Tập San Tân Đại Việt – Số 2/2018 – Tết Mậu Tuất: Nhớ Tết Mậu Thân 1968 vc tàn sát dân lành Miền Nam

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tập San Tân Đại Việt – Số 2/2018 – Tết Mậu Tuất: Nhớ Tết Mậu Thân 1968 vc tàn sát dân lành Miền Nam

Mục Lục

Lê Minh Nguyên: Cách Mạng Dân Chủ

Nguyễn Ngọc Sẵng: Việt Nam Tôi Còn Hay Đã Mất?

Lưu Vĩnh Hạ: Thơ «Còn Đó Một Niềm Đau»

Đào Văn Bình: Nhật Ký Biển Đông

Huệ Vũ: Năm Tuất nói chuyện về chó

Ngô Đắc Hòa: Đón Xuân Mậu Tuất, khóc nạn nhân Mậu Thân ở Huế

Vivi: Thơ «Huế Sầu»

Định Nguyên: Thảm sát Mậu Thân tội ác việt cộng muôn đời không quên

Nguyên Hạnh HTD: Những ngày Mậu Thân

Nhữ Đình Hùng: Thơ Tết Mậu Tuất nhớ tết  Mậu Thân «Lần trang sử cũ»

Phạm Trần: 50 năm máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế (1968-2018)

 Nguyễn Thị Thái Hòa: Nhân chứng vụ Mậu Thân 1968 – 2018

Trọng Đạt: Tấm hình Tướng Loan và vụ án Mỹ Lai Tết Mậu Thân 1968

Lê Diễm Chi Huệ: thơ “ Nén hương lòng gởi Huế ”

Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi: Hàn Phi Tử «Phần I – Chương II: Các pháp gia trước Hàn Phi»

Nguyễn thị Cỏ May:

– Cẩu Sự: Tuất hay Chó

– Năm 2018, Người Ta Yêu Nhau Như Thế Nào?

Võ Kỳ Điền: Con chó đi lạc

Tạ Quang Khôi: Ăn Thịt chó   

Cách Mạng Dân Chủ – Lê Minh Nguyên / 13/2/2018

Cách mạng là để thay đổi vận mạng một dân tộc sống trong một đất nước đang trên đà suy vi.

Cách mạng dân chủ (CMDC) là một cuộc cách mạng để xây dựng nền dân chủ trên khung sườn của các định chế dân chủ pháp trị, cùng lúc thay đổi chính quyền không dân chủ đang trị vì. 

Cách mạng dân chủ được thực hiện bằng các phương tiện dân chủ, thường không bạo lực, như xuống đường, đình công, bãi thị, bất tuân dân sự, phản kháng thụ động (BOT Cai Lậy)…

Cách mạng dân chủ đưa đến việc thay đổi hiến pháp, cho phép người dân có quyền: -Bắt buộc chính quyền phải tổ chức trưng cầu dân ý trên những vấn đề mà người dân ký thỉnh nguyện thư cao đến một tiêu chuẩn nào đó, thí dụ ở California năm 2018 là 365,880 chữ ký. -Bắt buộc chính quyền phải tổ chức bỏ phiếu bất tín nhiệm một viên chức chính quyền khi người dân ký thỉnh nguyện thư cao đến một tiêu chuẩn nào đó. -Giới hạn sự cầm quyền trong các nhiệm kỳ nhất định.

Cách mạng dân chủ đã xảy ra ở Bồ Đào Nha năm 1974, ở Phi Luật Tân (People Power) năm 1986, ở Tiệp Khắc với Cách Mạng Nhung năm 1989, ở Đông Đức và Romania năm 1989, ở Tunisia với Cách Mạng Mùa Xuân năm 2011, ở Ukraine với Euromaidan năm 2014.

Cách mạng xảy ra khi người dân không còn chấp nhận được nữa cái chế độ hiện hữu, muốn đứng lên phá bỏ xích xiềng. Trong cách mạng dân chủ nó còn có nghĩa là để thay thế vào bằng một hệ thống giá trị mới với những định chế mới, con người mới, cung cách ứng xử mới, một lề lối sống mới. Nó đòi hỏi một sự đứng lên của dân chúng để cương quyết thay đổi vận mạng của chính mình và của toàn thể dân tộc.

Cách mạng dân chủ dễ thành công và tiết kiệm được máu xương hay tù tội khi bộ phận thanh gươm lá chắn của độc tài bị tê liệt, không có khả năng đàn áp hay đàn áp một cách rất yếu ớt dù có trang bị vũ khí tới tận răng như Cảnh Sát Cơ Động của CSVN hay Lực Lượng Berkut (Eagle) của ông Viktor Yanukovych ở Ukraine. Cho nên sự thành công của CMDC ngoài yếu tố tổng nổi dậy của toàn dân còn có yếu tố phân liệt của đầu não lãnh đạo độc tài. Trong các chế độ CS đã sụp đổ, nó sụp đổ là do yếu tố này và quần chúng nắm bắt cơ hội đứng lên xô luôn, chứ không phải do các tổ chức đối lập vì vốn không thể có được trong hệ thống CS. Ông Lê Kiến Thành con trai TBT Lê Duẩn trên An Ninh Online 29/1/2018 đã nêu rõ điểm này và ưu tư cho đảng ông, vì đất nước đang đi vào rạng đông của CMDC.

Tựa như động đất ở California, các nhà địa chất học đều biết và đồng ý rằng động đất rất lớn chắc chắn sẽ xảy ra trong một ngày rất gần vì độ chênh quá lớn của các dĩa đất tạo nên áp lực vĩ đại đè lên lằn nứt bắc-nam của San Andreas Fault, nhưng họ chỉ có thể đoán bằng thập niên chứ không thể nói được năm tháng ngày. Tuơng tự như vậy nhưng nhanh hơn, CMDC sẽ xảy ra ở thời điểm nào là một điều ai cũng muốn biết nhưng không thể xác định được, dù biết rằng các tinh tú cho CMDC đang di chuyển về phía thẳng hàng.

Các tổng thống Hoa Kỳ như George W. Bush, Barack Obama từng cho rằng vận mệnh dân tộc VN phải do chính người VN đứng lên làm chủ, khi người VN đứng lên thì Hoa Kỳ sẽ ủng hộ. HK cam kết không lật đổ chế độ CSVN, đó là việc của người dân VN làm. CMDC chính là thể hiện việc của người dân này, đừng bao giờ có ý nghĩ chờ HK bật đèn xanh, vì nó vừa chứng tỏ một đầu óc lệ thuộc ngoại bang vừa không nhận diện được sự khác biệt quyền lợi của VN và HK. Người Mỹ gốc Việt sẽ đóng góp nhiều cho quê hương mình khi có kế hoạch làm việc với HK để họ có dư luận thuận lợi cho CMDC, tựa như người Mỹ gốc Do Thái đã và đang làm cho quê hương của họ. Khi CMDC xảy ra, sự nhanh chóng lên tiếng để mạnh mẽ ủng hộ của HK và thế giới sẽ ngăn chận được phần nào sự đàn áp và bạo lực của độc tài.

Con người không già không chết thì thế hệ trẻ sẽ không có chổ đứng, văn minh tiến hoá sẽ không xảy ra, nhân loại sẽ bị tiêu diệt. Nếu không dám bỏ cũ thay mới thì một đất nước sẽ đi thụt lùi và hát than những lời hờn vong quốc. VN hiện nay vấn đề cần giải quyết là hệ thống chính trị sai lầm và đầy lỗi hệ thống chứ không phải là sự thù hằn cá nhân. Thay đổi hệ thống là vì tương lai dân tộc và vì tương lai con cháu mình.

Đất nước cần văn minh thực sự, không cần chiêu bài hay danh hảo để tự ru.

 

Việt Nam Tôi Còn Hay Đã Mất ? – Nguyễn Ngọc Sẵng

Năm 1990, các nước cộng sản Đông Âu trên đà sụp đổ toàn bộ.  Trước tình thế nguy ngập đó, Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam quyết định sang Tàu cầu cứu để giữ chế độ. Hội nghị Thành Đô thành hình trong bối cảnh chánh trị đó.  Cuộc hội nghị diễn ra trong hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên(Trung Quốc) giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc.  Phía Việt Nam gồm có Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, và Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng.  Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc.

Vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam khi đó là sự lạc hậu về kinh tế. Việt Nam bị Mỹ bao vây cấm vận, trong khi nguồn hỗ trợ chính là Liên Xô và các nước Đông Âu thì đang sắp tan rã.  Nhu cầu được chống lưng từ Trung cộng là nhu cầu sinh tử.

Trung Cộng biết rằng Việt Nam đang xúc tiến ngoại giao với Mỹ, họ e ngại nếu tiếp tục duy trì sự thù địch thì sẽ đẩy Việt Nam xích lại gần hơn với Mỹ, về lâu dài điều này rất bất lợi cho họ, vì vậy họ cho phép đoàn đại biểu đảng cộng sản Việt Nam sang triều kiến.

Không có bất cứ chi tiết nào về hội nghị được tiết lộ.  Nhưng theo những nhà phân tích thân cận với chế độ thì Việt Nam chấp nhận trở thành khu tự trị thuộc Trung Cộng vào năm 2020 để bảo đảm giữ vững chế độ từ Trung cộng.

Những diễn biến tại Việt Nam sau hội nghị Thành Đô:

Cắm cột móc mới

Sau nhiền năm đàm phán, lễ ký diễn ra chiều ngày, 18-11-2009, tại Bắc Kinh, giữa Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Hồ Xuân Sơn và Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vũ Đại Vĩ, sẽ cắm 1.971 cột mốc trên đường biên dài hơn 1.400 km

“Giống như hai nhà hàng xóm có đất riêng, nhưng ranh giới đất từ thời xưa để lại còn có chỗ chưa xác định chi tiết, nay xác quyết lại một lần cho chính xác, ổn định, trồng lại hàng rào, làm văn bản mô tả vị trí hàng rào, rồi cùng nhau ký kết “trước bạ” cho cái hàng rào ấy”. (Hồ Xuân Sơn)

Núi Đất (Lão Sơn) “Theo thông tin từ phía Trung Quốc và phía Việt Nam thì có một mỏm đất cao có vẻ như cả hai bên không chối cãi là của Việt Nam, nhưng Trung Quốc đã xây nghĩa trang quân đội trên đó và họ chủ trương là khu vực nghĩa trang là bất khả xâm phạm.” (Vikipedia). Lão Sơn thuộc về Trung Cộng!

“Một bằng chứng khác là ranh giới trong vịnh Bắc Bộ. Ban đầu Việt Nam chủ trương kéo dài đường phân định trong Hiệp định Pháp-Thanh 1887 để chia cả lãnh hải 12 hải lý và vùng đặc quyền kinh tế bên ngoài 12 hải lý, nhưng Trung cộng không chấp nhận. Sau đó Việt Nam chủ trương chia theo luật quốc tế về phân định biển. Theo tài liệu đã công bố của nhân viên nhà nước có chức năng thì Trung Quốc chủ trương chia đều 50/50, không cần đến lập luận pháp lý. Cuối cùng hai bên đã thỏa hiệp bằng tỷ lệ 53/47 nghiêng về Việt Nam.” (Wikipedia).  Còn rất nhiều hiệp định về lãnh thổ, lãnh hải gây thiệt thòi quyền lợi dân tộc mà người cộng sản ký nhượng cho Tàu để bảo vệ chế độ.

Lá cờ 6 sao

Nghi lễ đón Phó Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại thủ đô Hà Nội tuần này  đoàn thiếu nhi chào đón khách đã vẫy cờ có sáu sao thay vì năm”. Theo BBC tiếng Việt ngày 23 tháng 12 2011.( Vice President of the People’s Republic of China (2008–2013)

“Khi đưa tin về chuyến thăm Trung Quốc của ông Nguyễn Phú Trọng, trong bản tin thời sự VTV 19 giờ ngày 14/10/2011 người ta cũng trương lên lá cờ Trung Quốc có 6 ông sao” (23/12/2011, Blogger Tường Thụy).

6 sao tiêu biểu cho Trung cộng, Mông, Hồi, Mãn, Tạng, Việt.  Một chứng cớ bán nước rõ ràng không chối cãi được.

Cán bộ Việt Cộng được Trung cộng đào tạo hoặc sang Trung cộng học quản trị hành chánh, tu nghiệp.

“5.1. Tăng cường trao đổi kinh nghiệm về quản lý đất nước Hội thảo lý luận hai đảng, làm sâu sắc giao lưu trao đổi đoàn và hợp tác đào tạo cán bộ kênh đảng, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có các cuộc hội đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang, hội kiến Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân”. Đây là 1 trong 9 điểm mà Tập ký kết với lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam trong lần Tập tham dự  hội nghị Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 25 từ ngày 11 đến 13/11/2017.

“Từ cuối năm 2007, phía Trung Quốc khôi phục lại việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cao cấp và trung cấp cho ta.” (trích trong Cổng Thông Tin Điện Tử của chánh phủ Việt Nam).

Hán hóa ngôn ngữ

Mấy tháng gần đây, người Bùi Hiền đưa ra chương trình cải cách lối viết, phát âm tiếng Việt với những lý giải vu vơ, thiếu hẳn tình thần khoa học.  Đặc biệt trong phát âm, không còn âm hưởng Việt mà nghe rõ âm Tàu vì âm thể và âm vị đã biến dạng.  Đó có thể không phải Bùi Hiền muốn chôn vùi danh dự của mình.  Bùi Hiền nhận nhiệm vụ của người công bộc, công cụ của chế độ thực hiện công việc nằm trong tiến trình thực hiện mô hình Hán hóa của hội nghị Thành Đô trên phương diện ngôn ngữ.

Thiết lập trạm kiểm soát chung

Tin mới nhất: Trung Cộng đòi cùng kiểm tra hàng hoá nhập khẩu VN.  Nhập khẩu vào VN thì có quan hệ gì đến họ mà họ đòi kiểm tra?

Tin trên Yahoo ngày 2 tháng 2/2018 có bài viết tựa đề:” China and Vietnam close to landmark deal on streamlined joint border checkpoint“.  Bài báo cho biết Việt Trung có chung 1,200 cây số biên giới trên đất liền và mỗi bên đều thiết lập trạm kiểm soát riêng trên phần lãnh thổ mình.  Nhưng ông Jian Xingchao, phó Thị Trưởng thành phố biên giới Fanchenggang muốn hai bên chỉ thiết lập một trạm kiểm soát biên giới chung và cả hai bên cùng làm việc.  Trạm đầu tiên là tại cầu Mông Cái và trạm thứ hai dự định lập tại Đồng Đăng, Lạng Sơn.

Câu hỏi được đặt ra là, khi có bất đồng trong việc kiểm soát hàng hóa từ phía Trung cộng vào Việt Nam thì giải quyết như thế nào? Ai có quyền quyết định? chắc chúng ta hẳn còn nhớ cuộc chiến Gạc Ma với Trung cộng, Việt Nam CS luôn luôn chịu nhục, ra lệnh cho 64 binh sĩ không được nổ súng trước quân thù.  Theo lời kể của Thiếu Tướng VC Lê Mã Lương “Có đồng chí lãnh đạo cấp cao ra lệnh bộ đội ta không được nổ súng nếu như đánh chiếm cái đảo Gạc Ma hay bất kỳ đảo nào ở Trường Sa. Không được nổ súng!”. Điều nầy có thể sẽ lập lại nếu có sự bất đồng với phía Trung cộng khi hàng của họ tràn vào Việt Nam.

Còn nữa, Khi lập trạm kiểm soát trên lãnh thổ Việt Nam thì vấn đề chủ quyền sẽ như thế nào? Hay cũng nhường cho Trung cộng một vài trạm như Phạm Văn Đồng đã từng nhường Trường sa, Hoàng Sa cho Tàu?

Rồi từng đoàn xe từ Trung cộng nối đuôi nhau chạy sang Việt Nam mà quyền kiểm soát năm trong tay Trung cộng, thì ai biết trong đoàn xe đó chở những gì?  Họ chuyển vũ khí, dụng cụ chiến tranh vào Việt Nam từ ngày nầy qua tháng khác thì Việt Nam của ta sẽ đi về đâu?

Trung cộng viện trợ cho Campuchia

Hôm nay 4 tháng 2/2018, tin từ BBC cho biết Trung Cộng viện trợ cho Campuchia 100 xe tăng, xe bọc thép mà người bộ trưởng quốc phòng Tea Banh không biết chính xác số lượng.

“Theo tờ Diplomat, ông Banh không xác định được chính xác số lượng thiết bị được giao hoặc có thông tin cụ thể hơn về việc này”.

Đây là một nghịch lý, vì bên nhận không biết mình nhận bao nhiêu và cụ thể là gì? Nhưng sẽ không nghịch lý nếu biết người bạn vàng với nhiều mưu đồ đen tối, mộng ngàn đời xâm lược láng giềng.  Phải chăng Trung cộng mượn cớ viện trợ cho Campuchia để đưa hàng trăm xe tăng vào sát sườn phía Tây Nam Việt Nam để dàn binh mai phục sẳn?

Phía Bắc đã sẳn đường thông thương do Trung cộng kiểm soát dưới hình thức trạm kiểm soát hàng hoá, Miền Trung họ đặt bản doanh tại Vũng Áng, mà cấp chinh ủy của quân khu cũng không được quyền vào.

Người Trung quốc du lịch, định cư, làm ăn tràn ngập đất Việt.

Họ đã chuẩn bị sẵn sàng từ ngôn ngữ, cán bộ cai trị được đào tạo tại Tàu, thấm nhuần đường lối chính trị, giải pháp quân sự, nếu “những tên vô ơn bạc nghĩa, những tên phản bội” (nhưng từ ngữ họ dùng cho những lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam) không thực hiện Hiệp Ước Thành Đô, thì họ sẽ đánh chiếm Việt Nam dễ dàng.

Thì Việt Nam Tôi Còn hay Đã Mất?

Còn Đó Một Niềm Đau – Lưu Vĩnh Hạ

Cảm tác trong ngày Hiệp Kỵ những nạn nhân Tết Mậu Thân do Hội Thừa Thiên Huế tổ chức tại Sacramrnto.

Bốn mươi năm hơn bốn mươi năm anh ạ

Biết bao lần em thầm gọi tên anh

Biết bao lần em đã khóc cho anh

Giọt lệ lòng chẳng bao giờ ngưng chảy

Cứ mỗi lần thấy mùa xuân trở lại

Em nghe lòng đau nhói tết Mậu Thân

Như trái tim ai xé ra trăm lần

Nỗi đau ấy biết ai cùng chia xẻ

Em còn nhớ sau giao thừa đi lễ

Thảm họa nào bỗng đến với đôi ta

Tiếng súng vang trên khắp nẻo quê nhà

Trời tan thương ngập tràn trên đất Huế

Tiếng súng vang ai là người bội thệ

Ai là người dày xéo đất cha ông

Ai là người tình nhân loại bằng không

Biến mùa xuân Mậu Thân thành thảm kịch

Làm sao quên những bước chân quân địch

Bắt anh đi vào giữa một đêm khuya

Bao người dân vô tội phải chia lìa

Con xa cha vợ chồng xa cách mãi

Anh ra đi không bao giờ trở lại

Nắm xương tàn cùng với bao người thân

Những mồ chôn tập thể thật dã man

Chúng giết anh những người yêu chính nghĩa

Cứ mỗi năm em nhìn lên trang lịch

Lòng nghẹn lòng nước mắt lại tuôn rơi

Những đứa con nay mỗi đứa mỗi nơi

Xuân đất khách xuân về buồn anh ạ

Những mùa xuân lại về trên xứ lạ

Lòng chạnh lòng em nhớ quá quê hương

Nhớ dòng sông chiều xuống những con đường

Em lại khóc vì nhớ anh nhiều lắm …..

http://poem.tkaraoke.com/38218/Con_Do_Mot_Niem_Dau.html

 

 

Nhật Ký Biển Đông – Đào Văn Bình

Thổ Đối Đầu Với Mỹ Tại Syria

Nhật Ký Biển Đông hai tuần cuối Tháng Giêng ghi nhận những biến chuyển quan trọng như sau:

Tình hình Hoa Kỳ:

-Huffington Post ngày 19/1/2018: “Hai cậu bé từ 12-13 tuổi đã bị truy tố về tội phá hoại khi đập phá thiết bị nuôi ong, đập vỡ 50 tổ ong, làm chết 500,000 con ong của một trại nuôi ong ở Sioux City, Iowa.”

Yahoo News ngày 28/1/2018: Một học sinh tiểu học mới 7 tuổi ở Miami, Florida bị cảnh sát còng tay dẫn đi để kiểm tra xem có bị bệnh tâm thần vì đánh bà giáo nhiều lần sau khi bà giáo ngăn cản em phá phách đồ ăn ở nhà ăn. Mẹ của học sinh nói rằng đầu óc của em vẫn bình thường.

Không hiểu sao trẻ con bây giờ hung dữ và làm những chuyện không thể tưởng tượng được. Có thể vì  mê trò chơi điện tử (games) hay vì cha mẹ dùng quá nhiều thuốc an thần, thuốc ngừa thai, hút xì ke ma túy cho nên đẻ con rối loạn tâm thần và trở nên hung bạo?

-Huffington Post ngày 19/1/2018: “Thống kê của Viện Gallup đưa ra hôm qua sau khi phỏng vấn 1000 nhân vật của 130 quốc gia cho thấy chỉ có 30% đồng ý về sự lãnh đạo của Hoa Kỳ trong khi vào năm 2016, con số là 48%. Con số có cái nhìn không tốt về sự lãnh đạo của Hoa Kỳ từ 28% tăng lên 43%. Trong lúc đó Hoa Lục đạt 31% tức hơn Hoa Kỳ một điểm về vai trò lãnh đạo”.

Liên-sô và Đông Âu xụp đổ đã 27 năm, Trung Hoa Lục Địa đã gia nhập cộng đồng thế giới. Chiêu bài “Bảo vệ Thế Giới Tự Do” để Hoa Kỳ gom thiên hạ về một mối không còn sử dụng được nữa. Xu hướng toàn cầu hóa khiến không còn chiến tranh ý thức hệ mà tất cả chỉ vì quyền lợi tối thượng của đất nước cho nên bang giao giữa các quốc gia trở nên vô cùng phức tạp. Không thể nào còn dùng chiêu bài “Tôi đến đây để bảo vệ tự do cho anh” mà trở thành “Ông đến đây có lợi gì cho đất nước tôi?” Chính vì thế mà thế giới nảy ra một trào lưu “ngoại giao đa phương” để phát triển và sinh tồn. Trong dòng chảy của trào lưu đó, Hoa Kỳ kể từ thời Ô. Bush Cha, Bill Clinton, Bush Con, Obama đã không đáp ứng được tình thế. Kể từ thời Ô. Bush Cha, Hoa Kỳ đã tiến hành năm cuộc chiến tranh vào các quốc gia Hồi Giáo kéo dài tới bây giờ chưa chấm dứt. Từ một quốc gia bảo vệ tự do và hòa bình cho thế giới, nhiều lúc Hoa Kỳ biến thành người gây bất ổn trên toàn thế giới. Chính vì thế mà nhãn quan tiêu cực/không tốt về Hoa Kỳ của thế giới mỗi lúc mỗi gia tăng, phản ảnh bởi kết quả thăm dò nói ở trên.

Tình hình thế giới:

-USA Today ngày 15/1/2018: “Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga Lavrov trong cuộc hội thảo hằng năm về những vấn đề quốc tế của Nga nói rằng Hoa Kỳ và đồng minh tiếp tục gây bất ổn thế giới bằng cách giải quyết những vấn đề của thế giới bằng chỉ thị và tối hậu thư và hiện nay một số quốc gia đang gia tăng sức mạnh quân sự để bảo vệ chủ quyền vì sự suy thoái của luật pháp quốc tế. Ô. Lavrov cũng cho rằng sự bắt nạt của Phương Tây đã gây ra tình hình hiện tại.” Bộ Trưởng James Mattis mới đây nói huỵch toẹt rằng Hoa Kỳ không còn đặt ưu tiên vào việc chống khủng bố nữa mà tập trung nỗ lực đối phó với Nga và Hoa Lục.(Terrorism no longer the military’s top priority, Mattis says.) Như vậy Chiến Tranh Lạnh thực sự trở lại nhưng trong bối cảnh mới Nga- Hoa Lục đang đứng chung một tuyến để đối đầu với Mỹ.

-AFP ngày 16/1/2018: “Hoa Lục bác bỏ cuộc họp quốc tế về vấn đề Bắc Triều Tiên do Hoa Kỳ và Gia Nã Đại chủ xướng là bất hợp pháp khi mà một thành viên quan trọng của cuộc khủng hoảng lại không tham dự. Sự vắng mặt của Nga và Hoa Lục trong cuộc họp hai ngày tại Vancouver cho thấy lỗ hổng của Hoa Thịnh Đốn trong nỗ lực đoàn kết toàn cầu để chống lại đe dọa hạt nhân từ Bắc Triều Tiên. Hoa Lục cho rằng cái gọi là Nhóm Vancouver (Vancouver Group) gồm 20 quốc gia tham dự cuộc họp này đã từng cùng Hoa Kỳ tham chiến trong cuộc Chiến Tranh Triều Tiên như  Úc, Anh, Pháp, Ấn Độ, Nhật Bản, Phi Luật Tân và Nam Triều Tiên.”

Sau cuộc họp này Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Tillerson nói rằng nếu Bắc Triều Tiên không chấp nhận đường lối thương thảo để từ bỏ vũ khí hạt nhân khiến đe dọa (tới nền an ninh Hoa Kỳ) thì có thể gây ra một hành động quân sự.”

-AFP ngày 17/1/2018: Liêu Ninh –HKMH duy nhất của Hoa Lục đã băng qua Eo Biển Đài

Loan giữa lúc Hoa Lục gia tăng áp lực lên đối thủ dân chủ này. Sự kiện xảy ra sau khi Tổng Thống Đài Loan

Bà Thái Anh Văn cảnh báo Hoa Lục bành trướng quân sự khi Hoa Lục gia tăng tập trận hải quân và không quân gần Đài Loan khi bà lên nắm quyền vào Tháng 5, 2016.”

– The Telegraph ngày 17/1/2018: “Thụy Điển chuẩn bị tung ra một cẩm nang trong trường hợp có chiến tranh trong lúc những cuộc tranh luận ở trong nước gia tăng là làm cách nào để đối phó với đe dọa từ Nga. Cẩm nang sắp được phổ biến sẽ được gửi tới 4.7 triệu gia đình để công chúng tham gia vào việc phòng vệ tập thể trong chiến tranh và bảo đảm nước uống, thực phẩm và sưởi ấm. Cuốn sách nhỏ có tiêu đề Nếu Chiến Tranh hay Khủng Hoàng Xảy Ra cũng hướng dẫn cách đối phó với chiến tranh điện tử, khủng bố và biến đổi khí hậu.”

Theo tôi nghĩ, Thụy Điển đã đi quá lố trong việc cảnh báo về một nguy cơ Nga xâm lăng Thụy Điển. Lịch sử và thực tế chính trị giữa Crimea và Thụy Điển hoàn toàn khác nhau. Không thể lấy cái này để suy luận ra cái kia được. Trong tình thế hiện tại Nga không dại gì xâm lăng Thụy Điển để gánh lấy sự lên án của toàn thế giới. Nhưng nếu Thụy Điển là cửa ngõ để NATO tăng cường quân sự đe dọa Nga thì lại là vấn đề khác. Nhìn vào địa thế, muốn đánh Thụy Điển, Nga phải chiếm ba nước vùng Baltic như Latvia, Lithuania và Estonia trước. Nhưng liệu Nga có dám làm thế không? Tôi cho là không.

-Reuters ngày 18/1/2018: “Theo Thông Tấn Xã Tass, Nga bắt đầu giao hệ thống hỏa tiễn chống hỏa tiễn S-400 cho Hoa Lục theo hợp đồng ký kết năm 2014.” Tưởng cũng nên nhắc lại đây, các đồng minh chí cốt của Hoa Kỳ như Thổ Nhĩ Kỳ và Ả Rập Sê-út cũng đã đặt mua hệ thống hỏa tiễn này của Nga. Còn Ai Cập thì đang trong vòng thương thảo.

-Huffington Post ngày 18/1/2018: “Ấn Độ đã bắn thử thành công hỏa tiễn liên lục địa mà các viên chức coi đây như là lực đẩy lớn cho chương trình phòng thủ chiến lược. Hỏa tiễn Agni-V với tầm bắn 3100 dặm là nỗ lực trong vài thập niên, đã bắn thử thành công từ năm 2012 và hoàn tất vào Tháng 12, 2016.”

-AP ngày 21/1/2018: “Lực lượng an ninh A Phú Hãn nói rằng vào ngày hôm nay họ đã giết chết ít nhất sáu chiến binh Taliban cuối cùng, chấm dứt cuộc bao vây suốt đêm tại International Hotel ở Kabul khiến 18 người chết trong đó có 14 người ngoại quốc. Một số trong số 150 người đã trốn chạy cuộc nổ súng và lửa cháy bằng cách nhảy xuống tấm vải trải giường từ những tầng trên. Nhóm người khủng bố mặc áo vét nhét đầy chất nổ đã kìm giữ lực lượng an ninh suốt 13 giờ đồng hồ sau khi cuộc tấn công bắt đầu lúc  9 giờ tối ngày Thứ Bảy. Các tay súng chạy dọc các hành lang và nhắm vào những người Mỹ ở trong khách sạn sang trọng nằm ở trên đồi. 11 trong số 22 người ngoại quốc là nhân viên của hãng KamAir- một hãng máy bay tư nhân A Phú Hãn.”

Cuộc tấn công này cho thấy tình hình an ninh của Thủ Đô Kabul vô cùng tồi tệ mà theo Washington Post, quân đội Hoa Kỳ phải dùng trực thăng để di chuyển tới các căn cứ chỉ cách Kabul hai dặm mà không dám dùng đường bộ.

-AFP ngày 22/1/2018: “Chỉ vài năm trước đây truyền thông quốc tế loan tin cô ta đã bị hành quyết bởi toán xử bắn, nay nữ danh ca nhạc Pop Bắc Triều Tiên lại là viên chức cao cấp của Bắc Hàn gây ngạc nhiên trên những bản tin hàng đầu trước kỳ khai mạc Thế Vận Hội Mùa Đông tại Nam Triều Tiên. Hyon Song Wol- một cô gái rất ăn ảnh là người mà lãnh tụ Kim jong Un đích thân lựa chọn làm trưởng đoàn Ban Nhạc Moranbong đã tiến qua Khu Phi Quân Sự như là một viên chức đàm phán và lãnh đạo toán để tiến hành thực hiện những đề nghị bất ngờ của Kim Jonh Un tham gia Thế Vận Hội tại Pyeongchang. Giới truyền thông Nam Triều Tiên đã tiếp đãi và đối xử với cô Hyon Song Wol như một ngôi sao nhạc K-pop. Vào ngày hôm nay, cô sẽ kết thúc chuyến thăm cuối cùng và chuẩn bị trở về Bình Nhưỡng. Một đám đông ái mộ đã chờ ở ngoài khách sạn để xem cô ăn điểm tâm. Các phóng viên chỉ nhận được nụ cười mỉm (subtle smile) để đáp lại những câu hỏi trước khi cô hối hả ra đi cùng với phái đoàn Bắc Triều Tiên.”

Sự kiện báo chí các xứ tự do loan tin cô Hyon Song Wol đã bị xử bắn, nay vẫn còn sống nhăn cho thấy bây giờ là thời kỳ cực thịnh của tin tức giả tạo được loan truyền ầm ĩ trên quy mô toàn cầu với mục đích tuyên truyền, bôi lọ, phá hoại và đầu độc dư luận. Một người không phân biệt đâu là tin tức giả mà tiếp tay loan truyền, thì cũng nguy hiểm như người hay tổ chức tạo tin giả. Hình như trong kinh Phật có nói rằng kẻ nào loan tin bịa đặt, ăn gian nói dối chết xuống Âm Phủ sẽ bị Diêm Vương cắt lưỡi.

-AFP ngày 25/1/2018: “Nữ Thủ Tướng Anh Theresa May sẽ viếng thăm Hoa Lục khi Anh Quốc đang muốn đẩy mạnh giao dịch thương mại với nước này trước khi rời Liên Hiệp Âu Châu. Mối liên hệ Hoa-Anh đã lớn lên một cách đáng kể khi Luân Đôn nghĩ ngợi về tương lai kinh tế của mình sau khi chính thức rời Liên Hiệp Âu Châu vào Tháng Ba, 2019. Bà May sẽ lưu lại Trung Hoa từ 31/1-2/2 điều mà Bộ Ngoại Giao Trung Quốc khoe rằng đây là cuộc thăm viếng lịch sử.”

Chúng ta còn nhớ vào ngày 20/10/2015, Ô. Tập Cận Bình viếng thăm Anh Quốc được Nữ Hoàng Anh tiếp đón và Thủ Tướng Cameron lúc bấy giờ gọi đây là “thời kỳ hoàng kim” của mối quan hệ Hoa-Anh. Thế mới hay tiền bạc tạo ra mối liên hệ gắn bó. Anh Quốc là đồng minh truyền thống thân thiết nhất của Mỹ nhưng cũng phải nương tựa vào Hoa Lục để tồn tại kinh tế. Mạnh như Anh Quốc mà còn phải khuất phục trước sức mạnh kinh tế của Hoa Lục thì có thể nói, thật điên rồ khi xúi bẩy các quốc gia nhỏ không làm ăn buôn bán với Trung Quốc.

Tình hình Trung Đông:

-AP ngày 19/1/2018: “Hoa Kỳ thúc giục Hồi Quốc không được dung chứa các tổ chức khủng bố, còn Hồi Quốc thì nói rằng Hoa Kỳ nên bàn về khu vực an toàn cho khủng bố ở bên trong lãnh thổ A Phú Hãn và tiền thu được từ việc buôn bán thuốc phiện. Việc hai bên đốp chát nhau xảy ra vào ngày hôm nay tại Hội Đồng Bảo An LHQ khi thảo luận về vấn đề A Phú Hãn quan hệ với các quốc gia Trung Á, mối liên hệ giữa hòa bình và an ninh.” Cũng vào ngày hôm nay, theo Los Angeles Times, chính quyền Hồi Quốc đã đóng cửa một đài phát thanh do Hoa Kỳ tài trợ với lý do đài này chống lại quyền lợi của Hồi Quốc khiến tạo thêm một bước xấu trong bang giao với Hoa Kỳ.”

-Fox News ngày 19/1/2018: “Thành viên của tổ chức Quân Đội Syria Tự Do (Free Syrian Army) đã rời Hoa Thịnh Đôn đêm qua sau một vài ngày hội họp với các viên chức Tòa Bạch Ốc, thành viên Quốc Hội và viên chức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Thông điệp mà họ gửi tới Tổng Thống Donald Trump thật rõ ràng: Ngăn chặn Ba Tư và Al Qaeda ở Syria và họ sẽ hợp tác với Hoa Kỳ để đem lại hòa bình cho một đất nước tan nát vì chiến tranh. Saad Fahd Al-Shweish – cựu chủ tịch Hội Đồng Thành Phố Raqqa nói rằng chúng tôi hy vọng Ô. Trump sẽ tiến hành một bước quan trọng để xúc tiến việc thống nhất Syria trong hòa bình, tự do và dân chủ. Quân Đội Syria Tự Do là một phe quân sự đối đầu với Tổng Thống Assad và họ nói rằng họ có khoảng 60,000 tay súng và Hoa Kỳ khó kiếm được một người hợp tác tốt hơn cho việc giải phóng Syria.”

-AP ngày 23/1/2018: “Quân chính phủ Syria với sự hỗ trợ của Nga và chí nguyện quân Ba Tư đã làm chủ căn cứ không quân chiến lược Abu al-Duhur thuộc Tỉnh Idlib như thế đã tách khu vự chiếm đóng của phiến quân ra làm hai, giúp Ô. Assad thêm sức mạnh trong cuộc thương thảo về một giải pháp chính trị cho Syria.”

Tình hình Biển Đông:

-Reuters ngày 18/1/2018: “Tổng Thống Phi Luật Tân Duterte thúc giục Quốc Hội thông qua đạo luật ban cấp quy chế tự trị cho cộng đồng thiểu số Hồi Giáo và cảnh báo rằng nếu đạo luật không được thông qua có nghĩa là phiến quân sẽ hủy bỏ tiến trình hòa đàm và tuyên chiến. Nhóm phiến quân Hồi Giáo Moro Islamic Liberation Front (Mặt Trận Giải Phóng Hồi Giáo Moro) đã ký một thỏa hiệp hòa bình với chính phủ năm 2014 để chấm dứt xung đột kéo dài 50 năm khiến 120,000 người chết và 2 triệu người phải dời bỏ nhà cửa. Trọng tâm của vấn đề là sự thông qua đạo luật Bangsmoro Basic Law cho phép một khu vực tự trị tại Đảo Mindanao với nhiều quyền hạn chính trị và kinh tế hơn.”

Khu vực tự trị gồm nhiều hòn đảo nhỏ kéo dài tới Mã Lai là xứ Hồi Giáo. Điều này cho thấy khác tôn giáo khó lòng hòa hợp trong lòng một quốc gia.

-Fox News ngày 19/1/2018: “Vào ngày 18/1/2018 các viên chức Việt Nam nói rằng buổi hòa nhạc kỷ niệm bang giao Hoa –Việt phải đình hoãn vì hư hỏng điện. Rất nhiều người trên Facebook đã thúc giục nhà cầm quyền hủy bỏ buổi trình diễn vì nó trùng vào ngày Hoa Lục cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam cách đây 44 năm (19/1/1974) . Ô.  Nguyễn Thái Bình -phát ngôn viên Bộ Văn Hóa nói rằng buổi trình diễn của nhóm nghệ sĩ từ Khu Tự Trị Nội Mông không tiến hành được vì trục trặc điện tại Nhà Hát Kịch nằm ở trung tâm Hà Nội. Các viên chức của hai bên sẽ sắp xếp buổi trình diễn vào một ngày khác.”

