp 16 tấn vàng cho VC theo luật quốc tế và có lẽ cũng để lập công. Bọn cầm quyền ở Bắc Bộ Phủ đã chia nhau bỏ túi số vàng này; tổng cộng 27 tấn (Bùi Tín-MMTK tr.147). Hình ảnh căn nhà dát vàng của Nông Đức Mạnh hiện nay là một bằng chứng hùng hồn. Tin đồn TT Thiệu lấy đi 16 tấn vàng do chính CSBV và VC tung ra; nguyên văn “cho đến ngày 26/4 khi Thiệu và gia đình hắn đem 16 tấn vàng bạc, đô-la, của cải vội vã chạy sang Đài Loan. . .” (Văn Tiến Dũng -ĐTMX trang 249)!

Trường Vạn Hạnh nay là trung tâm “cách mạng”. Sinh viên đeo băng hiệu màu vàng của trường và làm việc không lương suốt ngày. Trong sân và 2 phòng lớn có hơn 1,500 súng carbin, 2,600 M16, 400 M72, 174 M79 và 3 thùng súng ngắn. Bên ngoài đường có 14 quân xa; tất cả do cựu binh VNCH đem đến nộp và trình diện. Nhóm 15 sinh viên Vạn Hạnh lấy súng và lựu đạn của binh sĩ BĐQ bỏ lại trường để chiếm phân khoa Nông Nghiệp trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm cạnh đài phát thanh. Một sinh viên VH bị một CSQG bắn chết khi la lớn mừng MTGP. Bộ đội BV và “cách mạng 30” (CM30) đeo súng M16 đến chiếm Maxim Hotel cạnh Majestic Hotel ở bến Bạch Đằng. Một CM30 bắn thị oai để giải tán đám đông bu quanh hai cô gái “ăn sương” cãi lộn trước Continental Hotel đã bị hai bộ đội lại tước sung.

4_ Saigon Đổi Chủ

 https://www.youtube.com/watch?v=fxbgmqMTihE

Đài TV Saigon tái hoạt động hồi 7g tối 1/5 với hình ảnh cờ xí BV & MTGP và chân dung HCM. Sau đó, Huỳnh Tấn Mẫm phát biểu và một VC đọc lệnh cấm lưu hành “văn hóa đồi trụy” Saigon. Ba ngàn người kể cả một số cảnh sát viên lánh nạn ở bệnh viện Grall của Pháp đã ra về hôm 2/5. Bưu điện Saigon mở lại hôm 7/5. Con gái của Nguyễn Hữu Thọ (Chủ tịch MTGP) di tản đi Mỹ với “chồng” người Mỹ. Một cựu bộ trưởng của MTGP từng là bồ của một sĩ quan cảnh sát VNCH cũng đã theo di tản ra nước ngoài. Thống đốc Lê Q. Uyên, phụ tá và toàn bộ ban quản trị Ngân hàng quốc gia VN bị bắt tại sở làm cùng toàn vẹn 27 tấn vàng. Ông Uyên tốt nghiệp ở Pháp; tuổi chưa đến 40. Ông kẹt lại vì đã đem vợ con vào ngân hàng chờ máy bay Mỹ đến đón nhưng có lẽ đã không nghe thấy tiếng phi cơ. Ông được mời vào dinh ĐL nhưng sau cũng bị tù cải tạo. Có mấy tin đồn: TT Thiệu nhờ hãng hàng không Thụy sĩ Balair chở 16 tấn vàng đi gởi nhưng bị từ chối, vàng được chôn bí mật ở Thủ Đức, vàng được gởi trong két của Banque Francaise d’Asie. VC Lê Minh Châu nay làm giám đốc Saigon-Gia Định National Bank.

Lý Qúy Chung nịnh bộ đội có mặt trong dinh ĐL; nguyên văn “mọi vinh quang đều thuộc phần các anh!”. Một cán bộ tập kết tên Cổ Tấn Chương tức “Bảy Phan” cùng đồng chí đến chiếm bưu điện Saigon. Hai tháng sau, y phụ trách kiểm duyệt văn hóa. Mẹ già và anh chị em của y vẫn ở Rue Foucault phía sau nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi từ hồi 1945 đến nay. Y cũng có anh em là sĩ quan VNCH. Y từng học Lycée Chasseloup Laubat Saigon trước khi theo VM ra bắc. Anh thứ 3 của y là Đại tá KQ.VNCH di tản sang Mỹ. Bộ đội chiếm tòa đại sứ Anh vẫn ngủ bằng “võng Trường Sơn” giăng trong tòa nhà này; có lẽ sợ bị đầu độc?! Toán bộ đội khác vào tòa đại sứ Ý của đại sứ Rubino đã về nước; khoe tìm thấy “máy nghe lén” (máy massage) của CIA “cài đặt” bên trong nệm giường ở đây!?

Cảnh tượng chiếm đóng đa dạng: Lính BV không tuân thủ đèn đường; giặt quần áo treo đầy hàng rào dinh ĐL. Họ dùng gỗ thùng đạn để nấu cơm ngay tại công viên trước dinh. Lệnh giới nghiêm từ 6g chiều nhưng không ai chấp hành. Dân Saigon nhận diện để phân biệt sĩ quan và lính BV qua số bút gắn túi áo của chúng: nhiều bút cao cấp hơn ít bút; không bút là lính quèn?! Một tu sĩ PG leo lên xe tăng CSBV trên đường Công Lí để ôm hôn các cán binh trên xe. Một nhóm CM30 ở đường Lê V. Duyệt gần khám Chí Hòa la lớn và đi xé cờ VNCH và các biểu ngữ. Một tăng CS án ngữ cổng nhà tù này rồi một cán binh xuống xe cám ơn đồng bào đã ủng hộ “cách mạng” và loan báo 7,000 tù ở đây đã được thả. Một sĩ quan BV cấp cao đến thăm một linh mục già ở Hố Nai; cám ơn ngài đã cứu cha mình hồi 1953.

Lần đầu tiên, kỷ niệm chiến thắng ĐBP được tổ chức ở Saigon hôm 7/5/1975. Toàn bộ lãnh tụ MTGP đều có mặt; trong đó có Tướng Trần V. Trà. Trà sinh 15/1/1918 ở Quảng Ngãi, gia đình nông dân, có nhiều bí danh từ 1939-1944 như Sing Tich, Lê V. Thắng, Anh Tư Chí ..vv.. Y sang Tàu tháng 2/1949, Nga tháng 12/1949; chỉ huy khu Saigon-Cholon từ 1952 và đánh An Phú Đông, Thủ Đức hồi 1968. Y xác nhận đã giết ký giả Pháp Lucien Bodard hồi thập niên 1950s. Y khoe vợ đẹp tên Lê T. Thoa và con gái luôn sống ở Saigon không bị phát giác. Y đeo 1 sao hồi 1958 khi chỉ huy SĐ 330 CSBV; vào nam 1964 đeo 2 sao từ 1973 dưới quyền N. Chí Thanh. Trà chơi máy ảnh và là “phó nhòm” duy nhất được Phạm Hùng cho chụp ảnh. Võ N. Giáp mặc thường phục cùng đi với 2 cận vệ rảo khắp Saigon sau 30/4 mà không ai hay biết.

5_ Nam Việt Bìm Leo

https://www.youtube.com/watch?v=73WEtjQ2uxg

Lm Chân Tín xin ra Côn Sơn thả tù CS để lập công nhưng không được phép. Ông ngượng ngùng bảo Terzani: “đã xong cả mà không cần chúng tôi”. CS tỏ ra rằng nay họ tự giải phóng tù của họ mà không cần tay sai hay quốc tế. Lm Nguyễn Gia Thụy trở lại Côn Sơn hôm 27/4 yêu cầu Đ.Tá Lâm Bùi Phương thả tù chính trị nhưng bị từ chối. Ông đại tá giám đốc nhà tù này di tản bằng ghe rồi bị VC bắt ở Bến Tre. Lm Phương cùng các cai tù Dậu, Hiên, Đông mở cửa tù cho VC. Trong đám tù VC Côn đảo có Lê Quang Vinh Gs Pétrus Kí, “kĩ sư Tinh”, Bùi Hữu Nhan theo VM từ 1945, Lê Cầu tù từ 1962. . . Trại tù này về tay VC từ 2 giờ sáng. Dậu cùng Vinh, Phan Tư lập BCH và ra lệnh bắt cai tù “Bảy Dũng”, Ching Kuang và 20 người khác; giao lại cho bộ đội BV hôm 4/5. Tất cả tù Côn đảo được đưa đến Vũng Tàu hôm 6/5 để thanh lọc. Lm “hốt rác” VC Phan Khắc Từ cầm cờ máu cùng một số CM30 xông vào trụ sở Tổng Công Đoàn Liên Đoàn Lao Động VN ở số 14 Lê V. Duyệt ngay sau hôm 1/5. Y phân công cho đệ tử gác cổng rồi cùng CM30, dân thất nghiệp, nằm vùng và côn đồ đi xé các biểu ngữ cũ; làm và treo các bảng “Hội Đồng Nhân Dân CM”, xé bỏ các ảnh Trần Q. Bửu bắt tay TT Thiệu và Đs Bunker. Y ngồi vào bàn của Tr. Q. Bửu; tuyên bố sẽ lập Tổng Công Đoàn Giải Phóng và cho in lại tài liệu công đoàn XHCN dùng trong vùng VC kiểm soát. Vợ của Lm Từ đảng viên CS hồi 2014 đã phổ biến trên Internet thư xác nhận mụ là vợ Lm Phan Khắc Từ.

Những kẻ nằm vùng và CM30 nay ra mặt xông xáo khắp miền Nam. Một bà bán nước mía lâu năm ngay trước cổng Ty CSQG Quảng Ngãi nay là thành viên HĐCM tỉnh. Một kẻ “điên” ăn xin lâu năm ở trạm xe bus và thường la hét giữa đồng ruộng; nay là sĩ quan VC ở tỉnh này. Một “gia đình” sống gần Hotel Anh Đào ở BMThuột; nay là nhóm chỉ đạo MTGP với tên họ không liên hệ huyết thống.

Bồi bàn Bình của Kim Hoa Restaurant ở góc Pasteur-Lê Lợi Saigon nay là cán bộ VC trở lại để chỉ huy. Một bà lao công của Saigon Circle Sportif nay là cán bộ cao cấp của MTGP. Cận vệ trẻ của Lm Trần Hữu Thanh nay là bộ đội du kích MTGP. Lm Trần Hữu Thanh, người ủng hộ chế độ cũ và tôn thờ quốc kỳ có “3 sọc đỏ cũng là Ba Ngôi Thiên Chúa” (Trinity) được Trịnh Đ. Thảo mời vào dinh ĐL đề nghị cộng tác nhưng ông từ chối khéo. Ngay sau khi VC chiếm dinh ĐL, một nhóm “VC chiêu hồi” mà Lm Thanh giúp tìm việc làm; nay tìm thăm ông và cho biết họ hiện là du kích xâm nhập trá hàng! Thư kí Trần Thị Lan của bà Ngô Bá Thành nay là cán bộ VC. Hai sĩ quan phụ tá của Đại tá Đỗ Việt ở Cục CTCT nay là VC. Tên “Joseph” bồi bàn ở Continental Palace Hotel (CP) sau 30/4 lộ mặt VC nằm vùng: Y qui tụ nhân viên hôm 19/5 để mừng sinh nhật HCM rồi tố cáo ông Lợi quản lí là tư bản “bóc lột”. Ông Lợi bị đuổi rồi lâm bệnh.

Những ông bố “vô danh” hay “chết” trong giấy khai sinh của con em vùng sôi đậu nay về thành đoàn tụ với “vợ góa”, “con côi”! Soeur giám đốc một viện mồ côi CG ở Bến Tre bất lực nhìn mấy “trẻ mồ côi” của mình bị (cha mẹ chúng) bắt cóc đem đi giữa ban ngày! Sau 3 tháng “giải phóng”, 1/2 trong số các “trẻ mồ côi” như thế được cha mẹ VC (tập kết, nằm vùng) đem về nhà từ các trại mồ côi CG, PG hay của chính phủ VNCH! Phan Văn Thao, lãnh tụ VC ở Mỹ Tho trước 30/4 lấy tên giả đóng vai chủ vựa lúa, để ria mép, đeo kính trắng; sau 30/4 mới lấy lại tên thật sinh năm 1927 (đã khai tử năm 1956), bạn học của Th. Tá VC Phương Nam cùng quê; học ở Lycée Lemyre de Vilers (sau này là Ng. Đ. Chiểu). Phụ tá của Thao là Lê Thanh Hiên sinh 1937, một Đại úy VNCH nằm vùng chuyên cung cấp tin tức và sơ đồ hành quân cho Thao. Hiên vào đảng CS từ 1960 rồi hợp tác với Thao từ 1967. Thao tự xưng là anh em họ của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm nên Khiêm biết y là VC mà vẫn làm lơ!? Thao cũng khoe hôm 25/4 đã dùng Honda lên Saigon gặp Khiêm để khuyên ông ta ở lại VN nhưng Khiêm nói ông phải đi vì sợ CIA?!

6_ Saigon XHCN

Chợ trời Tôn Thất Đạm đông tấp nập ngay hôm 1/5. Nhiều bộ đội học lái xe Honda lấy được của dân di tản. Dân Tàu Cholon hạ cờ Taiwan và ảnh Tưởng để treo cờ TC và ảnh Mao. Dép râu, ảnh Hồ và cờ BV, MTGP được Cholon sản xuất để kinh doanh. Bộ đội bảo con buôn: “Bác chỉ để tặng; không được bán”! Một đồng tiền BV đổi $2,000 VNCH ngoài chợ đen. Bộ đội “biến chất” đem xăng, rượu cognac, whisky chiếm được để đổi đồng hồ, kính râm, xe đạp và “đài” (radio). Xăng Mỹ màu tím nay được thay bằng xăng Liên-xô màu vàng do bộ đội “thoái hóa” trộm bán ngoài chợ trời. Có một tá bộ đội bị ám sát chết và 30 cuộc xử tử trộm cướp ở Saigon do bộ đội gây ra trong ba tháng chiếm đóng.

Một bộ đội ngố ở chợ Hai Bà Trưng kiên nhẫn suốt mấy giờ đứng chờ một cậu bé đem xe đạp lại trả sau khi nó được cho “mượn đỡ vài phút”! Nhiều bộ đội ngố mua lầm đồng hồ Seiko giả của HongKong. Ngoài đồng hồ và “đài” (radio), máy ảnh Polaroid rất được bộ đội BV chiếu cố. Tuy không phải loại 3-D nhưng ảnh chụp lấy liền cho thấy hàm trên răng vẩu chìa ra khỏi cái mồm cười toe toét của mấy bộ đội trẻ quê kệch trông có vẻ lớn hơn răng thật (chắc vì cận ống kính nhất)?! Một bộ đội con của Trần Huy Liệu (chết 1969) tên Trần Thành Công (đổi từ Trần Huy Công sau “giải phóng”) khoe đã mua dĩa Beethoven ở chợ trời đường Lê Lợi vì biết tiếng Đức; từng học ngành hóa chất ở Leipzig, Đông Đức; nay là họa sĩ. Khu cổng TSN cũng biến thành chợ trời đông nghẹt. Sách cũ bày bán vội ở hiên Cafe Rex để tránh bị cấm sau 22/5 theo thông cáo hôm 15/5 của UBQQ. https://www.youtube.com/watch?v=BxkTYEuLDrE

Nhật báo độc nhất SGGP chỉ phát hành mỗi ngày không quá vài ngàn tờ; tin tức một chiều đơn điệu gây nhàm chán nên từ tháng 7/1975, bọn CM30 chỉ mánh cho VC mở thêm mục vu khống chế độ cũ; bịa đặt những bí ẩn giật gân để in thêm báo câu khách. Các tin giật gân gồm: Tướng Đặng Văn Quang buôn lậu ma túy và giàu có! (VC chống TT Thiệu tất phải bôi bẩn các phụ tá đắc lực của ông. Nếu có bằng chứng, CP Mỹ, Canada và tòa án quốc tế đã chẳng để ông yên thân). Đường dây gạo lậu trước đây do bà Ngô Thị Huyết, dì của TT Thiệu cầm đầu! Cao Giao của Newsweek VC nằm vùng ở Saigon còn bịa đặt rằng TT Thiệu bận giao du với gái 14-15 tuổi do tay chân cống hiến! Ngoài Tướng nằm vùng thật Ng. Hữu Hạnh, tin đồn Tướng VNCH Đồng V. Khuyên, bà con với tướng VC Đồng Văn Cống là sai. CP Mỹ đánh giá Tướng Khuyên là tài ba, cần mẫn và thanh bần nhất của VNCH. Tướng Khuyên không có nhà riêng; vợ chỉ nuôi gà phụ đồng lương của chồng ở trong khu gia binh TTM. SGGP số ngày 3/7 đăng thư của “độc giả” CM30 Lê Hữu T. đề nghị cấm dân Saigon nghe “đài ngoại” như VOA, BBC; đài mà Ph.V.Đồng, Võ N.Giáp, Ng.V.Linh nghe hàng ngày (Bùi Tín-HXT tr18). Các rạp hát nay chỉ chiếu phim Hà Nội về HCM, “anh hùng” Ng.V. Trổi..vv.. Phim Liên-xô, TQ chiếu rất ít ai mua vé coi.

Phần lớn giáo sư đại học Y khoa di tản (Nha khoa đi 1/2) nhưng GS ngành kiến trúc hầu hết ở lại. GS khoa xã hội do Mỹ đào tạo bị đi tù “cải tạo”. Trường Vạn Hạnh mở lại tháng 7/75. Chiến dịch xóa dấu vết văn hóa Saigon bắt đầu với việc giật sập tượng TQLC trước tòa nhà quốc hội VNCH hồi 10:30 sáng 5/5. Một nhóm CM30 (kiểu vệ binh đỏ Tàu Cộng) ở chợ Bến Thành xúm cắt ống quần “patte” (ống loe) của một cô gái Saigon; đã bị bộ đội buộc phải bồi thường cho nạn nhân. Đám SVHS “CM30” có trụ sở ở đường Duy Tân chia làm nhiều toán hôm 23/5 đi từng nhà thu gom sách báo “đồi trụy”. Nhiều tóan bị chủ nhà chận cửa hoặc đuổi ra ngoài. Sách “Love Story” bị đốt. Sách của Steinbeck viết trước kia không bị cấm nhưng sách viết sau khi ông đến VN với lập trường ủng hộ quân đội Mỹ thì bị thu. Sách của Solzhenitsyn bị cấm tuyệt. Vụ phản kháng mạnh nhất là tại lề đường Nguyễn Kim: nhóm CM30 thấy có vài tờ Playboy bèn lấy cớ đòi tịch thu hết số sách báo bày bán còn lại. Người bán, một cựu binh VNCH nổi giận lấy ra một quả lựu đạn rút chốt khiến ông và 3 “CM30” chết banh xác! Nhiều xe tải chở sách giáo khoa “cách mạng” từ Hà Nội vào Saigon; cất ở VP báo chí

cũ ở đường Tự Do để cung cấp cho các trường. Buổi hòa nhạc đầu tiên được tổ chức tại tòa nhà quốc hội cũ có Nguyễn Hữu Thọ dự. Bản “La Donna el Mobile” của Rigoletto được hát bằng tiếng Nga.

7_ Vắt Chanh Bỏ Vỏ

Bọn CM30 bị giải tán sau 3 tuần lễ “làm cách mạng”. Một số vào bộ đội khi có đợt tuyển quân hồi tháng 6/1975 để làm bia đỡ đạn sau này bên Kampuchia. Bọn quân quản xuất thân du kích và nằm vùng các địa phương sau này đều bị phế thải. Ngay cả bọn MTGP ở trung ương đều bị thất sủng gần hết. Trương Như Tảng vượt biên, tên phụ tá tự tử vì bị vợ con chửi và làm nhục (hồi kí “Truong Nhu Tang: Une Viet Cong Mémoire” 1984). Bản thân tướng Trà bị cấm ra mắt hồi kí “Những Chặng Đường B2 Thành Đồng” hay “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm” hồi 1987 (có số lượng nhỏ in lại ở hải ngoại) được cho là giành công với Văn Tiến Dũng qua hồi kí “Đại Thắng Mùa Xuân”, NXB. QĐND 1977 trước đó. Cựu Tướng Trà sau bị đầu độc và chết trong một bệnh viện ở Singapore; tựa như số phận Nguyễn Bá Thanh sau này vậy!

Số phận nhóm phản chiến CG: Báo “Đối Diện” thân VC của Lm Tín ra hồi tháng 7/1969; sau trao cho cựu Lm Ng.Ngọc Lan đổi thành “Đồng Dao” rồi “Đứng Dậy” trước 30/4. Sau 30/4 báo bị cấm hẳn. Ng. Ng. Lan tâm sự: “tôi liên lạc lần đầu với Mặt Trận hồi 1968 khi Gs Luân đem tôi đến vùng GP Bến Lức gần Mỹ Tho. . .anh em và bạn bè tôi quyết định hợp tác với người Marxist và chúng tôi sẵn sàng nhận lệnh từ du kích quân . . .nhưng cán bộ bảo không cần tôi sang phía họ; chỉ cần GHCG đứng ngòai cuộc chiến”. Lm Lan sau này lấy vợ và có đứa con gái; bị VC thất sủng và ám sát hụt súyt chết mấy lần. Tờ “CG và DT” số ra ngày 10/7 đăng chuyện (tuyên truyền lố bịch) ở giáo xứ Bắc Tiến, Gò Vấp: “Một bà ôm bộ đội nói ‘cám ơn anh đã vào giải phóng kịp bằng không chúng tôi đã rơi vào tay CS và chịu số phận tử đạo!’. Anh bộ đội nhìn bà ngạc nhiên, trả lời ‘nhưng tôi vừa là CG vừa là CS!”. Chủ bút là Lm Nguyễn Đình Thi trong nhóm phản chiến từ Paris về. TGM Bình hợp tác với chế độ và ủng hộ nhóm phản chiến các Lm Thi, Tr. Bá Cần, Huỳnh C. Minh và Chân Tín. Lm Minh vẫn còn là tai mắt của chế độ bên trong Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn.

Ông Ngô Công Đức nổi tiếng thế giới với tựa đăng trên báo Tin Sáng của ông “Yankee Go Home!” khiến ông phải sống lưu vong ở Bangkok; sau 30/4 đã trở về Saigon qua ngả Hà Nội để gặp Phạm V. Đồng. Hôm 6/6, ông Đức được Nguyễn Hữu Thọ mời vào dinh ĐL. Ông tuyên bố vu vơ “tôi không phải cộng sản nhưng biết đâu có ngày thành CS cũng nên!”. Ông sinh năm 1936, cháu của TGM Bình. Cha là địa chủ bị VM giết. Ông chống cộng kiểu cố TT Diệm (chống đem quân Mỹ vào VN) nên báo TS bị tịch thu 282 lần trước khi bị đình bản hẳn tháng 2/1972. Sau 2 lần bị ám sát hụt; có lẽ để cảnh cáo, ông phải qua Thái ẩn dật. Ông từng được ĐGH Paul VI tiếp kiến. Thụy Điển cấp passport cho ông đi công du các nước để chống can thiệp Mỹ. Trong chuyến Âu du tháng 7/1973, ông đã gặp Phạm V. Đồng. Sau 30/4, nhóm 29 người của ông Đức được miễn tù “cải tạo”; tuy nhiên báo Tin Sáng chỉ được tái bản một thời gian ngắn. 

8_ Tống Cựu Nghinh Tân

Trước 30/4 có khoảng 400 ký giả nước ngoài ở VN; 150 đã di tản trước khi Tân Sơn Nhất đóng cửa. Số 127 kẹt lại sáng 30/4 được chở đi Vientiane- Lào hôm 24/5 bằng 2 chiếc Ilyuchin; trong đó có Tướng Vanuxem. Ký giả Pháp Michel Laurent bị lạc đạn chết trên đường đi Xuân Lộc. Nhiếp ảnh viên Jean-Claude Labbé bị bộ đội chận xét vì đeo băng đỏ và huy hiệu HCM. Khi anh ta trình thẻ đảng viên CS Pháp, tên bộ đội đưa tay lên vành nón cối chào và nói “cám ơn đồng chí!”. Hai phái đoàn ICCS Poland và Hungary được VC tổ chức tiệc tiễn về nước chiều 7/5. Khách gồm tướng Trà, Đ.tá Dương Đ. Thao, nữ Th. tá Phương Dung. Sứ thần Vatican, GM LeMaitre gốc Bỉ bị bọn CG phản chiến xua đuổi theo lệnh VC hôm 3/6 nên bộ đội chỉ đứng nhìn không can thiệp; nhưng khi 300 giáo dân từ đường Trương M. Giảng đến giải vây cho ngài thì bị nổ súng chận ở góc Trương Tấn Bửu khiến 3 bị thương và một số bị bắt. Tại TSN sau khi bị trục xuất, sứ thần Vatican LeMaitre bị VC khám kỹ hành lí và chiếu đèn quay phim.

VC trổ tài chơi xỏ -biệt tài vô địch của chúng- các đồng minh cũ của VNCH: Chúng mời cựu đại sứ Pháp Merillon đến dinh ĐL dự lễ chiến thắng hôm 15/5 nhưng lại cố tình in sai giờ khiến ông bị tẽn tò! VC không ra lệnh trục xuất nhưng chỉ lặng lẽ đuổi ông đi hôm 5/6. Vì chỉ có máy bay của International Red Cross và UNICEF thuộc LHQ được đáp nên mãi đến tháng 6 mới có tên ông: “Jean-Marie Merillon, Nationalité Francaise, né 1926, Passeport numéro 593”. Ông đi cùng các giáo sư và y tá Pháp bị trục xuất cùng lượt. VC vớt vát cho ông đỡ “mất mặt bầu cua” bằng một trò tiểu xảo: đuổi hết hành khách xuống sân bay rồi mời ông, hành khách đầu tiên được lên lại máy bay! Hành lí của ông

do một phụ tá xách đã bị một bộ đội khám xét: VC tỏ thái độ cho Merillon biết ông không còn được hưởng qui chế miễn trừ ngoại giao vì “tội” đã làm đồng minh của kẻ thù chúng.

9_ Cướp Đoạt và Trả Thù

 https://www.youtube.com/watch?v=VShmkOLipGk

Hãng bia BGI bị chiếm sáng 30/4. Hơn 2,000 công nhân tịch thu súng của vài lính gác rồi lập HĐCM 5 người. Chủ tịch là Huyền Ngọc Thanh 50 tuổi từng bị tù 3 năm ở Chí Hòa về tội nằm vùng trong TCĐ để cung cấp thuốc tây cho VC trong bưng. Gia đình chủ Pháp nay chỉ còn là chuyên viên kỹ thuật của BGI. Chính ủy nay là Ng.Nam Lộc 53 tuổi từng là CT.CĐLĐ trong vùng VC; hồi 1956 nằm vùng coi kho nhà đèn Saigon bị bắt; ra tù 1961 rồi vào bưng. Hãng pin Con Ó cũng bị tịch thu. Tiệm vàng Bảo Chu ở 165 Tự Do nay phải bán cháo $150/chén. Continental Palace Hotel do Mathieu Franchini làm chủ từ thời Pháp. Con trai Philippe kế thừa sau khi ông qua đời; đã trao cho ông Lợi quản lí‎ vì anh ta mê hội họa hơn kinh doanh và thường xuyên sống bên Pháp. Philippe sang Saigon trước 30/4 một tháng để bán khách sạn này nhưng bất thành. CP Hotel bị bộ đội tịch thu hồi tháng 6/75 rồi đuổi nốt hai khách trọ cuối cùng là hai ký giả Terzani của Italia và James Fenton của Anh.