-AP ngày 20/1/2018: “Nhà cầm quyền Hoa Lục cáo buộc Hoa Kỳ xâm phạm lãnh hải của họ khi một khu trục hạm trang bị hỏa tiễn đạn đạo tiến gần bãi đá đang còn tranh chấp. Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Hoa Lục nói rằng họ sẽ có biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền sau khi chiến hạm Hopper tiến vào bên trong 12 hải lý thuộc Bãi Cạn Scarborough Shoal (Hoàng Nham) hiện còn đang tranh chấp giữa Hoa Lục và Phi Luật Tân.  Bãi Cạn Scarborough Shoal nằm cách Đảo Luzon của Phi Luật Tân 200km và cách Hoa Lục 600km.”

Việc chiến hạm Mỹ tuần tra vùng này là hợp pháp vì Bãi Cạn Scarborough thuộc chủ quyền của Phi Luật Tân không thể tranh cãi. Thứ nhất, nó rất gần Phi Luật Tân và rất xa Hoa Lục. Thứ hai, năm 1965 Phi Luật Tân đã xây một tháp sắt cao 8.3 mét tại đây để xác định chủ quyền mà không ai phản đối. Hoa Lục ý lớn hiếp bé, ăn cướp biển đảo của người ta lại còn bày đặt la làng, hăm dọa Mỹ. Trên đời này cái gì Mỹ làm đúng thì phải nói đúng. Cái gì Mỹ làm sai thì phải nói sai, như thế mới là con người có trí tuệ và lương tâm. Thế giới này mặc dù lúc nào cũng hỗn loạn, nhưng để các nước nhỏ tồn tại thì vẫn phải có lương tâm và luật pháp quốc tế.

-AFP ngày 22/1/2018: “Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Jim Mattis bắt đầu chuyến thăm viếng Á Châu trong bốn ngày với hy vọng gia tăng hợp tác quốc phòng với Nam Dương và Việt Nam khi sức mạnh quân sự của Hoa Lục đang từ từ mạnh hơn ở trong vùng. Ô. Mattis nói với các phóng viên tháp tùng chuyến bay rằng chúng tôi cùng chung Thái Bình Dương – một vùng biển tên gọi Hòa Bình  nên chúng tôi muốn nó giữ được yên bình để mọi quốc gia được quyền sử dụng và sống trong thịnh vượng. Ô. James Mattis sẽ tới Jakarta vào ngày hôm nay và sẽ có cuộc họp với Tổng Thống Joko Widodo và Bộ Trưởng Quốc Phòng Ryamizard Ryacudu vào ngày mai.  Nam Dương là một quần đảo rộng lớn chạy dài từ Ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương. Tại Việt Nam, Ô. Mattis sẽ hội đàm với người đồng cấp là Tướng Ngô Xuân Lịch về các vấn đề tự do hàng hải ở Biển Đông nơi mà Bắc Kinh đã mở rộng sự khống chế trong những năm gần đây, cũng như quân sự hóa những hòn đảo nhỏ còn đang tranh cãi.” Theo UPI ngày 22/1/2018, Hoa Lục khoe rằng chính sách của họ tại Biển Đông đã được sự hỗ trợ của Nam Dương khi trích dẫn lời tuyên bố của Bộ Trưởng Quốc Phòng Yacudu: “Nam Dương thực sự mong muốn Trung Quốc và ASEAN cùng hợp tác để duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông.”

Theo tôi, đây chỉ là sự nhận vơ hay vơ vào và hiểu một cách lệch lạc tuyên bố của Nam Dương. Lời tuyên bố này cũng giống như quan điểm của Việt Nam là: Việt Nam hoan nghênh tất cả các cường quốc hiện diện tại Biển Đông nếu đem lại hòa bình, ổn định và phát triển cho khu vực, nhất là quyền tự do hàng hải. Tuyên bố này phải hiểu là Việt Nam và Nam Dương chống lại tất cả những hành động gây bất ổn như: lấn chiếm trái phép, quân sự hóa các hòn đảo nhân tạo, độc quyền đánh cá, ngăn cấm các quốc gia khác đánh cá trên vùng biển truyền thống của họ. Lập trường này cũng phải hiểu rằng khi có biến động, khi có bất ổn thì Nam Dương và Việt Nam hoan nghênh sự hiện diện của Mỹ, Úc Châu, Ấn Độ, Nhật Bản và kể cả NATO… nếu họ tới đây để tái lập trật tự, duy trì ổn định. Lời tuyên bố của Nam Dương cũng là lời nhắn nhủ xin “ông Trung Quốc” hãy hành xử để duy trì hòa bình, ổn định chứ không phải hành xử như những tên cướp biển.

Lời tuyên bố ngoại giao của các quốc gia văn minh, có trình độ văn hóa cao, có tài thao lược thường tế nhị và có tiến có thoái chứ không lỗ mãng, nói rồi bị mắc kẹt, bị lên án hay bị chê cười… như Trung Quốc thường làm. Là một quốc gia khổng lồ với cả tỷ bộ óc mà không hiểu nổi lời tuyên bố của một quốc gia khác, bẻ quẹo để nhận vơ …là hành động bộc lộ thế cô lập, phi chính nghĩa. Sự kiện Việt Nam và Nam Dương tiếp Bộ Trưởng Quốc Phòng Jim Mattis cho thấy họ đâu có ủng hộ và tin tưởng vào “Ông Trời Con”. Nếu họ hùa theo Hoa Lục thì tiếp Ô. Mattis để làm gì? Bộ Ô. Mattis rảnh rỗi quá không biết làm gì bèn du lịch một chuyến qua Nam Dương ăn chà-là, uống cà-phê cứt chồn (*) rồi qua Việt Nam ăn bún chả Hà Nội sao?

-VOV & Fox News ngày 23/1/2018: Theo báo Quân Đội Nhân Dân, Tướng Sergei Shoigu – Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga đã tới thăm Việt Nam và làm việc với người đồng cấp là Đại Tướng Ngô Xuân Lịch với những chi tiết được phía Việt Nam phổ biến rất chung chung như, “Hai bên nhất trí tăng cường chia sẻ quan điểm về các vấn đề quốc phòng,  an ninh liên quan; đẩy mạnh hợp tác quốc phòng trong các lĩnh vực truyền thống, thiết thực và tin cậy; thúc đẩy hợp tác kỹ thuật quân sự trên cơ sở lâu dài, bình đẳng, cùng có lợi, vì hòa bình, ổn định trên thế giới và trong khu vực.” Còn theo Sputnik News, “Bộ Trưởng Quốc Phòng Sergei Shoigu tuyên bố Nga sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam trong việc sử dụng các thiết bị quân sự trong tác chiến thực tế. Nga xem nước bạn Việt Nam như đồng minh chiến lược, một người bạn cũ và đáng tin cậy. Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng nhất trong việc đảm bảo an ninh ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương.”

Sự kiện bộ trưởng quốc phòng Nga-Mỹ liên tiếp tới Việt Nam cho thấy Việt Nam là trọng điểm chiến lược tạo ổn định cho Châu Á. Nếu Việt Nam cho quân Mỹ vào Cam Ranh thì một cuộc chiến với Trung Hoa sẽ nổ ra. Nếu Việt Nam mạnh lên, có khả năng tự phòng thủ  biển đảo thì nó là lực cản tự nhiên để không cho Hoa Lục khống chế Biển Đông. Nhưng để thực hiện mục tiêu này, cần có Mỹ hiện diện ở đây. Chính vì thế mà Việt Nam theo sách lược dựa vào Nga để xây dựng sức mạnh quân sự, nhưng lại dựa vào Mỹ để đối đầu với Bắc Kinh tại Biển Đông. Với sự hợp tác của Việt Nam và  Phi Luật Tân, Hoa Kỳ có đầy đủ chính nghĩa để tuần tra Biển Đông và yên lòng khi nổ ra cuộc chiến với Hoa Lục mà Việt Nam không phải là kẻ thù của mình. Đó là chính sách ngoại giao đa phương hay “đu dây” cũng vậy. Phi Luật Tân cũng theo chính sách ngoại giao đa phương nhưng lại có tinh thần lừng khừng chống Mỹ.

-UPI ngày 24/1/2018: “Thủ Tướng Gia Nã Đại Trudeau tuyên bố Gia Nã Đại và 10 quốc gia khác đã kết thúc thương thảo để hình thành một thỏa hiệp mới thay thế cho thỏa hiệp TTP (Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương) đã chết. Thỏa hiệp mới mang tên Thỏa Hiệp Hợp Tác Toàn Diện và Tiến Bộ Xuyên Thái Bình Dương (The Comprehensive and Progressive Trans-Pacific Partnership) bao gồm các quốc gia cũ ngoại trừ Hoa Kỳ đã rút lui theo lệnh của Tổng Thống Donald Trump năm ngoái.”

Còn quá sớm để nói Ô. Trump đúng hay sai. Nếu thỏa hiệp đem lại sự phát triển đồng đều giữa các quốc gia ký kết thì Ô. Trump thiếu suy tính, đưa tới tình thế tự cô lập. Nếu thỏa hiệp không đem lại gì cả ngoài việc đụng chạm, bất hòa thì Ô. Trump đúng.

-Sputnik News (Bản tiếng Anh) ngày 25/1/2018: “Trung Quốc sẽ tổ chức cuộc thao diễn quân sự chung lần thứ hai với Căm-Bốt vào Tháng 3, 2018. Cuộc thao diễn tập trung vào việc chống khủng bố và cũng là để kỷ niệm 60 năm bang giao giữa hai quốc gia và là dấu hiệu thắt chặt thêm mối quan hệ Bắc Kinh-Phnom Penh.”

Thực ra Căm-Bốt chẳng có nhu cầu chống khủng bố. Phải chăng cuộc tập trận là để Trung Quốc răn đe Việt Nam và cảnh cáo Mỹ? Theo tôi, cuộc tập trận này bất lợi cho Căm-Bốt. Mình là nước nhỏ, nên sống yên bình, đừng kéo “siêu cường” tới “diễu võ giương oai” tại nhà mình, có hại mà không có lợi.

-Fox News ngày 24/1/2018: “Hoa Kỳ chỉ trích việc Nga chấp thuận bán phi cơ chiến đấu cho quân đội Miến Điện cho dù đã có những chiến dịch gây ra những cái chết cho người Hồi Giáo Rohingya và cảnh báo rằng hành động này chỉ làm cho tình hình xấu hơn. Nhân chuyến viếng thăm Miến Điện tuần này, các viên chức quốc phòng Nga loan báo thỏa hiệp bán sáu phi cơ tiêm kích Su-30 cho quân đội Miến Điện.”

-AP (Hà Nội) ngày 25/1/2018: “Bộ Trưởng Quốc Phòng Jim Mattis nói rằng HKMH Hoa Kỳ hy vọng sẽ viếng thăm Việt Nam vào Tháng Ba và là chuyến viếng thăm đầu tiên sau chiến tranh. Sự ghé thăm của HKMH chắc chắn gây khó chịu cho Hoa Lục hiện chỉ trích Hoa Kỳ gia tăng sức mạnh quân sự trong vùng. Ô. Mattis và người đồng cấp- Tướng Ngô Xuân Lịch đã thảo luận về kế hoạch thăm viếng trong cuộc họp kín. Jeff  Davis- phát ngôn viên Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ nói rằng cần chờ đợi sự chấp thuận của giới chức cao cấp hơn nhưng Ô. Mattis nói rằng mọi chuyện coi như xong rồi. Trong lời mở đầu cuộc họp với Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, Ô. Mattis cảm ơn về sự hợp tác Việt-Mỹ mỗi ngày một gia tăng qua việc HKMH Mỹ thăm viếng Đà Nẵng vào Tháng Ba. Ô. Mattis cũng cảm ơn Việt Nam đã hỗ trợ Hoa Kỳ khi Hoa Kỳ áp đặt cấm vận gay gắt hơn lên Bắc Triều Tiên.” Trong thời gian ở Hà Nội, Bộ Trưởng Jim Mattis và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã viếng thăm và dâng hương tại Chùa Trấn Quốc xây dựng từ thời Lý Nam Đế cách đây 1500 năm.

-VOA (Anh Ngữ) ngày 25/1/2018: “Các viên chức Taliban vừa đệ trình bản báo cáo lên lãnh đạo cao cấp của họ sau khi kết thúc một cuộc tiếp xúc với các viên chức Hồi Quốc và đại diện các quốc gia như Trung Quốc, Qatar để tìm một giải pháp cho A Phú Hãn. Cuộc gặp gỡ này hy vọng làm sống lại tiến trình hòa đàm trước chiến dịch tấn công nhau vào mùa hè năm nay.”

-CNN ngày 26/1/2018: “ Nhân cuộc họp Thượng Đỉnh ASEAN-Ấn Độ họp tại New Delhi, Tổng Thống Phi Luật Tân Duterte nói với nhà lãnh đạo Miến Điện Bà San Suu Kyi hãy phớt lờ những kêu gào của các nhà hoạt động  nhân quyền và Liên Hiệp Quốc chẳng phục vụ cái gì cho nhân loại cả. Họ không ngăn được cuộc chiến tranh nào, họ không ngăn  được cuộc thảm sát nào. Và tôi đây đang tự bảo vệ đất nước tôi.”

Ít ra thế giới cũng có một ông tổng thống “Trương Phi phổi bò” nói ra những điều lỗ mãng nhưng không phải không có lý. Vận mệnh thế giới không quyết định bởi LHQ hay các nhà hoạt động nhân quyền mà là các siêu cường. Nhân quyền nhiều khi chỉ là vũ khí để triệt hạ kẻ thù, triệt hạ đối thủ, chứ nó không phải là nguyên tắc đạo đức mà mọi quốc gia đều tuân thủ,  mà người ta gọi đó là “Chính Sách Hai Mặt” (Double Standard). Phe ta phạm lỗi tày trời thì lơ đi. Phe địch phạm lỗi sơ sơ thì “xé ta to” để triệt hạ.

-AP ngày 28/1/2018: “Các công tố viên Căm Bốt đã truy tố 10 người, gồm đàn ông và đàn bà trong đó có 5 người Anh, hai người Gia Nã Đại, một người Na Uy, một người Tây Tây Lan vì đã tung  ra những hình của một cuộc nhảy múa dâm ô sau khi họ bị bắt tại một bữa tiệc tại Tỉnh Siem Reap gần khu Đế Thiên Đế Thích.”

Đây là công dân của các xứ có một nền văn minh rất là cao. Tuy nhiên, văn minh cao không có nghĩa là tư cách và đạo đức cao. Họ du lịch Căm Bốt và có thể nghĩ rằng đây là nước nghèo khổ, cần tiền du lịch để tồn tại cho nên có ý nghĩ khinh thường để rồi tự do làm chuyện bậy bạ.

-Reuters ngày 30/1/2018: “Tối Cao Pháp Viện Căm Bốt từ chối tại ngoại hầu tra cho một nhà làm phim Úc Đại Lợi, đã bị giam bảy tháng vì cáo buộc làm làm gián điệp, nếu bị kết tội sẽ bị phạt 10 năm tù. James Ricketson, 69 tuổi bị bắt vào Tháng Sáu sau khi ông ta dùng máy bay không người lái chụp hình trên đầu một cuộc tập họp của tổ chức chính trị của Đảng Cứu Nguy Dân Tộc. James Ricketson là người thân cận của Sam Rainsy- lãnh tụ của đảng này. Một vị thẩm phán nói rằng vì còn đang tiến hành cuộc điều tra cho nên việc giam giữ là cần thiết. Tuy nhiên hiện chưa rõ James Ricketon làm gián điệp cho quốc gia nào.”

Nhận Định:

Chiến dịch “Cành Ô liu” của Thổ Nhĩ Kỳ tấn công qua biên giới Syria bước qua ngày thứ mười.

Tình hình vùng biên giới Thổ-Syria âm ỉ từ lâu nhưng xấu thêm khi Hoa Kỳ đưa ra kế hoạch xây dựng một lực lượng 30,000 quân để cảnh giới vùng đông bắc Syria nằm ở biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq. Kế hoạch đã gây tức giận choThổ Nhĩ Kỳ- một đồng minh của Hoa Kỳ vì lực lượng này chủ yếu là các chiến binh người Kurd (YPG) mà Thổ coi đây là những kẻ khủng bố. Thủ Tướng Thổ Nhĩ Kỳ Binali Yildirim nói rằng bổn phận của NATO bảo vệ vùng biên giới hay giao cho nhóm khủng bố? Chúng tôi có thể bảo vệ vùng biên giới. Còn Tổng Thống Erdogan cáo buộc Hoa Kỳ phản bội đồng minh và đe dọa tấn công sào huyệt nhóm khủng bố nằm dọc biên giới mà những kẻ dâm sau lưng chúng tôi không thể ngăn cản.

Theo Politico ngày 17/1/2018, Ngoại Trưởng Tilerson tuyên bố Hoa Kỳ sẽ vĩnh viễn hiện diện quân sự tại Syria để chống lại khủng bố và đối đầu với ảnh hưởng gia tăng của Ba Tư đồng thời lót đường cho việc chấm dứt chế độ của Ô. Assad. Còn Bộ Quốc Phòng Mỹ lại nói rằng không có kế hoạch xây dựng lực lượng an ninh biên giới và lực lượng người Kurd YPG cũng không có trong đó. Hai lời tuyên bố này mâu thuẫn nhau.

Theo Reuters ngày 17/1/2018, trong cuộc họp của NATO tại Brussels, Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Thổ Nhĩ Kỳ Hulusi Akar nói rằng Thổ sẽ không cho phép lực lượng Kurd tại Syria (Syrian Kurdish YPG) nhận sự hỗ trợ từ NATO và không thế tách rời các nhóm khủng bố (khủng bố là khủng bố, đứng riêng cũng là khủng bố). Trước khi mở cuộc tấn công, các nhà lãnh đạo cao cấp nhất của quân đội và tình báo Thổ Nhĩ Kỳ đã đi Nga để xin Nga cho phép Thổ dùng máy bay oanh kích qua biên giới Syria. Sau cuộc họp này lính Nga đã lùi ra xa một chút dù đã triển khai sát Afrin.

Bất chấp lời cảnh cáo của Hoa Kỳ, vào ngày 20/1/2018 tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng Thổ hành động tự vệ theo đúng Hiến Chương LHQ và cuộc chiến Afrin đã bắt đầu bằng những cuộc pháo kích vào  khu vực trú quân của ba nhóm PKK (Kurdistan Workers’Party), PYD và YPG sau khi nhóm này bắn vào bên trong lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ. 72 phi cơ F-16 của Thổ đã oanh kích 150 mục tiêu và bộ binh cùng nhóm phiến quân được Thổ nuôi dưỡng đã tiến vào Afrin chiếm một khu vực rộng lớn để thành lập một vùng trái độn ở khu vực do lực lượng YPG (People’s Protection Units) và Nhà Nước Hồi Giáo chiếm giữ. Thổ loan báo đã tiêu diệt tối thiểu 300 chiến binh người Kurd và Nhà Nước Hồi Giáo. Hỏa tiễn từ Syria đã phóng vào một vài thành phố biên giới của Thổ Nhĩ Kỳ làm 13 người bị thương. Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng những ai chống lại chiến dịch này đều đứng về phe khủng bố và sẽ được đối xử như quân khủng bố, ám chỉ Mỹ.

Như thế người Kurd phải chịu hai gọng kìm từ Thổ và quân chính phủ Syia, không biết có thể tồn tại được hay không? Theo tôi, Tổng Thống Erdogan của Thổ là một tay rất ngang tàng dám bắn rớt máy bay Nga rồi cũng “hòa cả làng” cho nên ông dám tấn công lực lượng người Kurd mà không sợ Mỹ. Trước tình thế đó, ngoại trưởng Hoa Kỳ đã gọi điện thoại cho ngoại trưởng Nga và Thổ. Còn Pháp thì kêu gọi một cuộc họp khẩn cấp của Hội Đồng Bảo An LHQ để bàn về vấn đề này nhưng không đi đến kết quả nào.

Hành động của Thổ đặt Mỹ vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Vào ngày 22/1/2018, Tổng Thống Assad của Syria nói rằng cuộc tấn công của Thổ nhằm hỗ trợ cho nhóm cực đoan ly khai thân Thổ để chống lại Syria. Ô. Assad muốn thương thảo với lực lượng người Kurd để thành lập một khu vực tự trị cho họ. Vào ngày 25/1/2018 hai Ô. Trump và Erdogan đã nói chuyện với nhau qua điện thoại nhưng nội dung của cuộc nói chuyện lại bị Thổ bác bỏ. Vào ngày 27/1/2018, Bộ Trưởng Ngoại Giao Thổ Nhĩ Kỳ Mevlut Cavusoglu yêu cầu Hoa Kỳ rút quân ngay ra khỏi Manbij (đông bắc Aleppo) vì quân Thổ sẽ tấn công vào vùng này. Thế nhưng Tướng Joseph Votel – Giám Đốc Bộ Chỉ Huy Trung Ương của Hoa Kỳ nói rằng họ sẽ không rút lui khỏi vùng này, tức vẫn hiện diện để bảo vệ lực lượng người Kurd. Reuters trích dẫn nguồn tin của Nga cho biết đã có cả ngàn người chết, kể cả thường dân trong chiến dịch “Cành Ô-liu” của Thổ.

Hiện nay lực lượng người Kurd đang năn nỉ Hoa Thịnh Đốn tìm cách ngăn chặn cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ. Trong lúc có mặt tại Âu Châu, ngày 22/1/2018 Ngoại Trưởng Tillerson lại tuyên bố từ bỏ kế hoạch hiện diện quân sự vĩnh viễn tại Syria bằng đề nghị thiết lập một “vùng an toàn” (a security zone) tại biên giới Thổ và Syria. Không biết “vùng an toàn” này do ai trách nhiệm? Do Liên Hiệp Quốc ấn định hay do Hoa Kỳ đơn phương thành lập? Và số phận của phiến quân do Hoa Kỳ hỗ trợ và lực lượng người Kurd ra sao? Sau khi “vùng an toàn” hình thành, hòa bình có vãn hồi trên đất nước Syria không? Mỹ có tiếp tục viện trợ vũ khí, tài chính và chiến đấu bên cạnh lực lượng YPG không? Ô. Tillerson còn nói rằng Thổ có quyền bảo vệ nền an ninh của mình nhưng nên tự chế. Lời tuyên bố này gây lo lắng cho lực lượng người Kurd vì nó gián tiếp xác nhận sự hiện diện của YPG là mối đe dọa cho Thổ cho nên hành động của Thổ đánh qua biên giới là đúng với luật pháp quốc tế. Nói tóm lại, tình hình Syria vô cùng phức tạp chưa biết sẽ đi về đâu.

Theo tôi, chiến lược của Ô. Trump ở Syria nhằm lật đổ chế độ của Ô. Assad, ngăn chặn ảnh hưởng của Ba Tư để bảo vệ an ninh cho Do Thái chứ không vì quyền lợi sinh tử của Mỹ. Nhà Nước Hồi đang trên đà tan rã, tin vui vừa đến thì Syria lại du vào một trận chiến phức tạp hơn.

Newsweek ngày 16/1/2018 cho rằng Tổng Thống Donald Trump đã đùa với lửa khi thông báo quyết định nói trên. Có thể nói, người hoạch định chính sách an ninh toàn cầu của Mỹ không phải ở Washington D.C. mà ở Tel Aviv, hoàn toàn vì quyền lợi của Do Thái chứ không vì quyền lợi của Hoa Kỳ.

Sẽ là một sai lầm chí tử nếu Hoa Kỳ quyết tâm xây dựng lực lượng người Kurd để chia cắt lãnh thổ Syria và đối đầu với Thổ Nhĩ Kỳ tại đây. Khi Mỹ-Thổ đụng nhau, hai phe thủ lợi chính là Nga và Syria. Họ chỉ cần chờ đợi hai bên đánh nhau lỗ đầu rồi sẽ ra tay theo kiểu “Trai cò cắn nhau ngư ông đắc lợi”. Ngoài ra, quyết định đóng quân vĩnh viễn tại Syria sẽ bị chống đối ngay trong lòng nước Mỹ khi vấn đề A Phú Hãn giải quyết chưa xong. Vào ngày 18/1/2018, TNS. Tim Kaine- cựu ƯCV phó tổng thống của Bà Clinton nói rằng lời tuyên bố của Ô. Tillerson là không  thể chấp nhận được vì nó chưa được Quốc Hội cho phép. Ấy là chưa kể khi Nhà Nước Hồi Giáo không còn, sự hiện diện quân sự Mỹ ở Syria khó lòng biện minh.

Tuy nhiên “Chiến Dịch Cành Ô-liu” của Thổ không phải dễ dàng. Bao nhiêu chông gai đang chờ đón Thổ. Để rồi chúng ta sẽ thấy.

(California ngày 31/1/2018)

Năm Tuất nói chuyện về chó – Huệ Vũ

Chó là con vật trung thành, thân yêu nhất của con người, nhưng cho tới nay các nhà khoa học vẫn chưa có thể kết luận được ông tổ của nó là con gì? Tuy nhiên, họ gần như cùng đồng ý chó là sự tiến hóa của giống sói.

Theo Tiến Sĩ Laura Shannon của trường Đại Học Cornell, sói sống gần nơi con người cư trú cảm thấy quanh quẩn bên con người, ăn những thứ con người vứt bỏ no hơn tự chúng đi săn, rồi sói biến thành chó trong khoảng thời gian cách nay từ 16,000 tới 30,000 năm. Tuy nhiên, cũng có nhiều thuyết cho rằng chó là hợp chủng của sói với nhiều giống hoang dã khác thuộc dòng họ khuyển (Canidae). Xương chó hóa thạch lâu đời nhất đã được tìm thấy ở Eliseyevichi, Nga, có niên đại 19,000 năm.

Một bộ xương chó hóa thạch đã được tìm thấy ở Do Thái có niên đại 14,000 năm. Nhưng chó xuất hiện đầu tiên trên quả đất ở nơi nào thì hiện có ba thuyết khác nhau. Thuyết thứ nhất cho rằng chó xuất hiện đầu tiên trong vùng Hoa Nam ngày nay. Thuyết thứ nhì cho rằng chó xuất hiện đầu tiên ở Trung Đông. Giáo sư Robert Wayne của trường Đại Học California cho rằng chó chia sẻ nhiều đặc điểm của loài Sói Xám Trung Đông. Nhưng nhiều nhà khoa học khác nghiên cứu về DNA và các xương hóa thạch giống xương loài chó ở 38 nước lại kết luận rằng chó xuất hiện đầu tiên ở Âu Châu cách nay khoảng từ 19,000 tới 32,000 năm. Có lẽ cuộc tranh luận về nơi chó xuất hiện đầu tiên trên quả đất sẽ vẫn còn tiếp tục.

Hiện giờ trên quả đất chúng ta có bao nhiêu chó cũng không được biết đích xác, vì ở nhiều nước, nhất là các nước Hồi giáo, người dân không nuôi chó, chó chạy lang thang ngoài đường, không có chỗ ở nhất định, khó thể thống kê. Ở những nước tân tiến như Hoa Kỳ ngành kỹ nghệ chế biến thực phẩm cho chó là một ngành kỷ nghệ hái ra tiền. Mỗi năm người Mỹ chi khoảng $40 tỷ để mua đồ ăn cho chó.

Theo nhiều thống kê, ở Mỹ có khoảng 73 triệu con chó, ở Canada có khoảng 6 triệu, ở Pháp có khoảng 8.8 triệu, Anh có khoảng 7 triệu, Ba Lan có khoảng trên 7 triệu, Nga có khoảng 12 triệu. Nhưng các thống kê ở các châu lục khác như Á Châu, Phi Châu không thể tin cậy. Thành phố Bắc Kinh có 1 triệu con, nhưng khó biết rõ trên cả nước có bao nhiêu triệu. Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) đã cố gắng ghi nhận số chó ở Phi Châu, vì chó Phi Châu có liên hệ với vi khuẩn bệnh chó dại (rabies virus), nhưng cũng chỉ ước tính trên toàn châu lục này có khoảng 70 triệu con được nuôi trong nhà và khoảng 70 triệu con chạy hoang. Con số 525 triệu con chó đang sống trên thế giới hiện nay cũng chỉ là con số ước tính.

Với trên nửa tỷ chó trên thế giới, Liên Đoàn Chủng Học Quốc Tế (Fédération Cynologique Internationale – FCI) chia ra làm 339 loại giống và 10 nhóm chính. Mỗi nhóm chia thành nhiều nhóm phụ có nguồn gốc quốc gia hay vùng sinh sống.

Con người chúng ta dù đen, trắng, đỏ, vàng, to xác, nhỏ con đều hy vọng có thể sống được 100 tuổi, nhưng các giống chó lại có tuổi thọ khác nhau. Các giống chó nhỏ con sống lâu hơn các giống to con. Loại chó nặng 20 pounds (9 kg) thọ trung bình 11 năm, nhưng chó nặng 90 pounds (40.8 kg) chỉ sống trung bình được 8 năm. Những loại chó có đời sống lâu nhất là: Lakeland Terrier từ 12-16 năm; Pomeranian 12-16 năm; Tibetan Spaniel 14 năm; Yorkshire Terrier 14-16 năm; Manchester Terriers 14-16 năm; Rat Terrier 16 năm; Chihuahua 14-18 năm.

Chó sống với con người rất lâu, nên chó bàng bạc trong ca dao, tục ngữ thơ văn, và trong các chuyện thần thoại.

Trong thần thoại Hy Lạp, thần Cerberus là con chó ba đầu canh giữ cửa địa ngục. Huyền thoại ở Anh có con chó đen Padfoot đại diện cho ma quỷ, ở đâu có Padfoot ở đó có chết chóc, kinh hoàng. Thần thoại Nhật có con chó Okuri-Inu bảo vệ con người đối với những ma quỷ tàn bạo khác, nhưng nó cũng ăn thịt người nếu con người đang đi bị vấp ngã. Người Tàu tin tưởng nhật thực là do Thiên Cẩu ăn mặt trời. Ngoài tin Thiên Cẩu, người Tàu còn tin có con Hạo Thiên Khuyển của Nhị Lang Thần Dương Tiễn. Ở Nepal và Ấn Độ nhiều nơi thờ chó. Ấn Độ Giáo tin tưởng chó canh giữ cửa Thiên Đàng. Ngày 14 tháng 11 mỗi năm, người Nepal làm lễ Kukur Tihar trong ba ngày liên tiếp để vinh danh chó. Ở Việt Nam, hai thôn Phổ Trung và Phổ Đông, xã Phú Thượng, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên có hai ngôi miếu thờ Thần Chó. Vua Gia Long sau khi lên ngôi đã sắc phong cho bốn con chó Phú Quốc từng theo Ngài là “Tá Khổn Phò Nguy Tá Quốc Huân Thần Thần Khuyển Đại Tướng Quân,” nhưng hiện không còn biết các miếu thờ “Thần Khuyển Đại Tướng Quân” của vua Gia Long nằm ở đâu. Tục thờ chó đá cũng khá phổ biến ở nhiều vùng nông thôn miền Bắc, người dân tin tưởng chôn chó đá trước nhà, hay thờ chó đá có thể xua tà, trấn quỷ.

Người Việt đang chống Tàu Cộng cần nên tránh ăn thịt chó để bày tỏ thái độ. (Getty Images)

Tục thờ chó đá ở VN có thể liên quan tới nhiều truyền thuyết lịch sử. Tục truyền An Dương Vương Thục Phán đã dời đô về làng Cổ Loa là do theo chân của một đoàn chó săn. Mẹ Lý Công Uẩn là Phạm thị, trong lúc viếng chùa Tiên Sơn, nằm mơ thấy giao hoan với thần chó đá mà mang thai, sinh Lý Công Uẩn vào năm Giáp Tuất 974. Bấy giờ ở làng Cổ Pháp có con chó đẻ con màu trắng, nhưng trên lưng có hai chữ thiên tử màu đen. Bà Phạm thị vì không chồng mà có con nên mang con đến chùa Cổ Pháp để nhờ nuôi cậu bé. Khi bà ta mang con đến chùa, con chó đá trước cổng chùa bỗng lên tiếng sủa mừng. Nhà sư Lý Khánh Vân cho là điềm lành, nhận nuôi đứa bé, cho mang họ Lý và đặt tên là Công Uẩn. Vào năm Canh Tuất 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, lúc bấy giờ có con chó cái vượt sông bơi theo thuyền vua rồi lên núi Nùng làm ổ để đẻ nên nhà vua đã chọn núi Nùng làm chính điện.

Ở VN, ít nhất cũng có trên 70 thành ngữ, tục ngữ về chó. Câu “Chó khôn tha cứt ra bãi, chó dại tha cứt về nhà.” Và câu “Chó dại có mùa, người dại quanh năm.” có thể dùng để nói về tình trạng Cộng Sản đã du nhập chủ nghĩa CS vào Việt Nam và ù lỳ với chủ nghĩa này, làm khốn khổ cho dân tộc ta trong trên nửa thế kỷ qua. Câu “Chó nhảy bàn độc” cũng có thể nói lên tình trạng chế độ độc đảng muốn làm gì thì làm hiện nay. Câu “Chó cắn áo rách” có thể dùng để nói lên tình trạng người nghèo đang bị bóc lột trong nước.

Ngoài thành ngữ, tục ngữ; câu hát, ca dao VN cũng bàng bạc hình ảnh con chó và rất dí dỏm như:

 Em như cục cứt trôi sông

Anh như con chó đứng trông trên bờ.

Có thể nói Nguyễn Trãi là người đầu tiên đưa con chó vào thơ, qua bài Thủ Vĩ Ngâm:

 Góc thành Nam, lều một gian

 No nước uống, thiếu cơm ăn

 Con đòi trốn, dường ai quyến

 Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn

 Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá

 Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn

 Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải

 Góc thành Nam, lều một gian.

Qua Bài Hạ Nhật Phỏng Biểu Huynh Đặng Thai Quy Tác, Nguyễn Khuyến có câu:

 Ngoạ thụ bì ngưu hư thử khí,

 Cách trì tiểu khuyển phệ nhân thanh.

 Trâu mệt dưới cây phì hơi nóng

 Chó nhỏ bên ao sủa tiếng người

Bài văn tế Henry Riviere của Nguyễn Khuyến rất được truyền tụng:

 “Nhớ ông xưa, mắt ông xanh lè, mũi ông thò lỏ, đít ông cưỡi lừa, mồm ông huýt chó.

 Nhà ông bày toàn những trai, vườn ông trồng tinh những cỏ

 Ông vào làng mặt đỏ để dẹp Cờ Đen cho yên con đỏ.

 Ai ngờ nó giết ông, đầu ông nó mang đi, xác ông nó để đó.

 Chúng tôi vâng mệnh triều đình cúng ông chuối một buồng, trứng một ổ.

 Ông ăn cho no, ông nằm cho yên. Khốn nạn thân ông, đéo mẹ cha nó!”

 Cụ Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883) ở Gia Định có bài Con Chó Già, kể công trạng chó:

 Tuy rằng muông cẩu có ân ba

 Răng rụng lâu năm nó phải già

 Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối

 Vì lo khỉ Sở mới chùng da

 Không ai trấn Bắc ngăn bầy cáo

 Ít kẻ ngừa Tây giữ đứa tà

 Mạnh mẽ khi xưa còn hớn hở

 Bây giờ yếu đuối hết xông pha

Cụ Nguyễn văn Lạc (1842-1915) thường được gọi là Học Lạc, quê Mỹ Tho, có bài thơ Chó Chết Trôi  Sống thì bắt thỏ, thỏ kêu rêu

Thác thả dòng sông xác nổi phều

 Vằn vện xác còn phơi lửng dửng

 Thúi tha danh hãy nổi lều bều.

 Tới lui bịn rịn bầy tôm tép,

 Đưa đón lao xao lũ quạ diều.

 Một trận gió dồn cùng sóng dập

 Tan tành xương thịt biết bao nhiêu.

Cụ Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) có bài thơ Nước Lụt, chưởi bọn tham quan:

Trời mưa từng trận gió từng hồi,

 Thế giới bao nhiêu nước khỏa rồi.

 Lũ kiến bất tài đòi chỗ bợ,

 Đấu bèo vô dụng kết bè trôi.

 Lao xao rừng cụm nghe chim chíp,

 Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi.

 Nỡ để dân đen trên gác yếu,

 Này ông Hạ Vũ ở đâu ôi!

Các thi sĩ Miền Bắc trong thời gian gần đây cũng thường đưa chó vào thơ để nói lên sự buồn thảm, u uất của họ đang phải sống trong chế độ. Phùng Cung

Chạng vạng chiều – rơi

 Trên xóm nhỏ

 Con chó hoang

 Ngoạm vành khăn tang

 Rượt theo lòng xóm

 Tới ngã ba – nhớn nhác

 Lại cắm đầu rượt tiếp

 Phía trước mặt trời đang tắt

 Vầng trăng đang mọc phía sau.

Qua thơ văn, ca dao VN, con chó rất gần gũi với người Việt, nhưng ăn thịt chó cũng là chuyện phổ thông ở VN:

Con gà cục tác lá chanh

 Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi

 Con chó khóc đứng khóc ngồi

 Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng

Bốn câu ca dao trên cho thấy thịt chó phổ thông ở VN giống như thịt gà, thịt heo. Nhà Văn Vũ Bằng từng viết: “Ngã con cầy ra đánh chén! Sống trên đời, không ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?”

Tại nhiều thành phố VN có những khu phố chuyên bán thịt chó như khu phố Nhật Tân ở Hà Nội. Ở Sài Gòn có các khu thịt chó như Cống Quỳnh, Chấn Hưng, Thanh Đa… Thịt chó được chế biến thành nhiều món phổ thông như dồi chó, chả chó, chó hấp, rựa mận, xáo măng, hầm đu đủ, tái lăn, đùi nướng… Nhưng các món trên ngon như thế nào lại là tài riêng của mỗi quán. Người ta nói ở đâu có đông dân Bắc Kỳ mới có quán thịt chó ngon. Những người ăn thịt chó ở VN phân biệt màu lông để biết thịt có ngon hay không qua câu: “Nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm.”

Trên thế giới hiện còn 11 nước ăn thịt chó. Mỗi năm có trên 30 triệu con chó bị xẻ thịt, nhưng riêng ở VN có khoảng 5 triệu, lục địa Trung Hoa trên 20 triệu, Nam Hàn 2.5 triệu. Không biết rõ con số chó bị làm thịt ở Bắc Hàn, nhưng Kim Chánh Vân đã chính thức cổ võ dân chúng ăn thịt chó, cho rằng thịt chó là loại thịt siêu bổ, và dân chúng Bắc Hàn đang sống trong tình trạng nghèo đói nên con số chó bị giết có thể cũng rất lớn.

Người Tàu đã ăn thịt chó từ hàng ngàn năm trước.. Chu Lệ Vương (877-841 BC) đã từng chia chó làm ba loại là Điền Khuyển, Phệ Khuyển và Thực Khuyển. Như vậy, người Tàu đã biết ăn thịt chó ít nhất cũng từ đời nhà Chu. Thịt chó được người Tàu gọi là hương nhục và coi là thịt quý: “Trên trời có thịt rồng, dưới đất có thịt chó.” Vào cuối đời nhà Hán, đạo giáo phát triển, người đạo giáo cho rằng thịt chó là thịt dơ bẩn. Vào đời nhà Đường, nhà Tống, nhờ có thêm ảnh hưởng Phật Giáo, nên số người ăn thịt chó đã giảm nhiều. Người Mãn Châu coi ăn thịt chó là điều cấm kỵ, một tội phạm, nhưng người Mãn vào cai trị Trung Quốc đã làm người Tàu đua nhau ăn thịt chó, coi là một hình thức phản Thanh. Đặc biệt là người miền Hoa Nam. Ngày nay, Lễ Thịt Chó ở thành phố Ngọc Lâm, tỉnh Quảng Tây thu hút mỗi năm hàng trăm ngàn người tham dự và trong ngày lễ này có khoảng từ 10,000 tới 15,000 con chó bị giết để khách ăn thịt uống rượu trái vải.

Nếu theo con số thống kê, số chó bị giết thịt bình quân theo đầu người thì VN cao hơn Nam Hàn, cao hơn Tàu, nhưng ăn thịt chó không phải là truyền thống dân tộc mà mới bắt chước theo người Tàu. Sách Thực Vật Tất Khảo Tường Ký Lục viết vào thời vua Cảnh Hưng nhà Lê không có món nấu thịt chó. Theo nhiều học giả, vào thập niên 1930 ở Hà Nội chỉ có ba, bốn quán thịt chó. Như vậy, thịt chó chỉ mới du nhập vào VN cuối thế kỷ 19 hay đầu thế kỷ 20. Nếu đúng như vậy, thì người Việt cũng nên xét lại việc ăn thịt chó của mình. Người Tàu chống nhà Thanh mà gia tăng ăn thịt chó, thì người Việt đang chống Tàu Cộng cần nên tránh ăn thịt chó để bày tỏ thái độ. Nhất là việc ăn thịt chó đang bị các nước văn minh trên thế giới chỉ trích, tẩy chay. Làm nước đứng đầu sổ về ăn thịt chó trên thế giới chắc chắn không phải là vinh dự cho dân tộc.

Kết thúc bài này, chúng tôi tạm xem sơ lược tử vi cho các bạn tuổi Tuất trong năm Mậu Tuất. Năm nay là Năm Tuổi của người tuổi Tuất nên làm việc gì cũng cần thận trọng, nếu làm theo cảm tính sẽ dễ gặp họa. Tài lộc của người tuổi Tuất khá vất vả trong năm Mậu Tuất. Mậu Thổ và Tuất Thổ làm cho tài lộc gặp nhiều khó khăn. Sức khỏe của người tuổi Tuất cũng cần quan tâm, hành Thổ và hành Kim quá vượng làm tay chân, gan, phổi dễ bị tổn thương. Nam mạng Bính Tuất sinh năm 2006 bị sao Thái Bạch chiếu mệnh có thể gặp nhiều buồn phiền. Nhưng nữ mạng Bính Tuất có sao Thái Âm chiếu mệnh nên khá tốt, mọi việc hanh thông. Nam mạng Giáp Tuất sinh năm 1994 bị sao Kế Đô, nữ Giáp Tuất bị sao Thái Dương nên dễ hao tài. Nam Nhâm Tuất sinh năm 1982 bị sao La Hầu dễ bị kiện tụng. Nữ Nhâm Tuất bị sao Kế Đô cần đề phòng trong tháng 3, tháng 9. Canh tuất sinh năm 1970, nam mạng bị sao Thái Bạch, nhưng nữ mạng gặp sao Thái Âm nên không quá tệ. Mậu Tuất sinh năm 1958 bị sao Kế Đô, nữ mạng gặp sao Thái Dương; nam nữ tuổi này đều xấu. Tuổi Bính Tuất sinh năm 1946, nam mạng bị sao La Hầu, gặp hạn Tam Kheo, vận niên là Cẩu Cuồng Phong (chó dại), thiên can là Bính gặp Mậu bị hao tốn. Địa chi là Tuất gặp Tuất gặp tam tai, bất an. Có thể nói tuổi Bính Tuất nam mạng rất xấu trong năm Mậu Tuất. Quý bà tuổi Bính Tuất năm nay bị sao Kế Đô, gặp hạn Thiên Tinh nên cũng rất xấu, cần đề phòng sức khỏe..

Tổng Thống Trump sinh ngày 14 tháng 6, 1946, tuổi Bính Tuất. Bà Melania Trump sinh ngày 26-4-1970 tuổi Canh Tuất. Nữ Canh Tuất từ 46 tới 50 tuổi bổn mạng yếu kém. Như vậy, năm Mậu Tuất là năm rất xấu cho cặp vợ chồng tuổi Tuất đang làm chủ Tòa Bạch Ốc, lãnh đạo nước Mỹ. Khó biết trong năm mạng xấu của họ sẽ ảnh hưởng đến nước Mỹ như thế nào. Nhưng những chính sách đối nội và đối ngoại đưa ra trong năm 2017 chắc chắn sẽ bắt đầu có hậu quả từ năm 2018. (hv)

http://www.viendongdaily.com/hue-vu-nam-tuat-noi-chuyen-ve-cho-becA2Jl8.html

Mậu Thân Nhớ Tội Ác Cộng Sản,

Mậu Tuất Đón Dân Chủ Toàn Dân

Quốc Phùng

 

Đón Xuân Mậu Tuất, khóc nạn nhân Mậu Thân ở Huế – Ngô Đắc Hòa (Boston)

Hình ảnh đường phố Huế sau khi quân đội VNCH và quân đội Mỹ tái chiếm lại.  Bức ảnh chụp ngày 15 Tháng Ba, năm 1968.

Trong văn hoá người Việt, Tết Nguyên Đán là những ngày thiêng liêng nhất của dân tộc. Đó cũng là những ngày vui nhất trong năm. Nên dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, những ai tất tả ngược xuôi làm ăn mua bán đều mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết.

Trong một ý nghĩa thiêng liêng nào đó, Tết còn là dịp đoàn tụ với cả những người thân đã mất. Tết cũng là cơ hội để người ta quên đi hận thù, giận hờn năm cũ, hàn gắn những bất hoà. Đó là triết lý về lòng rộng lượng, tính bao dung vào ngày đầu xuân năm mới của người Việt từ bao đời nay. Nói tóm lại, Tết Nguyên Đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của Việt Nam mà ai đi xa cũng nhớ và phải trở về.

Trận chiến Mậu Thân ở Huế kéo dài 25 ngày đêm, từ 31 Tháng Giêng đến 24 Tháng Hai năm 1968.

Trong những tháng và những năm tiếp theo sau Trận Mậu Thân tại Huế, hàng chục ngôi mộ tập thể được phát hiện trong và xung quanh Huế. Nạn nhân bao gồm phụ nữ, nam giới, trẻ em và trẻ sơ sinh…

Theo ông Nguyễn Lý Tưởng, cựu dân biểu khu vực Thừa Thiên, trong 22 địa điểm tìm được các mồ chôn tập thể, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau Tết, các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì đưa ra danh sách 4,062 nạn nhân được họ xác định là đã bị bắt cóc hoặc bị giết. Theo các báo cáo của Việt Nam Cộng Hòa, nhiều thi thể được tìm thấy ở tư thế bị trói buộc, bị tra tấn và đôi khi bị chôn sống. (Nguồn: Wikipedia)

Ngay trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhất chúng ta cũng có vài ngày ngày hưu chiến để gia đình đoàn viên, chiêm bái tổ tiên, viếng thăm thân thuộc, bằng hữu, xóm giềng với những lời cầu chúc tốt đẹp đầu năm. Người Việt tỵ nạn hải ngoại nhiều chục năm qua dù sống xa quê hương vẫn không quên tập tục tốt đẹp này. Thế nên ở đâu có cộng đồng gốc Việt sống quần tụ chúng ta dễ dàng nhận thấy không khí mua sắm rộn rịp những ngày cuối năm để chuẩn bị cho ba ngày Tết. Khói hương nghi ngút, không khí uy nghiêm trước bàn thờ tiên tổ trong những ngày đầu năm để tỏ lòng tôn kính.

Vào những ngày này đúng 50 năm trước, mùa Xuân năm Mậu Thân 1968; bất hạnh thay, người dân miền Nam nói chung và nhân dân Thừa Thiên Huế nói riêng đã không có những ngày lễ hội lớn nhất mà họ thường có hằng năm. Họ không được chứng kiến những giây phút thiêng liêng nhất của ngày đầu năm với trầm hương nghi ngút. Không có những giây phút uy nghiêm trước bàn thờ tiên tổ. Không có những ngày vui nhất trong năm. Không có cơ hội để đoàn tụ với gia đình trong bình yên an lạc. Không có dịp để viếng thăm bà con thân thuộc, bè bạn hương lân. Vì ngay trong những giờ phút thiêng liêng và uy nghiêm nhất đó tiếng súng của Cộng quân đã ròn rã vang lên khắp các nẻo gần xa thay cho tiếng pháo giao thừa truyền thống.

Đúng như thế, không khí chết chóc, sợ hãi, hoảng loạn đã thế chỗ cho uy nghiêm, tĩnh lặng, bình an. Cộng Sản Bắc Việt đã lợi dụng những ngày giờ ngưng bắn để bí mật chuyển quân. Tiếp cận những nơi đồn trú xung yếu và quan trọng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với sự tiếp tay của Cộng Sản nằm vùng. Để rồi ngay trong những giây phút giao thừa truyền thống thiêng liêng, Hà Nội đã đơn phương phá vỡ thỏa thuận hưu chiến mà họ đã cam kết. Chúng bất ngờ và đồng loạt mở cuộc tổng tấn công trên khắp lãnh thổ miền Nam mà Huế được xem là một trọng điểm phải chiếm cho bằng được.

Cải táng các thi hài khai quật trong các hố chôn tập thể sau trận Tết Mậu Thân.

Tuy nhiên, sau 25 ngày đêm chiếm đóng, quân đội chính quy của Bắc Việt đã hoàn toàn bị lực lượng Tổng Trừ Bị Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn I Bộ Binh và quân đội đồng minh Hoa Kỳ đẩy lui khỏi Thành Nội, đánh bật khỏi Thành phố Huế và các quận xã thuộc tỉnh Thừa Thiên. Nỗ lực của cái gọi là “giải phóng” Thừa Thiên Huế của Cộng Sản đã để lại hàng ngàn vành khăn tang cho những thiếu phụ, mẹ già và con trẻ. Những người có chồng, con, cha đã nằm xuống không phải vì chiến trận mà vì đã bị họ bắt đi học tập, và không bao giờ có cơ hội trở về.

Hơn một năm sau, vào khoảng Tháng Ba năm 1969 nhờ vào lời khai của những cán binh Cộng Sản hồi chánh; chính quyền và người dân Huế mới lần lượt tìm kiếm, khám phá và đào bới ồ ạt ở Gia Hội, Bãi Dâu, Xuân Ổ, Xuân Đợi, Phú Vang, Phú Thứ, Đồng Di, khe Đá Mài,… những mồ chôn tập thể…

Những người chết được tìm thấy ở các nấm mồ tập thể này với đủ tư thế: nằm ngồi quỳ đứng. Họ đã bị bắn, bị đập đầu bằng cuốc, bị chôn sống và bị buộc chặt lấy nhau bằng kẽm gai, dây điện thoại, và cả lạt tre thành từng chùm từ 3, 5 đến 10 người.

Huế đã trải qua những ngày dài lê thê sống trong hãi hùng lo sợ và bây giờ là nước mắt và nước mắt: Nước mắt trên gò má khô nhăn của những người mẹ già còm cõi ngóng trông, trên đôi mắt quầng thâm, thất thần của những người vợ trẻ đã tận cùng của chịu đựng khổ đau, trên những đứa trẻ thơ bỗng dưng ngây dại vì chờ đợi cha về! Ôi có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của người dân xứ Huế!…

Theo thống kê từ lời khai của những gia đình có người thân mất tích và của Ủy Ban Truy Tầm và Cải Táng Nạn Nhân: đã có hơn 6,000 người bị chết trong biến cố Tết Mậu Thân chỉ tính riêng ở Huế. Đấy là một tội ác có một không hai trong lịch sử Việt Nam! Tội ác rùng rợn, dã man chỉ có thể xảy ra từ thời Trung cổ!

Sau 40 năm đất nước đã thống nhất chưa có lãnh đạo nào của chính quyền Cộng Sản lên tiếng nhận lấy trách nhiệm. Không những không nhận lấy trách nhiệm, Hà Nội còn cố tình vu vạ, đổ tội cho quân đội Hoa Kỳ và QLVNCH đã sát hại những nạn nhân này trong chiến dịch phản công rồi vùi chôn tập thể.

Thật là trơ trẽn và ghê tởm!

Và để xoá đi dấu vết của tội ác này; sau ngày cưỡng chiếm Miền Nam, Hà Nội đã cho phá bỏ những tấm bia tội ác ở nghĩa trang Ba Đồn, xã Thủy Phước gần núi Ngự Bình. Nghĩa trang Ba Tầng ở Núi Bân làng Đình Môn, Kim Ngọc thuộc quận Nam Hòa: Những nơi đã cải táng hàng ngàn bộ hài cốt mà thân nhân không còn nhận dạng được.

Hà Nội còn trâng tráo, trơ trẽn hơn khi vào những năm 1998 tại Hà Nội, 2008 tại Sài Gòn, và 2013 tại Huế đã cho tổ chức cái gọi là kỷ niệm chiến thắng lịch sử của chiến dịch Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân như là thành tựu đỉnh cao trong nghệ thuật quân sự do đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Chỉ có những con người vô luân và chủ nghĩa phi nhân mới xem việc tàn sát đồng loại, tay không, là chiến công oanh liệt! Tất cả những hành động này của Hà Nội là nhằm viết lại lịch sử để đánh tráo khái niệm thiện ác, đúng sai, chính nghĩa và phi chính nghĩa để đánh lạc hướng các thế hệ mai sau.

Hôm nay chúng ta, những người Việt tị nạn hải ngoại, trong niềm vui thiêng liêng của ngày đầu năm mới, cùng hướng về tổ quốc để nhớ đến cội nguồn. Chúng ta không quên những người đã nằm xuống để chúng ta còn được sống hôm nay. Đó là những chiến sĩ, những cán bộ, công chức, những người đã bảo vệ và phục vụ đất nước. Những người mẹ, người vợ chiến sĩ, các bạn trẻ sinh viên học sinh đã chọn thể chế tự do, dân chủ làm lẽ sống mà phải chết dưới bàn tay Cộng Sản vào những ngày tưởng chừng là bình yên, thiêng liêng và hạnh phúc nhất trong năm. Họ đã chết vì quê hương và vì lý tưởng tự do! Trong bốn câu thơ sau đây, tôi xin mượn hai câu thơ của nhà thơ Trần Trung Đạo mà tôi vô cùng tâm đắc như là chân lý ngàn đời để tưởng nhớ những nạn nhân Tết Mậu Thân ở Huế.

Anh linh người hỡi về đây chứng,

Lịch sử bao giờ có bất công?

“Những ai đã chết vì sông núi,

Sẽ sống muôn đời với núi sông.”

Tôi xin dùng những lời đầu năm này như là nén hương, những giọt nước mắt để khóc thương và tưởng nhớ các bạn. Xin kính cẩn và chân thành cầu chúc anh linh những người đã mất được yên nghỉ. Cầu chúc vận hội tốt đẹp sẽ đến với những nhà đấu tranh dân chủ để nhân dân Việt Nam sớm hưởng được không khí tự do! (Ngô Đắc Hòa)

https://www.nguoi-viet.com/little-saigon/don-xuan-mau-tuat-khoc-nan-nhan-mau-o-hue/

 

Huế Sầu – Vivi

Mậu Thân Tàu Cộng chủ nhân

Giặc Hồ nổi dậy chôn dân Huế sầu

 

Xuân lại đến trên thành Cố Huế

Nhắc thuở nào hoang phế Mậu Thân

Giặc vô thảm sát người dân

Chôn mồ tập thể, hồn xuân nghẹn ngào

 

Trải năm tháng Huế chào quá khứ

Chìm sâu vào đáy sử quê hương

Tết này giặc lại phô trương

Mừng công sát hại, dân lương lệ trào

 

Tình đen tối xanh xao Huế rũ

Mấy mươi năm Huế ngủ chẳng yên

Mấy mươi năm chất ưu phiền

Mấy mươi năm mãi triền miên gieo thù

 

Rước Tàu Cộng dập trù Cố Huế

Máu ngập tràn ngày tết bi ai

Giết dân chôn chẳng quan tài

Đầu xanh tóc bạc hố dài vùi thây !

Norway 20. februar 2008

http://poem.tkaraoke.com/28598/Hue_Sau.html

 

Thảm sát Mậu Thân tội ác việt cộng muôn đời không quên – Định Nguyên

Biến cố Tết Mậu Thân xẩy ra đã đúng 50 năm (1968 – 2018) nhưng đối với dân miền Nam Việt Nam, đặc biệt là xứ Huế, nỗi đau vẫn còn đó, vết thương lở loét chẳng bao giờ lành. Ngoài cố đô bị tàn phá tang tành, niềm đau mất mát người thân kéo dài đến bây giờ bởi sự ngang ngược của chế độ cộng sản. Cho đến nay họ vẫn chà đạp lên nỗi thống khổ của người dân, coi đó là “chiến thắng lịch sử”.

Viết bài nầy, tôi không có mục đích tường thuật biến cố đau thương nầy.Chuyện nầy đã có hằng chục, hằng trăm người viết rồi. Hơn nữa, Tết Mậu Thân tôi đang thụ huấn tại Sài Gòn, và hứng trận trực tiếp biến cố nầy ở đó. Riêng Huế, quê tôi, nơi chịu trận nặng nề nhất, tôi chỉ chứng kiến những hậu quả tang thương bởi bàn tay tội ác của VC.

Vào khuya Mồng Một Tết Mậu Thân, tôi cùng người anh con ông bác ruột (đang thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung) được ra phép Tết và ở lại nhà một người chị bà con ớ Phú Nhuận. Đang ngủ, chừng 1-2 giờ sáng gì đó, bỗng nghe súng nổ tứ phía và liên tục, có khi đạn xéo đâu gần nhà. Chúng tôi biết có chuyện nhưng chẳng biết đích xác chuyện gì. Sáng ra vẫn chưa biết điều gì đã xẩy ra, cho đến gần trưa nghe thông báo từ trực thăng mới biết VC đang tấn công Bộ Tổng Tham Mưu và phi trường Tân Sơn Nhất (nhà chị tôi ở gần đó). Cũng theo kêu gọi từ trực thăng, chúng tôi cùng đồng bào phải nhanh chân di tản ra khỏi khu vực. Hai anh em tôi đang chạy trên đường Võ Di Nghi thì bị trực thắng nhà ta quạt cho một loạt đạn. Tôi suýt chết vì một viên viên đạn bay như gió, vèo qua tai, chạm phải cửa sắt nhà người ta. Tôi nhặt viên đạn còn nóng bỏ túi, đem về làm kỷ niệm. Nếu viên đạn ấy nhích qua nhích về một tí thì tôi đã xong đời rồi. Có lẽ mấy ông trực thăng tưởng hai anh em tôi là VC vì anh tôi mặc áo lính còn tôi thì mặc sắc phục cảnh sát, khác với đám thường dân chạy loạn bên cạnh. Chiều hôm đó, anh tôi trình diện Tiểu Khu Gia Định, tôi lần mò về Học Viện, không dám tự ý đi đâu, nếu không được điều động làm công tác.

Cuối năm 1968, tôi tốt nghiệp và được về Huế làm việc. Thành phố Huế trước ngày tôi đi và bây giờ khác nhau một trời một vực. Tất cả đã đổ nát. Sự đổ nát của Cố đô Huế thật khủng khiếp. Hoàng Thành tang hoang, cầu Trường Tiền gãy gục xuống sông Hương, phố xá phần lớn sập đổ, đường sá loang lổ vết đạn…Am thờ các vong linh tử nạn (bất kể phe nào) hình như nhà nào cũng có, nơi nào cũng có. Nhà anh chị tôi ở đường Trần Hưng Đạo cũng có một cái am thờ một người lính VC!  Khi yên ổn, anh chị tôi từ chỗ tản cư về nhà thì thấy người lính nầy chết nằm vắt vẻo nơi cầu thang lên lầu.  Anh chị tôi phải thuê người đem chôn đâu đó. Chị dâu tôi sợ quá, lập am thờ, rằm mồng một có hương hoa trái cây “tiếp tế” cho anh VC nầy!

Cùng số phận với dân Huế, đại gia đình tôi dường như nhà nào cũng có người mất tích hoặc bị VC giết, gần nhất là chú em rể của tôi. Sau Mậu Thân, khi đang làm việc tại Huế, tôi cùng em gái tôi đi tìm xác chồng nó là CSDC Quảng Ngãi về quê ăn Tết, bị VC bắt đi vào ngày Mồng Hai Tết khi đang ngồi với vợ con trong nhà. Và em tôi đã tìm được xác chồng nhờ cái răng bạc và cái quần cụt nó mặc khi bị bắt.

Với dân Huế, qua biến cố Mậu Thân, VC đã tự phơi bày sự dã man tàn độc, phi dân tộc nhất của csVN trong lịch sử đất nước. Trong một ngàn năm bắc thuộc không hiểu người Tàu đã lần nào tàn sát dân Việt kiểu ghê gớm như thế không? Trong một trăm năm đô hộ của giặc Tây, không biết người Pháp có lần nào chôn sống tập thể người Việt Nam một cách khủng khiếp như thế không? Dù Tàu, Tây chẳng thương chi dân mình nhưng tôi tin là họ không làm như thế, nhưng nếu có làm thật thì cũng có thể hiểu được vì họ là người ngoại chủng. Đằng nầy, cùng là người Việt Nam nhưng csVN đã làm như thế, họ chủ trương “giết lầm hơn bỏ sót” lùa tất cả những người mà họ nghi là quân nhân, cán bộ công nhân viên VNCH, các đảng phái quốc gia…đi, bắt những nạn nhân nầy tự đào hố, sau đó những nạn nhân nầy bị trói tay tập thể để rồi bị bọn cán binh VC tống xuống hố, chôn sống!!! VC tàn bạo và dã man đối với người đồng chủng/đồng bào hơn cả người ngoại quốc.

Có chứng kiến tận mắt những hố chôn tập thể mới thấy được bản chất khát máu của những con người cộng sản.  Em gái tôi và tôi đi từ địa phương nầy đến địa phương khác, từ hố mộ tập thể nầy đến hố mộ tập thể khác để tìm người thân. Khi lớp đất/cát cuối cùng được đào lên, hằng chục, hằng trăm xác chết trong các tư thế nằm, ngồi, đứng chết sát nhau, chồng lên nhau, và tất cả đang bị trói trông thật khiếp đảm… Xác người nằm dưới lòng đất gần như còn “tươi”. Sau khi đem lên mặt đất mới đổi qua màu đen và bắt đầu phân rã.  Máu người trào ra…và mùi thối xông lên nồng nặc. Tội nghiệp mấy người có nhiệm vụ bốc mộ, họ bất chấp mọi sự kinh tởm và mùi xú uế, đào và đem từng xác người đặt trên mặt đất để thân nhân đến nhận diện…Em gái tôi nhận ra chồng nó trong hằng trăm xác chết nầy tại quận Phú Thứ.

Cứ thế, từ hố nầy đến hố khác, người dân Huế đã tìm được vào khoảng hơn năm ngàn người. Những xác chết có thân nhân nhận diện, được gia đình đem về chôn cất. Những xác chết không còn nguyên vẹn, hoặc không có thân nhân nhận lãnh, chính quyền tự lo liệu chôn cất đàng hoàng tại những vùng đất quanh thành phố Huế, nơi được chôn nhiều nhất là Đàn Nam Giao. Chưa bao giờ xứ Huế có một đám tang tập thể “lớn” như vậy. Chưa bao giờ kinh đô Huế phủ trắng một màu tang kinh khiếp từ nội thành đến các vùng phụ cận như vậy. Khắp các trường học, màu khăn sô trên đầu các em học sinh cũng nhan nhãn trong lớp học và giữa sân trường. Đó là hình ảnh trung thực, rất trung thực của Huế sau Tết Mậu Thân năm 1968 mà tôi là người tận mắt trông thấy.  Năm mươi năm, hình ảnh nầy chưa phai nhạt trong lòng người dân Huế. Thế mà, nhà cầm quyền hiện nay tại Việt Nam cho đó là một “chiến thắng”!

Chiến thắng là chiến thắng nào, thành quách đổ nát người đào hố chôn!

Nếu đó là “chiến thắng” thì là chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam mà kẻ thực hiện không ai khác là VC, những con người Việt Nam mất gốc, tôn thờ một chủ nghĩa ngoại lai. Kể từ khi xuất hiện trên trái đất, cộng sản đã giết hại trên dưới 100 triệu sinh linh. Nga và Trung cộng mỗi nước cũng đã tàn sát hàng chục triệu dân mình. Từ Cải Cách Ruộng Đất tại đất Bắc đến Thảm Sát Mậu Thân ở Huế, VC giết dân Việt không gớm tay chẳng qua đó cũng là “truyền thống” khát máu chung của cộng sản quốc tế! Đó là cái nhục mà đảng csVN phải gánh trước Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam.

Cho đến nay, hằng năm họ vẫn ăn mừng chiến thắng, một “chiến thắng” trên máu xương và nước mắt của chục hàng ngàn người dân trong 25 này đêm họ chiếm Huế. Để tô vẽ cho “chiến thắng” nầy và chạy tội trước lương tâm và lịch sử dân tộc, họ từng tuyên bố, đại ý “những người bị giết trong biến cố Mậu Thân là do bom đạn Mỹ Nguỵ tàn sát, cách mạng không giết họ”!

Đúng là luận điệu trơ tráo. Biết rằng chiến tranh nào cũng chết chóc, bom đạn nào cũng vô tình, nhưng “bom đạn Mỹ Nguỵ” không giết đồng đội và đồng bào mình một cách tán tận lương tâm như thế. Mỹ và VNCH không hề thù hận với người nhà mình, không có lý do để trói tay, chôn sống tập thể đồng đội và người dân của mình như thế. Hành động man rợ đó chỉ được kích động bằng hận thù, một chủ trương đặc thù của chủ nghĩa cộng sản mà những kẻ cuồng tín csVN đã hấp thụ và thực hành triệt để. Con người ai cũng thế, chín người mười ý, khác chính kiến là chuyện bình thường. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới chủ trương “đồng phục tư tưởng”, coi những người khác chính kiến là thành phần “đáng tội chết. Đó là lý do csVN đã coi đồng bào mình, những người không ở trong hàng ngũ của họ như kẻ thù. Họ không ngần ngại giết sạch, giết hết để nhuộm đỏ đất nước Việt Nam. Bất cứ một chính thể nào, dù độc tài sắt máu đến đâu, nếu có chút lương tri dân tộc, không ai tàn ác với dân tộc mình như csVN.

Thử hỏi, ai lật lọng lợi dụng ba ngày hưu chiến trong dịp Tết để tấn công đối thủ? Và khi đã tràn ngập được lãnh thổ của đối phương, ai bắt những người nghi là người của đối phương đem đi thủ tiêu?  VNCH không làm chuyện đó. VNCH không tráo trở, lợi dụng dịp hưu chiến để tấn công Bắc Việt hoặc các vùng VC tạm kiểm soát tại miền Nam trong ba ngày Tết thiêng liêng của dân tộc. VNCH là nạn nhân của sự gian dối, là kẻ bị tấn công bất ngờ trong khi cho phép một số quân nhân và công chức được phép về ăn Tết với gia đình. Trong khi chật vật chống kẻ thù xâm lăng, không có thể chế nào, kể cả VNCH lại có chủ trương ngược đời là bắt con dân của mình đi thủ tiêu. Trong khi mọi binh sỹ, mọi khẩu súng đều hướng về kẻ thù trước mắt, VNCH làm sao có thể có chủ trương đi gom tóm để tàn sát tập thể quân dân của mình đang vui Tết ở mọi địa phương?

Nếu trên đường VC dẫn các “tội nhân” về núi bị Mỹ oanh tạc giết chết thì xác các nạn nhân sẽ nằm phơi trên mặt đất. Đằng nầy, các nạn nhân bị trói chùm với nhau, nằm chết chồng chất lên nhau trong các hố chôn tập thể! Ai trói họ?  Ai chôn họ trong các hầm chôn tập thể đó? “Mỹ Nguỵ” sau khi oanh tạc, bắn đại bác giết họ rồi liền nhảy dù xuống trói từng người lại với nhau, chôn tất cả họ vào những hố chôn như thế? Không ai có thể tin những luận điệu ngang ngược như thế của csVN. Họ nói lấy được để chạy tội. Nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân…đúng là những kẻ “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”. Họ sinh ra, lớn lên, được giáo dục tại miền Nam, ra đời phục vụ dưới các chính thể VNCH thế mà họ hoạt động cho VC, ít nhiều bàn tay họ đã dính máu dân Huế trong biến cố Thảm Sát Mậu Thân. Ông HPNT, (thầy dạy Văn của tôi năm Đệ Nhị, trường Quốc Học) khi được phỏng vấn về vấn đề Mậu Thân đã trả lời tiên hậu bất nhất. Tôi bất mãn nhất là phát biểu sau đây của ông: “Năm 75, 76, 77 khi đi làm thuỷ lợi tại Khe Đá Mài chúng tôi đào lên một hầm chôn tập thể toàn là người lính đội mũ tai bèo và mặc đồ quân giải phóng, chứng tỏ cái gọi là “Thảm sát Mậu Thân” chỉ là trò bịp của thực dân”! Tôi không biết điều nầy có thật hay không vì chưa hề nghe ai nói, ngoài “phát hiện” nầy của ông HPNT. Có hai trường hợp. Một, ông HPNT bịa chuyện nầy để bao che cho VC. Hai, ông HPNT nói thật, nghĩa là có hầm chôn tập thể lính VC.

Nếu trường hợp một đúng, nghĩa là ông HPNT bịa chuyện thì thật đáng khinh con người trí thức của ông. Nếu không bịa chuyện thì trí óc ông cũng có vấn đề. Sau Mậu Thân chiến tranh, súng đạn, chết chóc…vẫn xẩy ra từng ngày nơi các vùng rừng núi xa xôi của tỉnh Thừa Thiên (kể cả Khe Đá Mài). Từ Mậu Thân đến thời điểm ông “phát hiện” hố chôn tập thể lính VC là 8 năm (nếu chỉ tính tới năm 1975). Với khoảng thời gian dài như thế, với thực trạng chiến tranh ngày càng khốc liệt như thế, tại sao ông dám quả quyết là mồ chôn các lính VC là do VNCH và Mỹ thực hiện trong dịp Tết Mậu Thân?  Chỉ với một “phát hiện” mơ hồ như thế, chỉ với một hố chôn tập thể lính VC không biết có từ bao giờ, ông đã đánh đồng tất cả những hố chôn tập thể khác do VC thực hiện trong dịp Tế Mậu Thân đều do Mỹ và VNCH làm!?  Và do đó, theo ông, chuyện “Thảm sát Mậu Thân” do VC ra tay là hoàn toàn bịa đặt?  Tôi luôn tôn sư trọng đạo, nhưng trong trường hợp nầy, ông thầy của tôi không còn đáng kính nữa.  Khi mới ra tù, tôi được bà xã dẫn đi xem buổi trình chiếu phim tài liệu “A Television of History” do PBS thực hiện, tại trường Nguyễn Chí Diễu. Tới nơi, tôi thấy ông HPNT ngồi đó, chủ trì buổi trình chiếu. Ông nhìn tôi không mấy thiện cảm và với vẻ mặt dương dương tự đắc của người “bên thắng cuộc”. Cái gọi là “Chiến thắng Mậu Thân” đang được PBS bình luận và quảng bá đã đánh trúng tim đen ông! Không còn dáng vẻ nghệ sỹ như ngày xưa đứng lớp, ông ngồi đó với một khuôn mặt thù hận và sắt máu! Tôi thật sự chán ngán cho người trí thức nầy. Ông quá cuồng cộng đến độ quên cả lý trí và lương tri con người.

Nếu trường hợp hai đúng, nghĩa là ông HPNT đã phát hiện hố chôn tập thể lính VC thật thì, ai là thủ phạm? Như đã trình bày ở phần trên, tôi hoàn toàn không tin Mỹ và VNCH làm chuyện ấy trong biến cố Mậu Thân. Khi VC đang tổng tấn công vào tỉnh Thừa Thiên và cố đô Huế, họ đang bận tay, quá bận tay để giữ vững phòng tuyến vốn đang quá mỏng (vì bất ngờ và binh sỹ nghĩ phép), làm sao họ có thể thực hiện chuyện vô lý đó. Có thể hố chôn lính VC nầy đã có từ trước rất lâu hoặc sau Mậu Thân do Mỹ trải bom hoặc đụng trận được quân đội VNCH đào hố chôn tập thể. Nếu đúng như thế thì ngôi mộ tập thể lính VC nầy không liên quan gì đến “Thảm sát Mậu Thân” do VC gây ra cả, thưa ông thầy. Trường hợp hố chôn lính VC nầy có trong dịp Tết Mậu Thân thì khả năng đó là trò “gắp lửa bỏ tay người” của VC. Có thể những người lính VC nầy bị giết trong khi tấn công Huế, đồng đội của họ đem về chôn ở đó để vừa trọn tình trọn nghĩa với đồng đội, vừa để vu oan giáng hoạ cho Mỹ và VNCH trong tội ác tàn sát và chôn sống người dân Huế. Hơn nữa VC cũng có thể “trang bị” nón tai bèo, áo quần quân giải phóng cho các nạn nhân xấu số trước hoặc sau khi ra tay tàn sát họ, tạo một chứng cứ giả để đổ thừa việc chôn sống người đồng loạt trong biến cố Mậu Thân là do Mỹ và VNCH chủ mưu.

Trò lưu manh, ném đá dấu tay là ngón “nghề chuyên nghiệp” của csVN, bọn người mà thầy tôn thờ, không lý ông thầy không biết?!

Trường hợp của những hố chôn tập thể tại các quận ngoại ô, phát hiện một vài tháng sau khi VNCH và đồng minh đã đánh bại VC, chiếm lại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên có thể nguỵ tạo, tung hoả mù để đổ thừa. Thế còn các hầm chôn tập thể trong nội thành Huế như tại Chùa Áo Vàng, Trường Tiểu Học Gia Hội, Bãi Dâu và rải rác nhiều nơi khác được phát hiệnngay sau khi VNCH chiếm lại Huế thì sao, do ai thực hiện? Ai đào hố chôn sống bốn giáo sư người Đúc, dạy tại Đại Học Y Khoa Huế trong khuôn viên chùa Tường Vân?  Không lý cũng do “Mỹ Nguỵ” thực hiện trong thời gian VC tạm chiếm, làm chủ thành phố Huế?  Chỉ có những người mất trí mới tin như thế. Chỉ có những kẻ vô lương mới tuyên truyền lếu láo như thế để chạy tội cho VC.

Cái gì cũng thế, dù đau thương đến đâu rồi cũng được thời gian hoá giải. Nhưng riêng biến cố Tết Mậu Thân là trường hợp ngoại lệ, không bao giờ phai nhạt đối với người dân Huế nói riêng, dân miền Nam Việt Nam nói chung. Tại sao? Tại vì hằng năm những kẻ tội đồ phi dân tộc ấy, chế độ csVN tàn bạo ấy vẫn kỷ niệm “chiến thắng Mậu Thân”. Đó là một hành động cào vào vết thương đang mưng mủ nên vết thương chẳng bao giờ lành da liền thịt được. Đã tàn sát đồng bào không nương tay, đáng tội diệt chủng, bây giờ dựa vào sức mạnh bất chính, họ vẫn huyênh hoang “chiến thắng”. CSVN đã và đang thách thức lương tri dân tộc, xấc láo với tiền nhân, ngồi xổm trên hồn thiêng sông núi. Do đó, không thể thứ.

Đó là một tội ác tày trời ngàn đời không thể quên được.

Viết để nhớ 50 năm biến cố Mậu Thân (1968 – 2018)

https://vietbao.com/a277130/tham-sat-mau-than-toi-ac-viet-cong-muon-doi-khong-quen

 

 

Những ngày Mậu Thân – Nguyên Hạnh HTD

Tết Mậu Thân 1968, một cái Tết mà Việt Cộng tràn về quá bất ngờ, tôi không thể tin rằng đó là sự thật.

Mồng Một Tết vẫn ăn Tết sắm sửa bình thường. Nhà tôi ở lầu 2 trường Đồng Khánh vì tôi làm Giám Học tại trường này, bên hông là Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên – nơi giam giữ nhiều tù binh Việt Cộng. Cả ngày vẫn tấp nập bà con tới lui thắm viếng, chiều lại còn có con của các nhân viên trong trường đến thăm chuyện trò hàn huyên vui như ngày hội. Tối đến cả nhà còn bàn nhau nên đi ngủ sớm để ngày mai xuống phi trường đón gia đình người anh chồng về Huế ăn Tết.

Trong sân trường có một nhà chơi (préau) rất rộng, đêm đó tôi nghe vang cả tiếng hát hò, cứ nghĩ rằng năm nào cũng vậy, lính đóng quân ở đây để bảo vệ an ninh cho thành phố trong dịp Tết, có ngờ đâu Việt Cộng đã tràn về chiếm đóng đầy cả ngôi trường rồi.