Givral Hotel từng được đổi tên thành Garden Hotel khi chủ Pháp về hưu mở tiệm bánh kế bên và bán lại bar cho người Tàu Cholon thời Mỹ vào VN. Nhưng mọi người đều thích gọi tên cũ. Đây là trung tâm gián điệp lớn nhất và nhộn nhịp nhất ĐNÁ thời đó. Gián điệp đã cung cấp tin BMT thất thủ sớm nhất cho ký giả Pháp Paul Leandri của AFP khiến ông bị CSQG bắn chết ngay trước cổng BTL ở Saigon hồi tháng 3/75 sau khi ông gởi tin này đi. Một cảnh thương tâm xảy ra ở Givral trước ngày bị tịch thu: phụ nữ tên Phụng, ca sĩ, bị người tình quận trưởng (Q. X?) bỏ rơi sau khi di tản với vợ con; đã đến lảm nhảm điên loạn một mình suốt ngày. Xe hơi tư bị tịch thu và xung công; mang các bảng số “K1, K2, K3 . . .” để phân biệt ban ngành. Xe gắn máy, quạt trần (bị ngộ nhận là “máy chém” lúc đầu), TV, quạt bàn, phonograph, stereo cassette . . .bị gom chở về BV như chiến lợi phẩm. Chiến thuật cướp đoạt tài sản của VC bắt đầu với 300,000 dân Saigon bị đuổi đi “Kinh Tế Mới” 3 tháng sau ngày 30/4; và nhất là cuộc đánh tư sản và đổi tiền sau đó chỉ là đợt 2 sau vụ cướp 27 tấn vàng trong ngân hàng QGVN.

Hàng ngàn “tòa án nhân dân” mở ra khắp miền Nam sau 30/4. Nạn nhân là các chiến sĩ quốc gia nhiều công trạng như Lê Trình ở Quảng Ngãi hôm 17/4, xã trưởng Túy ở Tân Quí Đông, Nhà Bè hôm 4/7, Thiếu Úy Lê Nhật Thanh ở Châu Đốc hôm 12/7, Lê Văn Hội hôm 19/6 ở quận Bình Hòa với những chứng cớ viển vông đến độ “quan tòa” cũng không thể kết án tử hình! Cha xứ nhà thờ Vinh Sơn ở đường Trần Q. Toản Saigon bị vu cáo và bắt đi thủ tiêu ..vv.. Một Đại úy viết báo tường do VC tổ chức trong một nhà tù ở Vĩnh Long đã dại dột khai thành tích thắng trận giết nhiều VC; tịch thu nhiều súng AK47 vẫn còn nguyên trong bọc mỡ bò hiện chôn dưới lòng sông. . . khúc. . .; thay vì được về sớm như mong đợi thì đã bị ra pháp trường ngay hôm sau! Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, cháu cố TT Ngô Đình Diệm, bị bắt tù giam ngoài bắc lâu năm; sau bị trục xuất sang Úc, nơi mẹ ngài tị nạn. 

10_ Kết Luận

Giậu đã đổ hôm 30/4/1975; chỉ còn hồn thiêng màu cờ tồn tại; nhưng bìm thì vẫn leo suốt 40 năm qua; thậm chí còn vươn cánh tay dài ra tận hải ngoại khắp 5 châu lục để ăn sâu bám rễ. Chúng núp danh nghĩa ngoại giao, kinh doanh, du lịch và tôn giáo để hoạt động kinh tài cho VC qua việc bòn rút hầu bao nạn nhân của chúng; những người từng bị VC cướp trắng tay 40 năm qua; từng bị giam hãm đọa đầy khổ sai nhục nhằn; thân nhân bị mất mạng trong rừng sâu nước độc có tên mỹ miều là “trại cải tạo” và vùng “kinh tế mới”; hoặc dưới đáy đại dương sâu thẳm mênh mông tăm tối. Nay bị chứng “dementia” hay thậm chí “Alzeimer” tự nhiễm nên có kẻ đã chóng quên bài học còn rướm máu; thậm chí còn manh tâm đón gió trở cờ để được VC cho chấm mút và làm tay sai.

 https://www.youtube.com/watch?v=NqyQi4BnRj4

Họ lợi dụng Dân Chủ để được bảo vệ trước pháp luật bản xứ; lợi dụng Tự Do bản xứ để chửi quân cán chính VNCH, những người đã hy sinh cho họ được an lành ấm no suốt 20 năm điêu linh ở miền Nam vì mưu đồ bán nước của CSBV. Họ đồng lõa với quan thầy VC trong âm mưu dìm hồn thiêng sông núi vào vũng bùn bồn rửa; bôi bác một tôn giáo đã có công sản sinh ra chữ quốc ngữ Việt và là nền tảng tạo dựng nên cường quốc đang cho họ dung thân phì gia! Họ có còn xứng đáng là con người; nhất là con người lưu vong biết tự trọng với căn cước tị nạn; không “nhổ rồi lại liếm” lời thề chống chủ nghĩa Cộng sản năm xưa khi xin tị nạn chính trị và thi vào quốc tịch bản xứ của chính mình? Hay họ chỉ muốn làm thân bìm hoang dại bám víu lên bức giậu xiêu vẹo để làm tiền mà sống tầm gửi?

https://www.youtube.com/watch?v=VShmkOLipGk

https://www.youtube.com/watch?v=wEoyTo797iU

Hà Bắc

 

Anh hùng vô danh – Ngô Minh Hằng

Một nén hươngtưởng niệmvị anh hùng vô danh trong lịch sử . Xin cảm ơn một người bạn đã kể lại câu chuyện thương tâm nhưng hào hùng này của người phụ nữ Việt nam, vợ một vị Trung sĩ của quân lực VNCH. Bà đã sát cánh với chồng để chiến đấu chống lại cuộc tấn công xâm lược khốc liệt của CSVN tại một căn cứ ở Phước Tuỵ Và chính bà cũng là người phủ lá cờ vàng lên thi thể của chồng sau khi vị anh hùng tuẫn tiết vì lệnh đầu hàng ngày 30/4/ 1975…

Hai tay nâng  mảnh khăn tang

Trăm năm thôi vĩnh biệt Chàng từ đây!

Vì đâu đến nước non này

Lệnh kia sao lại trói tay anh hùng ?

Trước hờn bức tử non sông

Thiên thu đâu lẽ thẹn cùng cỏ cây !?

Mịt mù bốn phía trời mây

Tiếng gầm đại bác, tiếng cày xe tăng

Phút giây oan nghiệt bất bằng

Giận cơn hồng thủy cuốn phăng sơn hà

Âm thầm, Chàng bỏ lại ta…

Giữa trăm ngàn nỗi xót xa nghẹn ngào!

Kỳ đài, cờ rũ trên cao

Ngỡ ngàng nghe lệnh chiến hào bỏ không

Đau thương, nhìn lại xác chồngChàng đi theo nước, em không trách Chàng!

Xé manh áo, quấn khăn tang

Lên đầu con trẻ, hai hàng lệ rơi

Xa nhau! … Vĩnh biệt nhau rồi …

Mà không nói được một lời từ ly !

Mắt thần chẳng khép làn mi

Một dòng máu đỏ, tứ chi lạnh dần

Ôm chồng, thân ngã vào thân

Tứ bề pháo giặc xa gần ầm vang

Hai tay nâng lá cờ vàng

Phủ lên cho ấm lòng Chàng, lòng ta!

Tên Chàng dù chẳng sử hoa

Nhưng hồn Chàng đã nhập hòa núi sông

Vô danh vạn thuở Anh Hùng

 

 

 https://www.youtube.com/watch?v=fQV0eSVJHFA

Nam Việt Nam, năm Cộng Sản thứ 44:  Một Đất Nước, Hai Loại DânPhan Văn Song

Lay hoay tháng Tư lại trở về. Đó chỉ là lịch, đó chỉ là một cái mốc của thời gian. Nhưng đối với đa số người Việt chúng ta, nhứt là những người gốc miền Nam Việt Nam, hay đã từng cư ngụ tại miền Nam, tháng Tư là tháng của những kỷ niệm đầy tang tóc, của một quá khứ hãi hùng, của một cái vết thương không thành sẹo được. Miền Nam Việt Nam và dân chúng đã thua cuộc, và đã lãnh cái giá rất đắt của một sự trả thù cho sự lựa chọn một cách sống của mình. Đây là một cuộc nội chiến, cũng như tất cả những cuộc nội chiến, huynh đệ tương tàn chỉ tranh chấp trong một cái nhìn, một quan niệm về cuộc song.

 A –  Cuộc chiến từ giữa hai quan niệm chánh trị: 

1/ Hai nền văn hóa, hai tổ chức xã hội, hai văn minh:

Phải, đây là một cuộc đụng độ không đội trời chung không những của của hai nhơn sanh quan chánh trị, mà là của hai luồng tư tưởng, giữa phóng khoáng cởi mở và hẹp hòi đóng khung, của hai nền văn hóa, giữa một bên là nhơn bản, hiền hòa đặt con người và tình thương vào trọng tâm, và một bên xem con người là dụng cụ sản xuất, là công cụ phục vụ cho một Đảng  vô thần Đảng Cộng sản Quốc tế. Đảng Cộng sản Quốc tế thành công là cứu cánh, con người chỉ là phương tiện và dụng cụ.

Đây là cuộc chiến đấu của phe của những con tim, của những đạo đức, của những đức tin, của nhơn bản, của tình tự dân tộc, của tình tự gia đình, chống phe của những người không còn có con tim, không có tình thương, vì bị một lý thuyết mỵ dân, lường gạt, hứa một thiên đàng không bao giờ có, hứa những của cải, những ruộng vườn không bao giờ cho, hoàn toàn Cộng sản hóa với những người phủ nhận, xóa bỏ quá khứ văn hóa văn minh dân tộc, nhìn nhận tô thờ những ông râu xồm ngoại bang làm thầy, với những lý thuyết vô thần, vô đạo, mơ tạo một thế giới lấy người thay máy móc, lấy con người làm công cụ sản xuất, lấy nhu cầu xác thịt làm cứu cánh phục vụ cho một tổ chức giành quyền lực quốc tế,  mơ thống trị, cầm quyền quốc tế: “Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức người sỏi đá cũng thành cơm ».

Đảng Cộng sản được một tổ chức như một tôn giáo, để thay thế tôn giáo, thay đạo đức tâm linh bằng những bổn phận ngụy danh như cách mạng, như phục vụ Đất Nước, với những chiêu bài giả tạo như nhơn dân làm chủ, nhưng thực tế thay thần quyền bằng đảng quyền. Những Các Mác, những Lê Nin dùng những lời sấm giảng như những Ma-thi-ơ, Giăng, Mác hay Luca của Thiên Chúa Giáo … Xì Ta lin thì khác chi Phao lồ … Đảng Cộng sản quốc tế tổ chức rập khuôn theo tổ chức Giáo hội Thiên Chúa Giáo La mã, với Điện Kremlin-Cẩm Linh tương tự Điện Vatican. Do đó, “Mập mờ đánh lận con đen, Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi?” (TKiều), vàng thau lẫn lộn.

Tư tưởng con người, với sức tiến hóa, với sức phát triển của khoa học, mọi lý thuyết đều phải biết biến cải để hòa hợp với thời đại. Phật Giáo Tây Tạng cũng nhiều phái, Mũ Vàng, Mũ Đỏ,… Phật Giáo cũng phải chia Tiểu Thừa Đại Thừa, Thiên Chúa Giáo cũng nào Chánh Thống, nào Copte, nào Roma, cũng Tin lành … Nhưng với Đảng Cộng sản, tất cả phải gom về một mối. Cộng sản không chấp nhận những tư tưởng khác. Nhóm Đệ tam Quốc tế đã tiêu diệt các bạn đồng hành Đệ tứ chỉ vì bất đồng quan điểm, với Cộng sản không thể có đối thoại, không thể có tranh chấp, tranh cải dân chủ …Chẳng những ở Nga, ở Tàu mà còn cả ở Việt Nam. Hồ Chí Minh và đệ tử nhơn danh chủ nghĩa Cộng sản Đệ tam đã đưa đất nước vào 30 năm chinh chiến chỉ để áp dụng chủ nghĩa Cộng sản thôi ! Chống Pháp dành Độc Lập chỉ là một cái cớ. Những bánh vẽ như Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc chỉ là những từ ngữ trống không, vô nghĩa. Những lời hứa, như Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, khi cướp chánh quyền trên tay Đức Bảo Đại năm 1945, hay khi kêu gọi toàn dân kháng chiến chiến tranh giải phóng… Nay ta thử kiểm điểm xem ngày nay còn cái gì?

 2/ Việt Nam sau 74 năm triều đại Cộng Sản :

Độc Lập? : Năm tới 2020, tròn 75 năm từ ngày cướp quyền, Đảng Cộng sản Hà nội từ cầm quyền nửa nước -1954, rồi cả nước-1975, đã làm xong bổn phận giao toàn bộ quốc gia Việt Nam cho Đại Đế Cộng Sản Hán tôc. Chỉ còn một năm nữa thôi, năm 2020, đúng hạn, đúng hẹn, là chu toàn chương trình Hán Hoá Việt Nam. Từ nay, sẽ hoàn toàn áp dụng toàn thể trên toàn thể đất nước ta! Đúng, năm 2020 nầy, Việt Nam hoàn toàn Hán Thuộc, Hán Hóa! Hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, hai quần đảo chiếu theo sử ký, chiếu theo địa dư, chiếu theo luật hàng hải quốc tế đều thuộc Việt Nam đúng như sử sách, đúng như tài liệu, vì ở cách bờ Việt Nam dưới 200 hải lý, nay từ tình trạng tạm bị cưởng chiếm, nhưng mai nầy, hoàn toàn mất hẳn, lý do là Tàu vừa qua đã tuyên bố nhập vào một đơn vị hành chánh Tàu dưới tên là Huyện Tam Sa của Tỉnh Quảng Đông rồi! Từ nay, Huyện Tam Sa, tỉnh Quảng Đông, gồm từ đảo Hải Nam, xuyên qua Hoàng Sa hướng về Nam hợp cùng Trường Sa giáp giới với các quốc gia miền Nam Đông Nam Á. Xưa biển Đông Việt Nam, nay mai hoàn toàn đúng là Biển Nam Hải của Tàu. Còn trên đất liền của đất nước Việt ta, hàng ngàn mẫu rừng, mẫu đất, xưa đã bán đứt hay cho thuê dài hạn cho Tàu phá rừng lấy gỗ, phá núi phá đồi, khai thác, đây là mõ Bô Xít, đó là khoánh sản, cây kỹ nghệ… Và năm tới sẽ hoàn toàn đất sở hữu vĩnh viễn  vì thuộc một tỉnh của quốc gia Tàu.  

Tự Do?: Hiện ngay, mỗi mỗi cử chỉ hành động chánh trị ngoại giao của Nhà Nước và Đảng Cộng Sản của quốc gia Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đều phải qua Tàu hỏi ý kiến. Còn người dân ?  Người Dân đang sống trong một căn Ngục Tù khổng lồ. Chỉ biết Vâng Lời chỉ thị Đảng và Nhà Nước, ngoài ra tất cả đều bị cấm. Chỉ trích bị đi tù, biểu tình đòi Tàu trả đảo, bị đàn áp đánh đập, hàng chục tờ báo không có một tờ báo tư…Luật An Ninh Mạng bóp miệng, bịt tư tưởng…

Hạnh Phúc?: Ai sống hạnh phúc ? Thành phần cán bộ, đảng viên… Xã hội Việt Nam ngày nay chia làm hai LOẠI dân: loại một ăn trên ngồi tróc, của thế giới của kẻ cầm quyền, của một nomenklatura, nhà sang, cửa rộng, xế hộp, hàng sang … Trái lại, loại dân thứ hai, đầu tắc mặt tối kiếm ăn ngày hai bửa. Sàigòn Hànội nhan nhản em bé bán vé số, chị bán hàng rong, cảnh những hàng người, nam thất nghiệp phải culi cửu vạn, bán mồ hôi, sức lao động, sắp hàng buổi sáng chờ người thuê vẫn còn như thời Pháp thuộc, gái, thất thời, bán thân thể, khi gái phòng trà, chạy bàn, lúc rửa chén tiệm ăn, khi đấm bóp, lúc bia bia ôm hay tôi nghiệp hơn phải bán cả trôn và tiết hạnh để nuôi thân, nuôi gia đình.

 Và chiêu bài chiến tranh giải phóng ? Giải phóng gì? Giải phóng ai ? Khi Vua Bảo Đại đã hai lần lấy lại Độc lập, Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục đánh, không chấp nhận chánh phủ Bảo Đại:

– Lần đầu năm 45 khi Nhựt đảo chánh Pháp ngày 9/3/ 1945, giao trả Việt Nam lại, và

– Lần thứ hai năm với Hiệp Ước Élysée năm 1949 Pháp trả Độc lập vĩnh viễn cho Việt Nam.

Cuộc chiến tranh do Hồ Chí Minh xúi dục là một cuộc xâm chiếm, chiến tranh xâm lược  để làm phận sự quốc tế, nhuộm đỏ Đông Nam Á

Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô cho Trung Quốc” như Lê Duẫn đã tuyên bố năm nào.

Cuộc Thánh Chiến Cộng Sản nầy đã BUỘC thanh niên nam nữ miền Bắc vượt Trường Sơn  – chết cho xâm chiếm, BUỘC thanh niên nam nữ  miền Nam – chết để tự vệ, và biến:

 3/ Hai Miền Nam Bắc nước ta, xưa kia Đàng Trong, Đàng Ngoài,

ngày nay, Cộng Hòa, Cộng Sản, hai văn hóa, hai văn minh:

Hai miền thành hai đất nước khác nhau, với hai nguồn tư tưởng khác nhau, với hai nền văn hóa khác nhau, với hai cuộc sống, hai nhơn sanh quan, hai nền văn minh khác nhau.

 – Một bên, Miền Nam, phóng khoán, dân tộc, nhơn bản đặt con người làm trọng tâm, đặt đất nước và lịch sử đất nước làm căn bản, lấy tâm linh tôn giáo làm đạo đức, lấy tình thương lân bang láng giềng, anh em gia đình làm lễ nghĩa, ra đường biết thưa vâng, về nhà biết thưa gởi, khi nhận biết cám ơn, khi đưa biết xin phép.

 – Còn một bên, Miền Bắc, không tình không nghĩa, tất cả quan hệ chỉ là tranh chấp, lấy lường gạt làm nền tảng, lấy cướp đoạt làm khí cụ, bé xin, lớn ban, thấp cổ xưng con, lớn mình xưng ông, ra đường chen lấn, về nhà nói trổng nói ngang, chữ thưa không còn, chữ cám ơn không có, quan trên xài của công, cấp dưới xài của cắp. Ra đường thấy hàng đẹp thì chôm, vào nhà thấy hàng ngon thì đớp.

– Miền Nam, trong hai mươi năm mặc dù chiến tranh, mặc dù bị quấy phá, mặc dù nội bị công ngoại bị kích, nhưng dưới chế độ Cộng Hòa của miền Nam, nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa vẫn phát triển mạnh, dân trí người công dân Việt Nam Cộng hòa vẫn đàng hoàng, dân tình người Việt miền Nam vẫn tử tế…

– Ngày ba mươi tháng tư 1975 đến, miền Nam bị xâm chiếm, phe tử tế thua trận, phe đểu cán toàn thắng!. Trên toàn đất nước Việt Nam từ nay, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tuy từ nay đã “gọi là” Hòa bình, tuy từ nay “đã hết chiến tranh”, tuy từ nay “người dân đã hết chạy nạn”.

Nhưng khi kiểm điểm lại, tại sao, năm nay 2019, 44 năm sau, nền kinh tế vẫn èo uộc, rối loạn, cuộc sống người dân Việt vẫn sống trong chụp giựt, quan chức cấp trên bằng giả, viên chức công nhơn cấp dưới bằng chôm, ra đường gặp hàng dỏm, vào nhà hàng ăn uống hàng dơ…Biên giới phía Bắc xóa hẳn, bị Trung Cộng cướp đất, Biển Đông mất biển mất đảo, Hoàng Sa, Trường Sa nay thuộc Huyên Tam Sa do Trung Cộng quản nhiệm. Núi cao do Tàu quản, khai thác Bô Xít, tàn phá môi trường. Biển sâu do Tàu chiếm, cấm ngư phủ ta đánh cá xa bờ…Công trường xây dựng giao cả cho Tàu, công ty thương mãi giao luôn cho Chệt, còn dân Việt ta, can phận nghèo hèn, bán buôn quan gánh, thuốc lá bán lẻ, thuốc tây bán viên, ăn uống vĩa hè, sống sanh đường hẻm… Và người dân vẫn mơ thoát chạy, vượt biên, tỵ nạn !  

B – Đảng Cộng Sản mở đường cho Bắc thuộc-Hán hóa:

Cũng chỉ lựa sai con đường. Đem một học thuyết phá hoại của ngoại bang nhập cảng vào nhà. Một học thuyết bắt đầu bằng một cuộc sang đoạt cướp của, xóa bỏ cương thường, vứt bỏ đạo lý, dẹp xóa tâm linh. Năm 1917, Đảng Cộng sản Nga đã cướp chánh quyền, sát hại cả gia đình Nga Hoàng Nicolas Đệ Nhị, tàn sát toàn bộ giòng họ Romanov, các giai cấp quý tộc, địa chủ, doanh thương Nga để lập một nhà cầm quyền độc tài chuyên chính vô sản. Hoàng đế Lénine, và tiếp theo Hoàng đế Staline đã phải giết, tàn sát, bắt giam, đày đọa hàng trăm ngàn thường dân Nga vô tội, giết và bỏ tù các nhà trí thức, các kẻ viết văn. Những trại giam, những goulag mọc đầy toàn nước Nga. Dưới danh nghĩa Liên bang Sô Viết, các Hoàng đế Cộng sản Nga đã Nga hóa cả chục dân tộc khác nhau, cùng chủng tộc Slave như Belarus, hay khác chủng tộc, như Ukraine hay Georgie, cùng gia đình ngôn ngữ hay khác gia đình ngôn ngữ cũng mặc, thậm chí cả các quốc gia và dân tộc hồi giáo nói ngôn ngữ Thổ nhỉ Kỳ nằm dọc con đường Tơ lụa xưa kia, từ Kazhastan đến Kirghistan đến tận biên giới Tàu và Thái Bình Dương.

Ngày nay, cũng bằng chủ nghĩa Cộng Sản và mai nầy 2020, Hoàng đế Cộng sản Tàu Xi Jinping-Tập Cận Bình, tiếp nối các Hoàng đế tiền nhơn Mao, Đặng hoàn thành Hán hóa Việt Nam, sau khi đã Hán hóa các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng!

Và đúng như viễn ảnh Tố Hữu đã ca tụng, năm xưa:  “Bên kia biên giới là nhà, Bên này biên giới cũng là quê hương…”

1/ Hồ Chí Minh và Việt Nam:

Đệ tam Cộng sản Quốc tế Komintern (Liên Sô) sai Hồ Chí Minh cùng các đồ đệ tiếp tục nhiệm vụ nhuộm đỏ thế giới. Và tất cả không ngại ngùng làm tai sai, phản dân tộc, đi tiếp con đường chinh phục thế giới, đem màu Sô Viết nhuộm toàn Đông dương thuộc Pháp. Điển hình không chối cải được là trong một thời gian dài, trên bức tường các đại sảnh đường của nhà cầm quyền đỏ Hà nội, đệ tử và lâu la Đảng Cộng sản Đông dương và Việt Nam đều họp hành sanh hoạt chánh trí dưới hình ảnh của ba ông râu xồm cộng sản ngoại bang tây phương Cạc Mác Lê Nin và Xì ta lin! Khi đã chấp nhận và đưa vào văn hóa Việt Nam một bài thơ “khóc Xì ta lin” của tay tổ tuyên truyền trưởng ban Văn hóa Việt Nam Cộng sản Tố Hữu là đã mặc nhiên xóa bỏ văn hóa gia đình Việt Nam rồi ! Khi đặt tình thương một tên lãnh tụ một Đảng ngoại bang trên tình thương cha mẹ, trên tình thương chồng con mình (Thương cha, thương mẹ, thương chồng. Thương mình thương một, thương Ông thương mười.) thì xin miễn bàn, và hết ý kiến !

2/ Apocalypse-Hồ Chí Minh :

Nhớ lại năm qua 2018, đài Truyền hình 2 Pháp cho chiếu đoạn 3 của tập phim Apocalyse kỷ niệm 100 năm Thế chiến thứ Nhứt. Thật kinh hoàng, cuộc chiến 1914-1918 được đặt tên là Cuộc Đại Chiến La Grande Guerre. Được đặt tên như vậy là lần đầu tiên trong lịch sử âu châu và thế giới có một cuộc chiến với nhiều quốc gia tham gia như vậy. Ngoài hai đồng minh Đức-Phổ/Áo-Hung phía đông chống hai cường quốc Pháp Anh, hai đế quốc phía tây âu châu với sự góp mặt của các thuộc địa, Anh với Ấn độ, Úc, Tân tây Lan, Nam Phi, Canada …, Pháp với các thuộc địa Bắc Phi, Tây Phi hay Đông dương, lại thêm có Nga, Ý, Thổ nhỉ Kỳ, Nhựt bổn. Mặt trận trải dài hàng ngày cây số, thoạt đầu lưu động, sau đó, đào hào lập chiến lủy ngó nhau và hằng ngày nướng mỗi bên hằng trăm binh sĩ (Pháp trung bình 900 mỗi ngày, khi có các  lần xung phong à-lát-xô). Lần đầu tiên, đại bác được sử dụng tối đa, đại bác Grande Bertha 400 ly bắn trên trăm dặm, không chiến cũng được biết tới với những anh hùng nổi tiếng như Hầu tước Đỏ-Le Baron Rouge, với 80 chiến công. Hầu tước Đại Úy Phi công Manfred Von Richthofen với chiếc khu trục ba cánh Fokker sơn mầu đỏ và hai khẩu đại liên. Không chiến thời ấy, các phi công như những hiệp sỉ thời xưa, một mình một ngựa, xông vào địch vừa lái vừa nhào lộn tránh đạn vừa bắn để hạ địch thủ. Ngày 21 tháng tư năm 1918, Hầu tước Đỏ vì quá ham rượt địch bay quá thấp nên lãnh đạn do các binh sĩ Úc bắn từ phía dưới. Anh đáp được máy bay, chỉ nói được một chữ « Kaput-xong đời rồi ! » với anh trung sĩ y tá người Úc Ted Smout trước khi tắt thở. Quân sĩ lực lượng Úc châu rất anh hùng trân trọng làm lễ quân táng tay hiệp sĩ phi công người Phổ nầy. Sáu Đại úy phi công (Úc) mang quan tài đi trước giàn lính (Úc) chào, một loạt súng bắn chỉ thiên tiển chưn người anh hùng quá cố. Mộ của vị phi công Hầu tước Đỏ được ai đó ghi dòng chữ « : À notre ennemi vaillant et digne –Tặng người địch thủ can trường và xứng đáng. ». 

Để kết luận : Kể chuyện người, lại nghĩ đến ta :

Càng khen lòng hào hiệp người phương tây, càng khóc cho lòng ty tiện tiểu nhơn của người Cộng sản phương đông mình.

 – Hãy so sánh chuyện vừa kể trên, với cảnh giựt sập Tượng Thương tiếc của Nghĩa trang Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Hay những cảnh hôi của tài sản toàn dân Nam Việt sau ngày thắng trận của quân đội cộng sản Bắc Việt !

 – Hãy nhớ lại những cảnh phe Bắc Việt thắng cuộc chẳng những làm nhục các địch thủ Nam Việt thua cuộc, mà còn đày đọa gia đình vợ con đồng bào miền Nam, mà còn trả thù cả đến những địch thủ đã đền xong nợ nước, chả biết đạo lý, chả biết thế nào là nghĩa tử nghĩa tận : từ những nghĩa trang, đến những góa phụ những con côi dòng dỏi gia đình phe miền Nam gọi với một tội danh mạ lỵ là « ngụy », tất cả mang tội danh ấy như một bảng án lý lịch, bị đuổi nhà, tịch thu tài sản, bị mất chổ làm, bị không được đi học, bị cấm nầy, cấm nọ…

Và đến cả ngày nay, sau 44 năm đô hộ xâm chiếm, hận thù vẫn còn đó, tội danh ấy vẫn còn đó. Cả miền Nam vẫn là Đất Ngụy bị chiếm, con em Dân Ngụy vẫn là một thứ phó dân.

Nước Việt Nam được gọi là thống nhứt, là một, với một quốc gia lấy tên là Công hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nhưng trong nước vẫn là hai thế giới của hai quốc dân, hai loại người Việt : Ta và Ngụy.  