Sáng mồng 2, riêng mình tôi dậy sớm lo nấu nước pha trà để cúng Ông Bà. Vừa xuống bếp mở một cánh cửa sổ thì một viên đạn bay vèo xuyên thủng cánh cửa còn lại – giàn bếp này đối diện với Lao xá Thừa Thiên, khiếp đảm quá, tôi chạy vào lùa 3 đứa con cùng bà Vú vào trốn hết trong phòng ngủ của chúng tôi. Tiếng súng đã bắt đầu nổ dồn, đằng sau các dãy nhà phía tầng trệt nổi lên những tiếng khóc càng ngày càng lớn dần, thì ra đó là nhà của chị Bạch Mai, một nhân viên của trường. Một viên đạn khác xuyên thủng cánh cửa lớn phòng ngủ rơi ngay trên nóc mùng, vậy là cả nhà đành chun vào cái giá gỗ dài treo quần áo rồi lấy nệm phủ lên làm hầm trú ẩn. Nghe tiếng súng nhưng lòng vẫn còn hoang mang, chưa biết sự thể như thế nào, tôi bèn hé mở cánh cửa sổ nhìn xuống sân trường, trời ơi! tưởng chừng như đất trời sụp đổ, ước gì đất dưới chân tôi cũng sụp luôn có lẽ còn đỡ khổ tâm hơn khi nhìn thấy lính đi toàn dép râu, mang băng tay đỏ với mũ tai bèo! Quá khiếp đảm, không bao giờ tôi có thể nghĩ rằng Việt Cộng đã ở sát ngay bên lưng mình! Thế là từ đó, chúng tôi trốn kín ở trong phòng, không dám cử động mạnh, cứ sợ bên ngoài Việt Cộng nhận biết chúng tôi đang ở trong này thì nguy.

Súng vẫn nổ ran, tôi nghe có tiếng sột soạt ở dưới bếp và ngoài hành lang, rón rén bò ra nhìn qua ổ khóa, trời ơi! chúng đang chiên bánh phồng tôm và vì không biết cách chiên nên bánh bị cháy đen cả. Còn ngoài hành lang, một số khác đang ngồi trên cái đu mà ăn mía. Nhà nào Tết cũng dự trữ quá đầy đủ thức ăn nên tha hồ cho chúng vơ vét. Không thể tưởng tượng được chúng tôi đang ở cách Việt Cộng có một bức tường lâu lâu phải rón rén bò ra tủ lạnh lấy thức ăn vào vì 3 đứa con tôi còn nhỏ quá (8 tuổi, 5 tuổi và đứa bé gái mới 3 tháng). Hai đứa lớn lại bị lên ban đỏ, sốt hừng hực, đứa bé gái đói qua khóc vang lên, đành phải bò ra phòng khách lấy nước trong hồ cá để pha sữa. Chúng tôi sống cách biệt với bên ngoài như vậy cho đến ngày thứ tư, ba ngày dài đằng đẳng trôi qua trong kinh hoàng trong khi đạn vẫn nổ đều.

Sáng ngày thứ tư, chúng phá cửa, chĩa súng vào phòng khách sau khi vượt qua được phòng ngủ của các con tôi. Chúng la lớn „Ai còn ở trong nhà phải ra trình diện, nếu không sẽ ném lựu đạn vào“. Nghe vậy, tôi sợ quá vội bế đứa bé gái chạy ra. Nhìn qua khe cửa, thấy cả một họng súng đen ngòm, tôi lật đật rút chốt cửa, chúng hỏi to lên: còn ai ở trong nhà nữa không? Tôi phải khai còn chồng con tôi nữa, nghĩ rằng lúc đó nếu chồng tôi chui xuống gầm giường để trốn thì phiền. Chúng quát tháo nạt nộ om sòm, tôi phải giải thích rằng đạn bắn dữ quá không dám ra vì sợ lạc đạn, mà thật thế hai bên đang bắn nhau không ngừng nghỉ. Việt Cộng đóng quân bên này, bên kia Tòa Hành Chánh và Lao xá Thừa Thiên vẫn còn quân đội của chúng ta trú đóng. Chúng lao vào, các con tôi sợ quá khóc vang lên. Chúng tôi bị đuổi ra khỏi nhà còn chồng tôi bị giữ lại.. Tôi viện cớ đạn bắn rát quá chưa dám xuống sân vì chúng đuổi chúng tôi qua dãy nhà trệt phía gần trường Quốc Học. Tôi muốn xem thử chúng đối xử với chồng tôi như thế nào? Về phần chồng tôi thì nghĩ rằng sẽ bị chúng bắt đi nên đã ăn mặc đầy đủ với áo lạnh, nón, áo mưa, thẻ căn cước và một ít thuốc trụ sinh. Tôi chỉ kịp xin cho tôi được mang theo một bình sữa và một cái bình thủy (thermos). Cả mấy mẹ con cùng bà Vú len theo dãy hành lang mà đi xuống lầu, băng qua cả cái sân trường rất rộng trong khi đạn vẫn bay vèo vèo trên đầu, chỉ biết cúi khom người mà chạy. Qua đến nơi đã thấy đầy đủ các gia đình Hiệu Trưởng và nhân viên cùng lao công, chúng tôi đã ôm nhau khóc nức nở và lo cho số phận các ông bị chúng giữ lại. Chúng tôi rủ nhau vào chung một phòng, không ngờ ở đó đã có sẵn một số nhân viên của Tòa Hành Chánh bị chúng bắt, nhìn mặt nhau mà đâu có nói được lời nào! Có một nữ Cảnh Sát mới sinh xong đã dầm mình dưới nước trốn từ hôm qua cũng bị chúng trói cả hai tay, thấy mà đau lòng quá.

Sau đó các ông được thả về, ai nấy đều mừng rỡ đến chảy nước mắt; thì ra chúng bắt các ông đi trước dẫn đường, đến tất cả các phòng học còn lại để kêu gọi mọi người phải ra trình diện hết. Cũng may nhà bác Tỵ lao công ở gần đó nên bác đã nấu cơm cho chúng tôi ăn; không điện, không nước, bác phải xuống sông lấy nước thật là nguy hiểm, chúng tôi mang ơn bác vô cùng.

Đêm đến chúng tôi bị cô lập, một tên Việt Cộng mang súng và lưu đạn ngủ trên một cái bàn chắn ngang cửa ra vào. Tôi sợ quá, suốt đêm không chợp mắt được, một phần hoang mang cho số phận, không biết rồi đây chúng sẽ đối xử với chúng tôi như thế nào, một phần cứ sợ lỡ nó ngủ quên rớt lăn xuống đất rồi trái lựu đạn phát nổ thì sao?! Đã vậy, một anh nhân viên Tòa Hành Chánh kêu than đói quá, không đành lòng, tôi bò rón rén đem đến cho anh một ít cơm, vậy mà sáng ra tôi bị nó phê bình và dọa nạt om sòm. Đến chiều tất cả các nhân viên đó đều bị dẫn đi hết mà không biết chúng đem đi đâu?

Chúng tôi bèn kê các bàn học sinh lại làm hầm trú ẩn, chờ khi bớt tiếng súng chạy về nhà lấy mấy tấm nệm phủ lên. Mới ra khỏi nhà có một ngày mà nhà tôi bị lục lọi tan hoang, một quang cảnh điêu tàn quá đau lòng! Tôi ra đi không lấy được một đồng xu, khi chúng vào chỉ biết chĩa súng la hét, đuổi ra ngay; sau đó chúng đã lục soát và lấy sạch hết. Thế là tôi đã trắng tay khi 32 tuổi với 3 đứa con còn quá nhỏ dại.

Chiều lại, nhìn ra sân lại thấy các nữ tù nhân Việt Cộng bị giam giữ ở Lao xá Thừa Thiên được giải thoát ra, mặc áo quần và mang giày dép của chúng tôi, đùa giỡn như ngày hội.

Trời xứ Huế vào dịp Tết lạnh cắt da, vừa lạnh vừa đói, cả một bầu trời âm u buồn thảm không thể tưởng được! Súng vẫn nổ liên hồi, quân đội Mỹ đóng ở căn cứ Phú Bài lại bắn Canon lên nữa, do đó càng ngày Việt Cộng càng đào nhiều hầm để cố thủ ngay trong sân trường, thấy vậy chúng tôi càng khiếp sợ hơn. Máy bay thám thính của Mỹ lại thả bom Sulfure xuống các hầm này, mỗi lần như vậy hơi S bay vào phòng, khói mù mịt. Chúng tôi bị ngạt thở tưởng chừng như chết đi được, phải lấy khăn tay nhúng vào nước bịt ngay vào mũi mới thở được thôi, có lần tôi tưởng đứa con gái nằm trong tay tôi chết lịm đi vì ngộp. Đêm đến thật khủng khiếp, điện bị cắt đứt hết, nhìn ra ngoài sân tối đen như mực; chúng tôi bị mất hẳn liên lạc với thế giới bên ngoài. Có một điều là ban ngày Việt Cộng làm bộ can đảm, cứ đưa súng lên trời bắn lại máy bay nhưng đêm đến chúng tải thương rần rần ngoài hành lang, vừa hối thúc nhau vừa chửi thề luôn miệng. Xác chết của đồng đội đã đem chôn vội vã sau sân vận động của trường, có xác còn đưa chân ra ngoài mặt đất.

Chúng tôi cứ phải sống dưới làn bom đạn như vậy, suốt ngày đêm tiếng súng không ngừng nghỉ, phần thì đạn pháo từ Phú Bài đưa lên, phần thì tàu chiến của quân đội tiến dần lên từ ngoài sông bắn vào, tâm tư chúng tôi rối bời! Đã vậy chiếc nệm nhỏ phủ quanh đứa con gái 3 tháng bị bốc cháy vì mảnh bom S, may mà tôi kịp thấy nếu không thì tình trạng càng bi thảm đến chừng nào!

Phải nhìn nhận và ghi ơn bác Tỵ, nếu không có bác thì cả 3 gia đình chúng tôi (gia đình bà Hiệu Trưởng và bà Bửu Tiếp – giáo sư nữ công của trường) đành chịu đói khát. Bác đã không quản ngại gian nguy, cứ lặn lội xuống sông mà lấy nước. Bà Vú nhà tôi vừa mới xuống sông rửa chén bát đã bị một viên đạn không biết từ đâu bay vào đến đâm thủng cái soong luôn, từ đó không dám bén mảng xuống sông nữa.

Chúng tôi sống trong trận địa như vậy cho đến ngày thứ 7, đến chiều đạn nổ càng ác liệt hơn nữa. Suốt 7 ngày tôi chỉ biết cầu nguyện đức Quan Thế Âm, bám víu vào đức tin để tự an ủi mình và tôi tin tưởng rằng Ngài Quan Âm lúc nào cũng sẵn sàng đáp ứng tiếng gọi lời xin. Ai đã ở vào tình trạng chờ chết như chúng tôi mới thông cảm được nỗi lo sợ khiếp đảm của chúng tôi như thế nào?

Đạn Canon từ Phú Bài bắn lên như mưa, Việt Cộng không chịu nổi hỏa lực này nên phải làm kế nghi binh cho đồng bọn rút lui. Bọn lính Việt Cộng phần đông mặt mày non choẹt, ốm o xanh xao trông thảm hại quá, đã vậy chúng mặc toàn những bộ đồ lính rộng thùng thình. Họ để một tên lính hy sinh ở lại đứng ở góc trường cứ bắn chỉ thiên lên trên, gần chỗ ẩn núp của chúng tôi mới khiếp chứ! Nó cứ bắn từng loạt như vậy để quân đội mình trên trực thăng chỉ nhắm hướng này mà bắn trả trong khi đồng bọn chúng rút dần qua trường Quốc Học bên cạnh.

5 giờ chiều ngưng hẳn tiếng súng, một sự im lặng quá bất ngờ và rùng rợn; tuy nhiên chúng tôi đã vui mừng không thể tưởng được vì biết mình đã thoát chết! Chúng tôi ùa ra khỏi hầm, nhìn ra sân trường thật là một cảnh đìu hiu chưa từng thấy, bầu trời âm u không một bóng người, cây cối bị gãy nằm ngổn ngang. Tên lính Việt Cộng ban nãy không thấy nữa, chỉ còn cái túi xách vứt giữa sân thôi. Phòng bên cạnh cũng đã nghe tiếng nói xôn xao, sau đó họ mừng rỡ chạy sang phòng chúng tôi, tay bắt mặt mừng. Đó là gia đình các nhân viên Tòa Hành Chánh, gặp nhau mừng đến chảy nước mắt, lục cơm nguội cho nhau ăn. Tội nghiệp cho bác gác-dan của Tòa Hành Chánh, gặp chúng tôi bác vừa mừng vừa cho hay là muốn chạy sang đây ở gần chúng tôi để khi quân đội Mỹ đến, có chúng tôi làm thông dịch giùm, chứ không sẽ bị hiểu lầm là Việt Cộng thì nguy. Ăn qua loa một ít cơm nguội rồi mọi người đều lo trở về dọn dẹp vệ sinh hầm trú ẩn của mình; ai ngờ một tiếng nổ long trời lở đất ngay trên đầu chúng tôi, cây đèn néon trên trần nhà và vôi đổ sạt xuống từng mảng lớn tối tăm mù mịt! Chúng tôi chỉ kịp gọi tên nhau xem thử ai còn ai mất, khiếp đảm quá, thì ra một quả đạn Canon từ Phú Bài bắn đuổi theo tụi Việt Cộng đã bay vào cửa sổ trên lầu và nổ ngay trên đầu chúng tôi; may mà có trần nhà chống đỡ, nếu không thì tất cả đã tan xác hết rồi. Đồng thời một tiếng nổ kinh hồn cũng đã nổ ngay ở phòng bên cạnh, một lát sau khi ngưng tiếng súng, tôi bò sang xem thử sự tình ra sao. Trời ơi! một cảnh tượng hãi hùng mà mới nhìn thấy tôi đã oà ra khóc nức nở: cả gia đình bác gác-dan chết hết, đứa con nhỏ đang còn bú bên mẹ, những người còn lại quá kinh hoàng nên sau đó đã kéo nhau ra đi mà không biết đi đâu?

Thấy tình hình như vậy, cả 3 gia đình chúng tôi hoang mang đến tột độ, không biết bây giờ mình phải làm gì? đi hay ở? mà đi thì đi đâu? Có người sợ quá đòi rút về nhà cũ, tức là dãy lầu phía bên kia nhưng tôi đã không đồng ý, thà ở lại đây với hy vọng chờ Mỹ và quân đội đến giải cứu chứ biết lối nào an toàn hơn nữa mà đi, mìn đã giăng đầy khắp lối! Cuối cùng mọi người đều đồng ý chui vào hầm trở lại, thắp đèn cầy lên ngồi chờ và cầu nguyện. Xung quanh vắng lặng im phăng phắc đến rợn người, khi súng nổ liên hồi cũng quá khiếp đảm vì thấy cái chết đã gần kề nhưng khi im tiếng súng rồi cả một sự im lặng bao trùm đến ngạt thở, không một bóng người qua lại ngoài sân. Chúng tôi không khác gì khi lạc tới một hoang đảo, đứt hẳn liên lạc với mọi người, không biết bà con thân thiết của mình giờ ra sao? tâm tư rối bời! Tưởng rằng bấy giờ đã tạm yên thân, đầu óc bớt căng thẳng, không ngờ đúng một giờ sau Canon từ Phú Bài bắn lên tiếp tục, cứ cách 5 phút nghe một tiếng nổ. Nguy quá rồi, Mỹ đang bắn đuổi theo Việt Cộng qua ngả trường Quốc Học mà phòng chúng tôi đang ở chỉ cách một con đường nhỏ nên tiếng nổ nghe càng kinh hồn, tưởng chừng như lồng ngực muốn vỡ tung ra! Cứ mỗi lần nổ, đèn cầy lại phụt tắt, tiếng dội điếng cả tai, đau nhói cả tim! Cứ vậy mà chúng tôi phải chịu đựng suốt đêm, nỗi khiếp đảm không làm sao diễn tả hết được; lúc đó tôi chỉ còn một ước nguyện rằng nếu có chết thì xin cho chết hết cả nhà, chứ đừng để kẻ sống người chết đau lòng lắm! Suốt đêm chúng tôi chỉ biết cầu nguyện cho đỡ sợ, thời gian nặng nề trôi qua quá chậm chạp, không lẽ chúng tôi đã bị bỏ quên ở đây rồi hay sao ?

Khoảng 5 giờ sáng bỗng im bặt tiếng súng, thật như trút được gánh nặng ngàn cân đã đè lên tim, tự nhiên tôi lại mang một niềm hy vọng rằng xe tăng của Quân đội và của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ sẽ đến. Thoát chết, mọi người mừng quá, chuyện trò huyên thuyên, tôi yêu cầu tất cả nên im lặng để lắng nghe, hy vọng sẽ tìm được một lối thoát chứ không lẽ cứ ngồi đây mà chịu đói khát hay sao? Đúng như tôi tiên đoán, một lát sau có tiếng xe đang di chuyển thật; lúc đầu cứ ngỡ rằng mình quá mong ước nên đâm ra giàu tưởng tượng như vậy, không ngờ tiếng động cơ càng rõ dần. Tất cả đều ngồi im phăng phắc mà đợi chờ, bỗng dưng tôi nghe có tiếng gọi: „Cô ơi! Cô đâu rồi ?“. Trời ơi! Tôi lên tiếng trả lời, tất cả chạy ùa ra, một đoàn người đang đi tới, dẫn đầu là con của một nhân viên trong trường, đi sau là Thiếu tá Tố, Chỉ huy trưởng Tiểu Khu Thừa Thiên, và Thủy Quân Lục Chiến US; họ đã vào trường để giải thoát chúng tôi. Cả tôi và Thiếu tá Tố (hiện ở Nam Cali) đã ôm chầm lấy nhau mà khóc, tôi khóc như nước vỡ bờ, còn Thiếu tá Tố cũng vừa khóc vừa kể là đã đứt liên lạc với gia đình cả tuần nay. Thiếu tá còn cho hay khi thấy Việt Cộng đào quá nhiều hầm ở trong trường – do máy bay thám thính của Mỹ mà biết được – Mỹ đòi phải dội bom san bằng luôn nhưng Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Vùng, đã khuyên nên cố gắng đánh chiếm lần lần, chứ nỡ lòng nào hy sinh hết chúng tôi hay sao? Thật là số mạng của chúng tôi còn lớn lắm, cái chết kề bên mà vẫn còn tránh được !

Thật cảm động khi vào đến trường, gặp ngay gia đình một nhân viên, Thiếu tá đã hỏi thăm và đi tìm tôi ngay. Sau đó chúng tôi đã chạy khắp trường, kêu gọi nhau ra tập trung lại; theo lời chỉ dẫn của Thiếu tá, tất cả đi lần xuống Trung tâm tạm cư là trường Trung Học Kiểu Mẫu ở gần cầu Trường Tiền. Thời gian đó coi như phía bên này cầu đã tạm yêu, Việt Cộng rút lần về trên núi nhưng bên kia sông hai bên vẫn còn đánh nhau nên dễ bị lạc đạn lắm! Đau đớn nhất là có người đã được giải thoát như chúng tôi nhưng chỉ vì đứng chờ tập trung mà cũng bị trúng đạn chết.

Trời mưa và lạnh như cắt vào dịp Tết, chúng tôi như một đoàn tàn binh thất thểu ra đi, trong tay không có gì! Dọc đường tôi phải lượm hai cái nón cối của hai tên Việt Cộng đã chết mà đội cho hai đứa con trai, chúng bị lên sởi mà chưa khỏi, còn đứa bé gái tôi bế trên tay với một cái chăn mỏng ủ lên mình. Xuống đến trường Kiểu Mẫu một quang cảnh điêu tàn của chiến tranh hiện ra trước mắt, trông ai cũng tang thương rách nát tả tơi! Tôi chỉ thường đọc trong sách báo, cũng chỉ mường tượng thế nào là hậu quả của chiến tranh nhưng giờ đây đúng là một bức tranh sống động của địa ngục trần gian, người nào cũng hốc hác xanh xao, thấy nhau chỉ biết khóc vì mừng là đã còn sống sót !

Chúng tôi đến chậm hơn nên các tầng dưới đã hết chỗ, chỉ còn lại trên tầng 3 mà càng lên cao càng sợ bị pháo kích. Bảy ngày đêm đã ở trong bãi chiến trường không ngưng tiếng súng nên bây giờ lại càng sợ chết quá đi rồi, nhưng sợ thì sợ cũng đành chui vào thôi. Gọi là „chui“ vì vào dịp Tết trường đóng cửa hết, làm gì có chìa khóa mà mở nên đành phải phá cửa đủ một lỗ hỏng để chui vào. Nếu bị pháo kích hay trường bị cháy thì cũng đành đạp nhau mà chết vì chen nhau qua lỗ hổng này. Trời lạnh như vậy mà phải ngủ giữa nền xi-măng, mỗi người được phát đồ hộp và một tấm drap bằng giấy mỏng manh.

Mới ở được một ngày thì kho đạn bên cạnh trường bốc cháy, lại chịu đựng thêm một nỗi khiếp đảm kinh hồn, dù chui ra từng người một nhưng cũng phải chui mà chạy, chứ không có đủ can đảm ngồi chờ chết được! Thế là chúng tôi lại chạy về Đập Đá, lang thang một ngày vừa mệt vừa đói lả, cuối cùng đành ngồi dưới các gốc cây chờ ngọn lửa tắt, tiếng nổ dịu dần rồi mới lần mò về trở lại.

Suốt ngày ngồi bó gối vọng qua sông, không biết cha mẹ anh em đang ở phương nào, bây giờ ra sao, ai ngờ gia đình Ba tôi ở gần hồ Tịnh Tâm nên rất yên ổn. Đêm đến không lúc nào ngủ được, đạn trọng pháo vẫn bay vèo vèo ngang đầu, mỗi lần nghe tiếng đạn réo cứ sợ không biết sẽ rơi trúng đầu lúc nào, do đó cứ chui vào tấm drap giấy dù vừa mỏng manh vừa khôi hài như vậy nhưng lòng vẫn thấy yên ổn hơn !

Trời bắt đầu có nắng, không khí bệnh tật đã bao trùm cả khu tạm cư, xác chết chôn gần các giếng nước, chôn vội vã trong sân trường, càng ở lâu càng sợ bệnh dịch sẽ hoành hành! Cái chết đến với kiếp người sao dễ dàng quá, buồn buồn xuống sân nhìn vu vơ qua bên kia sông cũng dễ bị lạc đạn, bao nhiêu hiểm nguy như chờ chực sẵn, không biết lối nào mà tránh.

Một tuần sau có lệnh dời về trường Đồng Khánh vì trường rộng hơn nên dùng làm khu tạm cư. Khi trở về, nhà tôi bị dân chúng chiếm hết, họ chỉ nhường cho tôi một khoảnh trong phòng khách; hành lang, cầu thang đều nghẹt cả dân tản cư. Đồ đạc trong nhà bị phá tan hoang, hình ảnh báo chí sách vở bị xé vứt bừa bãi trong WC. Thế là hết! bao nhiêu vật quý giá, bao nhiêu mồ hôi nước mắt đổ ra nay chỉ còn hai bàn tay trắng. Tuy vậy, tình hình an ninh vẫn chưa yên, mìn vẫn còn gài đầy khắp lối trong trường, đêm đến vẫn còn có người bị trái hỏa châu rơi lủng bụng mà chết.

Ngày qua ngày không biết mình sẽ làm gì, bên kia sông hai bên vẫn còn đánh nhau, đuổi dần Việt Cộng về phía Tây Lộc, cảnh chết chóc vẫn còn tiếp diễn, thật là đau lòng!

Một hôm, xuống bến đò Thừa Phủ để lấy nước, vừa ra khỏi cổng trường tôi thấy một Thiếu tá Mỹ đi ngang qua, tự nhiên tôi chợt có ý nghĩ là chạy theo ông này nhờ giúp đỡ cho thoát khỏi Huế. Sự mong ước được rời bỏ Huế đã nung nấu tôi cả tuần nay, tôi muốn thoát quá sức dù bất cứ với giá nào! Nghĩ vậy, tôi liền chạy theo ông ta, đến ngang trường Quốc Học tôi chận ông lại, tôi không dám đứng trước trường Đồng Khánh vì không muốn có người thấy. Tôi xin lỗi vì sự đường đột của mình và xin ông có cách gì giúp tôi thoát khỏi Huế vì tôi không thể sống với Việt Cộng được! Ông hỏi địa chỉ, tôi đã chỉ lối và ông hẹn trưa nay 12 giờ sẽ đến tìm tôi. Trở về nhà, tôi vừa mừng vừa lo, Việt Cộng vẫn còn trà trộn trong khu tạm cư này, nếu thấy tôi tiếp xúc với Mỹ, liệu họ có để cho tôi được yên thân không? Tôi thấp thỏm cả buổi sáng, không ngờ đúng như lời đã hứa, gần 12 giờ tôi nghe có tiếng gọi: „Cô ơi! Có một ông Mỹ đến tìm cô“. Tôi run quá, vừa hé cánh cửa ra đã nhìn thấy ông ta len lỏi từng bước một lên cầu thang, chỉ chờ ông bước sát đến gần cửa là tôi đưa tay lôi vào đóng kín cửa ngay. Bấy giờ ông mới cho tôi hay rằng ông ở Sàigòn ra công tác tại Huế và hiện đang ở tại Căn Cứ Phú Bài, sẽ tìm cách giúp tôi và hẹn hai hôm sau trở lại.

Trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi bề, tôi vẫn cố gắng chạy quanh kiếm một ít thức ăn để làm một bữa cơm mời ông sau hai ngày hẹn. Đúng hẹn ông trở lại, đã lo liệu được kế hoạch đưa gia đình tôi thoát nhưng không thể đi một lần cả 7 người được (kể cả 2 mẹ con bà Vú). Chúng tôi chỉ đáp trực thăng vào Đà Nẵng – như tôi đã yêu cầu – Ông còn muốn giúp đỡ tiền để vào Sàigòn nhưng tôi không nhận, chỉ cần giúp cho gia đình tôi vào đến Đà Nẵng là quý lắm rồi. Thế là tôi cùng 3 đứa con và bà Vú đi trước, đành để chồng tôi và con bà Vú ở lại rồi tính sau, tôi phải đóng vai vợ của Thiếu tá Hy, Chỉ huy trưởng Căn cứ Pháo Binh ở Phú Bài. Điều khó khăn nhứt là phải làm thế nào vào cho được đồn Mang Cá trong thành nội vì trực thăng đậu ở đó. Cầu Trường Tiền đã bị sập hết mấy nhịp, cầu Bạch Hổ chỉ dành cho xe quân đội qua mà thôi, tôi trả lời liều với ông rằng điều này tôi sẽ làm được mặc dầu trong lòng tôi rối như tơ! Ông đã ở lại ăn cơm, xin chúng tôi địa chỉ ở Sàigòn và còn tặng tôi một chiếc nhẫn nạm ngọc xanh rất đẹp, mua ở London. Tôi đã hỏi ông rằng: „Sao gặp tôi mới lần đầu mà ông đã nhận lời giúp ngay, lỡ tôi là Việt Cộng thì sao?“. Ông cười và lắc đầu, trả lời: „Nhìn tôi, ông biết không phải là Việt Cộng“. Ôi! Trong những ngày gian nguy như vậy, tôi đã gặp được một tấm lòng nhân hậu bao la để khi nhìn qua khung cửa sổ, tôi vẫn còn nhận thấy bầu trời xanh hơn, cao hơn và gió vẫn còn hiền hòa mơn man trên các ngọn cây.

Tôi đã chạy ngay xuống Bộ chỉ huy của Đại tá Phiên đóng gần ở Morin, tôi nhờ Đại tá giúp cho tôi một chiếc xe Jeep để vào Mang Cá. Đại tá nhận lời ngay. Thế là đúng ngày hẹn, chúng tôi ra đi vào khoảng 3 giờ chiều, có chồng tôi đi theo đưa tiễn, quang cảnh đường vào Thành Nội thật đìu hiu ảm đạm! Tôi không có thì giờ tin cho Ba tôi hay, ra đi vội vã, hành trang chẳng có gì ngoài cái valise rách nát đựng một ít áo quần vơ vét được; sau này khi hay tin Ba tôi đã khóc quá chừng! Vào đến nơi đã có người ra tiếp đón thật chu đáo và lễ độ, khoảng nửa giờ sau một sĩ quan Mỹ đưa chúng tôi ra trực thăng. Tôi đã sửng sốt đến nghẹn lời, có ngờ đâu chiếc trực thăng này chỉ dành riêng cho gia đình tôi thôi, có nghĩa là chỗ còn dư, có thể đi hết cả gia đình nhưng than ôi! Làm sao chồng tôi cùng đi được khi phải bỏ lại đứa con trai của bà Vú đang ở nhà một mình! Cũng đành cầm nước mắt mà chia tay nhau, ngày mai chưa biết sẽ ra thế nào đây ?

Vào đến sân bay Đà Nẵng, trời đã xế chiều, một chiếc xe Jeep đã đậu sẵn, bên cạnh là một ông Đại úy đứng chào tôi một cách cung kính làm tôi không khỏi cảm thấy ngượng ngùng trong lòng! Chạy được một quãng đường, tôi bèn nói thật ra là tôi không phải bà Thiếu tá Hy và bây giờ ông bỏ xuống bất cứ đâu cũng được. Ông lịch sự trả lời rằng: „dù Bà là ai, tôi vẫn đưa Bà về tận nhà“.

Thì ra, trong cuộc đời tôi vẫn còn gặp được nhiều may mắn và nhiều kẻ có lòng như vậy. Tôi về tạm trú tại nhà người em chồng, lòng vẫn lo lắng cho hai thầy trò còn lại không biết có thoát được không? Không ngờ hai ngày sau cả hai đã trốn trên một chiếc xe tải chở gạo vào được đến Đà Nẵng luôn. Sau đó chúng tôi phải lo phương tiện vào Sàigòn, cũng may ông Thị Trưởng Đà Nẵng lại bà con với người em dâu của tôi nên việc mua vé máy bay cũng không có gì khó khăn, còn tiền thì mượn.

Chúng tôi vào Sàigòn ở tạm nhà người anh chồng, sau đó tôi thuê được một căn gác gỗ nghèo nàn và làm lại cuộc đời mình với hai bàn tay trắng!

Mấy chục năm trời đã trôi qua, bên nỗi vui mừng vì gia đình đã thoát nạn nhưng tôi vẫn còn canh cánh bên lòng nỗi niềm ngậm ngùi chua xót cho những nạn nhân Mậu Thân, trong đó có hai người anh con bác ruột tôi và một ông Dượng nữa.

Hình ảnh cô đơn vò võ của bác tôi, cứ chiều chiều thất thểu ra bờ sông ngồi ngóng các con về – dù con không bao giờ trở lại nữa – vẫn còn đậm nét u hoài trong lòng tôi mãi mãi!

Và cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu tại sao vẫn còn có những người chưa chịu nhìn thấy chân diện mục của chủ thuyết Cộng Sản tàn bạo và phi nhân?

Nguyên Hạnh HTD

Tưởng niệm 50 năm Mậu Thân

https://quangduc.com/a26893/ nhung-ngay-mau-than

 

Thơ Nhữ Đình Hùng – Tết Mậu Tuất nhớ tết  Mậu Thân

Lần trang sử cũ

 

Hiệp ước  Giơneo đã ký rồi!

Con dân nước Việt thảy ngậm ngùi!

Vẫn hay dân Việt là chung một,

Mà đành non nước phải phân đôi

 

Tuy vậy mà dân cũng tạm yên,

Tin rằng hai phiá ở hai miền,

Sẽ lo xây dựng giang sơn lại,

Đợi lúc Bắc,Nam được nối liền.

 

Nào hay miền  Bắc mộng can qua,

Đâu muốn dân Nam được thái hoà!

Gởi súng,gởi người xây “mặt trận

miền nam giải phóng” được tung ra!

 

Khói lửa từ đây ngập chiến trường,

Dù bao thảm cảnh với tai ương,

Miền Nam xem vẫn ngây thơ quá,

Máu thịt đồng bào vẫn cứ thương!

 

Trong lúc cộng quân lùng diệt ” ngụy”,

Miền Nam mở rộng cửa chiêu hồi:

Tung cánh chim bay về tổ ấm,

Chí nhân thay cường bạo mà thôi!

 

Thường lệ Noel hoặc đón xuân,

Hai bên đình hoãn những hành quân,

Để cho dân chúng cùng binh lính,

Vui Tết hay mừng Chúa giáng trần.

 

Nào có hay đâu Tết Mậu Thân,

Cộng quân đã trở dạ bất nhân,

Thay vì tôn trọng ngày hưu chiến,

Đã mở hành quân Tổng Tiến Công!

 

Cả nước trở thành đại chiến trường!

Đại tàn,đại sát,đại tang thương!

Dân chết vô cùng thây chật đất!

Máu khơi dòng đỏ cả đại dương!

 

Giặc cộng kêu gào dân nổi dậy,

Đập tan Mỹ ngụy tôn Lê Nin

Dân Nam dù gặp cơn nguy biến,

Vẫn giữ lòng yêu chế độ mình!

 

Vì thấy dân Nam chẳng chịu tin,

Nên loài giặc cộng tức như điên,

Luà dân đi,đào hầm chôn sống,

Riêng một Huế thôi đủ điển hình!

 

Chẳng phải riêng lo Tổng Tiến Công,

Đằng sau Cộng đảng có mưu thâm,

Mặt trận miền Nam cho chết sạch,

Từ đây giải phóng toàn Bắc quân!

 

Rồi trải bao lần chạm trán nhau,

Thực thà quân Bắc đã thua đau,

Nhưng về mặt nổi chúng chứng tỏ,

Miền Nam chẳng có an toàn đâu!    

 

Mỹ nảy phong trào phản chiến ra,

Hoa Kỳ tính bỏ chuyện can qua,

Bảy ba hoà ước Paris ký

Chiến trận đối đầu “Cộng & Quốc Gia”

 

Ngươi dân Nam cũng chán đao binh,

Những tưởng bên kia cũng thiệt tình,

Thêm bọn thứ ba và phản chiến,

nguỵ hoà,quyết triệt Thiệu ,tôn Minh!

 

Rồi đến mùa Xuân năm bảy lăm,

Cộng quân mở cuộc chiến mùa Xuân!

Xuống đường những bọn chuyên gây rối,

Đòi Thiệu nhường cho Minh .;sún răng!

 

Chỉ được cầm quyền có mấy ngày,

Để đầu hàng Cộng, thảm thương thay!

Thống nhất Bắc Nam vào một mối,

Là mối đau thương với đọa đày       

   

Mấy chục năm trời đã trải qua!

Bao nhiêu thay đổi ở quê nhà ,

Những người tị nạn đi ngàn hướng,

Chẳng biết lòng còn thấy xót xa ?

 

Cộng nhắm tấm lòng xa vạn dặm!

(ngày xưa là khúc ruột …thừa ra)

Mau trở về quê lo dựng nước

(hãy soi gương : ta có còn ta ? )

 

Lịch sử hãy còn ghi dấu lại,

Chuyện ngàn xưa nay vẫn còn bàn,

Ai dại,ai khôn,ai háo lợi

Và ai son sắt với giang san !

 

Kẻ sĩ ngày nay đâu dễ kiếm,

Giữa chợ đời khôn biết kẻ thanh cao!

Ai kẻ Khuất Nguyên,ai người Phạm Lãi?

Chọn mặt gởi vàng ôi khó làm sao !

 

Nếu chẳng thể ngồi yên chờ trái rụng,

Hãy rung cây dù sức chẳng là bao!

Ai biết được trên cành cao trái chín,

Sẽ lung lay rơi rụng khi nào!

(28/01/98)

 

 

50 năm máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế (1968-2018) – Phạm Trần

Nhằm kỷ niệm 50 năm cái gọi là “cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968”, đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam đã đồng loạt tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia với đề tài “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 – Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”, và tung ra 2 bài viết ca tụng cái gọi là “chiến thắng” trong chiến dịch Mậu Thân 1968 của Chủ tịch nước Trần Đại Quang và của Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.

Tại cuộc Hội thảo do Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy TP Hồ Chí Minh đã phối hợp tổ chức ngày 29-12-2017 tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi có các mục tiêu quan trọng bị tấn công như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ và Đài Phát thanh Sài Gòn, các diễn giả đã tận lực khoe khoang cho điều gọi là “giá trị của cuộc tổng tiến công và nổi dậy; khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; tái hiện diễn biến và những nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc tổng tiến công, trình độ chỉ huy, khả năng cơ động và phối hợp chiến đấu giữa các lực lượng trên chiến trường miền Nam…”.

Nhưng mục đích Hội thảo để làm gì, ngoài mớ lý thuyết phô trương như thế? Các báo Việt Nam trích lời Thượng tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, cho biết mục đích: “Hội thảo lần này là một trong những hoạt động quan trọng góp phần tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang (LLVT) và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội (CNXH), lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống đại đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”

À thì ra thế! Nhưng có ai biết từ nội dung Hội thảo đến 2 bài viết của Quang và Lịch đã chứa đựng những dối trá để che đậy tội ác chiến tranh của Quân đội Nhân dân (miền Bắc) và của lực lượng tay sai được gọi là “lực lượng võ trang giải phóng” (của Mặt trận Giải phóng miền Nam do đảng CSVN dựng lên) đã gây ra cho đồng bào miền Nam nói chung, và đặc biệt đồng bào ở Cố đô Huế trong 25 ngày đềm Cộng sản chiếm đóng chỉ để thảm sát dân lành?

Do đó, Tướng Ngô Xuân Lịch đã không ngần ngại khoe đạt chiến thắng ở Huế bằng máu người dân vô tội. Lịch viết: “Đặc biệt, với 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế đã khẳng định sức mạnh của lực lượng vũ trang (LLVT) ba thứ quân, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam anh hùng.”

Lịch viết bố láo như thế là bôi nhọ lịch sử và chà đạp lên những vong hồn của các nạn nhân bị Quân đội Cộng sản thảm sát, chôn sống và hành quyết rồi đẩy xuống các hố mồ tập thể khắp nơi trong Thành phố Huế. Bởi vì trong suốt thời gian của biến cố Mậu Thân và ngay tại Thành phố Huế khi bị chiếm đóng, không nơi nào có “nổi dậy” của nhân dân như Cộng sản tuyên truyền từ trước khi tiếng súng nổ đêm Giao Thừa Mậu Thân (31 tháng 1 năm 1968). Và cũng chẳng có nơi nào dân bỏ vùng Quốc gia chạy vào rừng với Quân Cộng sản.