– 1/ thế giới của phe nhà cầm quyền, đảng viên hay thân thuộc đảng viên Đảng Cộng sản, cùng với công dân là những người gốc miền Bắc gốc gia đình có công với cuộc chiến xâm lược, loại ấy là công dân, công nhơn viên cao cấp, quân nhơn, công an, hành chánh phủ huyện..  ấy là Ta ; và

 – 2/ thế giới của thứ dân, phó dân, của dân Ngụy của nước Ngụy Nam Việt đất đang bị chiếm..  của anh thợ, của chị bán hàng rong, của anh đạp xích lô, của em bé bán thuốc lá mía ghim…

Chúng ta đừng bao giờ  quên tuyên truyền Cộng sản Bắc Việt lúc thời chiến tranh xâm lược là đi vào Nam đánh Mỹ Ngụy., ..Chứ có bao giờ Bắc Việt gọi chúng ta người miền Nam là người Việt đâu ? Trong lúc ấy dân chúng miền Nam gọi dân quân Bắc Việt là Việt Cộng (là người Việt Cộng sản). Chúng ta lúc nào cũng vẫn nhận họ là người Việt, nhưng họ không nhận chúng ta là người Việt ! Sau đây là một thí dụ điển hình cho sự đối xử sai biệt ấy :

Cùng tù nhơn chống đối Nhà nước Cộng sản,

 – Cù Huy Hà Vũ (công dân Ta) được Nhà nước Cộng sản Việt Nam chiếu cố lấy tiền nhơn dân Việt Nam cho đi Mỹ chửa bịnh mập, máu cao sau 3 năm nhốt – ở tù mà mập béo quả thật sướng hơn ở tù bên xứ Tây của tui nữa, hèn chi ngày nay dân Việt Nam trong nước nhiều người đấu tranh chống Tàu, đòi đân chủ để được đi tù và may còn ra được xuất ngoại và được Mỹ rước vào nuôi và cấp dưởng –  (tội nghiệp thay cho người tù ! nhơn đạo thay người cầm quyền !) –

 – nhưng Nguyễn Hữu Cầu, gốc là phe ta  miền Nam, là ngụy,  tù 35 năm, bệnh gần chết, gầy ốm tong teo vì thiếu ăn, bệnh nặng mới được thả, mà cũng chẳng được gởi đi Mỹ chửa bệnh.

Cũng cùng một tội, chống thiên tử, chống quan Thừa tướng,

–  Cù Huy Hà Vũ vì là công dân TA dám « kiện » ông quan Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng.

 – Nguỳễn Hữu Cầu vốn dân NGỤY nên chỉ dám, « chỉ trích » thôi – cũng ông quan Nguyễn Tấn Dũng.

 –  Cù Huy Hà Vũ đã là công dân hạng cao cấp lại còn là người có « nghề », lắm nghề :  nào là Luật sư, nào là công tử đỏ, giai cấp quyền quý, nên nguy hiểm bội phần,

– Nguyễn Hữu Cầu, trên răng dưới dế, chỉ là thằng ngụy thôi, chỉ là thằng thua trận, bực mình, thất chí, anh hùng một tý chưởi « đổng » cho đã cái đầu, cho thông cái trí, hai bàn tay trắng, kiếm ăn không đủ, huống chi lật đổ quan Thừa tướng ! lật đổ nhà cầm quyền !

Vậy mà : hai nhơn vật, hai chế độ đối xử, hai cách hành xử ! Não trạng văn hóa của tháng tư đen tối ! Đánh dấu từ đấy những  điển hình của tình trạng pháp lý Việt Nam. Apocalyse-Hồ Chí Minh ! Khủng khiếp ! Thua chi apocalypse Hitler, thua chi apocalypse Đại Thế Chiến 1. Hai cái kia cho cả nhơn loại, còn Hồ Chí Minh là đại họa chỉ giáng vào đầu dân tộc Việt Nam.

Khúc Khải Huyền  khủng khiếp nầy chỉ chấp dứt khi vấn nạn Cộng sản Việt Nam không còn nữa !

Apocalypse Đại Thế chiến chỉ vỏn vẹn trên dưới 4 năm 1914-1918. Apocalypse Hitler đại họa Đen cũng chỉ từ 1938 đến 1945. Apocalypse Đỏ đại nạn Cộng sản Quốc tế trên 100 năm rồi (1917 – 2019) ngày nay vẫn chưa dứt. Với cái đuôi Poutin và họa Đại Nga, với cái đuôi  Xi Jinping và họa Đại Hán, với cái đuôi Bắc Triều tiên và cái họa do gia đình họ Kim.

Và riêng về Việt Nam ta Đại Nạn Cộng sản do Hồ Chí Minh mang đến, ngày nay vẫn chưa dứt ! Và ngày mai ? 2020, văn tự Bán Nước Thành Đô thực hiện. Mất nước là cái chắc !

Hồi Nhơn Sơn, Tháng Tư đen cuối cùng của Đất Nước Việt Nam

 

 

Những người góp tâm huyết cho ngày 30 tháng 4/1975 – Nguyễn thị Cỏ May

Ngày 30 tháng 4 là xương máu của cả 10 triêu nhơn dân việt nam đã đổ trong suốt 30 năm dài. Trong thành quả đó, tưởng cũng đừng quên thành tích đóng góp không nhỏ của một bộ phận nhơn dân có đời sống uu đải và nhứt là họ không phải phơi mình trên lửa đạn. Đó là “Thành phần thứ ba”. Có khi được gọi là “Lực lượng thứ ba”. Hay“Phản chiến” vì họ yêu hòa bình, kêu gọi hòa bình và chỉ kêu gọi phía Miền nam ngưng chiến để có hòa bình tuy chiến tranh do Miền Bắc, với sự yểm trợ hùng hậu của cả khối cộng sản, đem vào Miền nam. Những người thuộc “Thành phần thứ ba” hay “Lực lượng thứ ba” hay “Phản chiến’ không phải ở Miền Bắc tới, mà họ là con em của Miền nam, được Miền nam nuôi dưởng, cho ăn học, cả ra ngoại quốc du học,…

Sau gần nửa thế kỷ “thắng cuộc ”, đất nước về một mối xã hội chủ nghĩa, những điều họ tranh đấu đòi hỏi ngày trước như dân chủ, tự do, xã hội công bằng, người không bốc lột người, no cơm ấm áo, không có bóng dáng ngoại bang,…thì ngày nay, những thứ đó đang phơi bày nhan nhản khắp nơi trên đất nước. Với mức độ trầm trọng hơn cả vạn lần. Nhưng những người yêu nước ấy giờ đây đang ở đâu ? Không thấy họ tranh đấu cho những điều mà ngày trước họ đã đòi hỏi quyết liệt?

Thành phần thứ ba

“Thành phần thứ ba” hay “Lực lượng thứ ba” ra đời trong hoàn cảnh nào, không rỏ ràng lắm.Theo ký giả Pomonti của nhựt báo Le Monde, “Thành phần thứ ba” xuất hiên năm 1960 sau khi Nhóm Caravelle đưa ra bản Tuyên ngôn với 18 nhơn sĩ ký tên đòi hỏi ông Diệm cải tổ đường lối cai trị, chấm dứt tình trạng độc tài gia đình trị. Sau đó thì xuất hiện phong trào quần chúng nổi lên chống chế độ Ngô Đình Diệm độc tài, kỳ thị tôn giáo. Nhưng theo ký giả Decornoy của Le Monde thì vào cuối năm 1969, có một phong trào quần chúng xuất hiện ở Sài gòn chống chánh phủ Nguyễn văn Thiệu, đòi hòa bình, đi theo chủ trương “Hòa giải dân tộc ” của Tướng Dương văn Minh.

“Thành phần thứ ba” gồm một số Dân biểu như Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Lý Quí Chung, Dương văn Ba, Ngô Công Đức ; Sinh viên có Huỳnh Tấn Mẩm, Nguyễn Hũu Thái,…; trí thức có Bà Ngô Bá Thành,…; tu sĩ có Ni sư Huỳnh Liên,…Linh mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ,…

Năm 1971, Sài gòn tổ chức bầu cử Quốc hội. Nguyễn Hũu Thái được Mặt trận Giải phóng Miền nam bí mật móc nối đề nghị ra tranh cử với lập trường “hòa bình đứng giữa ” chuẩn bị cho Thành phần thứ ba khi có Chánh phủ 3 thành phần theo Hiệp định Paris tuy lúc đó Hội nghị Paris chưa kết thúc.

“Thành phần thứ ba ” trở thành một danh xưng chánh thức từ lúc Hà nội đưa ra tại hòa đàm Paris đề nghị thành lập một chánh phủ liên hiệp gồm 3 thành phần.

Nhưng nên hiểu thành phần thứ ba của Hà nội đề cặp không hàm ý có phong trào sinh viên, Dân biểu, trí thức, tu sĩ tranh đấu sôi nổi ỏ Sài gòn đòi Hòa bình. Hòa giải hòa hợp dân tộc vùa xuất hiện và hoạt động đó.

Chánh phủ VNCH trước sau vẫn cương quyết phủ nhận thành phần thứ ba. Năm 1972, Hà nội chánh thức lên tiếng bênh vực phong trào này.

Chẳng những phủ nhận “Thành phần thứ ba” hay “Lực lượng thứ ba”, chánh phủ Sài gòn cũng từ chối có một chánh phủ liên hiệp 3 thành phần như phía việt cộng đòi hỏi. Tuy nhiên, khi “Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình” ký kết tháng giêng 1973 thì có điều 12 qui định thành lập một “Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm 3 thành phần ngang nhau”.

Hà nội coi trọng thành phần thứ ba như là một yếu tố giúp họ thắng lợi bằng chánh trị : “Việc thành lập một chính phủ hòa hợp dân tộc ở miền Nam là chìa khóa dẫn đến hòa bình, và lực lượng thứ ba là một thành phần không thể thiếu được của giải pháp này…” (Phạm văn Đồng trả lời nhà báo pháp Jean Lacouture, Etudes vietnamiennes, Paris).

Để làm áp lực ở hòa đàm Paris, Hà nội cho thành lập Chánh phủ cách mạng Lâm thời. Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời đưa ra đề nghị “8 điểm” có đề cặp thành lập một chánh phủ liên hiệp lâm thời gồm 3 thành phần : những người của Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời, những người yêu chuộng hòa bình, độc lập, trung lập và dân chủ trong chánh quyền Sài Gòn, và những nhân vật của các lực lượng chính trị và tôn giáo, trong hay ngoài nước, có lập trường ủng hộ hòa bình, độc lập, trung lập và dân chủ phản ánh các khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam về hòa bình, độc lập, trung lập, dân chủ, và hòa giải, hòa hợp dân tộc.

Tiếp theo, vào cuối 1973, rầm rộ xuất hiện ở Sài gòn những phong trào đều do Hà nội thổi  lên như :

-Phong trào Phụ nữ đòi Quyền sống (Bà Ngô Bá Thành sáng lập).

-Phong trào Thi hành Hiệp Định Paris.

-Mặt trận Nhân dân Cứu đói (Tổ chức lớn nhất ở miền Nam với sự tham gia của các nhóm Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo và Cao Đài. Linh mục Phan Khắc Từ là một trong 3 phó chủ tịch.)

-Mặt trận các Tôn giáo vì Hòa bình, Hòa hợp, và Hòa giải (Dương Văn Minh sáng lập).

-Lực lượng Hòa hợp Hòa giải Dân tộc (Một tổ chức Phật giáo do Vũ Văn Mẫu lãnh đạo).

-Tổ chức Nhân dân đòi Thi hành Hiệp định Paris (Ngô Bá Thành sáng lập).

-Ủy ban Tranh đấu cho Tự do Báo chí và Xuất Bản (Dân biểu Nguyễn Văn Binh, anh vợ Ngô Công Đức đứng đầu).

-Ủy ban đòi trả tự do cho tù Chính trị của Lực lượng thứ ba.

-Ủy ban bảo vệ quyền lợi người lao động (Linh mục Phan Khắc Từ lãnh đạo).

-Nhóm các Nhà Lập Pháp Tranh đấu cho Tự do, Dân chủ và Hòa bình.

Nhưng hiện tượng quần chúng này chỉ là những đòi hỏi giai đoạn của người cộng sản để chờ đợi đạt trọn vẹn mục tiêu cuối cùng. Đó là ngày 30 tháng 4/1975.

Giải phóng và thống nhứt dân tộc

Sáng ngày 1 tháng 5/1975, tại Sài gòn có cuộc diển binh lớn do Hà nội tổ chức để ăn mừng Đại thắng mùa xuân. Bộ trưởng Tư pháp Trương Như Tảng của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời ngồi trên khán đài danh dự coi diển binh, chờ hoài không thấy Đoàn Quân giải phớng đi qua, bèn nghiên qua hỏi một sĩ quan Quân đội nhơn dân. Vị sĩ quan này trả lời rất vui vẻ « Ủa anh không biết sao ? Quân đội ta đã thống nhứt tối hôm qua rồi kia mà !» (Trương Nhu Tảng kể lại lúc tỵ nạn ở Paris).

Qua ngày 2 tháng 5/1975, chánh quyền mới ra lệnh giải tán tất cả các tổ chức chánh trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo, … được thành lập dưới chế độ cũ. Còn các tổ chức mới thành lập để chống Mỹ Ngụy cúu nước đều bị hoặc tự giải tán, hoặc sáp nhập vào các tổ chức chánh thức của Hà nội như Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ Gỉải phóng, cả Chánh phủ cách mạng Lâm thời, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền nam, các cơ sở vật chất ở hải ngoại, …đều không còn vết tích !

Điều đáng ngạc nhiên là việc giải tán không có một lời phản đối hay than phiền nào của những người trong các tổ chức đó hết cả, mặc dầu họ đã từng cang trường đương đầu với chế độ cũ, không hề sợ sệt dùi cui, hơi cay, tù đày.

Với một nảo trạng như vậy thì ngày nay, trước đất nước bị đảng cộng sản ác ôn cai trị, đảng viên tùy theo địa vị, chia nhau cướp đất bán, cướp của dân làm giàu, khủng bố những người lương thiện yêu nước, đem sáp nhập đất nước vào với nước Tàu để giử đảng, giử quyền, những người đó đều im lặng là phải ! Hay họ đã chết hết rồi tuy có người chưa kịp chôn ?

Không thể có “Hòa giải và Hòa hợp” với cộng sản

Khi nói “Hòa giải và Hòa hợp” với cộng sản không có gì khác hơn là nói “ Hòa giải và Hòa hợp” với Thiện và Ác. Hoặc nói “tư tưởng Dân chủ Tự do Nhơn quyền” có thê hòa giải và hòa hợp với “Chủ nghĩa lý luận không có con người và chủ nghĩa vô nhơn bản” (Trần đức Thảo nói chuyện ở Paris trước khi chết) được không ?

Mà cộng sản ở việt nam không ai khác hơn là Hồ Chí Minh, người từng tuyên bố luôn tin tưởng tuyệt đối ở bác Xít và bác Mao là hai người không thể sai lầm nên đã học tập nhuần nhuyễn tư tưởng của Mao. Xin trích vài nét nổi bậc trong tư tưởng chánh trị của Mao :

“ Làm chánh trị như làm chiến tranh. Không thể có xây dựng nếu không có phá bỏ, hủy diệt.

Tần Thỷ Hoàng không có gì ghê gớm cho lắm vì hắn chỉ chôn sống có 460 nho sĩ. Chúng ta sẽ chôn sống ít lắm cũng phải 46 000 trí thức tiểu tư sản.

Phải thực hiện vườn không, nhà trống triệt để về vật chất và tinh thần. Mỗi người phải như một tờ giấy trắng, không được quyền sở hữu tài sản, nhà đất, và không được có kiến thức, tri thức.Tất cả phải thành“không”, sạch bách ! Những người dân như vậy mới thông minh” (M.H.Bernard, Mao Tsé-toung , 1893-1976 , VOIX , Paris 2003).

Mao chủ trương chánh trị độc tài tuyệt đối như vậy để duy trì chế độ lâu dài. Bởi Lê-nin dạy rỏ “Một chế độ sẵn sàng thực thi khủng bố vô giới hạn thì không thể nào bị lật đổ (Simon LEYS , Essais sur la Chine , Robert Laffont , Paris 1998, trg 4.)

Phải có Dân chủ mới hòa giải và hòa hợp được

Cho tới nay, Hà nội chỉ kêu gọi mọi người về dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nên họ nói rỏ là “Hoà hợp, Hòa giải dân tộc”. Họ chưa bao giờ nói “Hòa giải, Hòa hợp dân tộc”.

Về lịch sử, văn hóa, những kiến trúc cổ ở Sài gòn bị phá để bán địa điểm cho doanh nhơn ngoại quốc xây cơ sở mới. Hà nội không cần thấy người dân Sài gòn thương tiếc  đó là một phần ký ức đời sống của họ bị Hà nội thêm một lần nữa cướp mất. Họ không thể thấy đó là chương trình phát triển đô thị. Không chỉ riêng với Miền nam, mà với cả Miền Bắc, người cộng sản cũng chủ trương che dấu hoặc thay đổi sự thật lịch sử. Những trận đánh Gạc Ma, chiến tranh biên giới hoàn toàn không có trong sách giáo khoa ngày nay. Thậm chí những đồng đội của nạn nhơn làm lễ tưởng niệm những chiến sĩ hi sinh vì lòng yêu nước, bảo vệ tổ quốc, cũng bị công an đàn áp, bắt bớ. Chỉ để làm hài lòng quân tàu cướp nước.Nên những người trẻ ngày nay chỉ còn tìm kiếm qua thông tin trên mạng về những sự kiện đó, để họ cùng nhau trân trọng những gì vốn dĩ thuộc về sự thật và lịch sử dân tộc.

Không thừa nhận lịch sử thì làm sao hòa giải và hòa hợp dân tộc được ?

Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, trả lời đài BBC, cho rằng một trong những yếu tố quan trọng để dẫn đến hoà giải hoà hợp dân tộc, đó là thừa nhận lịch sử, như thẳng thắng thừa nhận vai trò của Việt Nam Cộng Hoà : “Theo tôi bất cứ một giai đoạn lịch sử nào cũng có vai trò của nó. Nếu thừa nhận vai trò đó, của hai bên, nó sẽ dễ dàng hoà hợp.Các

nhà nghiên cứu, làm sử đặt ra vấn đề là phải thừa nhận Việt Nam Cộng hoà là một thực thể. Trong giai đoạn đó có một thực thể, trong đó có vấn đề đối nội đối ngoại, có những điểm tốt, không tốt, lịch sử phải khách quan. Ví dụ như trong vấn đề Hoàng Sa, phải chấp nhận là Việt Nam Cộng hoà đã có trách nhiệm, và Hoa Kỳ cũng đã có phản ứng. Mà khi có phản ứng tức là Trung Quốc đã xâm lược. Đó là một điều phải khẳng định”. Nên thấy bất cứ một giai đoạn lịch sử nào cũng có vai trò của nó. Nếu thừa nhận vai trò đó, của hai bên, thì mới có thể hoài giải và hoà hợp được.

Một hiện tượng việt kiều yêu nước ở Paris

Ông Nguyễn Ngọc Giao học Chu văn An, đậu tú Tài hạng Uu, và gia đình có quan hệ quan trọng với chánh phủ VNCH, được học bổng du học ở Pháp, ở lại Pháp luôn, dạy toán ở Đại học Paris 7 và theo Việt kiều yêu nước. Với Thông hành VNCH có hiệu lực dài hạn, ông hoạt động chết bỏ phục vụ Hà nội vì ông nhận thấy “thực chất các chế độ VNCH” và “tính chất chiến tranh giành độc lập,thống nhứt” của cuộc chiến từ 1946-1975 là những “sự thật khách quan, phủ nhận nó không phải thuộc về lý trí, mà nằm trong lãnh vực tâm lý, tâm thần”. Phải chăng ý của ông muốn nới chỉ có những người điên hay ba trợn mới nhìn nhận những điều đó ?

Một trí thức lớn như Ông Nguyễn Ngọc Giao, suốt 50 năm dài giữ tình yêu và cả tinh thần ngoan ngoản với đảng như giữ chính con ngươi của mình, thế mà khi nhà có tang, ông xin về Việt nam dự tang lễ lại bị từ chối. Ông đưa ra  cả thư của Võ văn Kiệt trước đó mời ông về Việt nam, cũng bị từ chối. Lý do ? Phải chăng chỉ vì tháng 1 năm 1990, ông ký chung với 34 nhà trí thức việt kiều khác bức Tâm Thư đưa ra 3 điều thỉnh nguyện :

-Thực sự tách rời các định chế của Nhà nước ra khỏi bộ máy đảng để cho Nhà nước thu hồi trọn vẹn những quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của mình, và để cho không một ai cũng như không một tổ chức nào có thể đứng trên và chi phối Nhà nước.

-thiết lập một nnền dân chủ đa nguyên, thật sự nảo đảm an toàn cá nhơn và các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội, lập đảng…

-ngay trước mắt, mở ra cuộc đối thoại thành tâm với toàn xã hội, để toàn dân bàn định một cương lĩnh hành động và đề ra những biện pháp cấp bách đặt nền tảng cho một chế độ thật sự lấy dân làm gốc.

Hay vì quan hệ gia đình của ông với Chánh phủ Đệ I VNCH ?

Nhưng nay, ông nhận định tiếp cuộc chiến mà Hà nội nói là “giải phóng, giành độc lập, thống nhứt dân tộc” còn có 1 chiều kích khác nữa, “chiều kích nội chiến”, không muốn nói thêm 1 chiều kích thứ ba  là “chiều kích chiến tranh ủy nhiệm” trong bối cảnh chiến tranh lạnh 1947-1991.

Nói về tính chất nội chiến của cuộc chiến, ông khẳng định nó “phát sanh từ chánh sách mao-ít của đảng cộng sản việt nam từ 1950, đặc biệt từ cuộc Cải cách ruộng đất 1953-1956, loại trừ các thành phần trung phú nông, tiểu tư sản, trí thức,…ra khỏi hàng ngũ nhơn dân”.

Theo ông, ngày nào, những người thiện chí ở mọi bên không nhìn thây rỏ và trọn vẹn cuộc chiến thì đối thoại, hòa hợp, hòa giải đều trở thành ảo vọng.

Ngày nay, sau “50 năm mắc dịch”- 50 năm làm thông dịch cho Hà nội – một thành tích ông kể lại với nhiều vuốt ve, nâng niu, lần đầu tiên ông nhìn thẳng chế độ hà nội là “kỳ thị, độc tài, tham nhủng, bất lực”. Nhưng vẫn chưa thấy ở ông có một sáng suốt hơn cái thông minh xuất sắc về toán học của ông để khả dĩ đề xuất một thái độ tích cực hơn là chỉ tỏ ra tiếc cho những người lãnh đạo cộng sản quên hết lịch sử của chính mình ! (50 năm mắc dịch, Diển Đàn, Paris, 21-03-

 

Thơ Cảm tác – Nhữ Đình Hùng

mùng ba tết Kỷ Hợi 2019

Bảo rằng mất nước tan nhà,
Với ta sông núi vẫn là còn đây!
Sầu đong năm tháng vơi đầy
Hận lòng vong quốc đến nay vẫn còn
Bạc đầu, ai chuyện nước non,
Trắng tay, ta giữ nguyên hồn bán than
Ừ rằng một gốc củi tàn
Cũng xin góp lửa cho ngàn đấu tranh
Chói loà đuốc chiếu sử xanh
Sáng gương diệt Hán phá Thanh rỡ ràng
Kià xưa bắc thuộc bạo tàn
Ừ nay dân Việt lầm than thế nào?
Cờ vàng, ba vệt máu đào
Sầu sông, tủi núi ngày nào xoá đây?
Nối vòng tay, nối vòng tay,
Nước non đợi lại một ngày cùng vui!
Một ngày cờ rợp đầy trời
Việt Nam lấy lại mảnh đời Tự Do.

 

Sao Ta Biệt Xứ! – Lính Già Trần Nam Ca

Có đất nước, có quê hương

Sao ta biệt xứ, tha phương hỡi trời !

Bốn bốn năm chợ đời lưu lạc

Có gì vui tiếng hát dân Hời !

Giống Lạc Hồng đã bao đời

Tự do, độc lập  nay thời tù gông !

Vì giặc Hồ, đeo vòng nô lệ

Bán non sông chỉ để cầu vinh

Xưa theo Nga gây chiến chinh

Nay thờ Tàu cộng, điêu ling giống nòi!

Tháng Tư về sáng soi đen trắng

Bốn bốn năm  ai thắng được ai

Thức khuya mới biết đêm dài

Toàn dân nay rõ  rằng ai nội thù !

Chiếm được nước, cho dù xảo trá

Chiếm lòng dân, cái giá khôn lường !

Ngày nay khắp cả quê hương

Muôn dân oán ghét, chán chường cộng nô !

Bộ mặt thật, giặc Hồ bạo ngược

Bọn vô thần bán nước, mị dân

Mặt nạ giải phóng lột trần

Muôn người nhận dạng  vô nhân trá hình !

Cơn quốc nạn, tử sinh dân Việt

Hãy vùng lên cương quyết cứu quê

Đuổi Tàu, trừ cộng  lời thề,

An dân, báo quốc danh đề sử xanh

Giống Tiên Rồng hùng anh muôn thuở

Con Lạc Việt nhắc nhở đời đời

Làm người đứng giữa đất trời

Viết trang sử mới, đáp lời núi sông

(San Diego, CA tháng Tư 2019)

 

 

Ngày ấy đã qua rồi – Phạm Đình Lân, F.A.B.I.

Chuyện đã qua gần nửa thế kỷ nhưng tôi vẫn nhớ nó như vừa xảy ra chiều hôm trước. Tôi tạm ghi vài dòng về những ngày cuối cùng của cuộc chiến bi thương kéo dài gần 20 năm kể từ ngày hiệp định Genève được ký kết qua ký ức của riêng tôi tại vùng tôi sống.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã từ chức. Phó tổng thống Trần Văn Hương trở thành tổng thống VNCH trong giây phút ngột ngạt nhất của cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai. Bộ đội miền Bắc và các chiến binh MTGP trên đường tiến về Sài Gòn. Tổng thống Trần Văn Hương bị áp lực tứ phía phải nhường chức tổng thống cho đại tướng Dương Văn Minh với hy vọng hòa giải hòa hợp với phe bên kia, từ ngữ của ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và Lý Quí Chung hay dùng, qua trung gian của thượng tọa Thích Trí Quang như tướng Minh tin tưởng.

 28-04- 1975

Trưa ngày 28- 04-1975 tôi uống cà phê với anh Phạm Gia Pháp tại quán của anh Tư. Anh Tư chuẩn bị radio để nghe tường thuật lễ bàn giao giữa tổng thống Hương và tướng Minh tại đình Độc Lập. Anh Pháp và tôi không có dấu hiệu lạc quan nào. Tôi không có thành kiến gì với tướng Minh nhưng không kỳ vọng gì nơi ông. Trưa hôm 28-04 trời rất nóng. Tôi chào anh Pháp và anh Tư, chủ quán cà phê và nước giải khát trước cửa trường Lý Thường Kiệt cạnh ngôi đình. Tôi dùng đường Nhị Bình để về nhà ở Lái Thiêu. Đây là một con đường đất vắng vẻ đi ngang qua một vùng ruộng ngập nước. Xa xa có nhiều lùm cây. Từ đó vọng lên những tiếng kêu khắc khoải và buồn thảm của bìm bịp khi chiều về. Qua cầu Bà Hồng tôi nghe những lời tường thuật lễ nhậm chức từ các nhà cất dọc theo hương lộ đất đỏ. Sau hai cuộc chiến tranh trên quê hương dân mình bắt đầu thích chánh trị. Người thì chủ trương đánh tới cùng. Người thì chủ trương kêu Mỹ thả bom nguyên tử. Người chủ trương có hòa bình, người Việt hòa giải với nhau, sống yên vui một nhà ăn mắm ăn muối gì sống cũng được. Những người khác thực tế hơn âm thầm tìm cơ hội và phương tiện để rời khỏi miền Nam trước khi tướng Dương Văn Minh kêu gọi đầu hàng. Không lẽ Cộng Sản đánh từ vĩ tuyến 17 vào Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Phan Rang, cao nguyên di tản; Quân Khu I di tản; quân Cộng Sản trên đường tiến về Sài Gòn để thương thuyết với tướng Dương Văn Minh qua trung gian thượng tọa Thích Trí Quang mà tướng Minh tin tưởng và hy vọng sao? Thương thuyết về chuyện gì? Tôi suy nghĩ miên man nên suýt lọt vào một lỗ hổng trên chiếc cầu xe lửa bắt ngang qua sông Sài Gòn nối liền Thạnh Lộc và Phú Long. Chiếc cầu này bị giựt sập năm 1949 và được chắp vá tạm bợ cho xe nhỏ chạy qua. Thực tế xe cam nhông chở mía cũng chạy qua cầu này về lò đường Nhị Bình để rút ngắn khoảng cách hầu tiết kiệm xăng dầu. Mỗi lần xe tải nặng đi qua, cầu rung rinh như sắp sửa sập!

Về đến nhà tôi thấy dân trong xóm đứng đầy đường trước nhà, mắt hướng về phía Sài Gòn. Có những tiếng nổ lớn lấn át lời tường thuật trong radio. Anh Henri, người cho tôi miếng đất thành phố để cất nhà, chờ tôi trước nhà. Tôi vừa ngừng xe thì anh hỏi: Mày thấy tình hình ra sao? -Tuần tới dép râu sẽ đến. Tôi vừa đáp vừa ghé vào tai anh nói nhỏ, dặn anh ra ngân hàng rút tiền. Cái gì lẹ dữ vậy? anh Henri nói. Tuy nói vậy, anh vội vã cởi chiếc Honda về nhà. Không thể rút tiền được vì lúc ấy khoảng 06: 30 giờ chiều. Vả lại ngân hàng lớn nằm trên Bình Dương. Tôi vội vã sang nhà mẹ tôi với những lời dặn như đã nói với anh Henri. Không thấy chiếc xe La Đà Lạt tôi liền hỏi mẹ tôi và được biết cháu trai con trưởng của anh tôi chở các em về Sài Gòn. Tôi trải qua một phen xanh mặt vì anh tôi gởi các cháu cho tôi vì sợ Sài Gòn bị pháo kích. Bây giờ các cháu lại bỏ về Sài Gòn giữa tiếng bom đạn chiều ngày tổng thống Trần Văn Hương trao quyền cho đại tướng Dương Văn Minh. Lúc ấy con trưởng của anh tôi mới lên 16 tuổi, chưa có bằng lái chi cả!

Tôi cảm thấy mệt nhưng không đói bụng. Nhiều ý nghĩ lộn xộn nhảy múa trong đầu tôi một cách ngỗn ngang, vô trật tự. Tôi tự trấn an mình và sắp đặt trong đầu những gì cần phải làm theo thứ tự ưu tiên để đáp ứng kịp thời với diễn biến bên ngoài.

Trời vừa sụp tối. Người tập trung ngoài đường lúc chiều đã tản mác. Tôi lặng lẽ đem một số sách vừa xé vừa đốt. Lửa và khói táp lên cây nhãn của người láng giềng. Thấy ánh sáng người láng giềng của tôi chạy ra thì thấy tôi đốt sách. Ông không nói gì cả mà bỏ vào nhà như là một dấu hiệu cảm thông nào đó. Đến khuya áo của tôi ướt đẫm mồ hôi. Các sách cần đốt đã đốt xong. Bức tường phân ranh nhà tôi và nhà người láng giềng bị nám đen. Có hai nhánh cây nhãn bị lửa táp nên chết khô.

Đêm hôm ấy tôi không ăn uống gì cả nhưng tôi không thấy đói. Tinh thần nặng chĩu làm cho tôi thấy no. Tôi ngủ một giấc ngủ dài, nặng nhọc chớ không thoải mái dễ chịu. Đó là một đêm dài yên tĩnh, cái yên tĩnh của người như đang chờ đợi sự bất an đang đe dọa. Thành phố đặt trong tình trạng giới nghiêm. Đường sá vắng tanh. Vài con đường bị rào giây kẽm gai. Thỉnh thoảng nghe tiếng dép nện trên đường nhựa của nhân dân tự vệ và vài tiếng hô hoán vì hình như họ nghe tiếng xe tăng Cộng Sản tiến về Sài Gòn! Đêm vẫn dài cho người chờ sáng. Thành phố Lái Thiêu

được yên ổn trong đêm 28 rạng 29. Không thấy xe tăng Cộng Sản xuất hiện như lời tri hô hốt hoảng của nhân dân tự vệ.

Trong đêm khuya tôi mở đài VOA và nghe lặp đi lặp lại câu Ngày 30-04-1945 thành Bá Linh (Berlin) bị vây hãm. Tôi tự nhủ thầm rằng Sài Gòn sẽ thất thủ ngày 30 nghĩa là 05 ngày trước sự dự đoán của tôi hồi chiều?

 29-04-1975

Lối 09:30 sáng ngày 29 mẹ tôi nhờ tôi chở lên ngân hàng Bình Dương rút tiền. Quốc lộ 13 vắng tanh sáng hôm ấy. Dọc đường thỉnh thoảng tôi thấy có nhiều cuộn dây kẽm gai bên vệ đường. Lên đến Bình Dương thì ngân hàng mới vừa đóng cửa. Các ty, sở trong tỉnh đều đóng cửa. Tôi chạy xe gần Ty Thanh Niên thì gặp một vài người quen chận xe lại và hỏi thăm tình hình. Cũng tại đó tôi gặp anh Henri. Anh lên sớm nên đã rút được tiền. Mẹ tôi lên muộn một chút nên không rút được đồng nào. Các bạn quen hỏi tôi tình hình sẽ về đâu? -Nhẹ là liên hiệp với MT. Nặng thì bị xích hoá. Vốn quân sự của Mặt Trận rất yếu sau năm 1968. Những người đang chiến đấu ở Quân Khu I, II và tiến về Quân Khu III là bộ đội Cộng Sản miền Bắc. Bây giờ tôi phải về Lái Thiêu nếu trễ về không được. Tôi vừa nói vừa chào các bạn quen ở Bình Dương. Anh Henri cho rằng tôi vội vã thái quá nên vẫn đứng nói chuyện với các bạn.

Tôi chở mẹ tôi về Lái Thiêu suông sẻ như bận đi. Đến phiên anh Henri về đến cầu Bình Nhâm thì bị chận lại. Anh phải năn nỉ nhân dân tự vệ tháo dây kẽm gai cho xe anh chạy qua.

Chiếc Vespa của anh Thưởng, anh của Võ Thành Hạng (phó tỉnh trưởng Bình Long), chở chú Khinh, thân sinh của gs Kiệt, không dùng Quốc Lộ 13 để về Bình Nhâm và Lái Thiêu được nên phải chạy vòng tỉnh lộ Bình Dương- Biên Hòa rồi theo hương lộ Bình Chuẩn- Búng để nối lại Quốc Lộ 13. Đến ngã tư Bình Chuẩn gần vườn cao su bỗng có loạt súng AK từ vườn cao su nhắm bắn vào hai người trên xe Vespa. Anh Thưởng và chú Khinh chết tại chỗ. Hai gia đình người chết đều không hay biết chi cả. Dân trong làng Bình Chuẩn chôn cất cho hai người xấu số. Ít lâu sau gia đình mới tìm được nơi chôn cất tạm thời của anh Thưởng và chú Khinh. Tôi viết đến đây như gởi một nén hương cho chú Phạm Tấn Khinh, người có nhiều kỷ niệm rất đẹp gắn bó với tôi lúc ấu thời. Chú Khinh gọi tôi bằng chú lớn mặc dù tôi nhỏ hơn chú 14 tuổi. Khi còn nhỏ tôi gọi chú bằng anh và chú xem tôi như em. Khi lớn lên mới xưng hô nhau đúng theo vị thứ trong dòng họ. Nhờ thân sinh của giáo sư Kiệt mà ông tư Hòa Liềm tử tế với tôi. Ông cho tôi đến gần các lu cá lia thia của ông trong khi các đứa trẻ đồng lứa như tôi không được đến gần. Ông tư Hòa Liềm còn cho tôi nhiều cặp cá lia thia tuyển của ông. Chú Khinh sẵn sàng cho tôi con cá tuyển nào của chú mà tôi muốn. Khi còn trẻ tôi thường đến nhà chú vì chú nuôi chim, sáo, cưỡng, nhồng, bồ câu. Vài con nhồng ăn ớt và nói như trẻ nít học nói. Những kỷ niệm đẹp ấy phai dần khi tôi rời Lái Thiêu đi học ở Sài Gòn.

Tôi ngậm ngùi nhớ đến người cháu lớn tuổi hơn tôi rất nhiều. Nhớ đến anh Thưởng, một nhà giáo âm thầm xuất thân từ một gia đình giàu có và nhân hậu ở Bình Nhâm. Càng lớn tôi càng có cảm tình nhiều với chú Khinh. Chú là một nhà hành chánh liêm khiết, nguyên tắc nhưng phúc hậu. Chú rất thương mẹ sống góa bụa vào tuổi 50 khi cuộc chiến vừa bắt đầu. Với đồng lương khiêm tốn chú lo cho mẹ, vợ, con, em, cháu và hai em họ bên ngoại. Chú nuôi người em họ tên là Khọt (không biết là tên hay biệt danh). Khọt bị bịnh trái trời nên cặp mất gần như mù. Khọt rất vui tính. Anh ấy không làm gì để sống, không vợ con gì cả. Chỉ biết uống rượu mà thôi. Khi say rượu Khọt chỉ sợ anh hai tức chú Khinh mà thôi. Chú Khinh khá cực với người em họ mồ côi cha mẹ này. Một hôm Khọt nhậu rượu say mèm, trong người nóng bức, anh nhảy từ cầu xe lửa bắt ngang qua sông Sài Gòn để tắm mát. Khốn thay! anh không biết lội nên bị chết chìm và bị nước cuốn đi mất tích.

****

Mẹ tôi rất buồn vì mất một số tiền lớn trong ngân hàng. Ông nhạc tôi còn mất nhiều hơn mẹ tôi. Ông bà nhạc tôi còn bồn chồn lo ngại vì chưa có tin tức gì của người con là một sĩ quan đóng quân ở phía bắc tỉnh Bình Dương.

Tôi buồn bã nhìn đống tro tàn của các cuốn sách mà tôi ưa thích. Từ Bình Dương về tôi càng ít nói. Các giác quan của tôi như tạm thời ngưng làm việc. Tôi không thấy đói bụng, không buồn ngủ. Sự lo lắng lấn át tất cả. Một luồng gió thổi mạnh cũng làm cho tôi có cảm giác có xe tăng Cộng Sản xuất hiện. Không biết do tin tình báo từ đâu mà người ta quả quyết Cộng Sản pháo kích chi khu Lái Thiêu. Rồi có tin nhà nào cũng phải mua một khúc xương rồng treo trước nhà. Để làm gì? Đừng hỏi. Không biết để làm gì nhưng nhà nào cũng làm tròn bổn phận kỳ dị này. Nhiều người thất vọng vì không mua được xương rồng để treo trước nhà như vật trừ tà. Vợ tôi đề nghị về nhà ông bà nhạc tôi ở để tránh pháo kích. Tôi đồng ý đưa vợ con về nhà ông nhạc tạm né tránh tầm pháo nhằm vào chi khu Lái Thiêu. Riêng phần tôi, tôi không đi đâu cả.

Bỗng nhiên con trai trưởng của tôi lên cơn sốt nặng. Trời nhá nhem tối. Tôi không biết chở con đi đâu bây giờ. Thành phố im lìm như một người bịnh chờ chết. Vợ tôi nghĩ ngay đến nhà bảo sanh của cô Mười Bình Dân. Bình Dân là bảng hiệu của nhà bảo sanh. Cô Mười có chồng là một bác sĩ hồi chánh. Đó là trạm y tế được vợ chồng tôi tín nhiệm lúc bấy giờ. Vợ tôi phải ở lại đây để chăm sóc cho cháu. Tôi phải chạy sang nhà ông nhạc để lấy khăn làm mền cho vợ và con tạm ngủ trong nhà bảo sanh. Đến đầu cầu đúc thì xe không chạy được vì cầu được rào bằng những cuộn dây kẽm gai dày đặc. Các nhân dân tự vệ ra lịnh cho xe lùi lại. Một trong những người chỉ huy nhân dân tự vệ thấy tôi và nói: “Chú Lân hả? Tụi bây mở dây kẽm cho chú Lân đi.” Đó là con của thiếu tá Ẩn. Tôi cảm ơn các anh em

nhân dân tự vệ gác cầu và nói với con thiếu tá Ẩn làm ơn cho tôi qua cầu sau khi lấy mền cho vợ con tôi đang ở trong nhà bảo sanh cô Mười.

Bốn cháu nhỏ ngủ ở nhà ông bà ngoại. Vợ tôi và cháu lớn ngủ ở nhà bảo sanh để nhờ vợ chồng cô Mười chăm sóc bịnh cho cháu trai lớn. Tôi về nhà một mình. Tôi nằm trước bàn thờ Quang Trung. Nước mắt tự dưng trào như mưa. Linh cảm cho thấy đời tôi và gia đình tôi sắp bị bao trùm bởi một màn đen rộng lớn mênh mông. Người bình thường sẽ nói tôi không làm gì có tội với nhân dân, với xã hội. Tôi có chức vụ gì quan trọng trong chánh quyền Sài Gòn đâu mà sợ. Lập luận ấy chỉ đúng 25% vì có ai nghĩ rằng toàn dân sẽ sống trong một xã hội mà kẻ thiện nặng tội hơn kẻ ác; người bị tình nghi chánh trị nặng tội hơn người phạm tội giết người!?

Tôi lắng nghe từng tiếng động ngoài đường. Yên tĩnh và vắng lặng dị thường. Không nghe pháo kích. Không nghe những phát đạn bắn lẻ tẻ. Cũng không nghe tiếng xe tăng của Cộng Sản. Mệt quá tôi ngủ thiếp lúc nào không hay biết. Đến gần sáng tôi nghe tiếng chân người chạy dồn dập ngoài đường. Đó là các nhân dân tự vệ tháo chạy vì thấy bóng bộ đội Cộng Sản lặng lẽ vào thành phố. Một chiếc tàu chở đầy quân nhân công chức, nhân viên cảnh sát trong đó rể của tiệm chụp hình Tân Quang, cháu Long, con của một người chị họ của tôi, bị bắn chìm trên sông Sài Gòn dọc theo địa phận An Phú Đông. Hình như không có người nào trên tàu sống sót vì du kích bắn xối xả xuống sông sau khi tàu bị trúng đạn và chìm.

 30- 04- 1975

Thú thật cho đến bây giờ tôi không biết bộ đội Cộng Sản vào Lái Thiêu vào lúc nào? xuất phát từ đâu vào? địa điểm xuất hiện đầu tiên trong thành phố? Quốc Lộ 13? Khu lò chén Bình Nhâm?

Sáng ngày 30-04 thành phố yên tĩnh nhưng bị bao trùm bởi một luồng không khí nặng nề và ngột ngạt. Tôi đến nhà bảo sanh Bình Dân thăm vợ con tôi rồi về bên nhà ông nhạc để thăm bốn cháu nhỏ ở đó. Vợ tôi theo tôi về vì sợ cháu nhỏ nhất mới 03 tuổi nhớ mẹ. Có người chỉ tôi bóng dáng người bộ đội Cộng Sản đầu tiên bên kia sông gần đình Bình Nhâm. Bỗng có tiếng nổ to long trời. Ông Trai, chủ nhà thuốc Ánh Minh cho biết bộ đội Cộng Sản vào nhà làng Tân Thới và bị lựu đạn gài trên cửa nổ chết nên đồng đội của họ tức giận đốt cháy ngôi nhà làng kiên cố này. Đây là một kiến trúc Tây Phương đầu tiên ở Lái Thiêu. Nhà làng mang dòng chữ Pháp Commune de Tân Thới được xây cất vào thập niên 1920 bằng bê- tông cốt sắt rất kiên cố. Gạch và ngói đều được đưa từ Marseille vào. Chính nhà làng này trông uy nghi và bề thế hơn cả văn phòng quận Lái Thiêu chỉ là một căn nhà của một người Hoa giàu có, chủ nhà máy ép dầu, bị sung công để làm văn phòng làm việc của quận trưởng (Délégué) người Pháp.

Vợ ông Trai có họ hàng bên vợ tôi. Ông chạy sang nhà ông nhạc tôi để báo tin tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Ông nhạc tôi và ông Trai đều lo lắng cho số phận của hai người con trong quân đội. Cả hai đều là trung úy ra trường được hai năm: một người thuộc trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt; một người tốt nghiệp trường Hải Quân Nha Trang. Gia đình ông Trai rất khá giả. Ông có nhà thuốc Tây, cửa hàng bán thức ăn và thuốc bổ và ngừa bịnh cho gia súc và tiệm uốn tóc. Ông có 02 người gái và một người con trai duy nhất là trung úy Hải Quân. Viên trung úy trẻ này không chịu di tản khi tàu trên đường ra biển. Anh nhảy xuống sông – mặc cho những tiếng súng bắn chỉ thiên của đồng đội- để lội vào bờ tìm đường về Lái Thiêu với gia đình. Sau một thời gian học tập ngắn anh được tự do. Gia đình anh bị đánh tư sản, hai đợt đổi tiền nên bắt đầu thấm mệt và nhận thức rằng họ khó sống trong xã hội mới này. Năm 1979 gia đình ông Trai đăng ký vượt biên bán chánh thức ở Cà Mau dưới tên người Hoa. Tàu chở ông bị bão đánh chìm. Cả gia đình 05 người bị chôn dưới lòng biển.

Trở về chuyện của gia đình tôi. Các con nhỏ của tôi mới ngủ ở nhà ông bà ngoại một đêm mà đã nhớ nhà. Tôi chở vợ và các con nhỏ về nhà. Trời hôm ấy nắng gắt. Hay tại tinh thần của mình mê mệt nên mới có cảm giác như vậy?

Lúc về đến nhà thì có những tiếng súng vang rền pha lẫn với những tiếng nổ long trời lở đất như đã nổ trên nóc nhà tôi vậy. Cha mẹ và bốn con nhỏ núp dưới bộ ván dày dưới 10 cm với hy vọng tránh được đạn AK và B-40 nổ vang rền. Trong giây phút căng thẳng này tôi lo cho con trưởng của tôi đặt dưới chăm sóc của vợ chồng cô Mười. Một chiếc xe tăng chạy loạn xạ trước nhà suýt đâm vào cổng nhà tôi. Lần này tôi mới nghe tiếng la hét ầm ĩ của bộ đội Cộng Sản tải thương đồng đội. Những tiếng súng nổ vừa rồi là cuộc đụng độ đẫm máu giữa đoàn quân xa của Sư Đoàn 25 từ Đồng Dù mở đường máu chạy về phía Nam bằng Xa Lộ Đại Hàn và Quốc Lộ 13. Cuộc chạm súng bắt đầu từ khoảng dọc truông nhà đỏ, nhà của thầy tám Sanh, và Tịnh Xá Minh Đăng Quang đến Mộc Tổ Miếu ở Phú Long trên 1 km. Nhiều quân xa và vài xe tăng bị bắn cháy. Nhiều quân sĩ trên quân xa chết. Nhưng không có người dân nào bị thương hay chết trong cuộc đụng độ chớp nhoáng nầy. Một tiệm tạp hóa của người Hoa gần đầu cầu đúc gần bến xe đò Lái Thiêu bị trúng đạn B- 40 bốc cháy. Một trận mưa nhỏ dập tắt ngọn lửa.

Tôi tạm gởi 04 cháu nhỏ ở nhà ông bà nhạc tôi. Các cháu được sự chăm sóc của người dì họ rất thương các cháu. Vợ tôi phải ở nhà bảo sanh Bình Dân chăm sóc cho cháu lớn. Ở đây có vợ chồng cô Mười và nhà thuốc của ông Trai. Vợ chồng ông Trai tận tình giúp đỡ thuốc men cho cháu. Hai ông bà và các con rất mực thương yêu các con tôi nhất là thử sự thông minh của con gái út của tôi. Tôi vẫn ở nhà một mình như một người giữ bàn thờ và tin tưởng vào sự linh thiêng huyền nhiệm của người anh hùng sống khôn thác thiêng.

Đêm 30- 04 là đêm đầu tiên chấm dứt cuộc chiến dai dẳng ở miền Nam. Giữa đêm tự nhiên có tiếng kêu thất thanh: “Đ.M. Hồ Chí Minh!” Trời ơi! có thằng ăn gan rồng hay thành phần có 100% huyết thống chống chủ nghĩa Marx- Lenin mới dám chửi như vậy. Có tiếng la chát chúa, ì ầm trên đường trước nhà tôi. Đó là tiếng la hét của bộ đội lên cò súng sắp nã vào người thanh niên ghiền ma túy đang chửi lãnh tụ. Có tiếng van xin, lạy lục của người mẹ xin bộ đội đừng bắn con bà. Không nghe tiếng súng mà nghe những cú đấm nhắm vào người thanh niên đang la thét. Thì ra đó không phải anh hùng chống Cộng hay chống Hồ Chí Minh gì cả mà là một thanh niên nghiện xì- ke. Khi bộ đội Cộng Sản vào những người bán ma túy lo sợ bộ đội sẽ xử tử những ai bán ma túy để làm sạch xã hội. Vì vậy những người bán ma túy tại địa phương không bán cho người thanh niên nghiện ngập nầy viện lẽ xã hội của Bác Hồ là xã hội cực kỳ lành mạnh. Người thanh niên nghe vậy oán ghét Bác Hồ vì cho rằng ông ấy cấm bán thuốc giữa lúc cơn ghiền của anh ta đang dâng cao. Anh ta trở nên hung dữ, chạy ra kéo lá cờ Mặt Trận (Xanh, Đỏ với ngôi sao vàng) xuống và chửi bới Hồ Chí Minh liền miệng. Bộ đội chạy theo anh định bắn cho anh ta chết. Một thanh niên khác tên Sáu hút ma túy bị bắt đưa đi đâu không thấy về. Chuyện xảy ra chớp nhoáng khiến tôi nhớ chuyện AQ sau cách mạng Tân Hợi thành công ở Trung Hoa. Để chứng minh cách mạng tốt đẹp và lành mạnh người ta phải kiếm đối tượng để hy sinh. Đối tượng đó là thằng AQ ngủ ở miễu thần hoàng, cha mẹ là ai không rõ, tài sản không có gì ngoại trừ cái đầu đầy mụt chốc. AQ không có học hành gì, không nghề nghiệp, không gia sản, không có chỗ nương thân và không có họ hàng thân thuộc nhưng hắn ta rất tự hào về các mụt chốc trên đầu. Khi ở thế thượng phong thì hiu hiu tự đắc hách dịch. Khi ở thế yếu thì dùng triết lý người quân tử không nên dùng tay chân. Câu chuyện AQ trước cách mạng Trung Hoa năm 1911 và câu chuyện hai thanh niên ghiền ma túy ở Lái Thiêu ngày 30-04-1975 cũng có vài nét hơi hơi giống nhau. Họ là những con cờ thí để tạo ánh sáng rực rỡ cho cách mạng trong những ngày đầu của nó.

01- 05- 1975

Sáng ngày 01- 05 tôi đi Sài Gòn thăm anh tôi, anh Khiêm rồi thăm trường Sao Mai, Chân Phước Liêm, Thanh Liêm, Tân Phú (cha Thiều). Tôi không thăm trường Bồ Đề Bình Dương vì không nằm trên tuyến đường đi về hướng nam của tôi. Tôi không ghé thăm trường Cơ Đốc vì được biết mục sự hiệu trưởng, giám học và tổng giám thị của trường đã rời Sài Gòn trước ngày 30-04. Trên Quốc Lộ 1 và Xa Lộ Đại Hàn vòng quanh Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung có nhiều quân phục và nón sắt liệng vung vãi trên đường. Khi vào cổng Quang Trung tôi giựt mình khi nghe anh bộ đội la to: “Bỏ kính xuống!” Tôi ngơ ngác chưa hiểu gì? và anh nói với ai? Nhìn qua nhìn lại không thấy có ai ngoài tôi. Tôi biết người bộ đội ra lịnh cho tôi lột kiếng mát một cách giận dữ. Tôi đâu có ngờ anh ấy được dạy hận thù người mang kiếng đến như vậy. Một người bạn của tôi anh bị ban quản giáo trong trại học tập trừng phạt chỉ vì không chịu bỏ cặp mắt kiếng cận! Lời quát tháo của người bộ đội Cộng Sản làm cho tôi hoảng hồn phải đem liệng đôi dép mới mua màu đỏ vì tôi nhớ đến một người cậu bị kết án tử hình vì treo bông giấy xanh, trắng, đỏ trong nhà vào dịp Tết. Nguyên nhân chỉ vì cậu là một nhà thầu thành công trong đệ nhị thế chiến. Về cá tánh bản thân tôi không thích ông cậu này vì cậu không tốt với bà tôi cũng không được lòng anh em trong nhà và người dân trong làng. Cậu hành sử theo phong cách ngạo nghễ của người giàu có. Nhưng không vì vậy mà cậu xứng đáng với cái chết chỉ vì bông giấy ba màu xanh, trắng, đỏ mà bị khép tội làm dấu cho Tây (Pháp). Kinh nghiệm ấu thời này giúp cho tôi thời trung niên rất nhiều.

 Chiều ngày 01-05 tôi đưa con trai trưởng của tôi về nhà. Vừa bước ra khỏi nhà bảo sanh của cô Mười cháu buột miệng hỏi: “Lá cờ này là lá cờ gì? Không giống lá cờ cũ.”Tôi không biết phải trả lời thế nào cho cháu hiểu mà chỉ yêu cầu cháu đừng hỏi nữa. Chiều hôm đó tôi dặn người láng giềng bán cho tôi một con gà đưa qua cửa sổ ở sau nhà. Đó là một buổi ăn cháo gà và gỏi gà kém hương vị nhất trong đời tôi.

****

 Người Pháp định nghĩa văn hóa giản dị rằng Văn hoá là cái gì còn sót lại sau khi đã quên. Tôi thực hiện câu này bằng cách ghi lại sơ lược những gì đã xảy ra gần nửa thế kỷ trước sau khi đã quên một số. Tôi ghi lại các sự kiện như một ảnh chụp để người trong chuyện nhìn lại hình ảnh của chính mình trong quá khứ. Vẫn tươi đẹp? Lố lăng khi tuổi trẻ? hổ thẹn vì sự lố lăng? Trên lãnh vực lịch sử và chánh trị sự lố lăng và ấu trĩ dẫn đến những tai hại khủng khiếp biết dường nào.

https://hung-viet.org/a24116/ngay-ay-da-qua-roi

 

 

Đọc đỡ buồn

Vào một ngày nọ, một người đàn ông tan ca về khuya – Ông ta leo lên một chiếc xe buýt và ngủ thiếp đi lúc nào không biết – Thời gian vẫn trôi đi, ông ta vẫn ngủ, xe buýt vẫn chạy – Chợt ông ta giật mình thức dậy và thấy xung quanh mình không còn ai, đường phố thì cũng vắng tanh… Tài xế cũng biến đâu mất tiêu luôn…

Nhưng một điều kì lạ đó là xe vẫn lăn bánh một cách chậm rãi. Ông ta hoảng hốt thét lên “Cứu tôi với !” Không ai trả lời. Bỗng có tiếng thét lên “Cứu gì thằng kia, xuống đẩy xe phụ tao coi”

 

Sau khi bệnh bò điên lan tràn khắp nơi, một nữ phóng viên được cử đi tìm hiểu lý do. Hỏi thăm một hồi, cô tìm đến được một trang trại nuôi bò sữa, nơi phát hiện ra ca bệnh bò điên đầu tiên. Cô hỏi người quản lý trang trại : “Ông chăm sóc lũ bò sữa này thế nào ?”

“Hàng ngày chúng tôi cho ăn đúng giờ quy định, ngày vắt sữa 2 lần, mỗi năm cho chúng đi lấy giống 2 lần…”

“Ôi, lạ nhỉ. Vậy thì tại sao chúng nó lại điên được ?”

“Thế tôi hỏi cô nhé: ngày nào tôi cũng vắt sữa cô 2 lần mà 1 năm mới cho đi chơi với bạn trai 2 lần thì cô có điên người lên không ?