Như vậy rõ ràng Lịch và guồng máy tuyên truyền của CSVN đã “bịa đặt một” chưa đủ còn tranh thủ “nói dối hai” mà mặt vẫn cứ trơ ra như đá!

Nhưng không chỉ có thế, Lịch còn bịa thêm rằng: “Nhận thức rõ vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang trong chiến tranh cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng xây dựng LLVT ba thứ quân, nhất là xây dựng bộ đội chủ lực từng bước phát triển lớn mạnh. Theo đó, đến cuối năm 1967, lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam đã phát triển lên 278.000 người, được tổ chức thành 190 tiểu đoàn chiến đấu, bố trí bí mật trên khắp các chiến trường. Đây là một trong những nhân tố tạo sức mạnh trực tiếp, quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; đồng thời, thể hiện tầm nhìn và sự chỉ đạo chiến lược sắc sảo của Đảng ta về xây dựng LLVT nhân dân trong chiến tranh giải phóng dân tộc.”

Làm gì có cái gọi là “lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam” do chính người miền Nam lập ra? Có chăng là đa số trong đội ngũ này là của miền Bắc được đào tạo đưa vào Nam rồi nhập chung vào với du kích miền Nam để cùng đội mũ tai mèo, mặc quần xà lỏn, đi chân đất trông rất tồi tệ. Đi đâu cũng khoe là “quân giải phóng”! Trong khi bộ đội chính quy từ miền Bắc được đi dép râu bằng vỏ xe hơi và mặc quần áo do Tầu Cộng cung cấp để cầm súng của Nga, các nước Cộng sản Đông Âu và Trung Cộng cung cấp.

Sự thể bộ đội miến Bắc vào Nam xâm lược Việt Nam Cộng hòa và gây ra chiến tranh máu đổ thịt rơi từ 1955 đến 1975 thì ai không biết. Ngoài số quân “vượt Trường Sơn theo đường mòn Hồ Chí Minh’’ xuyên qua Lào và Cao Miên xâm nhập miền Nam từ 1960 thì trước đó, khoảng từ 30 ngàn đền 40 ngàn Bộ đội Cộng sản được giữ lại trong Nam mà không tập kết ra Bắc theo điều kiện của Hiệp định Geneve 1954. Chính đạo quân “nằm vùng” này là lực lượng nồng cốt để đảng CSVN thành lập cái gọi là Quân đội Giải phóng và Mặt trận Giải phóng miền Nam tay sai do đảng CSVN thành lập ra đời ngày 10 tháng 12 năm 1960.

Nhưng đến khi xe tăng và bộ đội kéo vào các thành phố và Thủ đô Sài Gòn trước và trong ngày 30/04/1975 thì đâu đâu cũng mang cờ của Mặt Trận Giải Phóng miền Nam: Hình chữ nhật, mầu đỏ trên và mầu xanh dưới. Ở giữa có ngôi sao Vàng, thay vì “cờ Đỏ Sao Vàng” của Đảng CSVN.

Vì vậy, ngay sau khi vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975, quân CS miền Bắc đã hạ lá Cờ Vàng 3 Sọc đỏ của VNCH xuống và thay vào lá Cờ của MTGPMN, ngụy trang là cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam(!)

Nhưng sau ngày chính thức thống nhất đất nước tháng 7/1976, lá cờ của MTGPMN đã bị dẹp bỏ không kèn không trống để chỉ còn lại lá cờ Đỏ Sao Vàng của miền Bắc CS chiếm ngự trên cả nước!

Bài Trần Đại Quang

Về phần mình. Chủ tịch nước Trần Đại Quang góp phần tuyên truyền giả dối trong bài “Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Quang ba hoa rằng: “Cách đây tròn 50 năm, đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân ta đã đồng loạt mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, tạo ra bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, viết thêm trang sử hào hùng trong lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc ta…..

“…Đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã bất ngờ đồng loạt tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, đánh vào các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế, các căn cứ quân sự của Mỹ – ngụy, các thành phố, thị xã, đồng thời đánh địch khắp các vùng nông thôn bị tạm chiếm…”

Sự thật khó xoá đi

Như vậy, tất cả nội dung dành tung hô cho biến cố Mậu Thân đã không có một chữ hay con số nào nói lên sự thật tổn thất lớn lao của Bộ đội miền Bắc và Quân Việt Cộng trong Nam.

Vì vậy, mãi đến năm 2013, cuốn phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 1968” của Nhà Đạo diễn (Bà) Lê Phong Lan, chủ Hãng phim Bản sắc Việt, mới bắt đầu chiếu trên đài Truyền hình Việt Nam từ ngày 25 tháng 01 năm 2013.

Lý do làm phim trễ vì Chính quyền Cộng sản và Bộ Quốc Phòng coi vụ Mậu Thân là “vấn đề nhạy cảm” không ai muốn nói đến.

Nhưng tại sao lại cho là “nhạy cảm”, Lê Phong Lan nói: “Vì sao mọi người phía ta tránh nhắc đến Mậu Thân, đó là vì sự tổn thất của quân đội nhân dân Việt Nam ở sự kiện này quá nhiều. Tâm sự với tôi khi trả lời phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn dạn dày chiến trận còn khóc nức lên vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”.

Quả nhiên về phương diện quân sự thì cả quân miền Bắc và du kích trong Nam đã thiệt hại rất nặng. Theo các ước tính quân sự thì trong cuộc tấn công Mậu Thân, CSVN đã vận động từ 323,000 đến

595,000 quân chính quy và địa phương trong Nam để thực hiện kế hoạch chống lại khoảng 1 triệu 200 quân VNCH và Hoa Kỳ với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ của VNCH.

Tuy nhiên kế hoạch hồ hởi của Hà Nội đã bị quân và dân VNCH được sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khoảng từ 85,000 đến 100,000 quân Cộng sản bị loai khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của đồng minh có trên 6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích.

Thương vong thường dân, tính riêng tại Huế cũng đã có từ 5,000 đến 6,000 người chết và mất tích, đa số bị quân Cộng sản thảm sát bằng nhiều hình thức, kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để chiến đấu.

Nhưng phía Cộng sản đã liên tiếp phủ nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho bom đạn của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa gây ra.

Vì vậy, theo tường thuật của báo chí Việt Nam thì bà Lê Phong Lan cho rằng: “Thấy trên mạng có quá nhiều thông tin sai lệch về sự kiện lịch sử này, tới nỗi các thế hệ sinh sau 1975 không còn biết đâu là thông tin sai, đâu là thông tin đúng vì vậy lại càng quyết tâm để làm phim.”

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, thành viên của Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế đi theo Cộng sản trong vụ Mậu Thân, còn đối đáp với Nhà báo Thụy Khuê của Đài Phát thanh Quốc tế Pháp (Radio France International, RFI) trong cuộc phỏng vấn gần 30 năm sau Mậu Thân như sau:

“Thụy Khuê: Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xảy ra trong một trình tự như thế nào?

HPNT: Huế Mậu Thân đã xảy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.

Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xảy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy.

Thụy Khuê: Vậy, theo anh, ai trách nhiệm những thảm sát ở Huế?

HPNT: “Tôi không đủ thẩm quyền để phán xét bất cứ cá nhân nào. Xin trích dẫn theo trí nhớ một ý tưởng trong hồi ký của chính ông Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân: Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi. Qua bài hồi ký tâm huyết này, đã được công bố trên tạp chí Sông Hương, Huế, và sau đó, nếu tôi không nhớ lầm, đã được dịch và in toàn bộ trên báo Mỹ Newsweek, tác giả, Lê Minh (lúc đó đã nghỉ hưu), còn nhắc nhở rằng, điều quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ.”

Những tiếng nói khác

Ông Đinh Lâm Thanh, trong Bài thuyết trình trong dịp tưởng Niệm 40 năm biến cố Mậu Thân tổ chức tại Paris ngày 02.03.2008, nói: “Tại Huế, CS lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức đấu tố, bắn giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn lại theo làm tù dân – tôi nói tù

dân, vì tù là những người dân vô tội – trước rút lui tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng Minh.

Nếu tính nạn nhân tại Huế, ngoài số quân nhân, cảnh sát, nhân viên cán bộ hành chánh về nghỉ Tết cũng như những người sống tại địa phương làm việc cho chính quyền Sài Gòn bị Cộng sản bắn ngay tại chỗ là 1.892 người. Ngoài ra người ta còn tìm được 2326 tử thi thường dân trong 22 hố chôn tập thể tại những địa điểm như Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An, Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Chùa Từ Đàm, Lăng Gia Long, Đồng Di, Vịnh Thái, Phú Lương, Phú Xuân, Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Đá Mài.

Mỗi hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như: Cột chùm nạn nhân lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống. Nạn nhân là thường dân vô tội tuổi từ 15 trở lên, gồm có sinh viên học sinh, 6 linh mục là các cha Bửu Đồng, Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, cha Guy và cha Urbain (dòng Thiên An), và cha Cressonnier (Hội Thừa sai Paris), 5 thầy dòng gồm 3 sư huynh dòng Thánh Tâm là thầy Hec-Man, thầy Mai Thịnh và thầy Bá Long, 2 sư huynh dòng Lasan là thầy Agribert và thầy Sylvestre. Hai thầy dòng Lasan bị bắt và bị chôn sống chung một hố với linh mục Bửu Đồng tại Sư Lỗ, quận Phú Thứ. Ngoài ra Cộng sản còn giết các giáo sư đại học người nước ngoài trong lúc họ đang dạy ở đại học Y khoa Huế và thân nhân họ hàng của những người phục vụ dưới chế độ VNCH. Người ta ước lượng tại thành phố Huế có gần 5.000 người bị Cộng sản giết trong vòng mấy tuần lễ.

Những người lớn tuổi còn sống tại Huế là những nhân chứng sống. Trong đó có hai thanh niên nguyên là học sinh trung học, nay đã 56 tuổi, trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngoại quốc. Người thứ nhất tên Tuấn cùng với những học sinh khác đã bị CSBV bắt đào lỗ chôn sống 5 người tại Gia Hội ngay trong ngày đầu tiên khi CS vừa chiếm Huế. Học sinh thứ hai, xin giấu tên, ở Phủ Cam bị bắt đi theo đoàn tù dân đưa chôn sống ở Khe Đá Mài. Cả hai học sinh nầy nhờ một phép nhiệm mầu nào đó họ đã thoát được và sống sót đến ngày hôm nay.”(Khối 8406Tự do Dân chủ cho Việt Nam, 01-2009)

Hai Linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải hiện còn sống ở Việt Nam kể lại như sau:

“…tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính quyền cộng sản phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời…

“Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả, có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết”. (Đối Thọai online, 17-01-2008)

Hai linh mục Lợi và Giải cho biết họ họ gặp một nhân chứng sống lúc bấy giờ ông ta mới 17 tuổi cũng bị bắt theo đoàn người bị đưa đi giết ở Khe Đá Mài nhưng may mắn lợi dụng lúc đêm tối nên ông đã trốn thoát và hiện còn sống ở trong nước đã kể lại:

“Hồi ấy, tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước… Khuya mùng Một rạng mùng Hai Tết, tôi nghe tiếng súng nổ khắp nơi và được tin Việt Cộng đã chiếm nhiều nơi trong thành phố Huế… Cả gia đình tôi cũng như nhiều giáo dân ở Phủ Cam đều chạy đến ẩn núp trong nhà thờ để tránh bom đạn. Lính Nghĩa quân của xã và một số quân nhân về phép chiến đấu bên ngoài để bảo vệ đồng bào. Sau mấy ngày, không có tiếp viện nên chiều mùng 5 Tết (3 tháng 2/1968) phải rút chạy…

Khuya mùng 5 Tết, Việt Cộng tràn vào nhà thờ bắt những người từ 15 tuổi đến ngoài 50 tuổi bất kể là học sinh hay thường dân… và tuyên bố cho đi học tập trong vòng 3 ngày sẽ trở về trong đó có tôi… Sáng hôm sau, chúng tôi bị dẫn đi theo đường xe lửa từ Phủ Cam ra Bến Ngự và đến chùa Từ Đàm… Tại đây tôi thấy Việt Cộng rất đông vừa du kích địa phương vừa bộ đội miền Bắc… Ngôi nhà 5 gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt từ mấy ngày trước, còn một gian để giam giữ những người mới bị bắt… Tôi gặp những người quen như ông Tín (thợ chụp ảnh), ông Hồ (thợ hớt tóc), anh Trị (con ông Ngọc người đánh đàn trong nhà thờ), ông Hoàng (Đông y sĩ ở Chợ Xép), hai người con trai ông Thắng (làm nghề nấu rượu nuôi heo), hai người con trai ông Vang (nhạc sĩ thổi kèn đồng), anh Thịnh (con ông Năm), hai anh em Bình và Minh (con ông Thục), anh Minh 16 tuổi, con ông Danh nhân viên Công Ty Thủy Điện Huế) đều là học sinh… Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả một ngày từ sáng tới tối không được ăn uống gì cả… Họ đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ giấy để viết bản khai lý lịch tên, nghề nghiệp, tên cha mẹ, sinh quán ở đâu… Ai khai gian sẽ bị đem ra bắn… Tôi thấy một số người bị trói vào gốc cây bồ đề và bị đem ra bắn chôn ngay trong sân chùa, trong đó có anh Hoàng Sự (Cảnh Sát) mà tôi biết tên. Họ cho một vài người về nhắn với gia đình tiếp thế lương thực và quần áo, thuốc men cho những người đang bị giam giữ… Khi trời sẩm tối, họ bắt chúng tôi ra ngồi xếp hàng giữa sân chùa. Một anh cán bộ tuyên bố:

– Anh em yên tâm, Cách Mạng sẽ đưa anh em đi học tập trong 3 ngày rồi sẽ cho về với gia đình! Bây giờ chúng ta lên đường!.

Rồi họ dùng dây điện thoại trói tay chúng tôi ra phía sau lưng từng người một, rồi dùng dây kẽm gai nối 20 người làm một toán. Tôi đếm được trên 25 toán như thế (tất cả 500 người). Một người địa phương đi nhìn mặt anh em chúng tôi và nói với nhau:

– Không thấy Trọng Hê và Phú Rỗ trong số giáo dân Phủ Cam ở đây.

(Anh Trọng con ông Hê và anh Phú là hai thanh niên ở Phủ Cam có võ nghệ mà giới du đãng ở Huế biết tiếng. Hai anh đã chạy theo lính Nghĩa Quân xã rút lui khi Việt Cộng vào nhà thờ! Những người bị bắt đến đây đều là dân lành vô tội).

Họ dẫn chúng tôi đi vào đường bên trái Đàn Nam Giao, vòng qua Dòng Thiên An, đến lăng Khải Định, vòng phía sau trụ sở Quận Nam Hòa, ra đến bờ sông Tả Trạch (Thượng nguồn sông Hương)… Đến bờ sông, Việt Cộng cho chặt cây lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua sông (khu vực lăng Gia Long), thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc (vùng núi tranh). Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, ban đêm, trời lạnh lắm, khi lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội qua khe… Khoảng 30 bộ đội miền Bắc dẫn chúng tôi đi, họ dùng đèn pin hay đuốc để soi đường, chúng tôi đi trong rừng tre nứa và cây cổ thụ dày đặc… Khoảng nửa đêm, chúng tôi được dừng lại để nghỉ và mỗi người nhận được một vắt cơm. Chúng tôi đoán đã đi được trên 10 cây số rồi! Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng ngủ một chút để lấy sức còn phải đi tiếp… Bỗng như có linh tính báo trước, người tôi run lên bần bật… Tôi nghe hai tên bộ đội nói nhỏ với nhau:

– Trong vòng 15-20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn nầy!

Tôi liền ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt:

– Tụi mình ráng mở dây trốn đi! Mười lăm phút nữa là bị bắn chết hết đó!

Trời mưa, dây điện trơn trợt, lát sau, chúng tôi mở được giây nhưng vẫn ngồi yên sợ chúng biết. Tôi nói nhỏ:

– Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!

Bọn Việt Cộng đánh thức chúng tôi dậy, một tên nói lớn cho mọi người nghe:

– Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Ai có vàng, tiền, đồng hồ, bật lửa… thì đem nộp, không được giữ trong người… Học tập xong sẽ được trả lại…”

Thế là bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Tên bộ đội đứng gần chúng tôi còn mang trên vai cả chục cái radio mà chúng đã cướp được của dân ở thành phố… Một tay mang súng, một tay mang các thứ vừa cướp được, hắn đi chậm lại cách xa mấy tên kia một quãng… Chúng tôi bắt đầu xuống dốc, nghe tiếng nước chảy róc rách… Tôi vỗ nhẹ vai thằng bạn và cả hai chúng tôi vung tay và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Tôi đá mạnh và tên bộ đội mang nhiều radio… Hắn ngã nhào! Hai chúng tôi lao vào rừng…

Trời tối, rừng già chúng không giám đuổi theo… Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi chỗ ẩn núp và đi ngược trở lại… Chừng 15-20 phút sau, chúng tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK, rồi lựu đạn nổ vang rền… Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó tiếng khóc la khủng khiếp… không hiểu sao lúc đó, tai tôi nghe rất rõ ràng… Lúc đó khoảng 12-12 giờ 30 khuya… đầu ngày 8 Tết (6/2/1968). Về sau tôi mới biết chỗ đó là Khe Đá Mài…” (Bài thuyết trình của cựu Dân biểu VNCH Nguyễn Lý Tưởng tại cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008).

Nhân chứng của sự thật

Ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Cải táng Nạn nhân Cộng sản Tết Mậu Thân nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạc trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…”

Vẫn theo RFA thì Nhà báo Vũ Ánh (đã quá cố), nguyên phóng viên mặt trận hệ thống Truyền thanh quốc gia VNCH, đã có mặt tại Huế từ ngày 5 đến 29 Mậu Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn tập thể kể lại cảm giác của ông: “Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm giác của tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó…”

“Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1.000 người. Khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống”. (RFA online ngày 1-2-2008)

Trong bài nói chuyện tại buổi 40 năm Tưởng niệm Tết Mậu Thân, Việt Báo Gallery, thứ Bảy 29-3-2008, Nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải Khăn Sô Cho Huế” nói:

“Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, cộng sản khai diễn cuộc tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân-không hề có người lính Cộng Hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình, thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Ròi bọ…”

“Và cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống. Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn…Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống..”

“Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế”. (Việt Báo ngày 31-3-2008)

Cư sĩ Trí Lực, người đã chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân kể lại với RFA về nỗi kinh hoàng của ông: “Hai mươi sáu ngày sau, sau khi Cố đô Huế bình định trở lại thì tôi tận mắt chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Bãi Dâu Gia Hội, những người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những mảnh xương sọ bị vỡ nát. Cảnh kinh hoàng là cộng sản đã chon sống bao nhiêu người dân vô tội.”

Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu Thân kể:

“Gia đình của tôi vùng Phủ Cam là một, vùng An Vân Thượng là hai, Gia Hội là ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi gồm cả thảy 12 người. Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại chỗ, có người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”. (RFA online ngày 7-2-2012)

Ông Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại trong “cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008”: “Mồ chôn tập thể: Các nạn nhân bị thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại trường tiểu học Gia Hội, chùa Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng Viện, khu vực phía Tây Huế gần lăng Tự Đức và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa Đông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng Gia Long, gần chùa Tường Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Đá Mài… tất cả 23 địa điểm tại tổng cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn khoảng trên 3,000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị bắt đi thủ tiêu, mất tích… không biết họ đã bị giết chết và chôn xác ở đâu?!

Dã man nhất là tại Khe Đá Mài (thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên) Việt Cộng đã dùng súng trung liên, đại liên, lựu đạn và mìn giết tập thể các nạn nhân, vất xác xuống dưới khe, lâu ngày thịt thối rữa bị nước cuốn đi, chỉ còn 428 sọ người, xương người dồn lại một đống. Người ta đã dựa vào các dấu vết còn lại của nạn nhân như áo len, tượng ảnh, giấy căn cước bọc nhựa (ID)… để biết được thân nhân của mình đã chết ở trong đống sọ và xương lẫn lộn đó. Đa số những nạn nhân nầy là giáo dân bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam vào đêm mùng 5 Tết (3 tháng 2/1968) Người ta cũng tìm thấy vết tích của hai ông Lê Hữu Bôi (chủ tịch sinh viên Phật tử năm 1963) và Lê Hữu Bá (sĩ quan Quân Cảnh) tại Khe Đá Mài. Các em học sinh như Bùi Kha (16 tuổi), Phan Minh (16 tuổi), Nguyễn Duyệt (17 tuổi) và nhiều bạn trẻ khác thuộc giáo xứ Phủ Cam cũng bị VC giết hại tại đây…”

Lê Phong Lan có nói thật?

Trái với những lời kể này, nhà làm phim tuyên truyền cho đảng, Bà Lê Phong Lan cho biết bà đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư đảng khóa VIII – người từng là chỉ huy một trung đội trong sự kiện Mậu Thân 1968 tại Huế; lãnh đạo Thanh niên phật tử tranh đấu ở Huế theo Cộng sản nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân; nhà báo Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng viên tờ Washington Post Don Lux; GS sử học Larry Berman, và cả những người lính từ hai phía.

Bà nói: “Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam Cộng hòa đưa ra. Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã làm sáng rõ: cái gọi là “cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ.”

Nhưng, theo ông Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp), thì: “Trong cuộc chiếm đóng Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân…) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không tham gia chiến trận.” Ông dẫn lời một người bạn rằng: “Do kỷ luật kém ở một số đơn vị, một số thường dân cũng nhân dịp hỗn loạn để trả thù nhau nên đã có những vụ giết hại vô cớ. Một bản báo cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi nhận, họ đã “diệt 1.892 nhân viên

hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu đại úy, 1 trung úy, 20 thiếu úy và nhiều sĩ quan trừ bị…” trong cuộc chiếm đóng Huế.” (Tài liệu trích theo Hồi ký của ông Trương Như Tảng trên Internet)

Ngoài ra, báo cáo chính thức sau Mậu Thân ở Huế còn cho biết: “Một vụ thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema, kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Discher cùng Alterkoster đã bị giết trong tháng Hai năm 1968 tại chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa dặm, nơi người ta tìm thấy thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp, có tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn xuyên qua đầu và ót.”

Giết người giữa đêm giao thừa

Hồi tưởng lại biến cố Mậu Thân đẫm máu do người Cộng sản gây ta cho nhân dân miền Nam 50 năm trước, không một người Việt Nam nào có thể quên ngày ấy. Giữa đêm Giao thừa thiêng liêng của dân tộc Tết Mậu Thân (1968), Quân đội Cộng sàn miền Bắc và lực lượng võ tranh tay sai Việt Cộng (của MTGPMN) đã tung quân tấn công 41 thành phố, thị xã và 72 Quận lỵ, kể cả Thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế của Việt Nam Cộng hòa. Ít người Việt nào muốn gợi lại những đau thương, đổ vỡ của chiến tranh, nhất là cuộc thảm sát trên 3,000 trong số gần 6000 thường dân bị thiệt mạng trong 25 ngày Cộng sản chiếm đóng thành phố Huế của binh lính Cộng sản. (có tài liệu nói 26 ngày)

Nhưng đảng và nhà nước CSVN lại coi biến cố đau thương này là một “chiến công” phải ăn mừng và tổ chức lễ hội như đã diễn ra trừ dạo kỷ niệm 40 năm.

Bằng chứng như ta thấy báo Công an Thành phố Sài Gòn loan tin ngày 13-11-2007: “Ban Bí thư TW Đảng có thông báo về việc tổ chức kỷ niệm trọng thể 40 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân – 1968. Bộ Quốc phòng được giao nhiệm vụ phối hợp với Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế tổ chức hội thảo khoa học cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân-1968. Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Bộ Quốc phòng tổ chức mít tinh trọng thể cấp Nhà nước tại thành phố. Các tỉnh từ Quảng Trị trở vào tổ chức gặp mặt truyền thống, tọa đàm về chiến thắng này. Tổ chức các hoạt động văn hóa, du lịch, giúp đỡ cá nhân có thành tích trong cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân hiện còn khó khăn.”

Nguyễn Đình Ước, Trung tướng Cộng sản viết trên báo Nhân Dân ngày 8-1- (2008): “Cuộc tiến công Tết Mậu Thân đi vào lịch sử là một sáng tạo độc đáo của cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam thể hiện một đỉnh cao ý chí và trí tuệ của Việt Nam trong cuộc chiến tranh nhỏ thắng lớn. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quân và dân ta đã đánh thắng oanh liệt một cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất của một tên đế quốc lớn nhất trong thế kỷ thứ 20.”

Có “độc đáo”, “oanh liệt” hay không thì Ước cần đọc lại những lời tuyên bố nhìn nhận Bộ chỉ huy Cộng sản đã tính toán sai lầm trong vụ tấn công quân sự Mậu Thân của Trần Văn Trà, Trung tướng.

Ước cũng nên tự vấn lương tâm tại sao đảng CSVN đã lên án, tuyền truyền rùm beng vụ Quân đội Mỹ can tội thảm sát người dân vô tội tại ấp Mỹ Lai mà không dám nhìn nhận cuộc tàn sát đẫm máu dân thường và các viên chức VNCH của lính Cộng sản ở Huế.

Ông Douglas Pike, một chuyên viên về Cộng sản Việt Nam nổi tiếng của Mỹ viết: “Một cách tự nhiên, những điều xảy ra ở Huế là vài sự thống kê mau lẹ và nhạy cảm. Cuối cùng, lực lượng quân sự Cộng sản lên tới 12 ngàn người đã tấn công Huế ngay đêm mồng một tết (30 tháng 1 năm 1968), chiếm thành phố 25 ngày và cuối cùng bằng hành động quân sự họ bị đánh bật ra khỏi nơi họ chiếm đóng.”

“Trong trận tấn công nầy, 5 ngàn 8 trăm người dân thường bị giết và mất tích. Đến bây giờ tất cả họ coi như đã chết. Từ đó, thi hài họ được tìm thấy lẻ tẻ hay trong những ngôi mộ tập thể ở những vùng chung quanh Huế – Trung tâm văn hóa Việt Nam – thuộc tỉnh Thừa Thiên.”

“Đó chỉ là những dữ kiện chính yếu, những thống kê quan trọng, chẳng vui gì khi nói về Huế, là điều được viết xuống bằng thứ ngôn ngữ bình thường của báo chí, rõ ràng chẳng gây được ấn tượng gì cho tinh thần và lương tâm của nhân loại. Chẳng có tiếng thét đầy uất hận nào! Và các tòa đại sứ của Cộng sản Bắc Việt Nam trên thế giới đều im hơi lặng tiếng.” (Tuệ Chương dịch)

Như vậy, dù muốn che cho bằng được để lãng quên, nhưng lịch sử và sự thật của máu đổ thịt rơi ở Thành phố Huế 50 năm trước vẫn còn tươi rói. Lời kể của các nhân chứng đã nói lê sự thật không thể chối cãi.

Vì vậy, dù có mồm loa mép giải đến đâu thì 50 năm sau thảm họa Mậu Thân, người Cộng sản vẫn không thể xóa đi tội ác họ đã gây ra cho nhân dân miền Nam, vì những dòng máu oan khiên của hàng ngàn đồng bào vẫn chưa khô trên thành phố Huế. -/-

(Đầu năm 2018)

Phạm Trần – danlambaovn.blogspot.com

http://danlambaovn.blogspot.com/2018/01/50-nam-mau-van-chua-kho-tren-thanh-pho.html

 

Nhân chứng vụ Mậu Thân 1968 – 2018 –  Nguyễn Thị Thái Hòa

Bà Nguyễn Thị Thái Hòa là nhân chứng sống của cuộc tàn sát dân lành một cách dã man chưa từng có trong lịch sử VN của CSBV. Bà chính mắt chứng kiến ông nội và 3 người anh ruột bị tên đao phủ Hoàng Phủ Ngọc Phan sát hại. Thế nhưng cho tới nay 7.600 người thường dân Huế bị thảm sát vẫn chưa có ai chịu trách nhiệm và nhà cầm quyền vẫn hằng năm mở tiệc ăn mừng chiến thắng xuân Mậu Thân. Mở tiệc mừng trên tang thương và đau khổ của người dân Huế nói riêng và người Việt nói chung.

NHÂN CHỨNG, NẠN NHÂN TỘI ÁC CỘNG SẢN TẾT MẬU THÂN 1968

Chuyện kể của một người con gái, gia đình cô bị việt cộng giết gần hết.

Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung, thay cho tất cả những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đảng Cộng Sản, và bè lũ tay sai khát máu giết hại dân lành vô tội như anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v…

Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8- đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.

Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu, phòng bệnh nội thương … thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm … Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.

Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ. Hai tuần trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai , tôi và hai anh bạn vào ca đêm.

Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết. Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự do đi chơi, thăm viếng bạn bè…

Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30, anh Hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.

Tối mồng một tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.

Nhưng qua nữa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi thốt giựt mình, băn khoăn nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc không biết tiếng súng từ đâu vọng lại… Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết từ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.

Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba…rớt ngay con đường phía trước cổng chính BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.

Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nổ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người , định thần ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà sơ dòng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.

Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà sơ, và mấy người nữa.

Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề nên ai ở đâu thì cứ ở đó.

Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.

Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với cha và mấy sơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được.Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…

Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!

Tôi quyết định chạy về tìm gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có bộ đồ đồng phục dính đầy máu , tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run, hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng, không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá sợ hãi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.

Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẩy, tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gấn. Văn hoảng hốt kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng sau BV. Hai đứa tôi run rẩy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ lùa người đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi.

Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.

Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.

Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan (HPNP) và Nguyễn thị Đoan Trinh (NTĐT) cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với HPNP. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.

Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.

Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải, Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.

Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn mắc đi cầu, tìm chỗ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda tháo chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.

Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô Bv cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vừa khóc vừa chạy. Một lát nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.

Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày cũng đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương !

Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt HPNP, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên người này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh dấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.

HPNP to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi quay lại ra lệnh cho tôi với anh Văn đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.

Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.

HPNP vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết! Văn run rẩy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quãng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.

Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rãi rác. Nhiều vũng máu cũng như xác người bị ruồi bu đen. Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi ráng sức đẩy chiếc xích lô, trong lúc HPNP cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.

Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống, Văn nói như reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều. Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.

Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.

Tôi định dừng lại hỏi thăm thì HPNP trờ xe tới nạt nộ “đi, mau ngó chi!”

Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.

Súng nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc Việt khắp nơi.

Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết…Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…

Hai chúng tôi cứ nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.

Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì HPNP và NTĐT rà xe lại gần bảo tôi, không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!

Đẩy lên trên tê, tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.

Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó.. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi HPNP biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này

Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẩy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không ? Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.

Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni…

Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.

Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn HPNP cũng vừa vào đến.

Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi, thằng Lộc, thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẽ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!

Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.

Tôi đứng núp sau lưng ông nội, HPNP hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!

Nó vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.

Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.

Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai,ba… Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống… Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP đã nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.

Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.

Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.

Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẩm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác Hậu, vài người lối xóm của với ông nội đang ở trong nhà.

Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rũ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!

Nhìn thấy tôi tiều tụy, mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muổng bột bích chi ép tôi uống. Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hâu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.

Ngày hôm sau thằng Phan trở lại.. Bác Hâu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.

Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.

Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nĩ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…

Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt.. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồn ông bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…

Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.

Tôi nghe tiếng mấy thắng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu Và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa…Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.

Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.

Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.

Hai vợ chồng bác Hậu không nở bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi ráng ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?

Hôm sau nữa tôi theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.

Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.

Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh của tôi.

Ba tôi được giải ngũ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần dường rầy xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.

Thưa ông Liên Thành,

Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.

Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…

Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Cộng Sản ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.

Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.

Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết mậu Thân cũng như sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát

Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.

Xin trình ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại :

Tên ông nội : Nguyễn Tín, 70 tuổi.

Ba người anh : Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.

Nguyễn Xuân Lộc. sinh viên luật, sinh năm 1946

Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949

Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.

Nguyễn thị Thái Hoà

Tưởng nhớ 7.600 người dân Huế bị thảm sát trong cuộc tổng tấn công của Cộng Sản, Tết Mậu Thân, 1968

 

Tấm hình Tướng Loan và vụ án Mỹ Lai Tết Mậu Thân 1968 – Trọng Đạt

Năm mươi năm nhìn lại.

Hà Nội đã cho điều động khoảng 100 tiểu đoàn vào cuộc Tổng công kích đại qui mô Tết Mậu Thân, tổng cộng 84,000 người, hầu hết thuộc Mặt Trận Giải Phóng, ngày 21-1-1968 Hà Nội chọn Giao thừa là giờ tấn công.

Mặt trận Sài Gòn bắt đầu lúc 2 giờ sáng mồng 2 Tết tức 31-1-1968, thứ tư và chấm dứt đầu tháng 2 Âm lịch 28-2-1968. Giao Thừa Mậu Thân tối 29-1, các gia đình nhang đèn, hoa quả cúng bái. Bất ngờ đặc công VC tấn công Bộ Tổng Tham mưu, Dinh Độc Lập, Bộ Tư Lệnh Hải quân, phi trường Tân Sơn Nhất.. .địch đánh đồng loạt 28 tỉnh và thị trấn.

Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia là người hăng hái dẫn quân sông sáo trên các đường phố tiễu trừ phiến loạn. Ông được dân Sài Gòn chú ý vì nhiệt tâm, gan dạ chiến đấu như một sĩ quan cấp úy. Ngày 1 tháng 2 khi cấp dưới báo cáo bắt được tên đặc công đã sát hại một gia đình sĩ quan Cảnh sát, NN Loan cho mời các ký giả lại chứng kiến phiên xử tội hắn. Bất ngờ nhiếp ảnh gia Eddie Adams chụp bức hình ông Tướng Loan dí súng lục vào đầu tên đặc công và chẳng bao lâu hình được phổ biến sâu rộng gây phẫn nộ khắp nơi nhất là tại Mỹ.

Cảnh xử bắn cũng được Võ Sửu, cameraman của NBC quay phim, đã được chiếu lại trong The Vietnam War tập Sáu gần đây. Xem trong phim thì chẳng thấy gì là dữ tợn, tàn ác. Một sĩ quan dẫn tên đắc công bị trói tay lại, Nguyễn Ngọc Loan bảo người này xử hắn ta nhưng ông từ chối. Nguyễn Ngọc Loan bèn rút súng khẩu súng nhỏ bắn “cạch” vào đầu tên đặc công và anh này ngã xuống.. .chỉ đơn giản vậy thôi. Người ta tố cáo ông Loan giết tù binh, vi phạm công ước quốc tế chiên tranh. Trên Wikipedia, mục “Talk: Nguyễn Ngọc Loan” họ đặt câu hỏi việc xử tử này vi phạm Qui ước Geneve không, sau đó giải thích anh VC này là đặc công xâm nhập, mặc thường phục, chỉ là lính chiến bất hợp pháp (ngoài vòng pháp luật) không được Qui ước Geneve bảo vệ.

VC đột nhập vào các thành phố không tuyên chiến, không mặc quân phục, đốt nhà, bắn giết khắp nơi, chúng muốn giết ai thì giết không cần xét xử, chỉ là bọn phiến loạn không được coi là quân nhân tác chiến. Chính phủ VNCH đã đặt VC ra ngoài vòng pháp luật, vả lại địch đánh không qui ước, unconventional war nên không được coi là tù binh. Người dân cũng có quyền giết phiến loạn, thổ phỉ. Năm 2009 tại Lousiana bị bão Katrina, bọn cướp lợi dụng hoành hành dữ dội, cảnh sát tiểu bang đã được lệnh bắn giết không cần xét xử.

Bức hình do người ký giả chụp trông thật tàn ác dữ tợn, ông ta có ác ý gây phẫn nộ giới phản chiến Mỹ để tố cáo cuộc chiến dã man, cần rút bỏ.

Nay nhiều bí mật về cuộc chiến Mậu Thân đã được tiết lộ trong phim The Vietnam War qua các tập số Sáu, Bẩy, Tám, Chín.

 Tập Sáu Thing Fall Apart, (Tan Rã) từ tháng 1-1968 tới tháng 7-1968

Tập này đề cập nhiều tới trận chiến Têt Mậu Thân, nước Mỹ xáo trộn, chết người, đất nước như tan rã

Họ chiếu nhiều cảnh chiến trận tại Sài Gòn, Huế trong Cuộc Tổng công kích. Các trận đánh rất ác liệt, hấp dẫn sống động, có nhiều cảnh linh hoạt lôi cuốn nhất trong các phim tài liệu về Mậu Thân.

Cán binh Nguyễn Ngọc công nhận quân CSBV có tàn sát tù binh VNCH tại Huế khi họ rút lui, tù binh gồm quân nhân, công chức. Họ sợ khi rút ra sẽ bị chỉ điểm nên giết hết để trừ hậu họa, trong số đó nhiều thường dân chết oan. Nguyễn Ngọc nói lệnh tàn sát không biết từ đâu tới, như vậy cuộc tàn sát không phải do Mỹ-Ngụy đổ thừa cho Cách mạng như họ tuyên truyền trước đây. Theo Nguyễn Ngọc có lệnh từ trên chứ không phải sai lầm của du kích như xác nhận của các cán bộ VC sau 1975.

Trong phim nói có hơn 2,800 người bị VC sát hại, thực ra con số cao hơn, sau khi các mồ chôn tập thể do VC để lại đã được khai quật người ta đếm được trên 5,000 xác chết. Sau Mậu Thân 68, người miền Namquá sợ hãi CS, họ bỏ chạy khi nghe tin quân địch tới. Thập niên 80, một cựu sĩ quan BV nói sở dĩ có cuộc tàn sát tại Huế vì CS thua đau, tức giận trả thù. Cũng có người cho là người dân không nổi dậy còn bỏ trốn Cộng quân nên họ trả thù.