 

 

 

Nhìn lại mình sau 42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975

 

Lời phi lộ:

Mỗi lần, tháng Ba hay tháng Tư về là những hình ảnh xa xưa của năm 1975 sống lại trong tôi. Nếu tôi ghé Ban Mê Thuộc thăm người thân như Má tôi nói qua phôn khi vừa có mặt tại Sài Gòn vào cuối tháng Hai năm 1975 thì có lẽ tôi đã kẹt ở đó, nếu thiếu may mắn có thể đã … khi thành phố Ban Mê Thuộc thất thủ, không như cô em tôi tình cờ quen gần đây qua FB/Internet nói (đùa là) biết đâu chúng ta gặp nhau trên đại lộ kinh hoàng!. Về miền Trung được vài ngày thì Việt cộng đã đánh đến ngoại ô cách thị xã nơi gia đình tôi ở chỉ 7 hay 8 cây số. Đêm đêm đại bác của VC bắn vào thành phố, có lần nổ tung cách nhà tôi chừng 500 mét. Tình hình quá căng thẳng, tuy chưa thăm hết bạn bè, người quen nhưng vâng lời Ba Má nên tôi vào lại Sài Gòn và tùy cơ ứng biến. Rồi vùng I di tản, sau đó đến cao nguyên vùng II. Chính tôi đã thấy rõ những hình ảnh đau thương đồng hương dìu nhau trốn chạy Việt cộng!. Gia đình tôi cũng bỏ hết tất cả theo chân đoàn ngưòi di tản vượt gần 800 cây số vào Sài Gòn tá túc bà con, chờ xem tình hình…Ba tôi là người đi sau cùng và lần cuối hai cha con gặp lại nhau sau khi vùng 2 chiến thuật mất. Lúc gặp ở Sài Gòn, Ba tôi chỉ hỏi một câu thật ngắn gọn: “sao con chưa đi cho rồi còn chần chờ chi nữa (sic)”. Đó cũng là lần chia tay cuối cùng với Ba tôi. Hôm sau tôi bay về lại Đức và chấp nhận kiếp sống lưu vong từ đó. Cám ơn Thượng Đế vì thú thật nếu kẹt lại ở SG/VN chắc trước sau tôi cũng tìm cách vượt biển như bạn bè, bà con và trong trường hợp này chẳng biết số phận mình sẽ ra sao?

Nhìn lại mình sau 42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975

Nhân mùa Quốc Hận 2017, tôi – một người tỵ nạn chính trị vì cộng sản – xin ghi lại vài ý tưởng chợt về sau 42 năm sống tha phương, “ăn nhờ ở đậu”. Là một đoản văn tự thuật nên không sao tránh khỏi đề cập đến “cái tôi đáng ghét”, mong quý độc giả thông cảm!. Ngoài ra, nếu quan niệm rằng người Việt tỵ nạn hay “boat people” vàng thau lẫn lộn, vì không phải ai cũng giống ai sau khi ổn định đời sống ở quốc gia nào đó thì giới cựu sinh viên VNCH ở Đức nói riêng cũng thế – (có điều khác biệt rất lớn là tổng số sinh viên (SV) tính cho đến 30.4.1975 trên toàn Tây Đức lúc đó chưa đến một ngàn năm trăm SV nên SV nào “yêu nước” hay những gì xảy ra sau 30.4.75 chúng tôi đều biết !) – vì vậy nhận định thế nào tùy độc giả. Riêng tôi vì thời giờ hạn hẹp, có nhiều việc hữu ích để làm nên sẽ không tranh luận với bất cứ ai khác quan điểm nhưng diễn đạt tư tưởng với lối văn phong khiếm nhã, thiếu cơ sở. Chỉ lưu ý điều căn bản, biết hãy nói còn không đề nghị tốt nhất nên im lặng !. Chẳng lẽ ai đó ở xứ Maroc, đến sau không là người trong cuộc biết rõ SV ở Đức hơn chúng tôi ?. (LNC_S-Ger).

* * *

Thắm thoát mà tôi đã xa quê hương, xa Việt Nam mến yêu 42 năm, kể từ đầu tháng Tư 1975 oan nghiệt !.

Bốn mươi hai năm trôi qua nhanh như thoi đưa, như là một giấc mơ khi nhìn lại mình giờ đây tóc đã bạc nhưng so với nước Đức là nơi tôi đang định cư với tư cách một người tỵ nạn chính trị thì nghiệt ngã, buồn đau, áp bức, tù đày … vẫn còn hiện hữu trên quê hương mặc dầu “Việt Nam (VN) đã thống nhất từ 1975”, 15 năm trước nước Đức!

Bốn mươi hai năm rồi mà người Việt đi vẫn đi, tuy không còn bằng cách vượt biển hay vượt biên như sau 30-04-1975 nhưng đồng hương cũng đã tìm ra nhiều cơ hội khác để “rời Việt Nam” qua diện đoàn tụ gia đình (vợ, chồng, con cháu) hay kết hôn với người nước ngoài, miễn làm sao rời xa được nơi mệnh danh là “thiên đàng xã hội chủ nghĩa”, trốn khỏi được cái “thiên đàng cộng sản” là mừng như một lần được hồi sinh; trong khi đó ngược lại thì dân Đông Đức (DDR) chẳng thấy ai trốn chạy vì Cộng Hoà Liên Bang Đức (BRD) đã làm chủ một Đức quốc thống nhất sau khi cộng sản DDR bị giải thể.

Người dân Đông Đức sau khi chế độ cộng sản bị sụp đổ chẳng những không lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rún mà trái lại họ còn ở lại, vượt qua bao nhiêu khó khăn để cùng nhau nổ lực xây dựng một nước Đức hùng cường, tự do, dân chủ. Khác với Việt Nam, biến cố Thống Nhất Đất Nước của Đức hầu như không đổ một giọt máu nào của đồng bào vô tội cả !.

Đức không tiêu hủy hàng triệu tài nguyên trí tuệ và nhân lực của „Quốc Gia Dân Tộc“ trong những trại tù khổ sai ‘‘học tập cải tạo“ và cũng không để lại các tệ nạn xã hội xấu xa tiêu biểu nhất của thế kỷ mà vẫn giữ được sự vẹn toàn lãnh thổ và đã xây dựng một xã hội ôn hoà, nhân bản đầy tình yêu thương đồng loại. Vì vậy 27 năm sau khi thống nhất cả thế giới đang nhìn nước Đức với lòng thiện cảm và đầy khâm phục.

Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách rõ ràng rằng những ai từng yêu chuộng Tự Do đều không thể sống dưới chế độ cộng sản gian manh, tàn bạo. Minh chứng cho sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản cách hùng hồn nhất là sự sụp đổ của cộng sản Đông Đức cũ, của cả khối cộng sản Ðông Âu và tiếp theo là đàn anh Nga Sô vào cuối thập niên 1980!

Hôm nay tôi chỉ muốn ghi lại đây vài ý tưởng chợt thoáng về liên quan chút ít đến cuộc đời tỵ nạn của mình và xin được nói sơ về “cái tôi đáng ghét” qua bài tạp ghi ngắn này!. Là một bài đoản văn mang tính cách tự thuật nên chắc chắn khó tránh khỏi được cái nhìn chủ quan có thể làm phật lòng ai đó qua sự diễn đạt tư tưởng trung thật của mình, vì thế mong tất cả độc giả hoan hỉ cho !

Tôi nói riêng đã may mắn đón nhận được rất nhiều “tình cờ” trong cuộc đời. Ngẫu nhiên đầu tiên là dù không bao giờ nghĩ đến nhưng … tôi đã được phép của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thời đó cho xuất dương du học sau khi xong Tú Tài II, giữa lúc quê hương ngập chìm trong binh lửa trước tham vọng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam (NVN) do cộng sản miền Bắc chủ xướng với sự giúp đỡ về mọi mặt của Nga, Tàu và khối cộng sản quốc tế nói chung!.

Đầu tháng 03-1975 tôi về thăm quê hương và gia đình nhưng lúc ấy chiến trường VN sôi động, người dân miền Nam bối rối, lo âu nên tôi đành phải rời VN sớm hơn dự tính. Lại thêm một “tình cờ” nữa, tôi may mắn đã rời Sài Gòn vào đầu tháng 04-1975, vì vài tuần sau đó, Nam Việt Nam thất thủ. Nếu không chắc tôi cũng sẽ phải chọn đường vượt biên hoặc vượt biển như bao đồng hương khác, sau 30-04-1975.

Xin mở ngoặc ở đây để nói sơ về đời sống của sinh viên ở Đức. Sau tháng Tư đen 75, trong khi “sinh viên thiên tả thuộc hội Đoàn Kết (VK yêu nước !)” có Tòa đại sứ hay lãnh sự quán “đỡ đầu” thì sinh viên có lập trường Quốc gia thật sự bơ vơ vì chính quyền đã mất. Từ vấn đề thông hành cho đến tài chánh gặp rất nhiều khó khăn, hoàn cảnh của người sinh viên sau 30.04.1975 càng thê thảm hơn, nhất là các đợt sau cùng đến Đức. Đời sống của sinh viên du học thời Việt Nam Cộng Hòa sau khi Nam VN thất thủ hoàn toàn bị đảo lộn. Thành phần thuộc con nhà giàu hay nói đúng hơn thành phần lè phè hưởng thụ gặp nhiều khó khăn hơn vì đa số họ ỷ lại và sống nhờ vào đồng tiền cha mẹ gởi sang. Nhiều sinh viên thật sự khủng hoảng vì sự ngưng viện trợ từ cha mẹ “ xảy ra quá đột ngột. Chỉ có những sinh viên vốn đã quen tay lấm chân bùn xoay trở tương đối dễ dàng hơn kiếm tiền học tiếp cho đến khi ra trường, bởi vì hầu hết chẳng có ai có học bổng hay trợ cấp Bafoeg gì đâu như giới anh em trẻ đến Đức tị nạn sau này. So với giới sinh viên thời VNCH ngày xưa thì đây cũng là cái may mắn của những bạn trẻ đến sau. Điều kiện sống, nhất là về phương diện tài chánh và tinh thần khá đầy đủ, chỉ còn chuyện lo cho tương lai, học hành mà thôi. Mừng dùm cho các bạn!. Chúng tôi – sinh viên du học thời VNCH – vào đầu thập niên 80 đôi khi bị NVTN “chỉ trích là thành phần con nhà giàu hay con ông cháu cha” nhưng cũng chỉ biết cười ghi nhận vì họ đâu có hiểu hoàn cảnh khó khăn của chúng tôi từ cư trú, học hành cho đến tài chánh. Tuy nhiên nếu so sánh với thành phần đi du học ở Đức nói riêng từ thập niên 80 trở đi thì sinh viên thời VNCH thua rất xa. Không những số sinh viên do csVN gởi đi nhiều hơn 10 lần mà họ thừa tài chánh để mua xe hơi sang trọng hay nhà cửa ở, đâu phải như chúng tôi thời đó đi “xe có tài xế lái” hay lộc cộc với chiếc xe đạp cũ kỹ !. Sao không trách họ đi (?) nếu khách quan so sánh. Nhưng đa số sinh viên thời VNCH dù vất vả với cuộc sống đều tốt nghiệp, có công ăn việc làm, hội nhập tốt và tôn trọng luật pháp Đức không vướng vào những “tệ trạng” nên được dân Đức kính nễ. Rất tiếc sự nễ vì này mất đi nhiều kể từ sau 1990 qua các tin tức “phạm pháp” của người Việt đến từ DDR, khối Đông Âu sau khi “thiên đàng cộng sản bị sụp dổ” đăng hàng tuần trên báo hay chiếu đi chiếu lại nhiều lần trên đài truyền hình do một số “người Việt mới đến” gây ra (quý độc giả có thể tìm thấy tài liệu, bài viết bằng Đức+Việt ngữ lưu trữ trên qua google).

Có thể nói cuộc đời của những du học sinh thời VNCH như tôi trải qua khá nhiều truân chuyên từ dạo ấy, sau tháng Tư đen 1975, từ khi cộng sản Bắc Việt thống trị Nam Việt Nam. Khác với quyết định đi tìm Tự Do, đi tìm sự sống trên cái chết qua hình thức vượt biên vượt biển của đồng hương sau 1975, chúng tôi may mắn hơn, đơn thuần chỉ phải chọn lựa một trong hai: về Việt Nam hay ở lại nước ngoài. Nếu quyết định về VN thì phải cúi đầu phục tùng nhóm sinh viên đoàn kết và toà đại sứ Việt Cộng. Còn ngược lại nếu quyết định ở lại nước ngoài thì phải chấp nhận xa quê hương, xa gia đình, bạn bè anh em và không biết khi nào mới gặp lại !.

Cuối cùng, riêng tôi đã có một quyết định là “xin tỵ nạn chính trị”, dù tuổi và kinh nghiệm đời của mình lúc đó chẳng là bao. Cũng không phải là những người từng phục vụ trong quân đội hoặc tham chính thời VNCH; chưa từng bị cộng sản bắt bớ giam cầm hay đã „bị tra tấn dã man và nếm mùi học tập cải tạo của cộng sản“ nên muốn được “hưởng quy chế tỵ nạn” những sinh viên du học VNCH phải chứng minh cho chính quyền Đức lúc đó rõ lý do là tại sao không muốn hồi hương v.v… Trong thời gian chuyển tiếp kể từ khi nộp đơn chúng tôi từ những người tuy có quốc gia, gia đình bỗng nhiên trở thành những kẻ “vô tổ quốc” vì đã nhận được sổ thông hành mang tên như vậy. Cơ quan hữu trách Đức cứu xét hồ sơ xin tỵ nạn khá lâu, có người chờ đến 2-3 năm nhưng cuối cùng tôi đã nhận được sổ thông hành tỵ nạn.

Điều làm chúng tôi đau lòng nhất là trong sổ thông hành tỵ nạn này có ghi câu “được phép đi khắp nơi, nhưng trừ Việt Nam”, nơi mình sinh ra và lớn lên. Vâng, điều kiện tỵ nạn là vậy vì dễ hiểu thôi, đã viện dẫn “gặp khó khăn với nhà cầm quyền cộng sản” để xin tỵ nạn thì thật là quá mâu thuẩn nếu mình về Việt Nam và lại ra đi an toàn phải không?. Khó khăn ban đầu sau 30-04-1975 xem như đã vượt qua, được chỗ tạm dung. Chưa hết, vấn đề sinh kế cũng làm chúng tôi xính vính một thời gian khá lâu khi mà tình trạng kinh tế ở Đức và trên thế giới lúc bấy giờ đang bị khủng hoảng trầm trọng.

Có lẽ thánh nhân đãi ngộ nên tôi đã đón nhận thêm sự ngẫu nhiên, may mắn khác trong hoàn cảnh lúc đó sau khi cầm sổ thông hành tỵ nạn trong tay. Được thâu nhận vào làm việc thuộc phần hành “nghiên cứu và phát triển, trọng điểm là phát triển” cho hãng rất nổi tiếng trên thế giới sau khi tốt nghiệp kỹ sư bậc cao học (Dipl.-Ing. TU (TU: Technische Universitaet = University of Technology) nên tôi nói riêng cảm thấy an tâm từ đó nhưng buồn ray rức vì nỗi nhớ nhà và tủi thân cho kiếp sống tha hương, ăn nhờ ở đậu của mình. Tôi như con chim lạc đàn, trong thức ngủ vẫn ước mơ có ngày tìm về tổ ấm. Với thông hành tỵ nạn, chúng tôi nói chung được quyền sống và đi làm như dân bản xứ, chỉ khác điều là không được phép bầu cử.

Cuối thập niên 70, phong trào tỵ nạn lên cao. Người Việt được thâu nhận vào Đức rất dễ dàng mà không phải qua những thủ tục rườm rà hay khó khăn như chúng tôi trước đó. Ai thuộc diện “boat people” tự động được cấp thông hành tỵ nạn khi đến Đức, không cần cứu xét gì cả. Thỉnh thoảng gặp đồng hương thuộc diện này chúng tôi có trò chuyện. Hết kể những cuộc vượt biên vượt biển thật hãi hùng thì họ lại xoay qua than chuyện khó khăn về hội nhập hay khi học tiếng Đức… Đôi khi họ đề cập đến chuyện nhập tịch, viện dẫn có quốc tịch đi đó đây làm việc dễ dàng hơn. Tôi chỉ nghe và ghi nhận. Khi được hỏi thì tôi cũng chỉ trả lời là vẫn còn mang sổ thông hành tỵ nạn dù ở đây lâu gấp mấy lần cũng như thường hay đi nước ngoài vì lý do nghề nghiệp thời đó. Thú thật, đã nhiều tôi lần đi công tác Hoa kỳ, Bắc Âu, Pháp, Áo, Ý cho hãng hay đi thăm thân nhân ở Úc, Mỹ, Anh nhưng ít gặp trở ngại, chỉ tội mất thì giờ chờ lâu hơn tại các phi trường so với những ai có quốc tịch Đức mà thôi.

Thế rồi những đồng hương qua sau tôi lần lượt xin nhập tịch Đức. Riêng tôi vẫn giữ sổ thông hành tỵ nạn cho đến năm 1994. Thêm một tình cờ khác làm tôi thay đổi ý định và … xin vào quốc tịch xứ người, một quyết định không đơn giản sau nhiều đêm dài trằn trọc suy nghĩ.

… Số là trong chuyến công tác đi miền Nam nước Pháp cho hãng vào cuối Hè 1993, tôi gặp trở ngại ngay tại phi trường. Bạn đồng nghiệp ra ngoài cỗng đứng chờ còn tôi vì thấy trong thông hành tỵ nạn để quốc tịch Việt Nam nên nhân viên kiểm soát ở phi trường nghi ngờ, lý do Pháp “đón nhận bất đắc dĩ người Việt sang Pháp không hợp lệ” và họ tìm cách định cư tại đó. Phải giải thích khá dài dòng, nói là có vé máy bay khứ hồi, ngủ ở khách sạn do hãng giữ chỗ v.v… thì họ mới bằng lòng cho đi. Mấy người bạn Đức thấy vậy chọc quê quá xá nên sau đó …. tôi mới có ý định xin nhập tịch Đức, nộp đơn vào cuối năm 1993.

Nói đến đây cho tôi vòng vo thêm một tí. Hoàn thành đủ thủ tục giấy tờ đòi hỏi từ phía Đức đem nộp thì được nhân viên chỉ cho đống hồ sơ trước mặt và nói, hồ sơ ông hôm nay nằm dưới cùng. Đến khi được duyệt xét chắc cũng nửa năm sau. Nghe vậy tôi giật mình. Hỏi thêm thì bà nhân viên mách nước phải làm thế này thế kia thì may ra được ưu tiên hơn. Tôi xin hãng cấp cho giấy phải công tác ngoại quốc nên nộp vào thì hồ sơ tôi không còn nằm hạng chót nữa. Lại thêm một ngẫu nhiên tốt đến với tôi. Chưa hết. Cái khó khăn mà tôi phải đương đầu giải quyết là việc phải nộp cho chính quyền Đức giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Thế là một cuộc bút chiến xảy ra giữa tôi và bộ nội vụ tiểu bang Bayern (Bavaria) liên tục trong vài tháng. Mặc dù tôi đã viện dẫn không liên hệ gì hết với toà đại sứ Việt cộng từ 30-4-1975 nhưng chẳng nhằm nhò gì, nhân viên hành chánh Đức phụ trách vẫn khư khư nói, bây giờ Việt Nam đã cấp giấy thôi quốc tịch rồi, không có không được.

Thế là tôi đành cắn răng viết thư cho toà đại sứ Việt cộng. Tuy nhiên tôi nghịch ngợm nên viết thư toàn bằng tiếng Đức với nhân viên sứ quán. Có lần điện thoại lên hỏi sự việc đến đâu sau hơn 6 tháng chờ đợi thì họ nói “vòng vo” làm tôi cảm thấy khó chịu nên cuối cùng tôi viết thư (cũng bằng tiếng Đức) lên cho biết VÌ chính quyền ĐỨC yêu câù chứ thật ra tôi chẳng muốn liên hệ gi cùng quý vị cả và nếu không cho tôi thôi quốc tịch thì trả lời cho biết qua thư. Một bản sao (Copy) tôi gởi cho bộ nội vụ Đức để kính tường vì trong trường hợp như vậy tôi sẽ được nhập tịch mà không cần nộp giấy chứng minh thôi quốc tịch VN. Chắc thấy tôi quá cứng rắn quá nên vài tuần sau tôi nhận được giấy từ bỏ quốc tịch, dễ hiểu thôi … vì nếu không cấp thì tòa đại sứ mất toi hơn hai ngàn Đức Mã là lệ phí mà tôi phải trả cho cái giấy từ bỏ quốc tịch VN, một số tiền không nhỏ (thời đó) !.

Trong thời gian chờ đợi giấy tờ từ toà đại sứ Việt cộng tôi được giấy chấp nhận cho phép nhập tịch Đức. Nộp thêm chứng minh thư cho thôi quốc tịch VN là tôi được gọi ra nhận sổ thông hành Đức ít lâu sau đó. Xứ tôi ở không rườm rà như các quốc gia khác, làm lễ rình rang khi nhập tịch. Ra sở ngoại kiều ký giấy nhận sổ thông hành, nộp pass tỵ nạn cũ và nhận thông hành Đức là xong, sau khi trả lệ phí cho sở ngoại kiều mà nếu tính ra thì quá rẽ, chỉ bằng 1/10 số tiền phải đóng cho toà đại sứ Việt cộng để có được giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam!.

Một điểm khác xin nói thêm nhờ theo học Đại Học Đức và ở đây trên 15 năm (theo luật thời đó) nên tôi khỏi phải thi khoá Đức ngữ thành ra tiết kiệm được thêm chút ít tài chánh.

Vậy là tôi, một kẻ da vàng tóc đen, mũi tẹt trở thành công dân Đức từ giữa năm 1994, sau 26 năm kể từ khi tôi đặt chân đến xứ Đức lạnh lẽo này. Có thể nói chỉ trên giấy tờ vì ra đường dưới con mắt của người dân bản xứ chúng tôi vẫn là một người ngoại quốc dựa theo màu da và hình dáng, không hơn không kém.

Thời gian cứ thế mà trôi, đời sống của tôi tại Đức thật sự chẳng có gì thay đổi, chỉ khác là đã đi bầu nghị sĩ quốc hội, nghị viên tiểu bang và đại diện làng xã được vài lần trong suốt hơn 22 năm qua, kể từ khi tôi mang quốc tịch Đức. Tôi đã đi làm như bao người khác, thi hành đúng bổn phận „ một người Đức mới “ và cảm thấy mình đang chia sẻ với dân bản xứ, với quốc gia đã và đang cưu mang mình!.

Thỉnh thoảng gặp lại đồng hương, những người vượt biên, vượt biển trước đây và tuy đến sau nhưng đã nhập tịch Đức trước (chúng) tôi thì tôi nhận thấy có nhiều thay đổi. Họ đi lui tới về VN với nhiều lý do …, những lý do giải thích mà mọi người – trừ những ai thiếu may mắn đã bỏ mình trên con đường đi tìm Tự Do – đều có thể sử dụng trong trường hợp “về thăm quê hương”. Có người gặp tôi lần đầu biết là thành phần đi du học thời VNCH hỏi anh về VN chưa, nói VN giờ thế này thế kia … tôi chỉ cười nói chưa, dù có đủ khả năng. Nghe vậy họ nhìn… rồi đổi sang đề tài khác. Một lần, gặp vài người quen trong giới tỵ nạn hỏi: sao anh có xin Visa về VN, được cấp chưa v.v… tôi tỉnh bơ trả lời: “tôi đâu có bao giờ liên hệ với sứ quán Việt cộng để xin chiếu khán (Visa) đâu mà chờ với đợi, mà cho với không cho …”!.

Vâng, 42 năm rồi kể từ khi đặt chân tại Sài Gòn lần cuối hay đúng hơn kể từ khi tôi “trốn chạy vào đầu tháng Tư 1975” trong chuyến về thăm gia đình với dự tính ở lại ba tháng để đi thăm bà con, bạn bè từ Sài Gòn ra Huế mà tôi đã có lần sống suốt cả mùa nghỉ hè sau khi thi đậu Trung Học thì tôi đã để lại quê hương yêu dấu của mình đàng sau lưng từ dạo ấy. Tôi nói riêng đau buồn, cam tâm chấp nhận kiếp sống lưu vong, chôn chân xứ người, làm thợ khách và hiện tại nghỉ hưu sau khi xin về hưu non sau hơn ba thập niên kéo cày.

Tuy nhớ nhung muôn vàn Việt Nam quê tôi nhưng chỉ biết ngậm ngùi thương nhớ, vẫn hằng ước mong một ngày về mà VN thật sự có đầy đủ Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền. Tôi nghĩ mình không thể nào cam tâm cúi đầu xin phép để được du lịch, để được cho phép về thăm quê hương của chính mình trong hoàn cảnh hiện tại mà chắc chắn tôi sẽ phải tự hổ thẹn với lương tâm nếu tôi làm việc này bởi vì một khi mà tôi với hơn 25 tuổi đầu, có thể nói là quá trưởng thành đã quyết định xin tỵ nạn, xin chọn nước Đức làm quê hương thứ hai và lý do được nêu ra rất rõ ràng: “vì tôi không chấp nhận chế độ cộng sản”.

Tôi chẳng phải là đứa bé lên năm!. Một đứa bé chừng ấy tuổi nếu ai đưa cho nó hai miếng bánh chắc chắn nó sẽ tự chọn cái nào thấy ngon hơn. Khi chọn lựa cho mình „ con đường để đi “ sau 30-04-1975, xin tỵ nạn chính trị ở Đức “, tuy còn quá trẻ, chỉ mới hơn 25 tuổi và vừa tốt nghiệp Đại Học xong nhưng chẳng ai ép bắt tôi phải làm theo ý họ mà do tôi muốn !.

Vâng, chính tôi đã phải có một sự lựa chọn dứt khoát. Tôi đã bỏ, để lại sau lưng mình tất cả để chọn cho cuộc đời mình hai chữ „ TỰ DO “! .

Bút mực còn đó, giấy tờ và chữ ký quả quyết rằng đã khai đúng sự thật khi nộp đơn xin tỵ nạn còn đó. Tôi không thể nào dối lòng, dối mình được !.

Nhìn lại mình, thì tôi, một cựu du học sinh thời Việt Nam Cộng Hoà không hổ thẹn gì hết. Tôi quan niệm rất thực tế: “Đất lành chim đậu” và chỉ thắc mắc, tại sao “đất lành” (theo họ sau khi du lịch VN!) vậy mà sao “chim” lại vẫn mãi vỗ cánh bay chưa chịu làm tổ để đậu ??.

Tôi nói riêng – trừ thân nhân và bạn bè – không bị VC cầm tù hay hành hạ trong các trại tù mệnh danh với mỹ từ là trại “cải tạo” nhưng vẫn chưa hề một lần du lịch Việt Nam trong suốt hơn bốn thập niên qua (dù chẳng giàu có gì nhưng có thể nói chuyện mua vé máy bay không phải là trở ngại. Vì ” tự trọng” nên tôi không thể nào dối lòng, dối mình được !). Tuy ngày đêm vẫn luôn thiết tha mơ ước được dịp “Tung cánh chim tìm về tổ ấm” nhưng rất tiếc đến nay tôi vẫn còn là một con chim lạc đàn, đang tha phương và vẫn còn giữ vững tư cách của người tỵ nạn chính trị sau 42 năm đổi đời, theo đúng nghĩa của nó vì đã không chấp nhận chế độ chuyên chính vô sản sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam tự do, nơi tôi sinh ra và lớn lên nên đành tạm thời „ Xin Chọn Nơi Này (nước Đức) Làm Quê Hương !”.

*Lê-Ngọc Châu_(Nam Đức, Trung Tuần tháng Ba 2017)

https://sites.google.com/site/datutieuvuparis/van-hoc-mien-nam/-thang-tu-den/nhin-lai-minh-sau-42-nam-ty-nan-tu-thang-4-1975

 

 

Đọc đỡ buồn

Các bạn ơi, hôm qua mình lượm được 1 chiếc ví, tuy ví đã cũ không còn giá trị nhưng trong đó có 20 tờ 500.000 được buộc lại bằng sợ dây thun màu vàng và đỏ. Ngoài ra trong ví không có 1 thứ gì khác, vậy bạn nào đánh rơi ví và số tiền của mình trong đó thì liên hệ với mình để nhận lại 2 sợi dây thun vàng và đỏ nhé ….

 

Trên một chuyến tàu vượt Đại Tây Dương. Một cô gái xinh đẹp viết trong nhật ký.

Ngày thứ 1: Biển đẹp, con tàu rất lớn và thuyền trưởng cực kì đẹp trai. 

Ngày thứ 2: Thuyền trưởng đã tỏ tình, dọa sẽ làm đắm tàu nếu mình từ chối làm bạn với anh ấy đêm nay. 

Ngày thứ 3 : Mình đã cứu con tàu cùng 1.300 hành khách!

 

 

Đá nát vàng phai – kim thanh / Người Linh Già Oregon

Thẹn mình đá nát vàng phai  (Kiều)

1.Đầu năm 1976, từ trại Long Giao, Nguyễn bị đưa ra Bắc, cùng với các thành phần “ác ôn, có nợ máu” gồm An Ninh, Tình Báo, Chiến Tranh Chính Trị (CTCT),  Cảnh Sát, Tuyên Úy, có cả Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận –toàn là hàng độc, dữ dằn, cấm kỵ, dưới mắt Việt Cộng. Gần ba ngàn người bị xếp như cá hộp dưới hai khoang hầm tàu chở than, nguyên của Việt Nam Thương Tín được cải danh Sông Hương. Ai ở đâu là chết dí chỗ đấy, tiểu tiện phải bước qua những thân người nằm rũ liệt, nghe chửi thề inh ỏi khi lỡ đạp lên bụng một ông khó tính, mới đến được hai cái thùng gỗ nhỏ đặt ở cầu thang, lúc nào cũng đầy ứ. Nước uống và lương khô được thòng dây xuống, y như cảnh trong một phim buôn bán nô lệ đã xem đâu rồi.

Hai ngày sau cập bến Hải Phòng. Ở đó một đêm, nghỉ lấy sức. Ăn uống và tắm rửa bằng nước đọng, đục ngầu, trong một hố bom B52, lâu ngày, lềnh bềnh những lá mục và con lăng quăng. Tối hôm sau, được xe lửa dàn chào sẵn, rước về các vùng biên giới, qua ngã Hà Nội và cầu Long Biên. Ra khỏi Hà Nội, trời vừa sáng tờ mờ. Cả đám được xe lửa, hoặc xe molotova phủ mui, nơi nào hết đường ray, chở tiếp về Yên Bái, Lao Cai, Quảng Ninh… Bạn bè lạc nhau từ đây. Nguyễn đi Hoàng Liên Sơn. Cửa toa đóng kín, mà trời nóng như thiêu, khiến hai ông trung tá chết ngộp, xác vứt xuống bên đường. Ngồi xe hơi, thoáng hơn, thì bị trẻ con ném đá (có anh bị bể kính cận), và những bà già Bắc kỳ răng đen mã tấu tốc váy, vung tay, hét lên, xỉa xói, chửi rủa tục tằn, với sự làm ngơ đồng lõa của lũ cán bộ: “Giết hết bọn ngụy chúng mày! Tiên sư bố chúng mày, chuyên hiếp dâm, cắt cổ người, cướp của, ăn thịt trẻ con… Đồ ngụy ăn cứt Mỹ…”

Trại Hoàng Liên Sơn, với rặng Fansipan trùng điệp, do bộ đội đảm trách. Những ngày vào rừng hoặc lên núi đốn tre, chặt gỗ, giơ tay vóc từng nắm sương la đà dày đục, nếm thử thấy tê buốt –như môi hôn phút chia lìa vội vã. Những đêm lạnh cóng phải đứng ngủ cho bớt run rẩy trong chiếc chăn đơn cũ nát. Trên đường lao động, Nguyễn gặp lại bằng hữu thất tán từ các chiến trường xưa, không hẹn mà được “gom bi” đầy đủ. Nhìn nhau cười như mếu, thấm thía lời huênh hoang của một tên cán bộ: “Các anh có mà chạy đằng giời!” Thỉnh thoảng lên núi, Nguyễn và đồng tổ đội gặp một nhóm Biệt kích, bị bắt từ thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, đang lao động tự giác, không có vệ binh canh giữ. Họ nhìn đám tân tù binh, vẻ thương hại, lắc đầu thông cảm, nhưng cũng có anh không dằn được bực tức, lớn giọng: “ĐM, các anh làm ăn, đánh đấm thế nào mà bây giờ kéo nhau ra đây cả lũ?” Cả lũ xấu hổ, im lặng, không biết trả lời sao, chỉ nghe lòng xót xa bởi câu trách móc không sai chút nào. Nói thế, nhưng khi thấy bọn Nguyễn lóng cóng không buộc chặt nổi bó nứa, họ ùa đến ân cần phụ giúp, hướng dẫn tận tình, hoặc chia cho sắn luộc và bánh in khô Trung Cộng.             

Sức khỏe suy sụp dần. Sau một lần khiêng gỗ té xỉu giữa đường, Nguyễn được chuyển vào đội Rau Xanh, gồm toàn bô lão –còn gọi là đội “sứt cán gãy gọng.” Vì còn trẻ hơn và tạm lành lặn, chàng bị nhường ngay chức trưởng tổ phân, gồm bốn tên, chia thành hai cặp, ngày ngày phải luân phiên, lội xuống bên hố tiêu lộ thiên khổng lồ, múc bằng xẻng, cho đủ mười chuyến xe “kút kít”, tức xe “cải tiến”, có chất lượng, giao cho một tổ khác đem ủ thẳng dưới các luống khoai, hoặc chế biến thành nước tưới rau. Lúc đầu Nguyễn thấy hãi hùng, muốn nôn oẹ, rồi ráng nhập thiền mất đi cảm giác, ý niệm, nhìn nhưng chẳng biết đó là cái gì nữa. Ngày đầu, trước khi đám tù “xuất quân” thi hành nhiệm vụ, tên quản giáo lên lớp, giải thích cặn kẽ:

      – Có bốn thứ phân: phân bắc, phân chuồng, phân xanh. Các anh phải lấy ba thứ này cho đảm bảo chất lượng. Còn phân đạm, hay u-rê, là phân cao cấp, được nhà nước Liên Xô anh em viện trợ, ta để dành, chưa dùng đến.

      Phân chuồng (trâu bò) và phân xanh (lá cây ngâm mục) thì ai cũng hiểu. Riêng phân bắc tên quản giáo không cắt nghĩa. Một anh tổ viên, gốc Quảng, có lẽ đã biết, nhưng muốn câu giờ, giơ tay hỏi:

      – Thưa coóng bộ, còn pheng béc là pheng chi rứa?

      Tên quản giáo nhìn anh chàng chằm chằm, rồi dằn từng tiếng:

      – Có thế mà không hiểu. Phân bắc là phân tươi…

      – Chớ rứa pheng tươi là pheng chi, coóng bộ ?

      – Là cứt chứ còn gì nữa. Hỏi mãi.

     Sau khi tên quản giáo bỏ đi, một anh già trong đội, di cư năm 54, chuyên hỏi những câu móc họng:

      – Mấy cha biết tại sao tụi nó gọi cứt là phân bắc, mà không là phân nam, phân trung không?

       – ?

       – Tại vì ở ngoài Bắc của chúng tớ, cứt quý như vàng, cho nên tụi nó giành lấy hết, cả trong chữ nghĩa tụi nó cũng không chừa cho ai.                                                                                                                                                

       Mới đầu, đa số còn phát biểu linh tinh. Hệ thống ăng ten chưa được thiết lập qui mô. Trong đội Rau Xanh có ông Đại úy Cảnh sát già gân, tên Linh, họ Hoàng. Ông là người Quảng Bình, trực tánh, cả hàm răng chỉ còn dăm ba chiếc, ưa kể chuyện tiếu lâm và chuyện chế độ cũ, nói năng rất “phản động”, thuộc loại điếc không sợ súng. Trong một buổi học tập của đội, ông đã phát biểu, lên án “bọn CTCT ngụy”, vừa nói vừa kín đáo nháy mắt với Nguyễn, như sau: “Bọn ngụy tuyên truyền rất bố láo bố lếu về Bác Hồ vĩ đại, vô vàn kính yêu của ta, ví dụ họ nói nguyên văn như ri, tổ cha thằng già Hồ Chí Minh là tên giết người bán nước, làm tay sai cho thằng Xịt Ta Lin và thằng Mao Xếnh Xáng… Họ xuyên tạc bộ đội anh hùng của ta nguyên văn như ri, là chúng nó ốm đói quá, bảy thằng Việt Cộng đu một cọng đu đủ mà không gãy… Thật là mất dạy hết sức!” v.v… Và cứ thế ông nói dai, nói dài, nói lớn “nguyên văn như ri, như ri”, nước bọt văng tứ phía, với giọng nặng trịch, nhừa nhựa thuốc lào. Tất cả sĩ quan cải tạo xanh mặt, cản không được, ngồi im, lo lắng cho ông. Phải hơn hai phút sau thằng cán bộ quản giáo mới hiểu ra, lên tiếng cắt ngang, hầm hầm quát bảo ông im ngay. Nó ức lắm, nhưng lúc ấy vì quá bất ngờ chưa biết kết ông vào tội gì. Hôm sau, ông bị dẫn đi “làm việc” khá lâu, rồi bị biệt giam một tháng. Được tha về, ông thấy Nguyễn, đến vỗ vai chàng, tiếp tục mở máy, như cũ, cười hề hề: “Tui đâu ngán thằng mô”.

Sau tám tháng, cả trại bị “biên chế” đi Sơn La, dưới quyền quản lý của Công an chánh hiệu, chuyên nghiệp. Ở chung với tù hình sự, loại “đầu gấu” chuyên giết người, hiếp dâm, trộm cướp. Một vùng đèo heo hút gió, nước độc rừng thiêng, gần Điện Biên Phủ, qua hết dãy núi cao là sang đất Lào. Quanh năm chỉ thấy mây trời lơ lửng và đám người Mán, người Mèo tiếng nói líu lo, mỗi lần xuống núi mặc áo quần sặc sỡ, đàn ông chỉ có việc thổi kèn mở đường, đàn bà phải gồng gánh theo sau.

Cùng trại có các linh mục, cảnh sát, sĩ quan đủ binh chủng, vài nhà văn quân đội như Thảo Trường, Văn Quang, Phan Lạc Phúc, và một số người khác, mà Nguyễn không biết hay không nhớ tên, thường sinh hoạt chung với nhau như một club riêng. Có nhị vị cựu và đương kim Đại tá Linh mục Tuyên úy Lê Trung Thịnh và Đinh Cao Thuấn. Nguyễn nằm kế bên Trung tá Đặng Bình Minh, phi đoàn trưởng phi đoàn trực thăng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, mùa đông được anh cho một áo jacket nhà binh rằn ri cũ. Cách Nguyễn hai người là Trung tá Vũ Hoài Đức, chỉ huy phó trường ĐH/CTCT, người hiền lành, đạo đức y như Đại tá Chỉ huy trưởng Nguyễn Quốc Quỳnh. Ở một đội khác có một cựu tùy viên của Tổng thống Ngô Đình Diệm, hình như là Lê Tử Hùng (?), đeo kính trắng gọng đen, bự. Ai nấy thiếu ăn, xác xơ, yếu đến nỗi, Nguyễn nghĩ, rủi đi vấp viên sỏi, hay ngọn cỏ, cũng có thể té quay lơ. Và bắt đầu thấm đòn độc của Việt Cộng: chủ trương cải tạo bao tử, nghĩa là bắt đói triền miên, để chế ngự ý chí, và cả tư cách nữa! Lao động vinh quang là trồng lúa, sắn, ngô, khoai trên những thửa đất hoang, khô cằn sỏi đá.           

2. Hơn hai năm sau, Trung Cộng uy hiếp biên giới, Việt Cộng lo sợ, vội vàng chuyển tất cả về Vĩnh Phú mà chúng gọi là miền trung du, đất tổ Hùng Vương. Hùng Vương ở đâu chả biết, chỉ thấy toàn núi rừng thâm u và bộ mặt kinh niên hắc ám của các cai tù, và những tên Ăng Ten, Trật Tự, Thi Đua ngu ngốc làm khổ đồng đội còn hơn chính kẻ thù. Trại rộng thênh thang chia làm bảy khu, gọi là K, cách nhau trung bình năm, sáu cây số, nằm tít phía sau thung lũng sông Hồng. Từ Sài Gòn ra Vĩnh Phú thăm chồng, các bà “vợ ngụy” xem như chặng đường thánh giá mới, phải vượt rừng băng sông, đi đủ các loại xe, kể cả xe trâu và xe đạp ôm. K7 gần nhất, giam riêng các biệt kích. Ở giữa, một K dành cho các thiếu niên phạm pháp, đa số về tội ăn cắp –có đứa chỉ mới tám tuổi. Nguyễn ở K1, xa nhất, tuốt sâu trong núi.                                    

Tại Vĩnh Phú, có anh bạn đồng nghiệp trường Đại Học CTCT Đà Lạt, Nguyễn Ngọc Nhung, Đại úy phòng Khảo Hạch, kiếm đâu ra được chức thủ kho dụng cụ lao động, cũng ấm thân. Một hôm, Nhung kể, một tên công an vẻ phách lối đến mượn cái xẻng. Theo thủ tục phải ghi tên vào sổ. Thủ kho, người Bắc, lịch sự hỏi:    

      – Xin cán bộ cho biết quý danh.

      Thằng nọ không hiểu “quý danh”, há mồm, ngơ ngác, suy nghĩ một hồi, rồi đột nhiên sừng sộ:

      – Anh vi phạm lội qui. Ai cho anh lói tiếng lước ngoài hử?         

      Nhung sửng sốt, á khẩu. May phước, nhờ các bạn tù xúm vào thông dịch giùm, anh mới thoát nạn, sau khi bị xỉ vả tận tình:

      – Giờ lày mà còn ôm chân đế quốc, lói tiếng nóng…

      Nguyễn Ngọc Nhung không phải là trường hợp duy nhất. Bọn cai tù Việt Cộng là chúa nghi ngờ, nhậy cảm và mặc cảm. Một câu nói vô tình, vô tội, đùa vui cũng bị “nâng cao quan đỉểm” và những phát biểu viên linh tinh đều bị gọi lên “làm việc” tận tình. Một thiếu úy trẻ, một bữa trưa Chúa Nhật nghỉ lao động, vừa phơi chiếu bắt rệp vừa cao hứng hát bài “Giết người trong mộng” và gào lên thống thiết, giết người đi, giết người đi, bị ăng ten báo cáo và tên quản giáo xuống điều tra, qui tội phản động, âm mưu sát hại Cách mạng, và xách đi biệt giam một tuần lễ. Hay một anh khác, không hiểu sao, bực mình chuyện gì, một hôm, lớn tiếng chửi đổng: “ĐM thằng Mỹ thằngThiệu”, cũng bị buộc tội “tư tưởng còn lấn cấn, anh tức giận bọn Mỹ-Thiệu là vì chúng nó bỏ rơi anh, chứ gì, đúng không?” Hay các linh mục tuyên úy trồng cây cột, đóng với một thanh gỗ ngang, để căng dây phơi quần áo, cũng bị kết án cố tình dựng cây thánh giá và bị bắt tháo xuống và viết tờ kiểm điểm.

Ở trại mới, Nguyễn “được” chỉ định về đội Nông Nghiệp. Phải lội vào một thửa ruộng bỏ hoang từ bao đời để theo phiên kéo cày thay cho trâu bò. Nước bùn đen đặc quánh, đỉa bơi lổn ngổn, thò chân xuống thấy lạnh buốt và ghê rợn –làm chàng nhớ các đầm lầy cũng kinh khiếp dưới những tầng cuối địa ngục mà thi hào Ý Dante Alighieri phải vượt qua với Virgile, trong Inferno. Ba hôm sau, một số đội viên –có Ðại úy Cảnh sát Phạm Bá Ðiềm, bạn thân từ trại Sơn La– lên cơn sốt cấp tính, chỉ hai ngày là hôn mê, rồi chết. Người sống sót rụng dần lông chân, không bao giờ mọc lại được nữa. Phải mất thêm vài mạng, đội mới có lệnh “giải thể.”

Thửa ruộng lại bị bỏ hoang, Nguyễn trở về đội Rau Xanh, như hồi ở Hoàng Liên Sơn, lại vào tổ múc phân, lần này giao cho thợ bón kiêm tưới viên là phi công Air Vietnam Trí (Nguyễn Hữu?), trung tá biệt phái. Nói chuyện mới biết Trí bay đường Hồng Kông và Tokyo, có chuyến với Bội Trân, em gái Nguyễn, mà anh tả đúng hình dáng, nên chàng tin lắm. Chim bằng gãy cánh, Trí tiếc nhớ trời xanh, giờ giải lao ngước nhìn lên cao, uất ức, thở dài…

3. Tết đầu tiên tại Vĩnh Phú, trại được nghỉ lao động ba ngày, và tự do đi lại các khu vực. Nguyễn tìm đến dãy nhà giam riêng “bò lục” (tiếng lóng chỉ đại tá) để thăm Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, vị chỉ huy trưởng kính thương của trường Ðại Học CTCT Ðà Lạt  –nơi mà chàng được phục vụ gần ba năm trong chức vụ Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội và Sĩ quan Phụ khảo cho đến ngày tan hàng. Nguyễn thấy ông cũng vừa bước ra sân, nơi đang diễn nhiều trò vui do tù bày ra để giết thời gian và nỗi nhớ nhà. Ông nhận ra chàng ngay. Chung quanh rất đông người, và dĩ nhiên ăng-ten được rải đầy. Gặp ông, chàng mừng quá, nói lớn:

      – Chào bác, bác vẫn khỏe chứ ạ?

Ông nắm tay chàng một lúc lâu, và chậm rãi nói, giọng xúc động:   

      – Cám ơn anh, tôi vẫn khỏe. Còn anh thế nào, có bệnh hoạn gì không? Tôi biết anh ở đây lâu rồi, mà không gặp được.

Nguyễn cố nuốt những giọt lệ làm nghẹn cổ họng, xót thương cho phận vàng phai  đá nát. Cho đất nước bất hạnh. Cho cả chính mình. Hồn bỗng rưng rưng, thầm gọi tên một thời yêu thương, và thù hận, tưởng đã chết theo cùng với mùa xuân tang tóc và những giấc mơ phai. Một thời vì ông chợt hiện về nguyên vẹn. Như mới hôm qua…    

Sài Gòn, đầu tháng 5, 1975. Hai ngày sau khi đứng nhìn từ một góc đường Lê Văn Duyệt, uất giận, và nước mắt lưng tròng, những chiếc xe tăng chở đầy Cộng quân vào thủ đô, nghe tên nằm vùng Trịnh Công Sơn hớn hở ca mừng chiến thắng, kêu gọi nối vòng tay lớn, và chạy tới chạy lui dò la tin tức người thân, bạn bè ai còn ai thoát, Nguyễn tìm được địa chỉ của ông và đạp xe đến thăm cùng với hai cựu SVSQ khóa 4, Nguyễn Gia Hưng và Nguyễn Dự, tình cờ gặp lại trên đường. Phu nhân và cô con gái, vì quen mặt hồi ở Ðà Lạt, tiếp ba người không e dè. Ðại tá Quỳnh ra phòng khách, áo sơ mi bỏ trong quần tây, chân đi săng đan. Trông ông mệt mỏi, có vẻ chán nản, dù bề ngoài vẫn giữ phong cách nho nhã, lịch sự cố hữu. Cả khách lẫn chủ không nói gì nhiều. Có lẽ trước thảm họa chung ai cũng có nỗi ưu tư riêng, cùng nặng nề như nhau. Suốt ba hôm liền, Nguyễn bị hối hận dày vò, tự trách đã vụng suy, khí khái hão, không nghe lời cô em tiếp viên hàng không đưa gia đình lên chuyến Air Vietnam cuối cùng, và sau đó, chuyến Galaxy của một viên phi công Mỹ bất ngờ gặp em tại Tân Sơn Nhất, và có cảm tình với em. Khiến tất cả đành phải ở lại, dắt díu nhau trở về Nha Trang để thấy cửa nhà, tài sản rơi vào tay bọn cách mạng 30 –hạng khố rách áo ôm trước kia đã chịu ơn ba mẹ, nay trở mặt, gán lên đầu đủ thứ tội. Còn Ðại tá Quỳnh, chàng không biết ông đang cảm gì, nghĩ gì, vì suốt buổi chỉ nghe ông lặp đi lặp lại:

      – Không thể ngờ nhanh như thế!

Ðâu phải mình ông. Không ai ngờ, kể cả Dương Văn Minh, viên tướng thiếu tài, khờ dại, được sinh ra chỉ để phản bội và bọn “hàng thần lơ láo” tại dinh Ðộc Lập trưa ngày 30/4. Kể cả lũ vượn người khoác lác ở Bắc bộ phủ. Kể cả tên đồng minh Kissinger xảo quyệt, tác giả của cái gọi là hiệp định Paris quái gở bán đứng Miền Nam, người được báo chí Mỹ bơm lên như nhà ngoại giao vĩ đại, nhưng thực chất chỉ là một anh trí thức cơ hội chủ nghĩa và đầy ảo tưởng, chưa tiêu hóa kịp những bài học bang giao quốc tế ở trường Harvard. Kể cả anh tướng hai sao và ba hoa nọ đã thề thốt ở lại để ăn mắm tôm cà pháo với đồng bào (di cư Tân Sa Châu), vậy mà vào phút chót nhờ có trực thăng riêng mới vọt ra được hạm đội Mỹ. Không thể ngờ nhanh như thế!  Chàng chỉ biết gật đầu, đồng ý với ông. Cuối cùng, cất tiếng hỏi:

      – Ðại tá có ý định sẽ làm gì ?                                             

Ông lưỡng lự vài giây, rồi trả lời:

       – Tôi chưa biết sẽ phải làm gì. Nhưng ở hoàn cảnh nào tôi cũng chấp nhận những gì tệ hại nhất sẽ xảy đến cho tôi.

Như là mặt trái của bổn phận và vinh quang, chàng hiểu như thế qua những lời chậm rãi, đắn đo của ông. Những lời chàng nghe quen từ đâu rồi bỗng mang một ý nghĩa cao đẹp, phi thường trong bối cảnh bấy giờ. Những lời đã theo chàng suốt tám năm đày ải, và cùng với hình ảnh của Guillaumet, viên phi công lâm nạn lầm lũi bước lê trên cát sa mạc, không chịu ngồi chờ chết, trong Terre des hommes của Saint-Exupéry, đã khích lệ, vực chàng đứng dậy để tiếp tục sống còn. Nguyễn cảm động, và khi từ biệt, siết chặt tay ông, nói nhỏ:

      – Có một điều Ðại tá nên chắc chắn là dù ngày mai ra sao tôi sẽ không bao giờ quên Ðại tá và những gì Ðại tá đã làm cho tất cả chúng tôi.

Và cho riêng chàng. Ông là một chỉ huy trưởng nhân hậu, có đức có tài, hơn ai hết, đã làm tôi thấy yêu thích và kiêu hãnh với đời quân ngũ không chọn lựa. Một chỉ huy trưởng quả cảm và xứng đáng, có tinh thần trách nhiệm cao độ –quyết ở lại với thuộc cấp cho đến phút cuối, mặc dù nghe nói ông có một người con rể là đại tá không quân Mỹ và có dư phương tiện để tẩu thoát một mình như đám tướng lãnh tham sinh úy tử kia –đã nhanh chân đào ngũ trước khi tai họa giáng xuống. Quả vậy, chín giờ sáng 30/4, tại Tiểu đoàn 50 CTCT, đường Phan Ðình Phùng, bấy giờ là bộ chỉ huy tiền phương của trường Ðại Học CTCT, ông vẫn chỉ thị các sĩ quan hiện diện và sinh viên sĩ quan các khóa tiếp tục chiến đấu và phòng thủ, để rồi, cuối cùng, phải buông súng, bất lực trước mệnh nước. Chàng không bao giờ quên được khẩu lệnh cuối cùng, ngắn ngủi, thật buồn bã của ông cho ban tham mưu, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng:

       – Phát hết lương khô và cho anh em tan hàng!

Hơn hai năm phục vụ trường Ðại học CTCT, không biết bởi chủ quan chăng mà Nguyễn có cảm tưởng được ông biệt đãi. Cả Alain Bichet, giáo sư Lycée Yersin, mà chàng giới thiệu như một người bạn quý, cũng được ông dành cho cảm tình nồng hậu, và ngược lại. Ngoài ra, ông chẳng những chấp thuận, mà còn khuyến khích, chàng dạy vài lớp Pháp văn tại Viện Ðại Học Ðà Lạt, do lời mời của Phó Khoa trưởng Văn Khoa, Tiến sĩ Sử Nguyễn Hồng Giáp –một bạn học cũ– mới từ Paris về, và sau này, qua trung gian của chàng, nhận dạy một lớp cho trường CTCT. Rồi đến mùa văn hóa chàng được ông mời dự tiệc với các giáo sư tại tư thất và thỉnh thoảng nhờ đưa đón họ bằng chíếc Peugeot 203 bụi đời của chàng. Khi giáo sư Xã hội học Phạm Thị Tự bận, không lên Đà Lạt nữa, ông bổ nhiệm chàng dạy thay bà, bắt đầu năm cuối của khóa 4. Những sự việc trên, chàng xem như vinh dự, nếu không nói đặc ân, nhận được từ Ðại tá Quỳnh, dù chàng biết ông đối xử công bằng, tử tế, dễ thương với tất cả mọi người, không riêng ai… Và một chuyện, rất cá nhân, chàng còn nhớ mãi.  

Hè 1974, trường mở cuộc thi tuyển khóa 6. Nguyễn được cử làm trưởng trung tâm Nha Trang. Các bài thi được mang từ các trung tâm về trường để các sĩ quan Văn Hóa Vụ chấm. Mẹ chàng gửi gắm con bà sui gia, tức em chồng của một cô em chàng, Thể Trân, kèm theo nửa mảnh giấy nháp do anh ta viết để chàng thuộc nét chữ. Chàng “dạ” cho qua chuyện, vì biết trước sẽ chẳng làm gì cả. Xưa nay chàng vốn ghét việc ăn gian với chữ nghĩa, nhất là “quay phim” trong trường thi, hoặc cuỗm bài người khác, xào nấu lại thành của mình, để in báo hay đọc trên đài phát thanh, như một số “văn sĩ” hải ngoại đang làm. Kết quả, con bà sui gia rớt, chàng đoán thế, vì không thấy tên trên bảng. Mẹ và em gái lúc đó có mặt tại Ðà Lạt, ở nhà chàng, chắc cũng biết, nhưng không nói năng gì. Hôm sau, Ðại tá Quỳnh cho gọi chàng lên. Ông đưa chàng xem ba bài Pháp văn rọc phách, không đề tên, đều bị hai con số không to tướng. Và nhỏ nhẹ bảo:

       – Mẹ và em của Ðại úy sáng nay có đến gặp tôi, xin vớt một người bà con được đỗ kỳ này. Tôi xem lại điểm thì thấy anh ấy và hai người nữa bị loại vì bài Pháp văn. Ðại úy chấm rất đúng, vì họ trả lời kém thật. Tuy nhiên, Ðại úy xem có thể nâng điểm lên cho thân nhân của Ðại úy, và vì anh này, cho hai người kia nữa được đỗ không?

Sự việc quá bất ngờ, chàng chưa biết trả lời sao, thì ông vội tiếp, vẫn nhỏ nhẹ:

      – Nhưng điều ấy cũng tùy Ðại úy thôi. Tôi không có quyền gì.                   

Suy nghĩ vài giây, chàng mới lên tiếng hỏi:

      – Ðại tá thấy họ cần bao nhiêu điểm nữa?

Ông nói từ 3 đến 4. Chàng bèn sửa, và ký tên trước mặt ông. Sự tế nhị và lòng độ lượng của Ðại tá Quỳnh làm mẹ và em chàng cảm phục, hân hoan. Riêng chàng thầm cám ơn ông đã khéo léo giải quyết mọi chuyện êm đẹp, nếu không chắc phen này chàng “khó sống” với mẹ, bà sui gia, em gái. Tại bến xe đi Nha Trang, khi hôn từ giã chàng, Thể Trân bỏ nhỏ vào tai:

      – May phước còn có ông Ðại tá chỉ huy trưởng của anh… Anh lý tưởng vừa chứ. Mẹ giận anh lắm đó, nói sẽ cúp viện trợ cho anh… Anh liệu lời xin lỗi mẹ đi! 