Trong phim, họ nói địch lẻn vào Sài Gòn rất đông, sự thực tại các mục tiêu chính như Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ, Bộ Tư lệnh Hải quân … lực lượng địch chỉ có một hoặc hai tiểu đội. Tại Bộ Tư Lệnh Hải quân bến Bạch Đằng, VC chỉ có 10 đặc công đột nhập vào đã bị tiêu diệt ngay mặc dù họ có yếu tố bất ngờ. Các trận đánh cấp tiều đoàn hoặc đông hơn thế phần nhiều ở ngoại ô.

Tập Bẩy The Veneer of Civilization, Hào nhoáng của nền văn minh, từ  tháng 6-1968 tới tháng 5-1969.

Nhà làm phim nói Chiến dịch Phượng Hoàng VNCH giết lầm 20,000 người. Sĩ quan tình báo Mỹ gốc Nhật nói miền Nam tra tấn bắt giữ nhiều tình nghi. Nhưng tại sao biết Chiến dịch giết lầm 20,000 tình nghi một con số quá lớn? Quân đội VNCH chỉ bắn kẻ địch ngoài mặt trận, chuyện ta tấn .. giết oan nếu có chỉ là thiểu số, vả lại báo chí đối lập đã loan tin ầm ĩ rồi. Chính người Mỹ đã giết oan 567 người cả đàn bà, trẻ con trong vụ Mỹ Lai và nhiều vụ khác mà họ che dấu, và còn bênh vực cho kẻ gây tội ác. Nhà đạo diễn sẽ đề cập trong các tập sau.

 Tập Tám: The History of The World,   Lịch sử Thế giới.

Từ tháng 4-1969 tới tháng 5-1970.

Phim nói trở lại chuyện Trung úy Calley giết 567 thường dân Mỹ Lai 20 tháng trước đây (ngày 16-3-1968) dưới thời TT Johnson, họ cũng nói cách đó một dặm một đại đội khác đã giết 97 người dân, nhiều vụ trước đó được che dấu. Nhưng vụ án Mỹ lai được đề cập chi tiết hơn trong tập Chín, phim đã tiết lộ nhiều bí mật mới lạ.

Tập Chín: A Disrespectful Loyalty, Cạn tình hết nghĩa, từ tháng 5-1970 tới tháng 3-1973.

Ngày 17-11-1970, dưới thời TT Nixon tòa án quân sự xử vụ bắn giết 567 dân làng Mỹ Lai từ 20 tháng trước đây (16-3-1968, thời TT Johnson)  chỉ có trung úy Calley bị kết án chung thân khổ sai. Theo như lời kể trong phim người ta cho rằng Calley chỉ là vật tế thần cho cấp lớn, người khác nói đó là khuyết điểm của lãnh đạo trong một dây chuyền lãnh đạo lên tới vị Tổng tư lệnh (tức TT Johnson). Có 79% người dân không hài lòng với bản án, TT Nixon can thiệp, Calley được giảm án còn 20 năm khổ sai. Tư lệnh sư đoàn của Calley, Tướng Samuel Koster đi trên trực thăng nhìn  thấy toàn cảnh tàn sát mà không ngăn cản, ông bị ép từ chức.

Người Mỹ (bênh vực Calley) nói kẻ thù là địch, họ không hài lòng với bản án. Bộ trưởng lục quân giảm án Calley còn 10 năm, sau 3 năm rưỡi, anh được tạm tha. Vụ xử Calley gây tranh cãi, Tim O’Brien, quân nhân (tác giả cuốn The Things They Carried) nói: những kẻ đã dí dúng bắn vào đầu trẻ con, cuối cùng chẳng có ai bị xử tội, nothing!

Mười ba (13) tháng sau vụ Mỹ Lai (bị che dấu) một người lính viết thư lên các cấp lớn tố cáo trung úy William Calley đã giết nhiều thường dân.

Tòa án quân sự xử Calley chung thân khổ sai, sau đó 79% người dân không hài lòng với bản án, người ta bênh vực Calley cho là bản án quá nặng. Tham khảo thêm trên Wikipedia: William Calley được biết nhiều người phẫn nộ vì xử nặng Calley, các tòa án nhiều tiểu bang Arkansas, Kansas, Texas, New Jersey, South Carolina xin khoan hồng cho Calley. Trong phim và trên Wikipedia có nói Tòa Bạch ốc (TT Nixon) nhận được hơn 500 điện tín tỷ lệ 100 trên 1 xin khoan hồng, 80% cho là bản án quá đáng, phim nói 70% nhận thấy  Calley chỉ là vật tế thần cho cấp lớn (others believed that Calley has been made a scapegoat for the criminal misdeeds of his superiors). Một bà ở Wyoming nói kẻ địch là kẻ địch, một Bác sĩ ở Ohio nói đó là đăc tính của chiến tranh.

TT Nixon can thiệp, giảm án Calley xuống còn 20 năm khổ sai, Bộ trưởng lục quân giảm án còn 10 năm, sau ba năm rưỡi tù, Calley được thả. Trước tòa anh khai làm theo lệnh của Đại úy Medina nhưng ông này chối phắt ngay. Phim cho biết một số ít nói những người liên hệ vụ án phải xử tù (every one involve should have gone to jail). Nhiều người cho đây là lỗi lầm có hệ thống của lãnh đạo (and still others felt a systemic failure of leadership) trong một dẫy cấp chỉ huy lên tới tận Tổng tư lệnh quân đội (tức TT Johnson) (.. had occurred in a chain of command that stretched all the way up to the Commander in chief). Họ chiếu hình Tòa Bạch Ốc ý nói Tổng thống Mỹ (Johnson) phải chịu chia sẻ trách nhiệm.

Cũng giống y như cán binh Nguyễn Ngọc đã nói lệnh giết người không rõ từ đâu tới, ở đây phim cho biết một cách mơ hồ, họ không nói rõ ra nhưng khán giả phải tự tìm hiểu, nghĩa là có lệnh tàn sát chứ không phải sai lầm cá nhân.

Cũng Tết Mậu Thân bức hình Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn một tên phiến loạn gian ác ngoài phố thì bị kết án ầm ĩ trên truyền thông Mỹ, họ la làng vụ xử bắn dã man, tàn ác.. ra điều nhân đạo, tôn trọng nhân quyền. Còn phe ta vào làng lớn bé già trẻ bắn sạch 567 mạng gồm cả đàn bà trẻ nít rồi dấu nhẹm, đến khi bị khui ra thì bà con đều bảo chẳng sao cả, chiến tranh là thế, chẳng ai có tội cả.

Như trên họ cũng nói cách đó một dặm một đại đội khác đã giết 97 người dân, nhiều vụ trước đó được che dấu như vậy số nạn nhân vô tội của vụ án cao hơn nữa mà không biết rõ bao nhiêu. Điều đáng nói là Tướng Tư lệnh Sư đoàn của Calley trên trực thăng ngó xuống thấy vậy cũng làm ngơ không can thiệp thì có khác gì Đức quốc xã không? Thế mà phim còn hô hoán nói chiến dịch Phượng hoàng VNCH bắn nhầm 20,000 người, truyền thông Mỹ năm 1968 thổi phồng hình ảnh ông Nguyễn Ngọc Loan bắn người dã man mục đích phô trương tinh thần đạo đức giả của họ

Kết Luận

Theo tài liệu của Bộ Tổng Tham Mưu VNCH trong số 100 tiểu đoàn, 84,000 cán binh CS được đưa vào trận trận đánh, tổng cộng 58,372 người bị giết (70 % ), 9,461 tên  bị bắt làm tù binh khoảng 11%, chỉ còn 16,168 tên chạy thoát (chưa tới 20%) ta tịch thu được 17,439 khẩu súng đủ các loại CS hoàn toàn thất bại về mặt quân sự, số cán binh đưa vào cuộc Tổng công kích bị giết gần hết, cơ sở nằm vùng bị bại lộ nhưng Mậu Thân 1968 lại là khúc quành bi thảm cho cuộc chiến tranh VN, Hành pháp Mỹ mở đầu thương thuyết tại Paris để rút khỏi Đông Dương.

Đầu năm 1968 miền Nam đánh thắng một trận lớn nhưng thua cuộc chiến. Sau Mậu Thân 1968, phong trào chống chiến tranh tại Mỹ lên cao không gì ngăn cản nổi. Người dân, Quốc hội, truyền thông… đòi chính phủ phải rút bỏ cuộc chiến tranh Đông Dương đưa tới sụp đổ tan tành những năm sau đó.

Tấm hình ông Nguyễn Ngọc Loan xử bắn một tên VC và vụ tàn sát Mỹ Lai đã đóng góp không nhỏ cho sự phẫn nộ của người dân Mỹ và phong trào phản chiến, cho sự sụp đổ của Đông Dương

Một phần vì sự sai lầm của Tướng Loan đã cho ký giả lại chứng kiến, lấy tin, phần vì ác ý của nhà nhiếp ảnh gia. Chuyện nhỏ đã được thổi phồng lên vô cùng tai hại đưa tới khúc quanh bi thảm của cuộc chiến Việt Nam.

 

Nén hương lòng gởi Huế – Lê Diễm Chi Huệ 01.22.2018 

Xuân về nhớ Huế đau thương

Mậu Thân tang tóc đoạn trường thủa nao

Bao năm ngỡ giấc chiêm bao

Mồ chôn tập thể máu đào tuôn rơi

Nói sao cho cạn hết lời

Hờn căm phẫn uất ngút trời đế đô

Oan hồn phủ lạnh hư vô

Đầu xanh ai quấn khăn sô não lòng

Xác người trôi dạt trên sông

Hương Giang nhỏ giọt châu ròng oán than

Vác dao vác súng về làng

Đập đầu chôn sống bao ngàn dân oan

Ngày đêm rình rập từng đoàn

Vung tay chém giết mưu toan thế thời

Tội tình chi hỡi Huế ơi!

Lòng đau như xé tơi bời ruột gan

Kinh hoàng thịt nát xương tan

Hồn chưa siêu thoát vô vàn đớn đau

Cố đô ngập dải tang sầu

Xác người vô tội vùi sâu đáy mồ

Cao xanh ơi hỡi nơi mô?

Xương dồn khe núi, sông hồ thở than

Năm mươi năm, giấc mộng tàn

Xuân sang gửi Huế muôn vàn nhớ thương

http://www.vietthuc.org/tho-le-diem-chi-hue-nen-huong-long-gui-hue/

 

Hàn Phi Tử –  Nguyễn Hiến Lê & Giản Chi

Phần I – Chương II

Các pháp gia trước Hàn Phi

Chiến Quốc là một thời đại đặc biệt chẳng những trong lịch sử Trung Hoa mà cả trong lịch sử nhân loại nữa. Đọc lịch sử thế giới thời thượng cổ và trung cổ, chúng tôi không thấy một dân tộc nào có một chương sử như vậy: đất đai rộng chia làm thành nhiều nước nhỏ, dân đông mà loạn lạc liên miên trong ba thế kỷ, càng loạn, dân tình càng khổ, mà nhà nào cũng chỉ nghĩ cứu dân ra khỏi cảnh lầm than, thống nhất quốc gia bằng cách này hay cách khác, tích cực có, tiêu cực có, một cảnh “trăm hoa đua nở”, trong hai ngàn năm sau không hề tái hiện nữa.

Lâm Tri, kinh đô nước Tề, có thể coi là kinh đô văn hoá của Trung Hoa thời đó, nơi tụ tập của các danh sỹ bậc nhất. Tư tưởng được hoàn toàn tự do, mà vua Tề trọng đãi mọi nhà, cho họ ở trong những dinh thự lộng lẫy ở Tắc môn, cửa tây kinh đô (do đó có tên là Tắc Hạ tiên sinh), tặng họ chức tước (liệt đại phu) và lương bổng rất hậu, chỉ để thỉnh thoảng hỏi ý kiến họ về việc nước, hoặc mới họ về triều giảng đạo lý, viết sách truyền bá đạo của họ. Riêng Mạnh Tử, thời Tề Tuyên Vương cũng đã dắt mấy trăm môn sinh với một đoàn xe mấy chục chiếc lại ở kinh đô Tề trong mấy năm; Thuần Vu Khôn, Thận Đáo, Hoàn Uyển, Điền Biền…, còn biết bao triết gia khác cũng đã qua đó: như vậy ta đủ tưởng tượng được sự thịnh vượng của văn hoá ra sao.

Tề là nước giầu nhất thời đó, có thể nuôi hàng ngàn hàng vạn kẻ sỹ; ngay nước Tấn là nước không giàu bao nhiêu, mà cũng là nơi trọng đãi kẻ sỹ, đa số là pháp gia. Theo Léon Vandermeersch[1] thì Tử Sản, Đặng Tích, Lý Khắc, Ngô Khởi, Thương Ưởng, Thân Bất Hại đều có thời sống ở Tấn hoặc những nước chịu ảnh hưởng Tấn.

Sau cùng tới đời Tần Thủy Hoàng, Hàm Dương là kinh đô văn hoá cũng(?) Trung Hoa đã thống nhất. Lã Bất Vi tập hợp các học giả danh tiếng đương thời, cấp dưỡng cho họ để họ soạn chung bộ Lã Thị Xuân Thu, gồm 26 quyển, chép lại Nho thuật và tư tưởng của Đạo gia, Mặc gia, Âm dương gia.

Người ta thường gọi thời Chiến Quốc là thời của Bách gia (trăm nhà) chư tử, lời đó không quá đáng.

Trong Chiến Quốc sách, trang 17 – 19, chúng tôi đã sắp xếp tư tưởng của những triết gia muốn vãn hồi trật tự cho Trung Hoa thời đó thành hai chủ trương.

“Một chủ trương muốn giữ lại chế độ cũ, chế độ phong kiến, tăng uy quyền cho thiên tử, bắt các chư hầu phải phục tòng;

“Một chủ trương đạp đổ chế độ cũ vì biết rằng nó không tồn tại bao lâu nữa, mà lập một chế độ mới.

“Theo chủ trương thứ nhất có Nho gia và Mặc Gia. Mới đầu Khổng Tử muốn cứu vãn nhà Chu. Rồi sau, Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử thấy nhà Chu suy quá, không thể cứu được, mong có vị minh quân thay thế nhà Chu để thống nhất Trung Hoa mà thi hành chế độ cũ sau khi sửa đổi ít nhiều. Rõ nhất là chủ trương của Mạnh Tử. Một lần Lương Tương vương hỏi ông: “Khi nào thiên hạ yên định được?” Ông đáp: “Khi nào thống nhất thiên hạ thì yên định được…và ai không thích giết người thì thống nhất được… Hiện nay trong thiên hạ chẳng có bậc chăn dân nào mà chẳng ham giết người. Nếu có một vị vua có lòng nhân, chẳng ham giết người hại chúng thì mọi người trong thiên hạ sẽ quay đầu ngóng cổ trông về vị ấy” (Lương Huệ vương, thượng -6). Nghĩa là ông không tin gì nhà Chu nữa, muốn gặp bất kỳ ông vua nào biết theo đạo của ông – biết dùng nhân nghĩa trị dân – để ông phò tá thống nhất thiên hạ.

“Theo chủ trương thứ nhì, có Đạo gia và Pháp gia. Đạo gia muốn dùng chính sách phóng nhiệm, giảm thiểu chính quyền, cứ theo tự nhiên như thời sơ khai; họ tin rằng khi không còn giai cấp thì sẽ hết loạn, chẳng cần thống nhất cũng như thống nhất. Như vậy phái này đả đảo một cái cựu (chế độ phong kiến) để trở về một cái cựu hơn (xã hội nguyên thủy).

“Pháp gia trái lại, không muốn trở về cái cựu, mà muốn tiến tới một chế độ mới; họ muốn dùng chính sách độc tài, dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến mà lập một chế độ quân chủ chuyên chế. Họ cho đạo “Vô Vi”[2] của Lão, Trang là hoang đường, họ muốn cực “hữu vi”; họ lại nghĩ rằng “vương đạo” của Khổng, Mạnh, chỉ làm quốc gia thêm loạn, nên họ chủ trương “bá đạo”.

Trong cuốn này viết về Hàn Phi, người tập đại thành tư tưởng của các pháp gia thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc, chúng tôi đứng về một khía cạnh khác mà chia lại, cũng làm hai chủ trương:

1- Chủ trương lý tưởng, trọng đạo đức của Nho (Khổng, Mạnh, Tuân) Mặc, Dương, Lão, Trang.

2 – Chủ trương thực tế, trọng quyền lực của Pháp gia, như Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Bại, Thương Ưởng, Hàn Phi…

Phái trên hoàn toàn là những triết gia bàn về chính trị; phái dưới gọi là triết gia cũng được, nhưng thực sự họ là chính trị gia hơn triết gia. Phái trên có công với triết học, đạo đức, với sự đào tạo tâm hồn dân tộc Trung Hoa nhưng hoàn toàn thất bại về chính trị (Khổng được cầm quyền ở Lỗ không lâu; Mạnh chỉ làm khách khanh ở Tề, Lương, Đằng; Tuân chỉ làm một viên huyện lệnh; Mặc bôn ba khắp chư hầu mà không ai theo học thuyết của ông[3], còn Dương, Lão, Trang thì lánh đời).

Phái dưới trái lại, đã hoàn toàn thành công thống nhất được Trung Hoa, lập được chế độ quân chủ chuyên chế nhờ họ:

– Không ngăn cản sự biến chuyển của giòng lịch sử mà còn thúc đẩy nó tiến mau hơn.

– Trọng thực tế, không bàn suông, chỉ nhắm kết quả ngắn hạn, tách rời chính trị và đạo đức[4]

Đời sau có nhiều người không phục họ vì họ không đứng về quan niệm của dân, mà đứng về quan niệm của vua (của quốc gia); nhưng chính sách của họ từ Tần, Hán trở đi không thời nào nhà cầm quyền không theo, sau khi dung hoà nó ít nhiều với chính sách của Nho gia

Trong chương này chúng tôi xét sơ lược sự tiến triển của học thuyết Pháp gia trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, tức tư tưởng của một số Pháp gia quan trọng để độc giả nhận được uyên nguyên của học thuyết Hàn Phi.

Quản Trọng

Người mở đường cho các Pháp gia là Quản Trọng. Không ai biết ông sinh năm nào, chỉ biết ông làm tướng quốc cho Tề Hoàn công từ năm -685 đến năm -645, năm ông mất.

Thời đó Tề Tương công hoang dâm vô độ, bị một công tôn là Vô Tri giết, nước Tề loạn. Hai vị công tử có tư cách nối ngôi là công tử Củ và công tử Tiểu Bạch. Bão Thúc Nha là đại phu nước Tề đem Tiểu Bạch chạy sang nước Cử lánh nạn, còn Quản Trọng đưa công tử Củ sang Lỗ.

Quản Trọng tên là Di Ngô người đất Dĩnh Thượng (Tề), sinh trong giới bình dân, nhưng có học, nhà nghèo, phải đi buôn dầu, hồi trẻ chơi thân với Bão Thúc Nha. Hai người hẹn với nhau sau hễ ai thành công thì giúp đỡ người kia. Năm -648, Vô Tri bị một đại phu giết, nước Tề không có vua, Bão Thúc mượn quân đội của Cử đưa Tiểu Bạch về; Lỗ cũng đưa công tử Củ với Quản Trọng về. Tiểu Bạch về trước, có thì giờ sắp đặt để đối phó với Lỗ, Lỗ thua, công tử Củ chết, Quản Trọng bị cầm tù để trả về Tề. Tiểu Bạch lên ngôi, tức Tề Hoàn công. Bão Thúc biết tài Quản Trọng, chẳng những thuyết phục được Hoàn công tha rồi trọng dụng Quản Trọng, mà còn tự đặt dưới quyền Quản Trọng nữa.

Hoàn công phong Quản Trọng làm tướng quốc, trọng ông như cha chú, nên gọi ông là Trọng phụ (cũng như thúc phụ). Hoàn công là một ông vua rất tầm thường hiếu sắc, thích ăn ngon, ưa nịnh, chỉ nhờ biết tin dùng Quản Trọng trong 40 năm liên tiếp, mọi việc trong nước đều giao phó cho ông hết, mà nước Tề đương suy hóa thịnh, thành bá chủ các nước chư hầu. Quản Trọng chết rồi, Tề lại suy liền vì Hoàn Công không nghe lời Quản Trọng, dùng bọn tiểu nhân Dịch Nha, Thụ Điêu…, và hai năm sau bị bọn này nhốt, bắt nhịn đói, chết, thây thành dòi mà không được chôn.

Đời sau truyền lại bộ Quản Tử (gồm 86 thiên, mất 10 thiên) chép thành tích chính trị, tư tưởng cùng pháp chế của Quản Trọng. Tư Mã Thiên, trong Sử ký bảo đã đọc những thiên Mục dân, Sơn cao, Thừa mã, Khinh trọng, Cử phụ của Quản Trọng, lại bảo bộ đó nhiều người có; Hàn Phi cũng bảo trong dân gian nhiều nhà có bộ đó, vậy ta có thể tin rằng nó đã xuất hiện trễ lắm vào cuối đời Chiến Quốc. Nhưng hết thảy các học giả đời sau đều nhận rằng nó không phải của Quản Trọng soạn, mà của người đời Chiến Quốc viết vì trong bộ đó có nhiều đoạn trùng nhau, nhiều chữ mâu thuẫn, nhiều tư tưởng y hệt học thuyết Pháp gia đời sau. Tuy nhiên nó cũng chứa một phần di thuyết của Quản Trọng, và dưới đây là những điều chúng ta có thể gần tin được, sau khi tham khảo một số sách khác như Sử ký, Trung Quốc cổ đại chính trị gia, Trung Quốc chính trị tư tưởng sử…

1/ Chủ trương của Quản Trọng là “lời bàn luận không cao xa mà dễ thi hành (luận ti nhi dị hành), nghĩa là ông có óc thực tế, không bàn chuyện viễn vông, tránh những lý thuyết cao siêu (như Mặc tử, Lão, Trang sau này).

2/ Mục đích trị nước theo ông là làm sao cho quốc phú, binh cường. Ông chú trọng nhất đến sự phú quốc vì “kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y thực đủ rồi mới biết vinh nhục”.

Thời đó là Xuân Thu, Tề cũng như mọi nước khác trọng nông nghiệp hơn hết. Nhưng Tề tương đối hẹp hơn các nước khác, mà lại ở gần biển và có nhiều mỏ, nên ông khuyến khích sự khai thác mỏ để đúc tiền, nấu nước biển làm muối. Muối sản xuất được nhiều, chở đi bán các nước khác ở xa bờ biển, thành một mối lợi lớn, nhờ vậy mà Tề mau giàu.

Ông lại biết ‘lưu thông hoá vật’, thu mua hàng hóa trong thiên hạ để một chỗ, đợi dịp giá cao bán lấy lãi, lập ra 300 nhà nữ lư (tức như thanh lâu) cho khách buôn đi lại tụ họp, để thu thuế. Như vậy ông đề xướng ra hai cải cách: coi công và thương cũng quan trọng ngang nông nghiệp, nếu không hơn, và quốc hữu hoá một số nguồn lợi trong nước.

3/ Muốn cho binh cường, ông có sáng kiến “ngụ binh ư nông” (gởi việc binh vào nghề nông ), thời bình dân làm ruộng, những lúc rảnh rỗi thì luyện võ bị, có bao nhiêu nông dân khoẻ mạnh là có được bấy nhiêu binh sỹ.

Như vậy cần phải nhiều giáp binh; ông đặt ra lệ cho chuộc tội: tội nặng thì chuộc bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê), tội nhẹ thì chuộc bằng một cái quy thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kim khí, tội còn nghi thì tha hẳn; còn như hai bên thưa kiện nhau mà bên nào cũng có lỗi một phần thì ông bắt nộp mỗi bên một bó tên rồi xử hoà.

Ông tổ chức lại quân đội: năm người họp thành một ngũ, năm chục người (tức mười ngũ) thành một tiểu nhung, hai trăm người thành một tốt, hai ngàn người thành một lữ, một vạn người thành một quân. Mùa xuân tổ chức những cuộc đi săn để nhân thể chấn chỉnh hàng ngũ; mùa thu cũng nhân những cuộc đi săn mà luyện tập binh sỹ.

4./ Về quốc chế, sự tổ chức cũng hết sức nghiêm mật: năm nhà thành một quĩ, mười quĩ thành một lý, bốn lý thành một liên, mười liên thành một hương; như vậy mỗi hương gồm hai ngàn (5x10x4x10) người.[5]

Ông cho bốn hạng dân (sỹ, nông, công, thương) ở trong những khu riêng: bọn sỹ ở những khu yên tĩnh, bọn công nhân ở gom lại gần những quan nha dinh thự, bọn thương nhân ở những vùng thị tứ, còn nông dân quy tụ ở điền dã; như vậy con em dễ luyện tập quen tay nghề, không vất vả mà còn nhiều kết quả.

5./ Trong bộ Quản tử có nhiều thiên bàn về pháp luật như: Bản pháp, Lập pháp, Pháp cấm, Trọng lệnh, Pháp pháp…,và có tác giả như Tiêu Công Quyền trong bộ Trung Quốc chính trị tư tưởng sử (Trung hoa văn hóa xuất bản – 1961) căn cứ vào đó mà cho rằng Quản Trọng đã lập ra một học thuyết rất hoàn bị về pháp luật, xét về đủ các vấn đề:

– Lập phát là quyền của vua, quy tắc lập pháp là phải lấy tình người và phép trời làm tiêu chuẩn;

– Hành pháp thì phải chuẩn bị, công bố cho rõ ràng, thi hành cho nghiêm chỉnh, đừng thay đổi hoài, mà phải chí công vô tư, “vua tôi sang hèn đều phải theo luật pháp”, thưởng phạt phải nghiêm minh, tóm lại nếu “danh chính, phép hoàn bị thì bực minh quân chẳng có việc gì phải làm nữa, vô vi mà được trị”.

Chúng tôi nghĩ điều đó khó tin được, tác giả Quản tử đã đem tư tưởng của các Pháp gia đời Chiến Quốc mà gán cho Quản Trọng đấy thôi. Đại khái chúng ta chỉ có thể căn cứ vào câu này của Tư Mã Thiên “Người trên có pháp độ thì sáu người thân mới được yên ổn” đoán rằng Quản Trọng trọng pháp luật, đặt ra một số cấm lệnh và mong rằng người trên (vua, quan, cha, anh) theo đúng lẽ làm gương cho người dưới, như vậy xã hội mới có trật tự được.

6 / Ông chủ trương tôn quân như mọi tư tưởng gia thời Xuân Thu, nhưng sự tôn quân của ông có điểm khác với Nho gia. Chẳng hạn Khổng tử, sinh sau Quản Trọng khoảng trăm rưỡi năm, tôn quân vì vua là người được nhận lệnh mệnh của trời để trị dân, cho nên đi ngang qua ngai vàng dù không có vua ngồi, ông cũng tỏ vẻ sợ sệt. Vua có lỗi ông không dám trách thẳng, nhưng khi vua Lỗ say mê sắc đẹp, ca hát, bỏ bê việc nước, ông muốn bỏ đi nước khác nhưng phải đợi vua Lỗ làm lễ tế Giao, không chia thịt cho các quan, rồi mới từ chức, qua nước Vệ, để tỏ rằng vua không muốn dùng mình nữa nên mình mới đi, chứ không phải là ông chê vua vô đạo ham mê tửu sắc. Quản Trọng khác hẳn, tuy không làm trái ý Hoàn công, khéo can gián Hoàn công không nên vì giận Thiếu Cơ, một quý phi lỡ vô lễ với mình, mà đem quân đánh nước Thái, lại để mặc Hoàn công gần gũi với bọn tiểu nhân Dịch Nha, Thụ Điêu; nhưng đối với Hoàn công ông có thái độ thân mật, mà Hoàn công cũng trọng ông như cha chú, cơ hồ như ông tôn quân chỉ vì vua đại biểu cho quốc gia; lòng trọng vua của ông không có chút màu sắc thần quyền hay tôn giáo gì cả. Chắc chắn ông không tin rằng vua là “con trời”. Ông không đòi hỏi gì nhiều ở Hoàn công, không mong rằng Hoàn công phải sáng suốt, có uy, có đức; chỉ cần tin dùng ông, nghe lời ông, yêu dân một chút, đừng tàn bạo, ngoài ra, có ham tửu sắc mà đừng trụy lạc thì cũng không sao, vì ông nghĩ còn mình thì bọn Dịch Nha, Thụ Điêu không làm hại xã tắc được.

Cách dùng người, ông chỉ chú trọng tới tài năng, không cần biết đến giai cấp của họ, chẳng hạn giới thiệu Ninh Thích, một ẩn sỹ chăn bò, với Hoàn công, và Hoàn công phong làm đại phu, cho cùng coi việc nước với ông. Điều đó dễ hiểu, chính ông cũng ở trong giai cấp bình dân mà được Bão Thúc tiến cử với Hoàn công.

Tuy nhiên, đối với các quý tộc ở Tề, như họ Cao, họ Quốc, ông tỏ ra nhã nhặn, không nghi kỵ tìm cách triệt hạ quyền lợi của họ như Ngô Khởi và Thương Ưởng sau này; một phần do ông ôn hoà, khôn khéo, một phần có lẽ do bọn quý tộc thời đó uy quyền còn mạnh lắm, không suy như cuối đời Chiến Quốc, ông biết rằng không thể lật họ được.

7/ Quản Trọng biết thuận ý dân, “dân muốn gì thì cấp cho cái đó, không muốn cái gì thì trừ cho cái đó” (Sử ký). Ông tìm cách giúp đỡ dân, giảm bớt thuế má, khuếch trương công thương, dùng chính sách kinh tế tự do làm cho dân giàu.

Có người cho rằng ông yêu dân là vì thủ đoạn, nghĩa là yêu dân không vì dân mà vì vua, vì quốc gia; chúng tôi nghĩ lời chê đó vô căn cứ và cũng vô lý: ông vừa làm lợi cho nước, mà lại vừa làm lợi cho dân thì là thành công lớn, còn đòi gì hơn nữa.

8/ Sau cùng ông cũng chú trọng đến đạo đức, bảo lễ, nghĩa, liêm, sỉ là bốn điều cốt yếu (tứ duy) trong nước, người cầm quyền ráng giữ mà trị dân.

Xét kỹ tám điểm kể trên, hai điểm cuối cùng rất hợp với quan điểm của Nho gia, điểm 6 cũng hơi giống Nho gia, còn năm điểm đều là nhũng sáng kiến rất thực tế của Quản Trọng ảnh hưởng lớn đến các Pháp gia sau này. Cho nên chúng ta có thể coi ông là thuỷ tổ của Pháp gia mà cũng là chiếc cầu nối Nho gia[6] với Pháp gia, biết dung hoà thực tế với lý tưởng, trọng kinh tế, võ bị mà cũng biết lễ nghĩa, nhân tín. Công của ông rất lớn chẳng những đối với Tề, mà đối với cả văn minh Trung Quốc nữa. Cho nên chính Khổng tử đã hai lần khen ông.

Bài 18 chương Hiến vấn (Luận ngữ) – “Tử Cống hỏi:

– Quản Trọng không phải là người nhân chăng? Hoàn công giết công tử Củ (chúa của Quản Trọng), ông ta đã không chết theo mà còn làm tướng quốc giúp Hoàn công.

Khổng tử đáp:

– Quản Trọng giúp Hoàn công làm bá chủ chư hầu, bình định được thiên hạ. Dân tới nay còn mang ơn ông. Nếu không có ông thì chúng ta đã thành mọi rợ, đầu dóc tóc, áo cài nút bên trái hết rồi.

Nghiã là Khổng tử nhớ ơn Quản Trọng đã dẹp rợ hồ phương Bắc, cứu nền văn minh Trung Quốc.

Lần khác (bài 17 cũng chương trên), Tử Lộ cũng chê Quản Trọng bất nhân, không chết theo công tử Củ.

Khổng tử đáp:

Hoàn công chín[7] lần họp chư hầu mà không dùng đến vũ lực (binh xa), đó là nhờ tài sức Quản Trọng. Như vậy chẳng phải là nhân sao? Chẳng phải là nhân sao?[8]

Còn Mạnh Tử, sinh sau Quản Trọng ba trăm rưỡi năm, chê Quản Trọng được chuyên dùng bốn chục năm mà chỉ giúp Hoàn công lập được nghiệp bá, thì tài chưa gọi là cao. Đức độ và kiến thức Mạnh tử quả chưa bằng Khổng tử; ông ta chưa biết rằng thời Quản Trọng, Trung Quốc chưa loạn lạc lắm, chế độ phong kiến còn khá vững, chư hầu, ngay cả Tề vẫn còn tôn trọng nhà Chu, chưa có vấn đề phải thống nhất như sau này.

Tử Sản

Tử Sản sinh sau Quản Trọng một trăm năm, cầm quyền nước Trịnh từ -554 đến khi chết -523 (hay -522); vậy có thể lớn hơn Khổng tử ba bốn chục tuổi (Khổng tử sinh năm -551).

Ông là một công tôn (cháu vua, ngành thứ) của nước Trịnh, tên là Kiều, nên thường gọi là Công tôn Kiều. Trịnh thời đó là một nước nhỏ, thịnh về thương mại, có nhiều tân địa chủ, nằm kẹp giữa hai nước mạnh: Tấn ở Bắc, Sở ở Nam, lại thêm phía Tây có Tần, phía đông có Tống, Tề, Lỗ, thành một cái đích cho mọi mũi tên nhắm vào, thường bị lân bang xâm phạm, khó mà tự cường được, cố giữ được cho khỏi bị diệt vong là may.

Đã vậy, triều đình lại hỗn độn, quyền hành ở trong tay bọn công tử, công tôn, họ hoành hành, tranh dành ngôi vua, chém giết nhau, có kẻ muốn nhờ cậy Tấn hoặc Sở tiêu diệt kẻ địch của mình để đưa mình lên ngôi nữa.

Tủ Sản có lòng ái quốc cao, hồi trẻ chuyên tâm học hỏi, lớn lên lưu ý tới việc nước, không chủ trương dùng võ lực mà dùng ngoại giao để cứu nước. Nhờ học rộng, có tài ngoại giao, mà tư cách lại cao, ông được các chính trị gia đương thời (như Án Anh ở Tề, Quý Trát ở Ngô, Thúc Hướng ở Tấn…) quý trọng, các nước khác không gây sự với Trịnh nữa. Trong nước ông cương quyết và ngay thẳng áp dụng Pháp chế, tỉa lần bọn thế gia hào phiệt mà an định được xã tắc. Khi đặt ra một luật lệ mới, ông để cho dân tự do phê bình. Ông lập ra nhiều “hương hiệu” (trường làng), dân thường tới đó bàn về chính sự. Có người khuyên ông nên dẹp đi, ông bảo: “Tại sao lại dẹp? Cứ để cho dân tới mà bàn bạc, đưa ý kiến. Dân thích điều gì thì ta theo, không thích thì ta sửa đổi, dân là thầy của chúng ta mà”.

Ông tôn trọng dư luận như vậy lại thương dân nữa, có một lần cho người dân ngồi xe ông để qua sông. Mạnh tử chê rằng làm chính trị sao mà lo ban những ân huệ nhỏ mọn cho dân như vậy, thì giờ đâu mà lo việc lớn nữa; nhưng Khổng tử lại khen là người nhân.

Trước Tuân Tử mấy trăm năm, ông đã đả đảo dị đoan: có lần Trịnh bị lụt lớn, dân cho rằng tại các con rồng tranh đấu nhau, xin ông cầu đảo long thần, ông đáp: “Rồng tranh nhau là việc của rồng, liên quan gì tới việc của chúng ta? Chúng ta không cầu gì ở rồng, thì rồng cũng không cầu gì ở chúng ta”.

Lần khác sao chổi xuất hiện, có người bảo bốn nước Tống, Vệ, Trần, Trịnh sắp bị hoả tai, xin ông cầu đảo cho Trịnh tránh được họa, ông không nghe. Sau quả nhiên bốn nước đều bị hoả tai, người ta lại thúc ông cầu đảo, ông đáp: “Đạo trời ở xa, đạo người ở gần, không liên quan gì tới nhau”. Tư tưởng đó ảnh hưởng tới Tuân tử và một số Pháp gia đời sau như Hàn Phi.

Những lý do chính chúng tôi đặt ông vào phái Pháp gia, là ông cho đúc “hình thư”, nghĩa là cho đúc những cái đỉnh để ghi lại hình pháp.[9]

Hễ có quốc gia thì tất nhiên phải có pháp luật và Trung Hoa đã có pháp điển từ lâu. Tương truyền có các bộ Vũ hình (đời vua Vũ), Thang hình (đời vua Thang) và Cửu hình (đời Chu), cả ba đều thành lập trong khi quốc gia rối loạn. Lại có thuyết cho rằng đời vua Thuấn (trước đời vua Vũ nữa) ông Cao Dao đã coi việc hình. Những hình luật đó được chép trong sử mỗi nước. Chứng cớ là trong lần họp chư hầu ở Ninh Mẫu (Sơn đông) năm -653. Quản Trọng bảo Tề Hoàn công rằng các quyết định trong cuộc hội họp đều được ghi vào sử mỗi nước chư hầu, tức khắc trên thẻ tre, cất trong thư khố của mỗi triều đình. Tới năm -536, mười tám năm sau khi cầm quyền, Tử Sản mới cho đúc hình pháp của Trịnh trên những cái đỉnh bằng sắt[10] rồi năm -513, Tuân Dần và Triệu Ưởng noi gương, cũng cho đúc hình pháp của Tấn trên đỉnh.

Khổng Tử và Thúc Hướng nước Tống đều chỉ trích hành vi đó của Tử Sản, không phải vì đúc trên đỉnh thì hình pháp sẽ có tính cách cố định, không thay đổi được, cũng không phải vì như vậy hình pháp sẽ được công bố, dân chúng ai cũng biết rồi sẽ khó trị (dù khắc trên thẻ tre hay đúc trên đỉnh thi cũng vẫn là để ở triều đình, dân chúng làm sao vô mà đọc được); mà chỉ vì lẽ đúc trên đỉnh, hình pháp có tính cách bớt bí mật: các quan coi về hình không còn được giữ riêng những thẻ tre ghi luật pháp nữa, không thể tự ý giải thích luật pháp nữa, mà hễ giải thích sai thì các quan trong triều so sánh với bản văn trên đỉnh, không ai cất giấu được mà sẽ chỉ trích, bắt giải thích lại.

Chúng ta nên nhớ thời đó các quan coi về hình cũng như các quan đại thần ở triều đình đều ở trong giới quý tộc, họ thường giải thích luật pháp theo quan niệm lễ tục của họ, có lợi cho họ. Việc đúc hình thư làm cho họ mất quyền giải thích pháp luật theo tự ý, tức là làm giảm quyền uy của họ. Họ cố giữ các tục “lễ bất hạ thứ nhân, hình bất thượng đại phu” (Lễ ký), nghĩa là giữa họ với nhau có xảy ra việc gì thì họ theo pháp điển bất thành văn (lễ) của họ mà dàn xếp; còn đối với dân thường họ mới dùng hình mà chỉ họ được biết thôi.

Vì vậy Thúc Hướng ngại người ta sẽ tranh nhau giải thích hình thư mỗi người một ý, rồi nạn hối lộ sẽ nảy nở, nước sẽ loạn, “tới đời con cháu chúng ta, nước Trịnh sẽ nguy mất”. Tử Sản đáp: “Kiều tôi bất tài, đâu dám nghĩ đến đời con đời cháu chúng ta, chỉ mong cứu đời lúc này thôi. Nhưng mặc dầu tôi không vâng lời ngài, tôi vẫn không dám quên cái đức lớn của ngài” (tức lòng nhân từ của ngài đối với tôi).

Tử Sản chưa phải chủ trương pháp trị, nhưng cũng đã làm cho pháp luật có tính cách khách quan hơn trước, nhà cầm quyền không thể tự ý giải thích theo quyền lợi của mình nữa; vì dân ông đã tước một chút quyền của giai cấp quý tộc, tức giai cấp của ông. Ông thực sự có lòng yêu dân và ngay thẳng. Cho nên Khổng Tử dù chê việc đúc hình thư mà vẫn khen ông là người quân tử: “khiêm cung đối với người, thờ vua thì kính trọng, thường ban ân huệ cho dân, sai khiến dân một cách hợp lẽ” ( Luận Ngữ – Công Dã Tràng – 15). Tương truyền khi hay tin Tử Sản chết, ông khóc.

Theo Hàn Phi (thiên XXX) thì trước khi chết, Tử Sản dặn dò Du Cát, người sẽ nối chức ông:

– Tôi chết rồi, ông sẽ cầm quyền nước Trịnh, ông phải nghiêm khắc trị dân. Lửa có vẻ dữ dằn, nên ít người bị chết thiêu; nước có vẻ nhu nhược nên nhiều người chết đuối. Ông nên dùng hình phạt nghiêm khắc, đừng để cho dân chết đuối vì sự nhu nhược của ông.

Du Cát không nghe, tới khi thanh niên muốn nổi loạn, mới ân hận thẳng tay trừng trị. Nếu truyện đó đúng thì Thương Ưởng và Hàn Phi sau này đều chịu ảnh hưởng của Tử Sản.

Lý Khôi

Thế kỷ thứ 4 trước T.L., các pháp gia nối tiếp nhau xuất hiện. Đáng ghi trước hết là Lý Khôi ở sơ kỳ thời Chiến Quốc. Có sách gọi ông là Lý Khắc (có lẽ vì âm Khắc và âm Khôi gần nhau), có sách gọi ông là Lý Đoái (vì chữ Khắc 克với chữ Đoái 兌 rất giống nhau). Ông làm quan thú đất Thượng Địa rồi làm tướng quốc cho Ngụy Văn hầu, không rõ năm sinh tử, chỉ biết sống ở hậu bán thế kỷ thứ 4. Tương truyền ông viết bộ Pháp kinh gồm 6 thiên và Thương Ưởng sau này dùng bộ đó để biến pháp ở Tần. Bộ đó đã thất lạc. Ông lại có công đưa ra thuyết “Tận địa lực” tức tăng gia nông sản tới mức tối đa.

Hàn Phi chịu ảnh hưởng ít nhiều của ông và trong thiên XXX – Nội trừ thuyết thượng (coi phần dịch) có nhắc tới ông như sau:

Khi làm quan thú Thượng Địa, muốn cho dân nơi đó bắn giỏi, ông ra lệnh rằng hễ trong việc tranh tụng mà còn hồ nghi thì cho hai bên bắn vào đích, ai bắn trúng sẽ thắng kiện, ai bắn trật sẽ thua. Dân đua nhau tập bắn, hoá ra bắn giỏi, nhờ vậy mà khi chiến tranh với Tần, ông đại thắng.

Ngô Khởi

Ông chính là một Binh gia, nhưng đồng thời cũng là một Pháp gia về thực hành: Binh gia và Pháp gia tinh thần có nhiều điểm giống nhau. Ông sống cùng thời với Lý Khôi, mới đầu là tướng quân nước Sở, sau làm quan thú đất Tây Hà và tướng quốc cho Ngụy Vũ hầu, con Ngụy Văn hầu, sau cũng làm tướng quốc cho Sở Điệu vương. Theo Hàn Phi thì thời của Hàn, người ta chứa cất nhiều sách của Thương Quân, Quản tử, Tôn tử, Ngô tử. Ngô tử tức Ngô Khởi và bộ binh thư của ông gồm 18 thiên.

Khi làm quan thú đất Tây Hà, muốn triệt hạ một cái “đình của Tần ở biên giới mà không phải trưng binh, chỉ dùng dân trong miền thôi, ông nghĩ ra một thuật: chống cái càng xe ở cửa bắc, bảo ai dời nó qua cửa nam thì sẽ được thưởng ruộng và nhà thượng hạng. Mới đầu dân không tin, chỉ cười; sau đó có một người cứ thử dời đi, quả nhiên được thưởng như đã hứa. Một lát sau ông đặt một thạch (10 đấu) ở cửa đông bảo ai dời qua cửa tây thì cũng sẽ được thưởng như trước; dân tranh nhau dời đi. Rồi ông lại ra lệnh hôm sau đánh chiếm cái đình, người đầu chiếm được sẽ được phong chức đại phu, thưởng ruộng và nhà thượng hạng. Dân tranh nhau tấn công, chỉ trong buổi sáng chiếm được. Có lẽ Thương Ưởng sau này dùng thuật đó để được lòng tin của dân chúng nước Tần trước khi ông biến pháp.

Làm tướng quốc nước Sở, thấy quyền thế bọn quý tộc quá lớn, ông muốn tước bớt, khuyên vua ra lệnh rằng con cháu các vị hầu được phong đất, cứ ba đời thì thu tước lộc lại. Ông có lẽ là người đầu tiên dám tấn công bọn quý tộc, họ rất oán ông, chặt chân tay ông khi Điệu vương chết, nghĩa là chỉ một năm sau khi kế hoạch của ông được thực hiện.

Hàn Phi trọng và thương ông muốn cho Sở được phú cường mà phải chết thảm, nên hai lần nhắc tới ông trong tác phẩm của mình, một lần thiên XXX, một lần thiên XIII. Trong thiên XIII, Hàn viết: “Sở không dùng Ngô Khởi bị mất nước và loạn, Tần thi hành pháp của Thương Quân (tức Thương Ưởng) mà phú cường. Lời hai ông ấy đều đúng mà Ngô Khởi bị chặt chân tay, Thương quân bị xe xé thây là tại sao? Tại bọn đại thần oán pháp thuật mà dân chúng ghét sự cai trị.”

Thân Bất Hại

Quản Trọng và Tử Sản đều tôn trọng đạo đức, vẫn còn tư cách của Nho gia. Thân Bất Hại mới cho chính trị ly khai đạo đức, nên có người cho chính ông mới thực là thuỷ tổ của Pháp gia. Ông thuộc giai cấp địa chủ mới nên mới chống lễ, đề cao pháp.

Thiên 63 trong Sử ký, Tư Mã Thiên sắp ông chung với Hàn Phi và cho biết qua loa về đời của ông. Ông gốc gác đất Kinh 京thuộc nước Trịnh, (đừng lầm Kinh 荊 là nước Sở), mới đầu làm một chức quan nhỏ ở Trịnh. Chuyên học về hình danh (học thuyết của phái Danh gia), sau được Chiêu Ly hầu nước Hàn (Trịnh lúc này đã bị Hàn thôn tính) dùng làm tướng quốc.

Trong 15 năm – từ – 351 đến – 337, 11 có sách chép là từ – 355 đến – 341, xê xích 4 năm – nhờ tài nội trị và ngoại giao của Thân mà Hàn thành một nước mạnh, không bị nước nào xâm lấn cả.

Thân để lại hai thiên, nhan đề là Thân tử.

Về năm sinh năm tử, Sử ký không cho ta biết. Các học giả đời sau đưa ra hai thuyết:

– Sinh năm – 401, mất năm – 337 (“- ” trước Tây lịch).

– Sinh năm nào chưa quyết, mất năm – 341.

Chúng ta còn nhờ năm – 376, nước Tấn chia ba thành Ngụy, Hàn, Triệu. Trong ba nước đó, Hàn nhỏ nhất, đất lại khô cằn, dân chúng nghèo khổ. Khi Thân Bất Hại làm tướng quốc cho Chiêu Ly hầu, nước Hàn mới thành lập được độ vài chục năm, chưa tổ chức kịp, luật lệ cũ của Tấn chưa bỏ mà lại ban thêm luật lệ mới, có khi mâu thuẫn nhau, nội chính rối loạn, quan lại không biết áp dụng luật lệ nào, kẻ dưới có khi không phục tùng kẻ trên. Thân Bất Hại phải lập lại trật tự trước hết, theo thuyết hình danh (danh phải đúng với thực), chủ trương “tôn quân, ti (trái với tôn) thần, sùng thượng ức hạ”. Ông chú trọng nhất đến “thuật”, tức phương tiện, mưu mô để đạt được mục đích: vua chọn và dùng bề tôi cách nào, thử tài họ, điều tra họ ra sao.

Cuốn Thân tử đã không còn, học thuyết của ông, chúng ta chỉ biết được đại khái nhờ ít đoạn trong thiên Định pháp (coi phần trích dịch ở sau) của Hàn Phi.

Gần đầu thiên đó, Hàn viết: “Thuật là nhân tài năng mà giao cho chức quan, theo cái danh mà trách cứ cái thực (tức là nói sao thì phải làm đúng như vậy, hoặc giữ chức vụ nào thì phải làm đúng nhiệm vụ); nắm quyền sinh sát (cho sống hay bắt bề tôi chết) trong tay, mà xét khả năng của quần thần. Đó là cái mà bực vua chúa phải nắm trong tay.”

術者,因任而授官,循名而責實,操殺生之柄,課群臣之能也,此人主之所執也

(Thuật giả, nhân nhiệm nhi thụ quan, tuần danh nhi trách thực, thao sát sinh chi bính, khóa quần thần chi năng giả dã, thử nhân chủ chi sở chấp dã).

Gần cuối thiên Hàn Phi lại viết: “Thân tử bảo: “Quan lại không được vượt chức, dù biết cũng không được nói” (治不踰官,雖知弗言 – Trị bất du quan, tuy tri bất ngôn).

Nghiã là theo thuật hình danh, giữ một chức quan nào đó thì phải làm đúng chức quyền của mình thôi, việc gì ngoài chức quyền thì dù biết cũng không được nói 12.

Cũng trong thiên đó Hàn Phi chê Thân Bất Hại chỉ chuyên dùng thuật, không lo về pháp, nên có kẻ lợi dụng sự mâu thuẫn giữa lệnh cũ của Tấn và luật lệ mới của Hàn mà làm nhiều điều gian trá, thấy luật lệnh nào có lợi cho họ thì họ theo. Do đó, Hàn có một vạn cỗ chiến xa, Thân cầm quyền được mười bảy năm mà Hàn không làm bá chủ được. Lời đó có phần nghiêm khắc quá. Thân không đưa Hàn lên ngôi bá chủ được vì có những nước mạnh hơn Hàn nhiều như Tần, Sở, Tề, Triệu, nhất là nước Tần lúc đó đã lớn lại có Thương Ưởng giúp mà hùng cường lên rất mau. Hàn làm sao bằng được? Về nội trị, ông có lẽ chưa diệt hết bọn tham nhũng như Hàn Phi trách, nhưng về ngoại giao, ông giúp cho nước Hàn khỏi bị xâm lấn, như vậy cũng đã khá rồi.

Trong thiên XXXIV – Ngoại trừ thuyết hữu thượng, Hàn còn dẫn một đoạn của Thân, đại ý khuyên bậc vua chúa phải có cái thuật “bí hiểm” đừng để lộ ra cho bề dưới biết sự sáng suốt hay không sáng suốt, sự hiểu biết hay không hiểu biết, sự yêu hay ghét của mình; nếu không kẻ dưới đề phòng, tìm cách gạt, nhử mình. Cuối cùng Thân bảo “Ta không dựa vào đâu mà biết người (bề tôi) được, chỉ có vô vi (không làm gì cả) là có thể dò xét được họ mà thôi”. Có lẽ vì câu đó mà Tư Mã Thiên bảo học thuyết của Thân gốc ở Hoàng, Lão chăng? Bộ Thân tử đã thất truyền, chúng ta không biết chắc được Thân đã chịu ảnh hưởng của Lão tử tới mức nào: nhưng xét chung thì phép vô vi của pháp gia khác xa thuyết vô vi của đạo gia – Điểm này chúng tôi sẽ xét kỹ trong một phần sau.

Chiến quốc sách (Hàn sách III – 5) chép lại chuyện dưới đây của Thân Bất Hại: Hàn với Ngụy là hai nước ngang hàng nhau mà Thân Bất Hại với Chiêu Ly hầu cầm khuê ngọc lại yết kiến vua Lương (tức vua Ngụy), không phải là thích sự ti tiện mà ghét sự tôn quý, cũng không phải là vụng suy mà tính lầm. “Thân Bất Hại mưu tính như vầy: “Ta cầm ngọc khuê yết kiến vua Ngụy, vua Ngụy tất tự đắc rằng Hàn phải thần phục mình, tất sẽ miệt thị thiên hạ, thế là nguy cho Ngụy vì chư hầu ghét Ngụy tất sẽ thờ Hàn, mà ta chịu khuất thân dưới một người để được duỗi mình trên vạn người. Làm cho binh lực của Ngụy suy nhược đi mà làm cho quyền thế của Hàn mạnh lên, thì không gi bằng triều phục Ngụy”. Rồi khen Thân “Chiêu Ly hầu thi hành kế đó quả là một vị minh quân; Thân Bất Hại mưu tính việc nước mà bày kế đó, quả là một trung thần”. Chuyện đó có thể tin được mà cho ta biết một “thuật” nữa của Thân Bất Hại về ngoại giao. Rõ là cái không khí của thời Chiến Quốc, thời của các biện sỹ áo vải mà Thân Bất Hại là một.

 

Cẩu Sự: Tuất hay Chó – Nguyễn thị Cỏ May

Năm dương lịch 2018 nhằm năm Tuất theo Âm lịch. Phần lớn người Việt Nam quen gọi năm con Chó. Người Pháp cũng gọi năm con Chó – L’Année du Chien. Nhưng «Tuất» phải có nghĩa là «Chó» hay không?

Theo nhà Việt học Nguyễn Cung Thông, thì «Tuất / Chó» là biểu tượng chỉ năm thứ 11 trong 12 con Giáp theo Âm lịch. Ông nói rỏ thêm «Các dữ kiện ngôn ngữ, đặc biệt khi xem lại các từ Hán cổ liên hệ, đều cho thấy nguồn gốc phi-Hán (không phải của Tàu) như nhiều người đã lầm tưởng từ Đông sang Tây và qua bao ngàn năm nay».

Các hình khắc/vẽ của chữ Tuất cho thấy hình cây kích (bộ qua 戈 là cái mác). Các dữ kiện ngữ âm trên cho ta một kết luận là Tuất không có liên hệ gì đến loài chó trong tiếng Hán, phản ánh qua các cách gọi khuyển 犬, cẩu 狗, hiêu/kiêu 獢, hiểm 獫 … So sánh các quá trình hình thành các chữ khuyển (tượng hình, hình loài thú như chó) và cẩu (cũng thuộc bộ khuyển) – xem hình bên dưới. Nếu chữ Tuất có nguồn gốc tượng hình (loài chó như chữ khuyển) thì khó mà đặt vấn đề về nguồn gốc phi-Hán của tên 12 con giáp.

Tóm lại, Tuất trong cách gọi năm Tuất (12 con giáp) không có liên hệ nào tới loài chó hay cách gọi chó trong tiếng Hán như khuyển, cẩu, sử/sứ, li, lang, ngao, ngan … Tên gọi Tuất (qua một dạng âm cổ phục nguyên *swot đề nghị trong bài này) liên hệ đến chó có khả năng đến từ phương Nam, như từ ngữ hệ Mon-Khme mà tiếng Việt cổ là một thành viên quan trọng. …(Nguyễn Cung Thông, Tuất, internet)

Cũng nói về chữ Tuất/Chó, Giáo sư Hán nôm Đại học Văn Khoa Sài gòn Nguyễn văn Sâm cắt nghĩa rất đơn giản, chắc dễ được nhiều người chia sẻ hơn. Theo ông, thì «người xưa đặt ra 12 cửa, mỗi cửa đặt ra cái tên gì đó cho dễ nhớ thôi để chỉ 12 chi trong lịch Tàu. Từ cái tên khó nhớ Tý, Sửu, Dần…. Người xưa, đặt thêm các con vật vô đó cho người bình dân dễ nhớ.

Ông không cho rằng Tý, Sửu, Dần, Mẹo… là tiếng Việt xưa chỉ Chuột, Trâu, Cọp, Mèo bị biến thể.

Ông nhắc lại đề 36 con ở Sài gòn ngày xưa, tức «Đề Cổ Nhơn ». Mỗi con số họ cho ứng với 1 con vật và ứng với một nhân vật của Tàu. Người Việt nam bỏ qua nhân vật Tàu mà chỉ nhớ con vật thôi. Từ đó mới có số 2 là con ốc, số 31 là con tôm (ai còn nhớ 2 con vật này ngầm chỉ cái, con gì liên hệ tới con người?), và số 35 là con dê…

Chuyện nầy cũng giống như chuyện thời VNCH, các ứng cử viên Dân biểu đều kèm theo tên của mình một cái hình biểu tượng. Điều đó không có nghĩa cái tên = cái hình, là nghĩa của cái hình…

Tóm lại «Tuất» hoàn toàn không có nghĩa là chó. Nó là tên chỉ một CHI, cửa thứ 11 trong thập nhị chi của lịch Tàu mà thôi».

Quan điểm về chó

Chó là con vật có nhiều tên hơn Mèo tuy cả hai đều sống thân cận với gia chủ. Tên ở đây không phải là tên gọi do gia chủ đặt riêng cho nó mà đó là những cách gọi khác nhau chủ yếu chỉ nhằm tránh phải gọi “chó”. Người cựu học thâm nho thì gọi “mộc tồn” vừa cho có chữ nghĩa thánh hiền, vừa biểu lộ tính “cao quí” của một tầng lớp sinh vật. Phái tân học gọi “cầy tơ” chủ về nền văn minh phi vật thể ẩm thực của nhơn loại. Kẻ chủ trương hưởng lạc theo trường phái triết gia Épicure (Hy-lạp ở Athènes trước công nguyên) không ngần ngại quả quyết đó là “sống trên đời”. Đến thời kháng chiến chống pháp, Việt minh cộng sản lập thành tích “hạ cờ tây” để chào mừng bác đảng ! Nhơn dân đồng bằng xứ Nam kỳ nói một cách đơn giản, nhưng rất gần gủi vừa phảng phất mùi «quốc lủi» (rượu đế) “Nai đồng quê”.

Cách gọi đã khác nhau thì khi đi vào thực tiển, chó cũng cho loài người nhiều món nổi tiếng khác nhau. Chó có tiếng sủa vang. Loài người khi luận về chó cũng lắm ý kiến, quan điểm khác nhau, chống đối nhau ỏm tỏi.

Người phương Tây yêu quí chó vì chó là người bạn trung thành, thông minh, luôn được nhắc tới với ngụ ý tốt. Nhưng chó, theo quan niệm phương Đông hay Việt Nam nói riêng, không phải trường hợp nào cũng gợi tới điều hay, ý tốt. Điều đó được thể hiện khá rõ trong kho tàng tục ngữ, ca dao. Bên cạnh những thành ngữ ca ngợi đức tính trung thành của con chó như “nhứt khuyển nhì mã” thì cũng có những thành ngữ, tục ngữ với hình ảnh con chó hàm ý không tốt đẹp như “chó dại cắn quàng” hay “giỡn chó, chó liếm mặt”. Nếu nói rằng người Việt ta ai cũng yêu mến, quý trọng chó thì không hẳn đúng. Đến như người Mỹ, Pháp, Anh, Đức, …có tiếng là thương chó “Gia đình thường gồm có vợ chồng và con chó” mà vào mùa hè họ vẫn đem chó vứt bỏ ngoài đường để đi nghỉ hè. Hết hè, trở về lại tìm mua chó nuôi nữa.

Yêu chó, quý chó hay ghét chó, khinh chó. Đó là quan điểm riêng của mỗi người. Nói ai đúng, ai sai, đều là cách phản ứng chủ quan, nặng tinh thần phe cánh. Tranh cải nhau lại càng vô lý, vô duyên.

“Cẩu sự” là vậy. Còn “cẩu nhục” thì sao? Thịt chó đơn giản chỉ là một món ăn!

Trên thực tế sẽ không đơn gìản như vậy. Những người yêu chó, quý chó thì không nở ăn thịt chó. Chứ không vì minh là người văn minh, đầy tính nhân bản. Còn người thích ăn thịt chó, thì bảo vệ quan điểm “sống trên đời không ăn thịt chó, mai kia xuống âm phủ, biết có hay không?”

 Thịt cầy, lịch sử và đạo lý

Làm món thịt cầy (La cynophagie) là một bộ môn thuộc nghệ thuật làm bếp và văn hóa ẩm thực có từ xa xưa của nhiều xứ á châu như Việt Nam, Tàu, Triều Tiên, …và Phi châu. Riêng ở Nam dương, dân Công giáo hưởng ứng nền văn minh ẩm thực này. Phần còn lại, đại đa số là dân hồi giáo thì kiêng cử như kiên cử thịt heo.

Nhiều nước Âu châu phản đối ăn thịt cầy vừa bày tỏ sự ghê tởm. Vào cuối thế kỷ XX, luật pháp còn ngăn cấm nghiêm ngặt việc giết cầy làm thịt. Nhiều Hội bảo vệ thú vật ra đời. Ở Pháp có nữ minh tinh Brigitte Bardot làm Hội trưởng APA (Association de la Protection des Animaux) hoạt động tích cực. Bà di chuyển bằng phi cơ. Tới kỳ bầu cử Tổng thống, bà ủng hộ ai, người đó sẽ có nhiều may mắn đắc cử.

Nhưng ăn thịt cầy lại rất phổ biến vào thời cổ đại la-mã và ờ vài nơi khác. Thịt cầy hầu như chưa bao giờ thật sự vắng bóng ở Âu châu. Vào đầu thế kỷ qua, người ta còn thấy vài tiệm thịt cầy ở Pháp. Ở cuối thế kỷ XIX, ở Paris đầy rẫy tiệm thịt cầy. Và chợ bán chó họp chợ ngay trên đường Saint Honoré, một đường phố sang trọng ngày nay.

Người ta không ăn thịt cầy từ khi những con vật được phân loại “thú rừng”, “thú nhà” như heo, gà, vịt, … và “thú thân cận” như chó, mèo, …Tuy nhiên việc ăn thịt cầy dường như ngày nay vẫn còn duy trì trong chốn riêng tư. Như ở vài vùng quê hẻo lành ở Thụy sĩ. Trái lại, thịt cầy lại được ưu đải ở Tàu, Triều tiên, Việt nam. Ở Tàu, mỗi ngày có hơn 30 000 con chó bị làm thịt và mỗi năm có tới hơn 10 triệu con tẩm bổ cho các chú Ba Tàu khá giả. Ở đây có cả trại chăn nuôi chó thịt. Riêng ở Hồng kông thịt chó bị cấm. Vì ảnh hưởng nền văn minh anh quốc? Vài tôn giáo ở Á châu như bà-la-môn, hồi giáo, cấm ăn thịt chó như thịt heo. Phật giáo ngăn cấm các thứ thịt do cấm sát sanh. Riêng các hệ phái thiên chúa giáo tỏ ra dễ dải với việc ăn hay không thịt cầy và các thứ động vật khác.

Không ăn thịt cầy, không phải người Việt Nam Trong tháng 4 vừa qua, xảy ra việc tranh cải chung quanh một dỉa thịt cầy: 1/ Tại sao người Việt nam ăn thịt cầy? 2/ Bạn (là người Việt nam) có ăn thịt cầy không?

Vì người âu châu ngày nay không còn mấy người ăn thịt cầy nữa nên câu hỏi đó đặt ra cho một người Việt nam, nhứt là người Việt nam đến từ Miền Bắc, không thể không hàm ý một biểu hiện kỳ thị. Thật ra người Việt nam ăn thịt cầy nhưng không phải ăn bất kỳ loại cầy nào. Họ chỉ ăn loại cầy thịt, tức loại cầy có vóc dáng nhỏ. Được cầy hương là ngon tuyệt. Thông thường thì vàng hơn mực. Nhưng không có thì cầy nào cũng được. Còn hơn không ! Loại cầy to lớn của Âu châu, họ không ăn. Một phần vì thịt không ngon. Mặt khác, loại cầy này được nuôi để phục vụ đời sống con người nên chúng trở thành thân thiết và hữu ích. Như cầy đi săn, kéo xe, bảo vệ, chiến đấu, giử nhà, … Về quan hệ thân thiết giửa người với loài vật thì người Âu châu có con chó, người Việt nam chúng ta có con trâu: “Trâu ơi, ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta. Cấy cày vốn việc nông gia. Ta đây, trâu đó, ai mà quản công” nên người Việt nam kiên cử thịt trâu cũng giống như người âu châu kiên cử thịt cầy. Nếu nói rằng người Việt nam có tập quán ăn thịt cầy ví xứ thiếu chăn nuôi nên thiếu thịt là điều không đúng. Họ ăn thịt cầy vì sở thích ẩm thực mà không vì thiếu thịt. Đổi cái đùi cầy lấy cái đùi heo, chưa chắc họ chịu đổi. Đó là điều cho thấy tại sao người viêt nam thích ăn thịt cầy: «Đúng, thịt cầy rất đặc biệt – miếng thịt cầy thường có đầy đủ các thành phần: nạc có, mỡ có, da cưng cứng có… nạc không ra nạc, mỡ chẳng ra mỡ – nạc của nó không bã ra như miếng sắn dây đầy xơ, cũng không phải cắn phòi mỡ ra như thịt lợn béo… thịt cầy ăn có một vị gây gây, nhưng cái gây gây đó là gây gây dạng ma túy, người ta hoàn toàn có thể ghiền vì nó được. Miếng thịt bò gây gây, ăn mùa đông nguội là mỡ có thể đông cứng trên miếng thịt, nhưng miếng thịt cầy làm khéo, kể cả nguội vẫn mềm và vị gây của nó thì hoàn toàn không bị chán. Chính thứ mỡ màng ấy của nó, khi nó chảy, cháy trên lửa nướng làm cho nhiều người đang đi đường, hít mùi mà cầm lòng không đậu, phải dừng bước ghé vào … Đến nỗi câu cầy tơ bảy món: luộc, nướng, chả, nhựa mận, xáo, đùi nhừ hoặc gan nướng cuốn mỡ chài, dồi nghe âm vang như lời một giáo chủ hiệu triệu tín đồ vậy»!

Dân ăn thịt cầy sành điệu thường phân biệt «con chó với con má». Theo sự phân biệt này, con chó là con vật khôn. Nó không bao giờ ăn thịt đồng loại. Còn con má là con vật ngu, gặp thịt là ăn, không biết phân biệt. Ăn thịt cầy là ăn thịt con má này. Nhưng khi ăn thịt cầy, có ai biết phân biệt không?

Ở Sài gòn sau 30/4, người dân thường chửi đổng, nhắm vào VC, những lúc bất mãn “Nay là thời chó đẻ”. Nhưng bị sửa lại “Thời chó chết” mới đúng vì “chó đẻ” là chó còn sống được nên mới đẻ.

Giám mục Seitz phục vụ ở Việt nam, đặc biệt vùng Cao nguyên, ghi hồi ký gồm 93 trang, hai Phần. Ông bắt đầu ngày 7 tháng 4/1975 với tựa sách “ Thời chó câm” (Le Temps des chiens muets). Sau đó, ông bị trục xuất về Pháp (nghe nói ông bị giáo hội rút về để tránh đụng chạm vô ích trong vấn đề ngoại giao?). Ông điều khiển một Chủng viện ở ngoại ô Paris, vùng Marne la Vallée, đem theo vài chủng sinh gốc Thượng. Trong số chủng sinh này, có người đậu Cử nhơn Triết ở Sorbonne hiện có vợ đầm, sanh sống ở Vendée, miền Tây-Bắc nước Pháp. Có ngưòi làm thợ Điện tử nhưng cậu này lúc nào cũng chờ để trở về xứ. Người sau cùng trở thành Linh mục và hiện phục vụ tại một giáo xứ của Paris XV.

Ai cũng biết khi Hồ Chí Minh tới, chẳng những chó không dám sủa mà cũng muốn vượt biển nữa. Không riêng gì chỉ có con người!

Vậy năm nay Chó tới, chớ không phải Hồ Chí Minh tới, thì liệu Bà Con vượt biển sau 30/04/1975 sẽ trở về quê hương chăng:

…”Chó mừng tân chủ rỡ ràng

Bôn phương tấp nập lên đàng hồi hương

Long Hoa muôn thuở biên cương

Việt Thường con cháu Tiên Rồng vẻ vang.”(*)

(*) Lời Sấm của Bà Liễu Hạnh về cơ dạy về tình hình Vìệt nam năm 1938 được Cụ Dương Bá Trạc ghi tại Đền Ngọc Sơn ở Hà Nội, có mặt Lm Lê Quang Oánh.

 

Năm 2018, Người Ta Yêu Nhau Như Thế Nào?

Ngày nay, nếu có người chịu mất thì giờ tìm «Thơ định nghĩa Tình yêu» chắc chắn sẽ có không dưới cả ngàn bài. Đủ thể loại. Nhưng ai cũng đều phải thừa nhận bài thơ định nghĩa Tình yêu của Xuân Diệu vẫn giữ nguyên giá trị vượt thời gian. Đọc lên, người đọc, nhứt là lớp lão thành, sẽ khó tránh cái cảm xúc lâng lâng, man mác, như đang sống lại cái thuở đang yêu. Đang âm thầm yêu một bóng dáng nào đó:

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu!

Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,

 Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu.

Rồi một ngày mai tôi sẽ đi.

Vì sao, ai nỡ bỏ làm chi!

Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá

Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.

(Vì sao – Xuân Diệu)

Năm 2018, người ta vẫn yêu, nhưng chắc không «khờ khạo», cũng không «ngu ngơ», lại càng không «Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì» như lớp tiền bối của hơn 70 năm về trước. Mà họ yêu nhau như thế nào?

Một đàn ông, một đàn bà, một cặp vợ chồng và sự thủy chung

Trước đây, người ta nghĩ khi một nam, một nữ hay cả hai cùng nam, cùng nữ hợp nhau lại, đó là vợ chồng hay một cặp  (un couple – la-tinh là copula, nghĩa là quan hệ, liên hệ). Họ có thể sống chung với nhau dài hạn, suốt đời hay ngắn hạn, chỉ một đêm thôi. Nhưng đến nay, năm 2018, tình yêu bắt đầu thay đổi sâu sắc. Họ có nhiều cách yêu nhau, sống chung với nhau mà mới hôm qua, chưa ai nghĩ tới. Như «vợ chồng với chính mình», «cặp lưỡng phân», «cùng yêu nhiều người», …

Khó nói sự thay đổi trong yêu đương hay trong việc kết hợp sống chung hiện nay là tốt hay xấu, tiến bộ hay thoái trào. Thực tế xã hội Pháp, cũng như xã hội của nhiều nước khác, không khác nhau hơn từ nhiều năm nay: hôn nhơn tan vỡ vẫn chiếm một tỷ lệ cao, trong lúc đó, sự kết hôn ngày càng ít đi. Ở Pháp, từ năm 1980 tới năm 2016, mỗi năm số nam/nữ kết hôn kém đi 100000 đám. Ly dị xảy ra hàng loạt: 9% vụ kết hôn trong năm 2000 gãy đổ trước năm thứ 5 sau đám cưới. Phải chăng vì vậy mà người ta bảo là ngày nay không còn hôn nhơn hay vợ chồng nữa bỡi trong thực tế, hai người đang sống chung với nhau, khi cảm thấy «kẻ kia» không đem lại hạnh phúc cho mình như mong đợi thì lập tức, chia tay nhau.

Theo kết quả điều tra (Ifop, 2017), có 1/3 phụ nữ và ½ đàn ông không thể giữ thủy chung với nhau được.

Vậy làm thế nào giữ đời sống lứa đôi hay yêu nhau bền bĩ? Từ đây, một hình thức yêu nhau kiểu mới xuất hiện công khai ở Paris vào tháng 10/2017, dưới tên tạm gọi là «vợ chồng hay yêu nhau với chính mình» (sologamie). Nhơn vật chánh trong đám cưới với chính mình hôm ấy là một phụ nữ, với trang phục lộng lẫy như trong đám cưới của cặp trai gái, với đầy đủ nữ trang, hoa cưới.

Theo các bà trong cuộc, tự cưới thật sự là một cách để nâng cao tinh thần của kẻ mà tình trạng sống độc thân đang đè nặng. Paris đang sôi nổi về hình thức tự cưới này nhưng vẫn chưa phải là nơi đầu tiên. Tháng 12/1993, một phụ nữ người Mỹ, bà Linda Baker, mới là người đầu tiên làm đám cưới với chính mình.

Hình thức tự cưới hay mình yêu chính mình cho tới nay được khá nhiều phụ nữ chọn vì theo các bà thì đây chính là bước đầu dẫn tới đời sống không còn mặc cảm đè nặng, mà thật sự hạnh phúc. Bởi còn gì bằng khi mình làm tình với chính người mình yêu! Và yêu hết mình hơn bất kỳ ai khác.

Đã có đám tự cưới thì lập tức xuất hiện những cửa hàng chuyên lo tổ chức đám cưới, cũng với bánh cưới, âm nhạc, chứng từ hôn nhơn (cho đủ bộ), nhẫn cưới, … Tất cả để nhắc nhở đương sự quả thật mình đúng là một nhơn vật phi thường!

Nhựt bổn có tiếng là xứ nơi trai gái đầy rẫy «ế vợ, ế chồng» chắc chắn sẽ có nhiều cô cậu vui mùng lao mình theo con đường ái ân mới này. Nghe nói giá một đám cưới như vậy, ở Kyoto, không dưới 3000€.

Cuộc bạo loạn tháng 5/68 do sinh viên khởi động ở Paris, rồi lan ra khắp nước Pháp, với sự nhập cuộc của thợ thuyền, kéo dài cả tháng, đã phá nát cái trật tự xã hội cũ của Pháp. Ảnh hưởng biến loạn này, không ít người Pháp ngày nay chạy theo tôn thờ tự do cá nhơn, cả trong đời sống vợ chồng hay lứa đôi. Theo quan niệm này, sự tự túc là yếu tố giữ quân bình cho đời sống hai người. Vợ chồng hay cặp đôi kết hợp theo quan niệm này được gọi là «vợ chồng hay cặp lưỡng phân» (un couple fissionnel – Serge Chaumier, sociologue), đối lập lại sự kết hợp theo truyền thống thừa hưởng từ thế kỷ XIX. Trong đời sống của cặp lưỡng phân, hai người vừa sống chung, mà cũng vừa hoàn toàn tự do tìm cho mình sự độc lập theo nhu cầu sinh lý riêng. Tuy nhiên không vì thế mà họ từ khước tình yêu nhau. Nếu nói đó là ngoại tình thì sự ngoại tình trong trường hợp này của hai người trở thành hiển nhiên. Một cách gọi khác, đó là «tình yêu mở» (amour open) vì nó không phụ thuộc vào một giới hạn thường tình nào cả. Sự thủy chung với nhau được tính ở thời gian, ở sự bền vững, chớ không căn cứ trên cơ sở người này là sở hữu riêng của người kia. Điều quan trọng là ở cặp lưỡng phân hoàn toàn không có sự thay thế người này bằng một người khác, mà chỉ có nhu cầu bổ sung cho nhau. Nên nhờ đó mà không có đổ vỡ hay xa nhau. Cách kết đôi này hiện nay hãy còn ít nhưng đang trên đà phát tiển nhanh chóng. Có những cặp có con với nhau, cùng nuôi con đàng hoàng nhưng vẫn giữ sự độc lập để quan hệ bạn tình của mình.

Khi nói tình yêu lưỡng phân, không thể không đề cặp tới một thứ yêu đương hay sống chung khác nhưng rất tương cận. Đó là «tình với nhiều người» (polyamour). Không phải đa tình. Hình thức liên hệ công khai này hiện nay rất phổ biến trong lớp tuổi ba mươi. Gọi «polyamour» do chữ «polyamory» và do một phụ nữ người Mỹ ở California, bà Diana Moore, lập ra vào thập niên 90. Chủ thuyết rất đơn giản: để tìm hạnh phúc tuyệt vời của ái ân khi nhận thấy đời sống lứa đôi theo xưa, một vợ một chồng, không đem lại cho hai người sự thỏa mãn. Họ tìm những quan hệ mới, mà không bị ràng buộc, và mọi người đều biết cách sống của họ như vậy. Trước đây, ở Paris, có lẽ cặp Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir có thể là trường hợp điển hình.

Một bà 27 tuổi đang thật sự sống «tình với nhiều người», cảm thấy rất hạnh phúc nên đã reo lên «Ôi cách sống này đã làm cho tôi nhiều lúc phát điên lên được!». Bà đã kết hôn, giữ một vợ một chồng được vài năm nhưng bà không chịu nổi. Bà bắt đầu cảm thấy tâm thần bấn loạn, cảm thấy như hình ảnh của bà bị phai nhạt. Một tâm trạng bất bình thường. Thế là bà tìm đường tự giải thoát mình. Bà quan tâm nghe kể chuyện về những kinh nghiệm quan hệ với nhiều người, mỗi trường hợp là một niềm sung sướng khác nhau. «Polyamour» hoàn toàn khác với những cặp ngoại tình vì nó xây dựng trên sự trong sáng, công khai, kính trọng những người bạn tình khác nhau nên không có tranh chấp hay xung đột vì ghen tương.