… Thế rồi, mỗi người chia một nẻo. Ông cũng đi trình diện “cải tạo” ở một nơi nào đó. Chàng bị tống vào Long Giao để gặp lại gần toàn bộ sĩ quan Ðại Học CTCT, trong số có người bạn thân, Đại úy Đỗ Huy Hoàng, chủ bút tờ Ức Trai của trường. Những chiều lao động về rảnh rỗi, chàng mò sang đội của Hoàng, hoặc ngược lại, để tâm sự vụn cho bớt nhớ nhà. Nhất là bớt tức. Có cái gì uẩn ức, hằn học nằm trong tiềm thức của mỗi tên tù. Đau xót và căm giận còn hơn bị tình phụ. Nhưng không biết tức ai. Lãnh đạo hèn nhát đã cao bay xa chạy. Thù hận Cộng Sản thì chẳng ai dám hé môi nói với ai. Cuối cùng, chỉ có Thượng Đế lãnh đủ những lời ta thán, chửi thề bâng quơ. Trong câu chuyện, chúng tôi điểm mặt từng người quen, và khi biết toàn trường vào tù, cả hai cùng thở dài, ngán ngẩm. Nguyễn còn gượng chọc Hoàng:

       – Ức Trai hay Ức Gái gì rồi cũng chui vô rọ hết!

Tại Long Giao, chàng ở cùng đội, cùng tổ với Đặng Phùng Hậu, bác sĩ trưởng bệnh xá trường Đại Học CTCT, và một nhóm quân y. Cả tổ, vì tự ái, tự trọng, không ai than vãn về chuyện ăn uống, đói khát trong tù, kể cả sau này khi viết hồi ký. Hậu vui tính, kể đủ chuyện, nhờ vậy những ngày ảm đạm, bực bội qua khá nhanh. Mỗi tối, Hậu thì thầm nói chuyện với chàng về thời cuộc, và lần nào anh cũng lẩm bẩm kết thúc bằng câu:

       – Địt cụ, đau như hoạn, tức như bò đá!

Bên dãy cấp tá có Lê Ân, thiếu tá Văn Hóa Vụ trưởng của trường. Những lần thấy nhau qua hàng rào kẽm gai, ông lộ vẻ mừng rỡ, rồi lắc đầu nói, giọng Quảng lai Huế rất trademark của ông:

       – Cháng gướm (chán gớm)!

Trong câu chuyện, anh em thường hỏi nhau về Ðại tá Chỉ huy trưởng. Không ai biết chính xác ông ở đâu. Có tin ông đã chết. Hoặc đang ở ngoại quốc. Hoặc trốn trong một khu rừng. Nhiều đêm trằn trọc, Nguyễn khổ tâm vì dĩ vãng, cứ ám ảnh mãi, như cuốn phim quay lại, tự động, chậm chạp, lê thê. Nhớ không sót từng khuôn mặt, từng buổi giảng dạy, từng dịp lễ. Nhớ từng đêm Giáng sinh giá buốt và tiếng chuông nhà thờ ngân nga, từng buổi dạ vũ tưng bừng, mệt nhoài, từng con phố chìm trong sương mờ che khuất nẻo đường về…

Bây giờ Đại tá Quỳnh đứng đó, bên Nguyễn, giữa một ngày xuân héo hon. Người gầy nhom, gương mặt hốc hác, má trũng sâu. Nhìn lại hình hài mình, chàng thấy đâu hơn gì. Chỉ một thoáng mơ, bỗng hiện về trong đáy hồn rời rã cả khung trời yêu thương Ðà Lạt và kỷ niệm rực rỡ của tháng ngày cũ có hạnh phúc còn thơm hương mimosa, có tình yêu chưa biết nói lời phản trắc, có một Ðại tá Quỳnh uy nghi trong quân phục đại lễ gắn cấp hiệu cho sinh viên các khóa, nay còn đâu! Mới có bốn năm vật đổi sao dời mà cả hai đã trở thành thảm hại đến thế ư? Ông mặc bộ treillis bạc màu, chân đi dép râu, sau lưng viết chữ Quỳnh thật to bằng mực tím. Thấy không ai để ý, Nguyễn bèn hỏi rất khẽ:

      – Ðại tá nghĩ sẽ có ngày về không?

Ông lấy tay che một bên tai, có vẻ chú ý lắm mới nghe lọt hết. Và trả lời nhanh, chắc ngại đám ăng-ten cứ lượn qua lượn lại trước mặt:

      – Tôi nghĩ là rất khó lòng, mặc dù vẫn cố hy vọng. Ðiều quan trọng là anh gắng giữ gìn sức khỏe tốt để có sức chịu đựng. Gặp anh em khác cho tôi gửi lời thăm!

Một thằng sà tới. Nguyễn vội nói lớn:

      – Bác được thư gia đình thường chứ ạ?

Ðại tá Quỳnh chưa kịp đáp thì hắn đã gay gắt bảo Nguyễn, giọng trọ trẹ:      

      – Tôi lưu ý anh, không được quan hệ với các anh đại tá.    

Chàng phản pháo liền:

      – Nhưng anh là ai? Hôm nay ngày Tết được miễn!

Thằng nọ mặt hầm hầm, lớn tiếng:

      – Tôi ở trong ban Trật Tự. Ðề nghị (tiếng Việt Cộng có nghĩa “yêu cầu”) anh chấm dứt quan hệ linh tinh.

Chàng quay sang Ðại tá Quỳnh :

      – Thôi, xin từ giã bác, chúc bác mạnh khỏe, bình an trong năm mới.

Rồi nhìn thẳng mặt thằng Trật Tự, giận dữ bỏ đi. Nguyễn gặp Ðại tá Quỳnh được một tháng thì hai đội bò lục –đội trưởng là Lê Ðình Luân và Dương Hiếu Nghĩa– chuyển xuống K5, cách đó độ sáu cây số, cùng với các linh mục tuyên úy mà bọn Công an đặc biệt căm thù.                                      

4. Rồi một hôm, mẹ chàng lặn lội đến thăm, có Bội Trân hộ tống. Lần đầu được phép, sau năm năm nộp đơn và chờ đợi. Mất ba ngày đường trên hai chuyến xe lửa từ Nha Trang ra Hà Nội, từ Hà Nội lên Ấm Thượng. Qua sông Hồng bằng phà máy, tới K1 bằng xe trâu. Tại nhà tiếp tân, lúc đó khá đông người, ba mẹ con ôm nhau khóc, rồi nói cười, mừng mừng tủi tủi, trước những cặp mắt cú vọ của lũ vệ binh và quản giáo. Mẹ thút thít, xoa nắn hai cánh tay và ngực chàng, như lúc nhỏ chàng từ Sài Gòn về quê Nha Trang nghỉ hè, chê con gầy quá, tội con quá! Tóc mẹ bạc hơn nửa mái đầu, da sạm nắng, tay nổi gân xanh. Suốt năm, Bội Trân nói, mẹ đi thăm nuôi “mệt nghỉ” rồi lo tìm đường cho con vượt biên, làm sao mà không già yếu cho được. Ba ông con trai lớn và một chàng rể tương lai đi cải tạo bốn nơi khác nhau, cô con gái áp út, Huyền Trân, bị bắt ngay trên ghe nhỏ, giam tại A30. Cả nhà bị chúng nó theo dõi sát nút. Chỉ có ba đứa thoát được, mẹ cho biết, gồm Thể Trân đi với gia đình chồng, và sau đó, hai thằng út, còn nhỏ, được một người quen trong xóm cho quá giang ghe, và đang ở Mỹ. Bội Trân đẹp như trước kia, nổi bật giữa phòng tiếp, dù thôi trang điểm. Nhưng tóc cài hờ hững, mắt buồn vời vợi, mất hết vẻ hồn nhiên, tinh nghịch cố hữu, khiến chàng ngậm ngùi tưởng đến những mỹ nhân tự thuở xưa hương sắc không phai giữa gió đời vùi dập, kiêu sa trước nghịch cảnh, như các nhân vật nữ trong những vở bi kịch Hy Lạp cổ. Em kể, và mẹ lắng nghe, thỉnh thoảng gật gật đầu, đồng ý:

      – Nhà mình bị tịch thu được chúng nó trả một nửa, nửa kia làm trụ sở thanh niên phường. Ba làm rẫy, mẹ lén nấu rượu chuối cho ba uống, thay Martel. Em phụ bán nước mía với em Huyền Trân. Chị Thể Trân được tàu Pháp vớt, gần Mã Lai, hiện định cư tại Nanterre với chồng con. Chị vẫn nhắc chuyện anh cho cậu em chồng hai quả trứng vịt lộn trong kỳ thi ở trường Chiến Tranh Chính Trị và ông Ðại tá chỉ huy trưởng hiền từ của anh. Chị nói anh ngang tàng, đôi lúc chị tức anh lắm, nhưng vẫn thương anh, hơn bất cứ ai, bởi anh là mẫu người của đàn ông, có chết cũng không than van, xin xỏ, lúc nào cũng bất cần, kiêu hãnh, giống như con chó sói bị thương trong bài “La mort du loup” của Vigny mình học năm nào đó… Anh nhớ không, hồi nhỏ, một lần anh đánh lộn với mấy thằng lối xóm chuyên chận đường chọc ghẹo tụi em, bị chảy máu mũi, mắt sưng vù, mà anh vẫn cắn răng chịu đau, không khóc, lại còn bị ba mắng cho nữa…

Chàng lắc đầu, cười buồn. Ôi, xa rồi kỷ niệm, nhắc làm chi hỡi em? Và đổi đề tài:

      – Em đã đi thăm Kha chưa? Anh không biết Kha hiện ở trại nào. 

Kha là hôn phu của Bội Trân, phi công A37, dưới chàng hai lớp ở Jean-Jacques Rousseau. Sắp cưới thì mất nước. Vì Bội Trân ở lại, Kha cũng không đi.

      Nghe chàng hỏi, Bội Trân chớp mắt, buồn rầu nhìn ra sân. Bầu trời thấp, đục, giăng mây xám, như sắp đổ mưa. Gió rừng tuôn qua vách nứa ngập gian nhà trống trải, không liếp che, lạnh từng cơn. Em thì thầm:

      – Mẹ và em đã ghé thăm Kha ở Hà Nam Ninh trên đường lên anh đây. Cũng tàn úa, như anh, như mọi người, sức khỏe giảm sút nhiều… Em sẽ chờ Kha, bao lâu cũng được.

Chàng quay sang mẹ, bùi ngùi nói:

      – Tất cả đều do lỗi của con. Phải chi ngày đó con biết nghe lời em đưa gia đình… 

Mẹ ngắt lời:

      – Cả nước đều lầm, đâu phải mình con. Chuyện cũ, thôi đừng nghĩ đến nữa.  

Bội Trân tiếp:

      – Nhưng có thế này em mới được thất nghiệp, về ở hẳn với ba mẹ chứ! Em vẫn thương anh và hãnh diện vì anh.

Mẹ và em nói đủ thứ chuyện, nhưng không đề cập đến một tin chàng mong chờ mà ngại ngùng không dám hỏi. Dường như hiểu ý, lúc mẹ quay qua tiếp một bà đồng hành ngồi cùng bàn, Bội Trân nắm bàn tay chàng, siết chặt, và khẽ nói:

      – Lệ Ngà đã lấy chồng. Hai năm sau khi anh ra đi. Em đâu ngờ!   

Tự dưng chàng buột miệng, không chút mỉa mai:

      – Hai năm là còn khá thủy chung đấy chứ em!                  

Nguyễn tưởng sẽ phải đứng tim, ngất xỉu. Nhưng lạ quá, chỉ thấy buốt nhói một chút như kim châm. Có lẽ vì đã chuẩn bị đón nhận sự thật từ quá lâu, từ năm năm rồi. Một thiên thu. Chợt nhớ một anh bạn Thiết giáp vừa vào Long Giao mấy tháng đã nhận được thư vợ xin anh cho phép “bước thêm bước nữa” và ký vào tờ đơn ly dị và giấy nhường tài sản kèm theo, và cả đời chàng không quên được giọng cười khinh bạc của anh sau khi viết trả lời: “Nhất trí. Cho cô hết. Nhưng khuyên cô không nên bước, mà nên chạy cho nó nhanh.”

Chàng không phản ứng lanh lẹ được như anh ta. Bởi vô vàn kỷ niệm ngát hương ngày mới yêu ùa về, thay nhau vỡ như bong bóng. Lệ Ngà. Bạn học thân thiết của Bội Trân. Tà áo thiên thanh và dòng tóc buông lơi trong nắng sớm phi trường Liên Khương, những lần em bay lên gặp anh. Lệ Ngà. Những chiều đi dưới mưa lất phất qua những đồi thông, em hát nho nhỏ bài “Le jour où la pluie viendra… Ngày mà mưa đến, sẽ có bao nhiêu là giọt kim cương cho tình ta…” Những ly rượu Bordeaux sóng sánh ngọt lịm môi em, trong quán L’eau Vive, và bản sonate 23 của Beethoven, Appassionata, trên phím dương cầm, thánh thót như từng giọt lệ rơi, thiết tha như lời tuyệt vọng gọi người tình về. Những vòng tay cuống quýt tìm nhau trong hoàng hôn tím trên đồi Cù. Những lời thề nguyền yêu đương cho đến lúc đầu bạc răng long. Lệ Ngà. Hạnh phúc dối gian và ảo vọng phù du. Nguyễn nhắm mắt giây lâu, nghe vị đắng và cơn giận thấm dần xương tủy. Và thở dài nhè nhẹ, nhìn Bội Trân, không nói. Ðâu phải tình cờ em nhắc đến con chó sói bị thương, cùng đường, của Vigny.          

Em tiếp, giọng trầm buồn:

       – Không hiểu sao Ngà biết em sắp đi thăm anh. Ðến gặp em, lần đầu tiên sau mấy năm biệt tích. Em không nỡ đuổi. Khóc suốt buổi, nhưng không nói một lời gì về anh. Khi chia tay, Ngà nhờ em trao hộ cho anh những phong chocolat Meunier mà chị ta nói ngày xưa anh rất thích, và cho em một số tiền làm lộ phí, nhưng, dĩ nhiên, em đã không nhận gì hết… Em biết tính anh quá mà!

Chàng nói cám ơn em. Rồi cả hai im lặng, đuổi theo những ý nghĩ riêng…  

Hai giờ trôi qua mau. Tên cán bộ vén tay áo xem đồng hồ, bảo tất cả chuẩn bị ra về, vác quà vào trại. Khi ôm hôn từ biệt chàng, lợi dụng tiếng ồn ào, Bội Trân nói nhỏ, một hơi, thật nhanh, qua màn lệ, bằng tiếng Pháp:

      – Ba dặn anh đừng tin bọn Cộng sản, đừng khai thật, khai sao lặp lại y như vậy, đừng tin các phong trào phục quốc, tất cả đều là cạm bẫy của Việt Cộng. Em nghe đài VOA và BBC nói các nghị sĩ, dân biểu Mỹ, và cả thế giới đang quan tâm đến số phận của các anh. Ðừng tuyệt vọng nghe anh. Nhớ đọc kinh, cầu nguyện xin Chúa và Ðức Mẹ che chở. Cả nhà chờ anh đó. Em thương anh. Je t’aime toujours. Toujours. 

5.  Mẹ và em về hơn hai tháng, Nguyễn được chỉ định vào đội Xây Dựng, có nhiệm vụ cất nhà ở cho tù, cán bộ, và heo, và bắc cầu qua suối cho dân. Lúc đầu chàng phụ tá cho Thiếu tá Lưu Ninh, dễ thương, vui tính, trong tổ vữa (trộn hồ), và sau khi Ninh qua “khâu” lợp chàng được thăng chức tổ trưởng, và tổ phó là Ðào Văn Bảnh, Trung tá Bộ Tổng Tham Mưu. Bảnh tính tình điềm đạm, cởi mở, sau trở thành một trong những bạn tù thân thiết nhất. Không có tổ viên. Suốt ngày hai tên hì hục trộn hàng đống vữa lớn, nhỏ, để sẵn, chờ một toán đem xe cải tiến, do ông nhà báo Việt Tấn Xã Đinh Phụng Tiến chỉ huy, đến xúc giao cho các thợ xây. Trong đội, nằm cạnh chàng, có Ðại đức Nguyễn Long, đứng tuổi, quê Quảng Ngãi, lo nấu nước, làm tạp dịch. Ông hiền lành, thật thà, ưa giúp đỡ mọi người. Nhiều đêm, vài anh nổi hứng, oang oang kể chuyện đàn bà con gái, chơi bời trước kia. Ông cũng bị nghe, và lần nào cũng lầm rầm bên tai Nguyễn:

      – Mô Phật! Chơi chi mà chơi dữ rứa hè!  

Bữa nọ, một bà già khu gia binh cho đội một con chó con vừa chết. Một anh Đại úy Cảnh sát Đặc biệt, gốc Hố Nai, xung phong trổ tài nấu rựa mận với muối, rau muống, và củ riềng  –mọc đầy hai bên đường. Mỗi người được chia hai miếng to bằng ngón chân cái. Ai cũng “hồ hởi” ăn, trừ Ðại đức Long. Ông đi tìm Nguyễn, cho phần của ông, mặc dù quanh năm, cũng như ai, ông thiếu chất thịt và chưa được thăm nuôi. Ông nói:

      – Tui còn tu. Anh ăn giùm cho!  

Đổi lại, Nguyễn tặng ông phần sắn, nhưng ông nhất quyết không nhận.

Một hôm, đội được điều động làm công tác “đột xuất” (bất ngờ) là ra “nghĩa địa”, tức một bãi đất trống sát chân núi, làm cỏ và cắm mộ bia cho các anh em đã nằm xuống. Nguyễn đếm gần hai trăm mộ  –kỳ thực chỉ là những nấm đất vùi sơ với mảnh gỗ nhỏ ghi vội tên người chết. Trong số có vài ông tỉnh trưởng, trung đoàn trưởng. Có Trung tá Nguyễn Văn Năm, thuộc trường Ðại học CTCT, người hiền như Bụt, nổi tiếng về khoa bói toán, bấm độn, và một người quen biết từ Sơn La, Trung tá Ðặng Bình Minh –cả hai trúng nắng cùng một lúc ngoài hiện trường lao động, được chở về trại cùng trong một chiếc xe trâu, hôn mê và qua đời cùng một giờ. Anh em kể, vợ phi công Minh, một dược sĩ trẻ đẹp, từ Hà Nội trở lại thăm nuôi tiếp, đúng lúc anh vừa mất, được dẫn ra nghĩa địa, khóc như mưa, rồi cắt tóc để lại trên mộ cùng với một bài thơ. Nguyễn vừa dọn cỏ vừa thầm khấn các anh phù trợ cho tất cả tai qua nạn khỏi và mau về sum họp với gia đình. Và thắc mắc không hiểu sao bữa nay bọn cai ngục lại tử tế đối với tù binh quá cố như vậy. Thì ra, về sau mới biết, có một phái đoàn cao cấp Bộ Nội Vụ đến thăm trại. Cuối năm 1980, cả đội của Nguyễn được điều động đến K5 xây hội trường và khu gia binh cho công an. Tại đây, Nguyễn vui mừng được thấy lại Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, mỗi buổi sáng tập họp. Kỳ này, trông ông đỡ tiều tụy. Tết 1981, mẹ chàng và Bội Trân ra Vĩnh Phú lần thứ hai, với Huyền Trân, cô em út xinh đẹp vừa tròn mười tám. Chàng soạn bánh mì khô, đường và mì gói, mấy viên thuốc cảm, bỏ vào một bọc ni-lông, chờ buổi chiều các đội đi tắm suối chung lẻn đến phía các bò lục, gặp Ðại tá Quỳnh trao cho ông, nói:            

      – Tôi mới được thăm, xin biếu Ðại tá.

Hai tháng sau, đến lượt ông được thăm, và một buổi sáng Nguyễn đang đánh vữa thì đội của ông đi ngang. Ông gật đầu ra dấu cho chàng đến sát hàng rào kẽm gai và dúi vào tay một gói lương thực khô đủ loại. Thằng vệ binh thấy được, chạy tới khám. Không có thư từ, mật hiệu, nó trả lại, mồm càu nhàu:

– Quà với cáp linh tinh!

Lúc này, tổ vữa làm việc gần bếp và giếng nước cơ quan. Một hôm, một trung sĩ công an còn trẻ, lạ hoắc, lén vệ binh, đến gần, run run hỏi nhỏ: 

      – Các anh có B6, cho tôi xin một ít. Vợ tôi mới sinh bị phù (thủng) nặng.

Việc xảy ra đột ngột, Nguyễn và Bảnh đưa mắt nhìn nhau, không đáp, sợ bị gài bẫy. Anh ta vội tiếp:

      – Nói thật đấy mà! Không tin, các anh cứ vào đây xem.

Suy nghĩ một hồi, Nguyễn đánh liều đi theo anh ta, còn Bảnh ở lại canh chừng đống vữa và tên vệ binh. Vào nhà, thấy chị vợ da mét xanh, mặt mày, tay chân sưng húp, nằm bên đứa con đỏ hỏn, bé hơn con chuột nhắt.

Chị ta nói thuốc bệnh xá cấp thiếu, và không có thức ăn bổ dưỡng.                                                                                               

Hai đứa phân vân mãi. Ðối tượng giúp đỡ phải là bạn tù chứ, của đâu mà lo cho Công an! Nhưng hầu hết anh em đều đã được thăm nuôi, hoặc nếu chưa, đã được Bảnh, Nguyễn và bạn bè chia sẻ phần nào rồi. Cuối cùng, động lòng trắc ẩn, cả hai góp lại được chừng năm mươi viên B6 để dành từ các lần tiếp tế, đã quá hạn, nhưng không còn gì hơn, và một hộp sữa bột cho đứa bé, đem giấu dưới một gốc cây, làm hiệu cho anh ta đến lấy. Ba tuần sau, một buổi trưa, chị vợ đang nấu bếp cơ quan thấy hai chàng thợ vữa đến, vội bước ra, nhìn trước nhìn sau, bảo:

      – Cảm ơn hai anh, hôm nay em đã đỡ nhiều. Có xuất cơm trắng và miếng thịt trâu bồi dưỡng em mang cho hai anh giấu ở gốc cây kia. Nhớ xem chừng cán bộ bảo vệ, kẻo em bị kiểm điểm…

Rồi từ đội Xây Dựng, Nguyễn được Linh mục Trần Thanh Cao, giỏi nhạc, đẹp trai, vui vẻ, có quen biết ngoài đời, bốc về đội văn nghệ mới thành lập do ông làm đội trưởng, để tỵ nạn lao động vài tháng, mặc dù chàng dốt đặc về ca vũ nhạc kịch. Nhân tài, cũng cỡ chàng, biệt phái từ các đội. Có ba anh giả ba sơn nữ Phà Ca mang gùi, đeo vòng, lắc lư múa theo bài “Tiếng chày trên sóc Bom Bo”, trông xa, và vì vắng

đàn bà lâu ngày, thấy cũng hấp dẫn không thua Thanh Nga. Có tổ cải lương với đầy đủ vai hề, đào thương, kép độc. Ðội được lệnh trình diễn giúp vui một phái đoàn thanh tra trung ương. Cha Cao cho Nguyễn vào ban hợp xướng, bè alto ngang phè phè. Ông khuyến khích các ca viên:             

      – Ăn sắn và hút thuốc lào mà hát như vậy là được rồi!

Một hôm, trại phó đến thăm. Ban hát đang tập một bài có nhắc tên Hồ Chí Minh và hang Pắc Pó, hay ao sen, ao cá gì đó, do cha Cao đặt hòa âm thành bốn bè, mỗi bè tập riêng. Hắn chăm chú nghe, vui vẻ, rồi bỗng nhăn mặt, gọi cha Cao lại, giận dữ quát:

      – Anh bôi bác Cách mạng đấy phỏng? Tên Bác kính yêu như thế mà… mà anh dám đổi nà Hô, Hố, Hộ, Hổ như thế thì… thì nà… thì nà anh nếu náo thật!

Cha phân trần, nhưng hắn gạt đi:

      – Bỏ, bỏ tất! Bè với không bè!

Lần khác, hắn đến xem tập kịch. Hắn lại nhăn mặt, lại gọi cha Cao, chỉ tay về phía  ông trung tá nhà văn trọng tuổi, bút danh Ký Giả Lô Răng, đang đóng vai một cán bộ huyện. Nguyễn đứng gần cha Cao, nghe hắn bảo:   

      – Thay anh kia cho tôi! Cán bộ cách mạng chúng tôi không bao giờ đi chân thọt! Anh có ý đồ phải không?

Cha Cao ngẩn người ra, cứng họng. Bấy giờ, Nguyễn mới nhìn kỹ ông diễn viên xui xẻo. Quả thật, chân bước của ông hơi khập khiễng. 

Văn nghệ xong, đội giải tán trong sự tiếc nuối của các nghệ sĩ bất đắc dĩ. Cha Cao đi trồng mía. Nguyễn bị hoàn trả về đội xây, đánh vữa trở lại với Ðào văn Bảnh.  

6. Bất ngờ, lại bị “biên chế” nữa. Các sĩ quan cấp tá và tuyên úy một sáng sớm phải lên đường di chuyển về một nơi nào không rõ. Nguyễn ngồi trong hàng nhìn theo bóng Ðại tá Quỳnh và bạn bè, có cả Ðại đức Long và cha Cao, lầm lũi bước lên xe, mang theo những túi tư trang gọn nhẹ, như chính cuộc đời trống vắng, buồn tênh của đám tù nhân. Lần đó, chàng nghĩ khó còn gặp lại nhau, và tự dưng lòng nao nao như mất người thân thuộc.

Năm sau, đội Xây Dựng được trở về K1. Mỗi tối, khi cửa buồng giam đóng lại, từng nhóm tụm năm tụm ba nhỏ to nói chuyện, đánh cờ, uống nước trà, hoặc bàn luận thời cuộc từ những tin tức hiếm hoi, thường phóng đại, do các bà thăm nuôi cung cấp. Thời gian này, Nguyễn được nhóm thân hữu đặt biệt danh “bình luận gia tin tức quốc tế”. Một cách thành thật, tự tin, chàng phân tích theo chiều hướng có lợi, hợp với ước vọng của mọi người, trong khi thực tế có lẽ khác xa. Bọn cán bộ hình như, về sau, cũng muốn thả lỏng, miễn đừng ai phá phách, trốn trại, trốn lao động, hoặc công khai “phản động”.  Những giàn ăng-ten bị bứng hết, và tù binh có thể phát biểu vung vít, thoải mái, trong nội bộ từng nhóm. Bảy năm rồi còn gì! Ðau khổ đã thành thói quen. Nhớ vợ thương con cũng đã chìm sâu vào tận cuối hồn. Không còn những anh đêm khuya khóc rưng rức trong chăn của thời gian đầu xa gia đình êm ấm. Trái tim đã hóa thành đá hết rồi. Giờ đây, phản kháng, dưới hình thức nào đó, bùng lên từ sự chịu đựng câm nín dồn ép qua nhiều năm. Có người khai bệnh nghỉ lao động dài dài. Hoặc giả khùng chửi xéo chế độ. Hoặc còn đập cả vệ binh hỗn láo để rồi, dĩ nhiên, bị biệt giam và hành hạ dã man. Nguyễn bắt đầu để râu, làm tên quản giáo Vinh –nói ngọng, chữ tr thành t, l thành n– rất ngứa mắt, bắt kiểm điểm, nên thấy hắn lỏn vỏn từ xa, chàng bèn lánh mặt.                                             

Trong buồng giam, có một anh, tên Nguyễn Xuân Trung (mà sau này, qua Mỹ, Nguyễn mới biết là cựu SVSQ khoá 1 trường Đại Học CTCT, ra trường khá lâu trước khi chàng được thuyên chuyển về Đà Lạt), chuyên chiếu phim, tức kể chuyện, thật hay và duyên dáng. Thay phiên với một chiếu phim viên tài ba khác, Thiếu tá Thiết giáp Đỗ Cao Thượng (chú của Tướng Đỗ Cao Trí). Tối đến, đám tù nhân bu quanh hoặc Trung, hoặc Thượng, người rót trà, mời kẹo, kẻ đấm lưng cho hai anh, để được nghe kể đủ thứ chuyện, từ Cô gái Ðồ Long đến La valse dans l’ombre qua Thần điêu đại hiệp. Một anh nữa, Trung úy Phạm Hữu Lý, khóa 2, cũng trường CTCT, bạn đồng tù rất tư cách của Nguyễn, hát nhạc vàng rất mùi. Suốt một đêm giao thừa, Lý ca một hơi hơn một chục bản tình lâm ly, như Chiều mưa biên giới anh đi về đâu hoặc Xuân này nếu con không về, chắc mẹ buồn lắm, làm ai nấy mắt cay sè, muốn khóc. Bọn vệ binh gác cửa, đa số là thanh niên mới lớn, nghệt cổ ra nghe, thậm chí còn bảo “anh lào đó hát nại” vài câu.

7. Ðại tá Nguyễn Quốc Quỳnh và hầu hết các nhân vật trong “truyện” này kẻ trước người sau đã đến bến bờ tự do, trăm người trăm cảnh khác nhau. Từ Portland, thỉnh thoảng Nguyễn gọi ông hay viết thư thăm hỏi. Chàng cũng được tin Đại úy “điếc không sợ súng” Hoàng Bá Linh, Đại úy “quý danh” Nguyễn Ngọc Nhung, Thiếu tá “cháng gướm” Lê Ân, và Trung tá “phụ tá tổ trưởng vữa” Ðào Văn Bảnh… kẻ trước người sau đã ra đi, bỏ cuộc chơi và khổ nạn. Cha Trần Thanh Cao, nghe ai nói, đang là cha xứ, quốc doanh, giàu có, của một họ đạo Sài Gòn. Bác sĩ Đặng Phùng Hậu và nhà báo Ức Trai Đỗ Huy Hoàng định cư tại Texas. Còn phi công Nguyễn Hữu Trí không rõ trôi dạt phương nào, cũng như thầy Nguyễn Long.

Mẹ chàng, đã ngoài tám mươi, vẫn còn ở quê nhà, với Huyền Trân và chồng con. Ba mất, không được gặp mặt. Những người em “cải tạo” lần lượt định cư tại các nước, trừ Kha chết trong tù. Cựu tiếp viên Air Vietnam Bội Trân ở vậy, không yêu ai nữa, đúng theo lời thề hứa, trước khi trở thành một nữ tu dòng kín Carmel, giữa tuổi thanh xuân, làm bao nhiêu con tim tan nát. Lệ Ngà yên ngủ giấc ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh, trả hết cho dương gian những si mê và tình yêu mật đắng. Còn chàng, sau bao năm vật vã để vá lại mảnh đời rách nát, đã bắt tay được với hạnh phúc –nhỏ nhoi so với nỗi đau ngút ngàn phải trải qua. Nhưng hồn vẫn chơi vơi theo kỷ niệm chỉ chực òa vỡ mỗi năm vào cuối tháng 4, hoặc mỗi lần nhớ đến mẹ và em từ bên trời cũ, và ở đầu dây tiếng Ðại tá Quỳnh, từ Orlando, vang lên trong điện thoại. 

Nữ tu Marie-Amélie Bội Trân luôn nhắc Nguyễn hãy quên, hãy tha thứ, tha thứ, tha thứ và nói tất cả chỉ là thử thách Chúa gửi đến. Nhưng đối với bạo quyền Việt Cộng, chàng nói, làm sao tha thứ cho được? Ðó là một bọn người tàn ác, phi nhân, đã dìm cả đất nước vào cảnh lầm than, đói khổ, qua ba mươi năm, và bây giờ lại còn đốn mạt bán đất, bán biển cho quan thầy Trung Cộng, kẻ thù và mối họa muôn đời của dân tộc. Hận thù, Nguyễn sẽ không bao giờ quên, mặc ai phỉnh gạt, kêu gào hòa giải hòa hợp. Vì chàng vẫn tin lời viên tổng tài (consul) La Mã, Quintus Arrius, nói với Juda Ben Hur lúc còn là một tù nhân chèo thuyền (galérien) trong cuốn phim cùng tên, Ben Hur–rằng hận thù cho sức mạnh, làm ta luôn tỉnh táo, đề phòng 

Portland, 13 tháng 4 năm 2019                             

http://batkhuat.net/van-danat-vangphai.htm

 

 

Những Người Không Đất Đứng –  Nguyên Nhung

Tôi gặp chị vào những ngày sau tháng tư năm bảy mươi lăm, khi hai người đàn ông của chị và tôi cùng vắng mặt trong gia đình. Tôi trở về nhà với mẹ trong một xóm nhỏ ở thành phố Cần Thơ, còn chị cũng dắt con về nhà người anh tá túc, vì cha mẹ chị không còn. Hoàn cảnh hai đứa thật giống nhau, hai người phụ nữ chân yếu tay mềm, mỗi nhà hai đứa con còn nhỏ dại. Hỏi ra thì trước kia tôi và chị cùng học một trường, cũng mái trường Nữ Trung Học và cũng những thầy cô năm cũ. Tôi đi làm một ít lâu, lấy chồng rồi bận rộn con cái, yên phận làm mẹ. Chị lý tưởng hơn, sau khi đậu Tú Tài, thích là “hoa lạc giữa rừng gươm” nên chị theo học khóa nữ trợ tá xã hội, tham gia công tác giúp đời. Chị có học qua một khóa trợ y, nhờ vậy sau này khi lâm vào bước đường cùng, chị đem chút tài mọn ra chữa bệnh cho dân nghèo ở vùng sâu, vô tình được phong làm cô bác sĩ dù không đỗ đạt được mảnh bằng y khoa nào hết.

Dạo ấy hai đứa đều dưới tuổi ba mươi, vì chưa lăn lộn với đời nên vẫn có nét ngây thơ của những người đàn bà trẻ con. Chúng tôi sống bám vào hai mảnh ny lông trên vỉa hè thành phố. Hai người cùng hoàn cảnh nên dễ thân nhau, cả hai đứa cùng có lúm đồng tiền trên má.

Chị thật thà bảo tôi:

“Người ta bảo những ai có lúm đồng tiền thì lúc nào cũng dư dả, sao hai đứa mình đói rách quá.”

Tôi ngắm chị. Một khuôn mặt hơi vuông nhưng rất ưa nhìn. Hai mắt sâu và sáng, vầng trán thông minh, mỗi khi cười hai lúm đồng tiền lõm xuống, trông chị rất có duyên. Ngày còn trẻ, chắc chắn có nhiều anh chết vì nụ cười của chị. Bởi vậy khi gặp chị, anh mau mau đón chị về, rồi không cho đi làm nữa, vì giữa chốn ba quân, chị như một bông hoa đẹp mà ai cũng muốn hái. 

Tôi không đẹp như chị, chỉ dễ coi, cũng hai lúm đồng tiền trên má. Hai đứa có những bốn cái đồng tiền mà lúc nào cũng túng bấn, phải chia nhau từng đồng tiền vốn, xẻ cho nhau đồng tiền lời để mua thức ăn cho con. Có sống trong cảnh đời ấy mới thấy được lòng dạ con người tốt xấu ra sao. Hoàn cảnh bên ngoài  đổi thay như chong chóng, anh em trong gia đình ai cũng lo thủ phận mình, hai điều ấy đã giúp những con người như tôi với chị xích lại gần nhau hơn.  Những lúc hai đứa đi kiếm ăn, dồn cả bốn đứa trẻ lại nhờ mẹ tôi trông giúp. Hai đứa lớn đến trường, hai đứa nhỏ nhờ bà cụ già chăm bẵm, mỗi chiều về ngoài quà cho con, chị vẫn không quên mua mớ trầu, mấy quả cau tươi cho mẹ tôi. Có khi cả hai gia đình cùng ăn chung bữa cơm tối, những lúc ấy cả hai đứa cùng cảm thấy sự chia xẻ cái khổ, cái nghèo cho nhau thật là đáng quý. Dưới ngọn đèn điện đỏ quạch, chỉ có đàn bà và trẻ con, không ai nói ra nhưng tôi vẫn nhận thấy nỗi cô đơn và băn khoăn của những cuộc đời không lối thoát.

Không còn gì để bấu víu và tin tưởng, khi tương lai là một chuỗi mịt mù, tăm tối.  Đêm nào  mẹ con tôi cũng cầu nguyện, ngọn đèn dầu leo lét trên bàn thờ, đêm đêm chúng tôi chờ phép lạ, như chờ đợi từ ngày mùng một Tết dài mãi cho đến chiều ba mươi cuối năm, vẫn không có gì hơn. Chị đi chùa, hôm nào có tiền mang theo bó nhang, nải

chuối. Không chỉ có Phật mà hễ nơi nào có thánh thần là chị đến, với một niềm hy vọng là anh ấy được mau trở về với chị. Dưới ngọn nến sáng bập bùng dưới chân Đức Mẹ, tôi nhìn nét mặt nghiêng của chị, mờ ảo và đẹp lạ lùng. Chị như một thánh nữ, đôi mắt ứa ra hai giọt lệ long lanh. Chân thành lắm, chỉ là những lời van xin, khấn khứa cầu sự an bình cho kẻ chân mây. Tuy vậy, có những khi thất vọng quá, hai đứa vẫn rủ nhau đi coi bói, bỏ mấy đồng bạc để nghe một niềm hy vọng. Thầy bói không thấy ai giàu, giữa ban ngày ngó lên nóc nhà lổ chổ như sao sa, chẳng thầy nào nói được tương lai của chúng tôi hết. Chị chìa bàn tay còn xinh đẹp cho lão thầy bói nắn đi nắn lại, lật tới lật lui, đo đạc dài ngắn rồi nói nhăng nói cuội. Lúc ấy nét mặt chị thật thành khẩn, để rồi trên đường về chị buồn bã bảo tôi:

“Bồ hên quá, có quý nhân phù trợ, ông ấy lại có đường về, còn mình sao mờ mịt quá.”

Tôi bật cười bảo chị:

“Chuyện, hơi sức đâu mà tin, cứ đợi đến con trăng này xem đương sự có về không đã, biết thế nào là hên với xui.”

Có đến chục con trăng qua đi mà bóng người vẫn biền biệt bóng chim tăm cá. Mỗi lần nói chuyện coi bói hai đứa lại cười, nhớ lại lúc còn đi học, mới biết yêu, vẫn nhờ  người ta đoán hộ tình duyên, gia đạo. Lũ nhỏ lớn dần lên, đời chị và tôi vẫn chỉ là những con bài bích, những người chồng thời buổi đó vẫn chưa nhận được con cơ báo hiệu ngày trở lại.

Một hôm, chị nhận được thư anh, chiếc phong bì được xếp bằng giấy học trò như đồ  chơi  thủ công lại viết  bằng mực tím, bút lá tre. Chị mừng mừng tủi tủi nhìn con dấu nhà bưu điện, lá thư vượt đèo, vượt suối đi cả hai tháng trời mới đến tay vợ, và chỉ là những con số không thấy nói nơi người gửi. Đọc thư anh, tả chút thay đổi thời tiết, chị biết anh ở xa lắm. Quê chị miền Tây Nam Phần, ven bờ Cửu Long, từ nhỏ đến lớn chị chỉ đi tới Sài Gòn là hết đất. Thư anh viết có một khuôn mẫu sẵn, không thấy nói gì đến nhớ thương, chị đọc thư khóc mùi mẫn, trách anh vô tình. Ngây thơ như một đứa trẻ, chị bảo tôi:

“Anh dặn mình mạnh dạn đưa các con đi xây dựng vùng kinh tế mới, chỉ có con đường ấy mới mở ngỏ cho anh có cơ hội làm lại cuộc đời. Hãy tin những gì anh nói, ngày về không còn xa”.

Tôi gạt đi, vì trước mắt tôi nhan nhản những gia đình sống lang thang trên hè phố, hoặc trở về làm một cái chái che nắng mưa trên chính nền đất của mình ngày xưa. Tôi khuyên chị:

“Đàn bà chân yếu tay mềm, trường học điện nước lại không có, ai bảo đảm an ninh cho mình giữa nơi đồng không mông quạnh. Họ nói thì mặc họ, tin làm sao được.”

Chị ngây thơ không hiểu những gì anh viết, giá chị hiểu ngược lại thì đâu có chuyện quyết định mẹ con dẫn nhau đi vùng kinh tế mới. Mẹ tôi ái ngại cho chị, có khuyên bảo nhưng chị quả quyết là sẽ tìm thấy tương lai. Tôi phục chị can đảm, vì tôi vẫn ở lại thành phố, bám trụ tấm ny lông trên vỉa hè. Tôi không quen nhìn những con đỉa no máu bám vào chân mình, và cũng không biết làm ruộng. Chị đi rồi, chỉ còn mình tôi lại nhập vào giòng người xoay quanh cái bẫy chuột lớn, lẩn thật nhanh vào những con ngõ thông thương khu chợ mỗi khi bị rượt đuổi. Chúng tôi không phải tội phạm mà lúc nào cũng mang mặc cảm của kẻ bị săn đuổi, không sống bám ai mà vẫn bị liệt vào thành phần cặn bã.

Có những lần tôi lan man nhớ đến người bạn hiền của mình, hình dung ra căn nhà trống trải của mẹ con chị giữa đồng không mông quạnh, đôi tay học trò ấy làm sao vật lộn nổi với những thửa ruộng đầy cỏ lác và đỉa vắt. Sức chịu đựng của chị có ngày cũng hết, tôi nghe tin chị tự tử và được cứu thoát. Ít lâu sau, chị về lại thành phố với nét mặt xanh xao, tiều tụy, đầu cạo trọc như một ni sư. Nguyên nhân làm chị tự tử cũng chỉ vì không chịu nổi cảnh sống quá cùng cực và cô đơn, và cũng vì những lời tán tỉnh lẫn hăm dọa của bọn địa phương. Ra đi thì dễ, nhưng về lại không đơn giản. Không nhà, không hộ khẩu, anh em nhìn chị hờ hững, vì không ai muốn đa mang vào mình những gánh nặng. Hai đứa tôi trở lại khu chợ nhỏ, trở lại với tấm ny lông trên vỉa hè, mỗi lần hàng phượng vĩ ven sông rưng rưng những cánh hoa màu đỏ rực rỡ, tôi thấy chị buồn buồn. Cả hai đứa có một lúc nào đó trong đời, vẫn bâng khuâng nhớ lại mình ngày xưa, tà áo trắng, mái tóc dài xõa trên lưng, nụ cười má lúm đồng tiền dễ thương làm say lòng người bạn trai cùng lớp.

Một thời gian sau, chị lại đưa con về quê chồng, vì người anh chồng đi tập kết về chia điền sản của cha mẹ để lại. Chồng chị được một phần, dĩ nhiên không nhiều lắm nhưng có còn hơn không. Căn nhà của ông bà nội lũ nhỏ dành cho ông anh cả, chị cất tạm một cái chái bên cạnh ngôi nhà từ đường của cha mẹ chồng để lại. Những ngày đầu ở quê chồng, gần gũi với gia đình ông “anh chồng cách mạng”, chị phục lăn ông về những bài học và cách sống của một xã hội tốt đẹp mai sau, khi con người không bóc lột người, mọi sự trên đời sẽ là của chung. Nhưng sau chị mới thấy triết thuyết đi một đàng lòng người lại đi một nẻo. Lúc ngỏ lời nhờ ông anh cứu giúp thằng em trong tù, ông cho chị nhiều bài học mà chính chị không ngờ chồng chị lại nhiều tội đến thế. Chị thấy mình luẩn quẩn, cứ đi từ bế tắc này sang bế tắc khác, chẳng cái nào dễ chịu hơn cái nào. Cuối cùng, chị gom hết vốn liếng, mua một cái ghe nhỏ có mái che, mẹ con dẫn nhau đi buôn bán dọc theo các làng xóm xa xôi, đổi chác sống qua ngày.

Từ một người phụ nữ trí thức thành phố, chị mau chóng trở thành một người phụ nữ miền quê đen đủi, đảm đang. Chân đi đất, đầu quấn khăn rằn, biết chèo xuồng và sống như một người nhà quê thứ thiệt. Trên chiếc ghe chật chội

ấy thay cho mái nhà tranh, mẹ con chèo chống, trôi nổi như giề lục bình trôi theo giòng nước. Có chỗ để ngủ, có chỗ nấu ăn, có khạp nước uống, chiếc ghe như một cái nhà lưu động rày đây mai đó, thỉnh thoảng chị mới chèo ghe về chợ Quận, mua hàng hóa và thuốc men để trao đổi với người dân sống ven hai bờ kinh rạch. Lúc ấy, con chị mới được ăn tô hủ tíu, được nhìn ánh đèn điện sáng như trăng ở phố chợ, đôi mắt háo hức nhìn những đứa trẻ cùng cỡ tuổi đến trường.

Theo như chị kể lại, người nông dân quê mình là những người sản xuất ra lúa gạo, lại là những người chịu cảnh bữa đói, bữa no. Gặp lúc được mùa, có chút lúa bán xong phải mua phân, mua giống để dành, sửa cái nhà, cái ghe, sắm bộ quần áo chờ mùa tới. Chẳng may thất mùa lúa đóng thuế không đủ, trong nhà vét không ra hột gạo để ăn. Lại đi vay, nợ mẹ đẻ nợ con, lắm nhà chỉ có cơm ăn với muối xả ớt. Tuy vậy họ vẫn cần nhiều thứ cho sinh hoạt hằng ngày. Cuộn chỉ, cây kim, chai dầu gió, viên thuốc cảm, lúc ốm đau làm gì có bác sĩ, y tá nào mạo hiểm đến đó cứu nhân độ thế, hay để thực thi câu “lương y như từ mẫu” cho họ. Chính lúc ấy, chị trở thành thầy thuốc bất đắc dĩ của đám dân nghèo, bằng chút kinh nghiệm của sự học hành năm xưa, qua mấy cuốn y học thường thức chị được đọc, dẫu không có bằng cấp chuyên môn, chị vẫn là tia sáng trong cảnh tối tăm của đám người nghèo khổ. Người ta đón chiếc ghe của chị để mua viên thuốc cảm, thuốc ho, nhờ chị chữa giùm những chứng bệnh thông thường, vô tình chị trở thành cô bác sĩ của những người dân quê tội nghiệp.

Cuộc sống cứ thế trôi đi, chồng chị vẫn chưa về dù chị đã hai lần đi xây dựng quê hương mới. Hai đứa con không được đi học, nhưng những buổi tối neo thuyền trên bến sông, dưới ngọn đèn lù mù, chị dạy con học đọc, học viết. Sau này, anh được chuyển dần vào Nam, mỗi lần đi thăm chồng chị gửi ghe cho người bà con, mẹ con dắt nhau đi thăm nuôi. Chị dấu biệt anh về cảnh sống hiện tại, con không được đi học, mỗi lần về anh gửi thêm lá thư cho ông anh Cách Mạng nhờ giúp đỡ vợ con. Chị im lặng không nói, lúc phà về ngang bến bắc Cần Thơ, chị đọc thư rồi xé nhỏ từng mảnh thả trôi theo dòng nước. Bây giờ chị đã trưởng thành, sáu năm trời lận đận chị không còn ngây thơ như dạo trước. Lần chị về thành phố thăm tôi, dẫn theo hai đứa con nay khá lớn, chị hầu như lột xác để trở thành một người phụ nữ thôn quê biết an phận, đen đủi hơn và nét mặt đăm chiêu hơn. Tôi hiểu chị đã trưởng thành, từ những kinh nghiệm suốt sáu năm qua chị gặp phải.

Vẫn mái tóc được bới gọn đằng sau gáy, chiếc áo bà ba đen, nụ cười buồn vẫn còn hũm xuống lúm đồng tiền, có lẽ đấy là nét duyên dáng cuối cùng còn sót lại nơi chị. Hai đứa con chị thật tội nghiệp, chân mốc cời, mặt ngơ ngáo khi gặp lại những đứa bạn ngày thơ ấu, nay đã quá xa lạ. Ở chơi với tôi vài ngày, chúng tôi nhắc lại chuyện cũ. Chuyện nhà ông thầy bói giữa ban ngày mái lá sáng như sao sa, chuyện hai đứa giữa buổi chợ túm bốn góc ny lông chạy như vịt, chuyện về những người đàn ông vắng mặt trong nhà không biết đến mấy mươi trăng mới trở lại.

oOo

Mãi bảy năm sau chiến tranh anh mới được trở về xum họp với vợ con, đúng vào đợt cuối năm, kịp về ăn Tết với gia đình. Lúc thay bộ quần áo cũ ngày xưa, anh ngượng nghịu như người quen đi chân đất lần đầu tiên được mang giày, anh thấy mình trở thành con người khác. Hành trang anh chẳng có gì, cái gì còn xài được anh cho lại bạn bè, hai chữ Tự Do khiến anh hồ hởi, ước thành chim để bay ngay về với vợ con.

Hôm ấy là những ngày cận Tết, trên chuyến phà buổi chiều sang sông, anh nhìn thiên hạ chen chúc nhau, tay xách nách mang, người ta về quê ăn tết, trông ai cũng háo hức lạ. Còn một ít tiền vợ đưa hôm trước, anh mua cho con chục ổi, mấy xấp bánh phồng khoai, bao nhiêu năm tù tội anh chẳng còn gì, chỉ còn tấm thân tàn và túi hành trang rỗng tuyếch. Anh dựa vào lan can chiếc phà đang lướt sóng trên giòng sông Cửu Long, mặt sông như một miếng bông cỏ khổng lồ trải rộng ra từ bờ bên này tới bờ bên kia. Anh hít thở nhiều lần không khí trong lành của dòng sông quê mẹ, mắt nhìn theo giề lục bình lênh đênh trên dòng nước, không biết nó trôi về đâu, với những bến bờ xa lạ.

Cuối cùng anh cũng về tới quê nhà, nơi mà ngày xưa lúc còn chiến tranh, anh ít khi dám trở lại. Con đường cũ vẫn gập ghềnh như ngày nào, ngày xưa đã không ít những chuyến xe bị lật nhào sau tiếng nổ long trời của mìn bẫy, đã không ít những người vô tội chết thảm thiết trên nẻo đường yêu dấu của quê hương.

Bây giờ thì cảnh ấy không còn, nhưng đường xá  vẫn lồi lõm còn hằn sâu dấu tàn phá của chiến tranh. Cảnh nào với anh cũng vậy. Miền Bắc heo hút những rừng, những suối, đường xe chạy những cây giang, cây nứa quẹt vào thành xe cào xước.  Miền Nam sông rạch chằng chịt, nhà cửa xiêu vẹo vẫn y chang ngày trước. Cha mẹ anh qua đời từ lâu, vợ con anh đã thay anh về quê chồng lập nghiệp, anh thấy lòng mình vẫn ấm áp với hai chữ trở về thật thiết tha.

Khi anh tìm về căn nhà, làng xóm cũ năm xưa, người đầu tiên anh gặp lại là ông anh lớn, người đã theo tiếng gọi núi sông ra Bắc tập kết, nay trở về miền Nam sống trong căn nhà hương hỏa của gia đình. Dạo ông ra Bắc, anh còn nhỏ xíu đang đi học tiểu học, nay gặp lại hai người đã đứng vào hai phía khác nhau. Ông anh là hình ảnh của cha anh hồi trước, cũng chút hom hem khi đôi má hõm xuống bởi thiếu những chiếc răng. Sau vài lời hỏi thăm, anh được thêm những lời khuyên nhủ, y như những bài anh học được trong tù.

Lúc hỏi thăm đến vợ con, anh được biết “thím ấy và các cháu” đang sống trên chiếc ghe nhỏ, cuộc sống bập bềnh như cọng lục bình thả theo nước lớn, nước ròng. Tự nhiên anh muốn khóc, người anh cả lúc đưa anh ra mé sông tìm vợ con, đã hạ giọng nói với anh mà nghe rõ lắm mới thấy có gì rất ngậm ngùi:

“Thôi lỡ rồi, anh cũng không làm lại được mà chú cũng không làm lại được. Nói vợ em thu xếp cho các cháu lên bờ,

dầu gì chúng cũng là cháu của anh.”

Ôi tình nghĩa anh em, dẫu có thế nào đi nữa cũng phải có phút giây sống thật với tình máu mủ. Không ai căm thù ai, vì ai cũng chỉ là nạn nhân của lũ kên kên thèm ăn thịt người, xô đẩy nhau chết chất chồng để làm vật tế thần cho chiến tranh.

May là anh về đúng dịp cuối năm, chị neo ghe vào bờ cho con ăn Tết. Dưới hàng dừa lả ngọn trên sông chiều, một làn khói trắng bốc lên trên mặt sông, lòng anh man mác buồn, rồi khi bước qua mấy bậc đá rêu trơn trợt để xuống ghe, tự nhiên anh bật khóc. Chưa bao giờ anh khóc ngon lành như thế, vì không phải lúc nào anh cũng có tự do để khóc, hơn nữa, nỗi đau khổ đã làm mắt anh ráo hoảnh, khô khốc không còn giọt lệ.  Anh biết đời anh mất tất cả, chỉ còn chút này thôi. Nhìn vợ trong chiếc áo bà ba đen, hai bờ vai thon mảnh năm xưa nay u lên vì chèo chống nhiều quá, lòng anh như bị sát muối. Hai đứa con lơ láo nhìn cha, chân cẳng chúng nó mốc cời, anh ôm con vào lòng mà không làm sao ngăn được những giọt nước mắt, cứ thế lả chả rơi xuống mái tóc khét nắng của con.

Mùa Xuân ấy vợ chồng con cái anh đón ông bà trên chiếc ghe neo dưới mé sông, vì họ là những người không đất đứng, không có nhà, không có nơi chốn để về khi mùa Xuân tới. Anh còn sống nhiều năm, nhiều tháng chèo chống với vợ trên chiếc ghe thương hồ ấy, chấp nhận hoàn cảnh một cách bình thản vì không còn một chọn lựa nào khác. Hai đứa con được cho lên bờ đi học, tá túc với người bác trong căn nhà của ông bà nội. Dù sao con anh vẫn phải đi học, học gì không biết, nhưng từ trước đến nay, trường học vẫn là cái nôi êm ái nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Vợ anh vẫn là cô bác sĩ  bất đắc dĩ của những người dân quê nơi vùng sâu, nhưng từ ngày có anh, chị đỡ vất vả hơn, nét mặt có tươi tắn và nụ cười vẫn còn dấu vết  hai lúm đồng tiền in trên má.

Sống trên sông đã quen, người anh cứ bập bềnh, lúc được lên bờ là những ngày ít ỏi của anh trên quê hương. Mỗi lần bước đi anh cứ lảo đảo như người say sóng, chút xíu anh ngã vì lòng cứ mênh mông nghĩ đến một chân trời xa lạ. Anh để lại chiếc ghe cho đứa cháu họ, về ngôi nhà hương hỏa với người anh một thời gian trước lúc đi xa, có dịp sống lại với nhau một thời gian, nhờ vậy họ đã hiểu nhau thêm một chút. Khi chỉ còn hai anh em, không còn lằn ranh nào giữa tình huyết nhục, ông anh của anh đã khóc và mới có dịp nói hết những ray rứt mà ông dấu kín bao nhiêu năm, kể từ năm 54, ông bỏ nhà ra Bắc.

Đoạn kết

Đó là những gì tôi biết về anh chị, những người bạn cùng hoàn cảnh với tôi, đã không có đất đứng ngay chính trên quê hương của mình. Giờ này anh chị đã có một cuộc sống khá ổn định trên nước Mỹ, tôi không dám bảo nơi đây là đất thiên đường, nhưng nó cũng không phải là hỏa ngục.

Anh chị lập nghiệp trên miền Bắc, mùa Đông có tuyết phủ và mùa hè, trời vẫn mát mẻ với những ngọn thông xanh. Họ gửi cho tôi mấy tấm ảnh, anh tóc đã muối tiêu, chị đã tròn trịa hơn trước, riêng hai đứa nhỏ nay đã lớn, nhận không ra, đứa con gái thật xinh, nụ cười giống hệt mẹ thời còn trẻ.  Nghe nói ông anh Cách Mạng của anh đã chết, những năm về sau anh vẫn gửi tiền, gửi quà và thuốc men về cho ông, ít ra nhờ vậy ông cũng được hưởng chút nào của thằng em trong những ngày cuối đời. Những người ở thế hệ anh năm xưa mất đi cũng nhiều, càng về già thì nỗi nhớ quê càng chập chùng, anh vẫn không quên được dòng sông miền quê cũ. Trong tấm hình mới nhất anh chị tặng tôi, chị nép vào vai anh mỉm cười, già rồi mà hai lúm đồng tiền vẫn còn mờ trên má. Chóng thật, mới ngày nào mà đầu đã hai thứ tóc. 

Nguyên Nhung (Đặc San Lâm Viên)