Ở Paris, nơi tìm bạn tình để sống «tình với nhiều người» là «Café Poly» mở cửa năm 2008. Lúc đầu, khách hàng chỉ có mươi người tới để chia sẻ nhau những kinh nghiệm ái ân. Chỉ ít lâu sau, số người lui tới đây đã vọt lên hàng trăm. Họ gồm trí thức, da trắng, có kẻ ăn thuần chay (Végan). Chắc chắn Cafe Poly sẽ bị tràn ngập trong những ngày tới vì mạng internet.

Và internet cũng giúp mở ra nhiều cánh cửa dẫn đến sự thỏa mãn tình yêu. Người ta dùng một phương pháp toán học như chiếc đũa thần (algomatching) để tìm bạn tình.

Người ta khai triển những phép toán dựa trên những dữ kiện cá nhơn, kết quả cho ra một danh sách nhiều người để chọn làm bạn tình cho một đêm hay dài hạn. Phép toán này biến những người muốn tìm tình yêu trở thành người tìm được tình yêu như ý muốn. Và tuyệt vời là nhờ nó mà những trái tim kết hợp với nhau.

Tuy nhiên cách tìm bạn tình theo phương pháp toán học, có đơn giản, nhưng không phải là thứ dành cho mọi người. Vả lại, gặp nhau, ưng ý nhau vẫn không phải là chuyện cố định để có thể xếp thành phương trình toán học. Nó còn là duyên với nhau.

Thử nghĩ trước hiện tượng xã hội mới này, tình yêu theo xưa trước đây sẽ biến mất chăng? Gia đình sẽ không còn cần thiết như nền tảng xã hội nữa? Nhưng nếu suy nghĩ của con người cũng nhanh chóng thay đổi theo đà diễn biến xã hội thì mọi thay đổi sẽ trở thành bình thường. Như những điều hiện nay chúng ta cho là bình thường và đang giữ nó như những giá trị qui chiếu.

 

Con chó đi lạc – Võ Kỳ Điền

Chú Cân khập khiểng chưn thấp chưn cao đi vô nhà bếp, cặp mắt ngó láo liêng. Căn bếp khá rộng, đồ đạc ngổn ngang. Chú thấy thầy An đương ngồi lặt một thúng rau muống, lá héo vàng bên cạnh hồ nước, vách đầy rêu xanh. Lần nào cũng vậy, khi đi ngang đây chú cũng thấy mấy thầy giáo làm anh nuôi, lặt rau. Hôm nay lại tới phiên thầy An. Cái ông thầy nầy dạy Sử mà lại có ngón đờn thật ngọt. Mấy ngón tay ổng lặt rau, cũng lanh như khi ổng gảy trên dây đờn. Thầy An thấy chú Cân lò dò tới, bèn hỏi:

-Chú muốn kiếm cái gì vậy ?

-Bữa hổm tôi có để một cuộn dây luộc trên đầu tủ, bữa nay sao mất tiêu kiếm hổng ra?

Nói rồi chú định quay đi. Cả người chú choán hết cái khung cửa cây nhỏ xíu.

Trong nhà bếp, ngoài nồi nêu, soong chảo, chén dĩa, còn có một đống cuốc xẻng  của ban lao động để ngổn ngang bên vách. Thầy An đưa tay chỉ một nùi dây dừa móc trên cây cột đen xám vì khói bếp:

-Phải chú muốn kiếm sợi dây nầy không ?

Chú mừng rỡ vói tay lấy, miệng trả lời:

-Ừa, vậy mà nãy giờ tôi kiếm hoài hổng thấy.

Cầm cuộn dây dài trong tay, dáng vui vẻ chú hỏi:

-Bữa nay thầy trực nhà bếp hả ? Sao hôm qua tôi cũng thấy thầy ở đây ?

-Đáng lẽ bữa nay tới phiên thầy Định. Nhưng tôi không thích dạy, bèn kiếm cách đổi với thẩy… Làm bếp cực nhưng khỏi phải nhức đầu.

Nói tới đó thầy bèn so sánh:

-Lẩm rẩm vậy mà tôi thấy chú ngon lành. Cả cái trường nầy có chú là sướng. Trên thì có anh Chín hiệu trưởng, kế đó là chú…

Rồi như sợ bị hiểu lầm, thầy An tiếp:

-Ở thời nầy không dính líu tới ngụy quân ngụy quyền, không nhà cửa, đất đai, tiền bạc mà lại có bà con cách mạng làm lớn thì là hạng nhứt, phải không chú Cân ?

Chú Cân vừa dợm đi, vừa trả lời:

-Trong trường ai cũng nói y như thầy mà tôi thấy có sướng gì đâu. Tháng nào tôi  cũng được tuyên dương cá nhân tiên tiến…

Rồi chú hạ thấp giọng, ngập ngừng:

-Tiên tiến mà không có tiền cũng hổng sướng…

Nói xong chú quay ra, cái chưn có tật đi khập khiễng, tay tháo lần cuộn dây. Sợi dây dừa nhỏ bằng ngón tay út được tuôn ra thẳng dài kéo lệt bệt trên sàn xi măng. Chú thắt một mối ở đằng đầu, lấy tay ướm ướm cho mối thắt chặt lại.

Nắng đã bắt đầu nong nóng. Ngoài sân trường ánh sáng chói chang. Căn phòng  của chú Cân ở cuối sân, cạnh kho chứa đồ cũ của nhà trường, cách nhà bếp một khoảng đất trống cỏ mọc lan tràn. Chú không có thì giờ để làm cỏ dọn dẹp.

Từ sáng sớm phải mở cổng trường, quét lớp quét sân. Công việc bề bộn kéo dài mãi cho đến chiều tối, nhứt là cho đến mấy ngày gần Tết như lúc nầy. Trong lớp ngoài sân chỗ nào cũng rác ngập đầu. Chú lo dọn dẹp hằng mấy chục phòng học vừa đủ hết hơi, còn sức đâu mà lo tới cái phòng riêng nữa. Cái phòng chỉ dành để ngủ, có được một cái giường và một cái bàn còn dùng được. Bên vách để một đống đồ cũ vụn vặt gồm có bàn học trò, ghế ngồi gãy chưn, bảng viết lủng lổ.

Hồi sáng nầy lúc trời còn lờ mờ tối, chú đương ngủ bỗng giựt mình vì nghe tiếng lục đục dưới gầm giường. Cứ tưởng là có ăn trộm, chú nằm im để lắng nghe. Có tiếng quào rột rột ở bên vách, hồi lâu có tiếng gâu gâu nho nhỏ. A, thì ra có con chó đi lạc vô phòng. Đương ngủ bị phá đám đâm bực mình, thuận tay chú với lấy thanh củi để kế bên quăng mạnh. Khúc củi lớn nặng, trúng cái bịch trên lưng, con chó kêu ẳng ẳng cong đuôi chạy mất.

Chú nằm cố ngủ nướng thêm một chút. Trời còn tối mò mò, giấc ngủ không chịu đến. Nằm trên giường mà đầu óc chú nghĩ ngợi lan man. Còn mấy ngày nữa là hết năm. Làm việc quần quật mà vẫn không dư một đồng một chữ để ăn Tết. Cuộc đời không buồn mà vẫn chưa thấy gì vui. Ngày tháng cứ lần lượt qua, tết nhứt tới hồi nào không hay. Đã trên hai mươi năm giúp việc cho trường nầy, chú quen mặt hầu hết các thầy cô giáo. Có người đổi tới rồi có người đổi đi.

Riêng năm nay, mới có mấy tháng mà trường đổi tới ba ông hiệu trưởng. Ông hiệu trưởng cũ người Bắc di cư, dáng nghiêm nghị, nói năng điềm đạm, chững chạc. Tuy vậy có nhiều lần ông nói chú không hiểu. Một hôm ông nhờ chú mua dùm gói thuốc hút. Chú lấy tiền rồi đi vụt ra cửa. Ông nói :

-Không gấp, làm gì mà cuống lên thế ?

Chú nghe xong ngạc nhiên quay trở lại, hỏi :

-Ông nói cái gì tôi không hiểu, cuống lên là cái gì ?

Thấy cái mặt chú ngơ ngác, mấy ông giáo sư ngồi bên cười ầm lên. Một lần khác trong bữa tiệc tất niên, ông hiệu nhờ chú mua thêm một ít lạc rang. Chú ngó quanh ngó quất, cuối cùng khều khều thầy Định hỏi nhỏ:

-Lạc rang là món gì vậy ?

Đến khi được thầy Định giải nghiã cho biết, chú tiu nghỉu:

-Sao ổng hổng chịu nói đậu phọng, tui đâu có hiểu tiếng Bắc !

Dù vậy chú vẫn kính nễ ông hiệu trưởng vì ông học rất giỏi. Các thầy cô giáo sư cùng học sinh cũng kính trọng và thương yêu ông lắm. Riêng đối với chú, ông hiệu rất vui vẻ, dễ chịu. Thỉnh thoảng ông thường cùng chú tâm sự. Chú ít nói mà thích nghe. Có món gì ngon ông thường rủ chú cùng ăn. Tình thầy trò cũng như tình anh em. Rồi ngày cách mạng về, ông hiệu của chú bị bắt đi học tập nơi khỉ ho cò gáy nào cũng không biết nữa. Chú buồn lắm. Ông hiệu mới tới người Nam, nghe nói lúc trước làm giáo viên bên trường tiểu học, có theo Việt Cộng một thời gian. Ông nầy thì quá tốt đối với chú, nói tiếng Việt Nam dễ nghe. Ngày ông mới về trường, trong buổi họp hội đồng giáo viên, ông đã mời chú ngồi ở hàng ghế danh dự rồi ca tụng chú không tiếc lời. Chú cảm động muốn khóc. Đầu óc suy nghĩ hoài mà cũng không hiểu tại sao mấy ông giáo sư học giỏi như vậy mà lại không được khen, trong khi đó sức học của chú còn thua mấy đứa học trò lớp nhỏ.

Chú có hỏi thầy An, thầy nầy giải nghiã:

-Nhà trường xã hội chủ nghiã đặt nặng trọng tâm lao động. Người nào lao động giỏi thì người đó được khen. Chú lao động giỏi nhứt, nhiều nhứt ở đây thì được khen là phải rồi, thắc mắc gì nữa…

-Ủa, tôi tưởng là trường dạy đọc sách với làm toán chớ. Ai ngờ bây giờ lại dạy lao động, ngộ quá hả.

Mà nói vậy đi học làm chi, dốt như tui coi bộ sướng hơn…

Thầy An gật đầu nói nho nhỏ:

-Bây giờ tụi tôi muốn dốt hết mà không được. Lỡ học giỏi, khổ muốn chết. Chú thấy ông hiệu của mình không ?

Rồi cũng không bao lâu lại đổi tới ông hiệu mới nữa. Ông nầy cũng người Bắc nhưng là đảng viên, tánh tình lại khó chịu. Tiếng Bắc của ông lại khác xa ông hiệu cũ. Ông nói nhiều chữ khó hiểu quá. Cái gì mà “đại bộ phận” “hạ quyết tâm” “chủ yếu ” “động viên” “quản lý “… chú hoàn toàn mù tịt. Ông khó tánh nên chú không dám hỏi lại. Phần lớn chú phải đoán mò, nhiều khi lịnh một đàng mà làm một nẻo. Ông lại ưa rầy la nạt nộ nhân viên. Thỉnh thoảng còn đi vô phòng chú ngó từ trên xuống dưới, lấy món nầy món kia đem về phòng riêng để dùng. Tết nầy chắc ông ta ở lại trường chớ làm sao mà về Bắc ăn Tết cho kịp…

Nghĩ vẩn nghĩ vơ một lúc chú chợt nhớ tới con chó. Phải chi có được một con như vậy cũng đủ vui với bà con lối xóm ba ngày Tết.

Ừ, mà tại sao chú không bắt lấy con chó đó làm thịt ? Hình dáng con chó hồi nãy hiện rõ trong đầu. Nó đứng gần cái cột vuông, bụng thon lưng dài, bốn cẳng cao cao, lông vàng vàng, cái đuôi chỏng lên trời. Cái loại chó vàng nầy có hạng lắm chớ. Ông già Sáu ở cuối xóm trong những cơn nhậu ba ngù thường ngâm nga câu thiệu “nhứt mực, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm”. Nó chỉ thua có con mực, còn loại chó đốm, chó vá, chó cò là đồ bỏ. Trời ơi, con chó ngon lành đứng ngay trước miệng, vậy mà chú tính không ra, đầu óc tối tăm thế nào mà lại đánh đuổi nó đi. Thiệt là uổng của trời. Có cái ngu nào lớn hơn cái ngu của chú sáng hôm nay hay không ?

Chú tức mình lấy tay đập xuống giường rồi chỗi dậy. Rửa mặt qua loa, chú cầm lấy cây chổi, bắt đầu công việc của một ngày. Công việc nhàm chán đã hai mươi năm qua không thay đổi. Từ các lớp chú quét lần ra ngoài hành lang. Rác rến đầy khắp. Chú phải đem ra đổ ở hố rác nhiều lần. Mãi cho đến cuối sân, trong ánh sáng mờ mờ, chú chợt thấy con chó đi vẩn vơ xung quanh gốc điệp, cái mình tròn lẳn, cái bụng thon thon. A, nó vẫn còn đây. Chú cố nhớ lại ở cái xóm nầy, gần trường học đâu có ai có con chó giống con nầy. Chắc là ở xa đi lạc, không có gì phải bận tâm. Chú lại gần lấy cây chổi đập đập, đe dọa. Con chó quay đầu lại nhìn, bốn chưn từ từ bước tới. Chú lùa nó lần về phòng. Không ngờ con vật lại dễ thương ngoan ngoãn đến như vậy. Nó đi từ từ mà không chạy. Con chó quên mất khúc củi và người quăng. Đến khi nó lọt vô trong phòng chú đóng ập cửa lại, khoá kỹ rồi yên chí trở ra tiếp tục công việc cho xong.

Buổi sáng đó chú quét mấy cái hành lang dài mà không thấy mệt. Xong rồi chú đi lại nhà bếp để kiếm sợi dây cột chó. Khi thắt xong cái mối thì chú đã về tới trước cửa phòng. Bên trong có tiếng chó gâu gâu. Chú mở khoá, đưa tay đẩy nhẹ cửa. Con chó lạ vẫn còn đứng ở đầu giường nhìn chú gừ gừ, mắt ngơ ngác. Con chó dài đòn mà mập, bốn cẳng thon thon cao cao, cái đuôi dựng đứng. Chú làm bộ không ngó tới nó, lo làm một vài công việc khác. Con vật không đề phòng đi đi lại lại bình thản, cái đuôi nghiêng ngả như cái cán cờ. Chú Cân nắm chắc sợi dây, xuất kỳ bất ý vòng vô cổ chó giựt mạnh. Con chó hoảng hốt, tông chạy ra cửa. Cả thân hình nó bị sợi dây ghì mạnh, hai chưn trước bị giựt lên hỏng đất, hai chưn sau khụy xuống, cổ bị xiết chặt. Bốn chưn nó cựa đạp lung tung, miệng kêu ăng ẳng thiệt lớn nhưng tới lúc bị nghẹt thì chỉ nghe tiếng khè khè. Nó đành chịu trận nằm im. Chú Cân lui cui cột đầu dây còn lại vô gốc cột, miệng cười hể hả, trong bụng khoái chí. Đúng là của trời cho. Cái số được ăn ngon thì dẫu nằm nhà đồ ăn cũng tới ngay miệng.

Chú Cân càng suy nghĩ càng sung sướng. Chú khoái chí xách cái ấm nước bằng nhôm đen thui đi ngay ra nhà bếp để nấu một bình nước trà. Thầy An vẫn còn ngồi đó nhưng đang nấu cơm cho buổi ăn trưa. Cơm đã gần chín. Chú Cân lại gần đặt ấm nước ở bếp kế cận:

-Tết nầy thầy có về Sàigòn không ?

-Về chớ chú. Mai là tôi đi. Mùng sáu mới trở lên.

Chú Cân cười cười:

-Phải thầy không về, ở lại trường ăn Tết với tui. Vui lắm. Tui vừa bắt được con chó ngon lành, định rủ thêm vài người bạn lối xóm với mua vài lít rượu đế là có một cái Tết huy hoàng. Mà thầy có thích ăn thịt chó không ?

-Tiếc quá, tôi chưa được ăn lần nào. Không phải không ăn được nhưng gia đình không cho ăn nên thôi. Chớ rắn rùa, lươn, ếch, chuột, dơi gì tôi cũng làm ráo nạo. Nhiều khi cũng muốn thử một lần cho biết nhưng chưa có cơ hội…

Chú Cân hứng chí:

-Ờ, ờ, có dịp nên thử một lần, ngon lắm. Không có loại thịt nào qua nổi. Thôi Tết nầy ở lại đây đi. Con nầy mười người ăn cũng không hết. Thầy không nghe mấy ông giáo Bắc kỳ nói sao -“sống trên đời không ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không.” Tôi cam đoan thầy ăn thử một lần thì mê luôn. Người ta nói như vầy -thịt chó dính vô kẻ răng quên không xỉa, ba ngày miệng vẫn còn thơm!

Thầy An cười ngất:

-Thôi thôi, chú Cân ơi ! Tôi tin rồi, nói nữa nghe phát thèm. Tết nầy tôi dám ở lại lắm à nghen… Thế nào tôi cũng phải ăn một lần cho biết. Mà chú có biết cách làm thịt không?

Chú Cân trợn mắt khoa tay:

-Nghề ruột của tôi mà thầy. Ở xóm nầy ai muốn” hạ cờ tây” là phải nhờ tôi đó. Làm riết rồi đâm quen tay. Nội cái vụ cột bốn chưn cũng phải có cách, không phải dễ đâu. Nè nghe, trước hết mình phải cột chặt miệng nó lại cho khỏi cắn. Rồi cột hai chưn sau lại với nhau. Hai chưn trước mình bẻ ngoặt lên trên lưng rồi mới cột dính lại. Cột như vậy thì nó hết dãy dụa. Rồi mình lựa cái mạch máu lớn ở trên cổ mà cắt. Khi nào nó sùi bọt mép ra là chết…

-Ủa, chớ chú không bỏ vô bao bố dìm xuống sông cho chết sao ?

-Làm như vậy thì dễ hơn nhưng mình không làm món tiết canh được. Tui làm theo cách của người Bắc, thịt nó trắng ngon hơn. Còn nhận nước thì thịt đỏ bầm hết ngon. Còn cái vụ làm lông phải thui bằng rơm thiệt kỹ, nếu không vậy thì hôi, khó ăn. Lúc bắt đầu làm, phải nấu một nồi nước sôi lớn, khi cắt tiết xong, lấy gáo múc nước sôi xối từ từ cho đều. Khi nhổ lông phải cho khéo đừng để tuột da. Nhổ rồi lấy rơm đốt để thui. Không được đốt nóng quá, ngọn lửa phải đều, lấy quạt quạt nhè nhẹ cho lửa táp đều đặn vào thân chó. Bao nhiêu lông còn sót lại đều phải đốt cho cháy sạch. Da bắt đầu vàng từ từ. Nhưng phải tránh đừng để ngọn lửa nóng hăng quá, da nứt hết. Khi nào thấy da vàng đều, mỡ bắt đầu chảy ra bốc mùi thơm là được. Hấp dẫn lắm thầy An ơi, lúc đó mình tự nhiên nghe đói bụng rồi lại thèm một ly đế nữa…

-Uả, vậy là chú làm món thịt chó nướng hay thịt chó quay hả ?

Chú Cân cười khoát tay:

-Đâu phải, nãy giờ là tui chỉ mới làm lông thôi. Còn phải rửa lại cho thiệt sạch, rồi để lên trên một cái nia lót lá chuối, lấy dao mổ bụng, cắt đầu, cắt bốn chưn để riêng. Còn bộ đồ lòng phải làm cho thiệt kỹ. Ruột non để dành làm dồi. Đừng có cắt cái bao tử với ruột, để hai thứ dính nguyên như vậy. Cái bao tử cắt phân nửa ở trên, phân nửa dưới dính với ruột phải xát muối, cạo rửa cho thiệt sạch, lộn vô lộn ra cho kỹ. Rồi mình lấy cái bao tử làm cái quặng để nhét huyết, mỡ, đậu xanh, rau thơm vô rồi luộc. Nên nhớ nhét lưng lưng thôi. Vì khi nấu, đậu xanh nó nở ra, dồn cứng quá, khúc dồi nó bể thì hư hết. Nước luộc đó mình bỏ vô vài nắm gạo, một lon đậu xanh, nấu chung với tim, gan, phèo phổi, thì có được một nồi cháo thượng hảo hạng. Cháo bào ngư ở Chợ Lớn cũng không bằng…

Câu chuyện đến hồi gay cấn, cái món thịt chó nghe mà sao hấp dẫn như vậy.

Người nói lẫn người nghe, cả hai đều ứa nước miếng, bụng đói cồn cào. Chú Cân định tả tiếp các món khác bỗng thấy anh Chín hiệu trưởng chợt đến, chú ngưng ngang. Các giáo viên khác lục tục kéo vào nhà bếp. Anh Chín đứng ngay ở khung cửa hẹp, hỏi giọng hách dịch:

-Sáng nay chú làm gì mà để một đống rác ngùn ngụn ở giữa sân thế kia ?

Chú Cân bị hỏi bất thần, không kịp chuẩn bị, lính quính trả lời lắp bắp:

-Tại, tại, con chó…

Anh Chín hỏi dồn:

-Con chó nó làm ra được đống rác đấy hả ? Mà chú nói con chó gì đấy ?

Chú Cân thiệt thà khai ra:

-Dạ, dạ, sáng nay tự nhiên có con chó nó chun rào vô trường. Em chờ hoài không thấy ai kiếm nên biết chó đi lạc không có chủ, em mới bắt..

Anh Chín hiệu trưởng nghe tới đây bèn sửa lại điệu bộ nghiêm trọng, ngó lướt qua các giáo viên đứng vây quanh.

-Rồi chú để nó ở đâu, đã làm thịt chưa ?

-Dạ, dạ chưa. Em còn cột nó ở trong phòng.

Anh Chín suy nghĩ thiệt lẹ trong đầu rồi cười gằn, miệng nói trơn tru:

-Chú có biết con chó đó của ai không ? Tôi nói cho biết, nó là của tôi. Tối hôm qua tôi xin được của một người quen.

Chú Cân nghe xong rụng rời. Giấc mơ mới có nửa chừng thì bị sụp đổ. Mồ hôi rịn ra lấm tấm trên mặt. Hình ảnh con chó thui vàng ngậy chập chờn. Mùi mỡ thơm phảng phát đâu đây. Những khúc dồi luộc, những miếng thịt nướng, thịt luộc trong ba ngày Tết lởn vởn trong đầu. Chú biết là anh Chín hiệu trưởng nói láo để giựt cho bằng được con chó, nhưng biết làm sao bây giờ. Chú đành nuốt nước miếng… rồi ngó qua thầy An. Thầy An cũng biết rõ câu chuyện y như chú vậy nhưng đành câm miệng, không dám có ý kiến. Bộ muốn đi học tập bỏ vợ bỏ con chết đói sao mà dám chọc giận xếp lớn. Thầy đành cười cười, dáng tự nhiên, không lộ vẻ binh ai. Tuy trong thâm tâm thầy đứng về phe chú Cân, đồng thời cũng tự thấy tủi nhục. Nhìn sự bất công mà không dám can thiệp thì thiệt là hèn. Ôi, cái nợ cơm áo khiến người ta ích kỷ nhỏ mọn.

Trong cái giây phút căng thẳng đó, tự nhiên chú Cân đâm nổi khùng sẳng giọng:

-Anh Chín nói láo để giựt con chó của tui. Anh nói con chó của anh xin, vậy chớ lông nó màu gì ? Chó mực, chó cò, chó vện hay chó vá, chó bẹc-giê ? Anh nói trúng, tôi trả liền.

Cái phản ứng của chú Cân quá dữ dội, anh Chín hiệu trưởng không ngờ tới.

Đám thầy giáo thấy tình hình căng thẳng, đều đổ dồn lại để coi. Họ thấy cái mặt của anh Chín từ màu đỏ đổi sang màu vàng, từ vàng đổi thành xanh, rồi cái môi anh run run.

Làm ra dáng thật tự nhiên, anh vỗ vai chú Cân:

-Chuyện không có gì, chú đừng có nóng. Tôi đã làm gì nào. Ối dào, con chó ấy hở. Hôm qua trời tối quá, tôi nhìn không rõ lắm… hình như nó màu trăng trắng…

Anh nói xong liếc nhanh qua mặt chú Cân. Thoáng thấy chú nhếch mép vẻ tỉnh táo, anh nghĩ là trật nên tiếp theo:

-Mà cũng hơi vàng vàng.

Rồi anh tiếp luôn cho chắc ăn:

-Cũng có vài đốm đen đen.

Chừng như cảm thấy câu trả lời chưa vững, bên ngoài có tiếng mấy thầy cô giáo xì xào, đối phương có vẻ chưa nao núng, anh Chín tỏ dáng thân thiện:

-Thôi tôi đề nghị với chú Cân thế nầy nhé – mình thịt chung rủ anh em trong trường đánh chén với nhau một bữa bằng thích. Con chó của tôi cũng như của chú… mà cũng là của chung hết cả thẩy anh em ở đây. Ta cùng nhất trí nhé !

Chú Cân lấy lại bình tĩnh, không còn sợ hãi chút gì nữa. Chú gằn giọng:

-Anh nói trật lất. Con chó gì mà màu vàng vàng, đen đen, trắng trắng. Tui không trả. Anh làm gì tui thì làm. Đi tới đâu tui cũng tới…

Nói xong chú đứng dậy bỏ đi ra, mặt hầm hầm. Chú Cân bữa nay ngon lành thiệt. Chỉ độ một lát, cả trường từ thầy đến trò, ai cũng biết cái tin sôi động hấp dẫn là chú Cân dám chơi anh Chín hiệu trưởng. Tất cả đều hả hê sung sướng vì được người thay mình mà trả hận dùm. Nhưng cái niềm vui đó chỉ kéo dài được cho tới chiều. Gần giờ tan học, người ta thấy chú Cân lôi con chó vàng, cái đuôi chỏng lên trời, tay cầm mảnh giấy lên trình diện trên ty, cái mặt méo xẹo. Mảnh giấy có ghi mấy hàng chữ viết tay nguệch ngoạc: “…có con chó của Ty Giáo Dục đi lạc vô Trường Cấp Ba Thị Xã. Yêu cầu đồng chí hiệu trưởng cho người tìm kiếm và giao hoàn về Ty ngay trong chiều nay….” Cái miếng giấy đáng ghét đó ở bên dưới lại có đóng dấu son đỏ chói với chữ ký của Sáu Việt, trưởng ty, rõ ràng. Chú Cân làm sao dám cãi.

Ánh nắng buổi chiều còn vương trên các đọt cây ven đường. Cái khoảng cách từ trường đến Ty bữa nay sao mà xa lơ xa lắc !

Chiều ba mươi Tết năm ấy, ở nhà anh Sáu trưởng ty có một bữa tiệc thịt chó.

Mọi người đã say ngà ngà. Đầy bàn chén dĩa ly tách ngổn ngang. Trong phòng mùi thịt nướng thơm phức, mùi rượu đế cay nồng. Anh Chín hiệu trưởng với tay lấy một cặp chả, gỡ ra để vào đĩa trước mặt anh Sáu:

-Mời anh Sáu dùng thử một miếng chả nướng. Chả nầy nướng bằng than tàu, quạt liền tay cho mỡ rỏ xuống than rồi nó bốc khói, khói quyện lấy vào miếng chả… Anh để ý nhé, nó thơm quá đi mất anh ạ. Ôi chao, cái mùi thơm phưng phức, thơm quá là thơm !

Sáu Việt miệng hớp một ngụm rượu, tay tuốt gắp chả, gật gù:

-Đúng đấy, con chó béo bở như thế nầy, phải dành cho dân cán bộ Hà Nội chính cống bọn mình bồi dưỡng mới đúng. Chứ để cho bọn Nam bộ ấy mà thịt con cầy nầy thì phí lắm. Tụi nó có làm ra trò trống gì. Giá mà không có mưu kế của chúng mình thì nó đã lọt vào tay cái thằng gì… gì ấy nhỉ, ôi chao hỏng bét ! Cứ kể như là vất đi….

http://www.luanhoan.net/GioiThieuTacGia/html/bm%2020-7-07.htm

 

Ăn Thịt chó –  Tạ Quang Khôi (12/2005) 

Thuở ấu thơ, tôi sống trong một ngôi làng trù phú ven sông Hồng. Bố Mẹ tôi ra tỉnh buôn bán, để anh chị em chúng tôi sống với môt bà cô ruột tại quê nhà. Cô tôi không lấy chồng, dù hồi trẻ cô cũng có nhiều người nhòm ngó, mối lái. Mẹ tôi cho biết cô quyết tâm ở vậy để hầu hạ bà nội tôi mù lòa từ ngày ông nội tôi qua đời. Cuộc sống của anh chị em tôi trong ngôi làng nhỏ này thật yên bình và đầy tràn hạnh phúc. Chúng tôi cũng được đi học. Trường học chỉ là một gian nhỏ trong ngôi đình làng, thế mà cũng gồm đủ cả ba lớp : Năm (cours Enfantin), Tư (cours Préparatoire) và Ba (cours Élémentaire). Trường do một thầy hương sư phụ trách. Những ai học hết lớp ba và thi đỗ sơ học yếu lược, sẽ lên huyện để tiếp tục học. Anh và chị tôi không lên huyện mà lên thẳng tỉnh với bố mẹ tôi. Còn lại một mình, tôi được cô thương và chiều hơn nên sống rất tự do và phóng túng. Buổi chiều, dù trời lạnh hay nóng, hết buổi học, tôi chạy ra đồng vui chơi với bọn trẻ chăn trâu. Chúng nó chính là bạn học cùng lớp với tôi, chẳng phải ai khác. Gia đình chúng tôi đều có ruộng cày, nên nhà nào có ít nhất một con trâu. Bố Mẹ tôi cũng có ruộng, nhưng cho cấy rẽ nên không phải nuôi trâu. Thú chơi của chúng tôi là đánh khăng, đánh đáo… Vào những ngày hè nóng nực, chúng tôi còn xuống sông bơi lội.  Chúng tôi vừa chơi đùa vừa canh chừng mấy con trâu để ngăn chúng không đến gần các ruộng lúa. Cuối cùng, chúng tôi thường mon men tới mấy luống khoai, bới trộm vài củ, đem xuống sông rửa sạch đất cát, rồi ăn ngấu ăn nghiến. Chúng tôi không phải là những kẻ đói khát, nhưng chỉ muốn nghịch ngợm, vui chơi thôi. Lấy trộm một vài củ khoai trong một làng giầu có như làng tôi không phải là một tội đáng trừng phạt. Dân làng tôi có một cuộc sống khá sung túc, không đến nỗi đói khổ như nhiều nơi khác trong vùng trung châu Bắc Việt. Vấn đề ăn uống của dân làng tôi không bị hạn chế. Họ có nhiều dịp để được ăn thịt thả cửa. Thịt lợn là món ăn thường xuyên của mọi người. Thịt gà thì hiếm hơn, dù nhà nào cũng có một chuồng gà ít nhất có 5, 7 con, mà cũng không phải vì “vườn rộng, rào thưa”. Tôi chưa thấy làng tôi giết trâu hay giết bò bao giờ. Cô tôi cho biết nhà nông coi trâu, bò là bạn nên không nỡ giết. Quả thật, trâu, bò giúp nhà nông rất nhiều. Người ta còn cho rằng mùi thịt bò gây gây, không ngon. Còn thịt trâu thì lạnh, không tốt cho sức khỏe con người.

Ngoài lợn gà, trâu bò, dân làng đôi khi cũng ăn thịt chó. Năm, bảy nhà trong xóm đánh đụng một con. Có lần bác ruột tôi cùng với mấy nhà trong xóm làm thịt một con chó, tôi được bác gọi tới. Cô tôi không thích thịt chó, nhưng lại không muốn mất lòng ông anh cả nên miễn cưỡng cho phép tôi sang nhà bác. Mâm cỗ chó có nhiều món quá, tôi chẳng biết món nào với món nào. Ðây là lần đầu tôi được dự bữa tiệc chó. Thấy tôi ngơ ngơ ngác ngác, bác tôi chỉ từng món để giải thích. Này, đây là chả nướng, đây là dồi, kia là bát nhựa mận, còn đĩa bún này để ăn với xáo. Cuối cùng bác khuyên :

“Muốn biết con chó ngon hay không ngon, chỉ nên ăn thịt luộc. Những món khác đều có pha chế mắm muối, giềng mẻ nên làm mất mùi vị chính.”

Hôm ấy, tôi ăn thử tất cả các món, món nào cũng thơm ngon hết. Còn là trẻ con, chưa biết thưởng thức của ngon vật lạ, nên cứ được ăn là tôi ăn ngấu nghiến. Tôi chẳng thấy sự khác biệt nào giữa các món. Ðối với tôi, thịt luộc nhạt nhẽo quá. Tôi thích nhất món xáo ăn với bún.

Bữa tiệc thịt chó của tôi chỉ kéo dài không đầy 15 phút. Trong khi đó, bác tôi và mấy ông hang xóm ngồi khề khà gần trọn một ngày. Các ông vừa ăn vừa uống rượu và cà kê dê ngỗng nói đủ mọi thứ chuyện. Rượu của dân làng tôi là thứ rượu làm lấy. Loại rượu này chính quyền thực dân Pháp gọi là rượu lậu. Người Pháp không cho dân mình làm rượu vì họ muốn giữ độc quyền sản xuất rượu cho các nhà tư bản Pháp. Ngoài Bắc, dân chúng chỉ được quyền uống rượu của nhà máy rượu Văn Ðiển, Nam Ðịnh và Gia Lâm. Rượu của những nhà máy này được bán chính thức, dân chúng quen gọi là “rượu ty”. Rượu mà dân làm lấy để uống hay bán đều bị coi là rượu lậu. Người làm rượu lậu, nếu bị bắt, có thể bị tù đến mọt gông. Nhưng dân làng tôi vẫn lén lút nấu rượu vì họ chê “rượu ty” không ngon, gắt quá, nồng quá. Nấu rượu tức là phạm pháp, dù không mua đi bán lại.

Một hôm, vào một ngày hè nóng nực, tôi đã thi đỗ bằng Sơ Học Yếu Lược và sửa soạn hết hè sẽ lên tỉnh với bố mẹ tôi để tiếp tục đi học, làng tôi bỗng xôn xao, hoảng hốt. Dân làng hớt hơ hớt hải báo cho nhau biết là Tây đoan đã ập tới đầu làng. Tây đoan về làng là tai họa sẽ xảy ra. Tôi đang chơi đùa với các bạn ờ ngoài đồng cũng bị đuổi về nhà. Gần trọn ngày hôm đó, lính đoan từ trên tỉnh về sục sạo từng nhà để tìm rượu lậu và đồ nấu rượu. Chúng vào cả nhà tôi tìm kiếm cả giờ, tất nhiên là chúng không tìm thấy gì.  Ðến chiều, khi mặt trời đã xế bóng, chúng ra về tay không. Tôi không hiểu người ta giấu rượu và đồ nấu rượu ở đâu mà lính đoan không tìm ra nổi. Khi cả bọn họ đã lên xe hơi, bỗng tên Tây đoan đầu xỏ phát giác ra rằng thiếu con chó tây của hắn. Thế là bọn lính lại phải bổ đi khắp nơi để tìm nháo tìm nhào. Nhưng cho đến khi mặt trời đã lặn, chúng cũng không tìm thấy con chó quý đâu. Chúng phải về tay không. Hôm sau, rồi cả tuấn sau, chúng lại cho người về tìm chó. Rồi chúng cũng phải bỏ cuộc vì không có một dấu vết nào để có thể tìm ra manh mối. Câu chuyện con chó mất tích dần dần cũng chìm vào quên lãng. Vào cuối hè, khi tôi sửa soạn từ biệt bà nội và cô tôi để lên tỉnh học, chuyện con chó mất tích bỗng lại được nhắc tới. Trước ngày lên đường, tôi phải sang chào bác tôi. Tôi tới nhà bác vào lúc bác đang có khách. Bác gái đưa tôi vào thẳng nhà ngang. Khi đi qua nhà khách, tôi nghe loáng thoáng mấy ông khách của bác tôi chê thịt chó tây không ngon, hơi béo và có mùi gây gây. Nghe chê như vậy, tôi đã nghi nghi, nhưng không dám hỏi han gì. Khi khách khứa về hết, bác tôi vào nhà trong gặp tôi và để dúi cho tôi mấy xu gọi là tiễn tôi đi học xa. Sau đó, tôi nghe bác nói chuyện với bác gái là mấy ông ở xóm dưới đã ăn thịt con chó tây của tên tây đoan. Khi chợt nhớ ra có tôi đang ở cạnh, bác không nói tiếp nữa, còn dặn tôi phải giữ kín chuyện này, tiết lộ ra là chết cả làng, chứ không phải chỉ mấy người bắt trộm chó và ăn thịt chó. Cho đến nay, khi viết lại những dòng này, tôi vẫn không hiểu dân làng tôi làm sao giấu được rượu mà họ vẫn nấu, giấu được cả đồ nghề nấu rượu nữa. Con chó tây cũng không phải là một con vật nhỏ bé, thế mà họ cũng giấu kín được, rồi lén lút ăn thịt nó.

Sau này, khi ra tỉnh học, tôi thấy dân tỉnh lỵ coi việc ăn thịt chó là bình thường, thậm chí có cả hiệu bán thịt chó. Mỗi lần đi qua, tôi thấy người ta treo đùi và dồi chó để mời gọi khách. Mẹ tôi tuy theo đạo Phật, nhưng thỉnh thoảng cũng mua thịt chó về cho bố tôi nhắm rượu. Bố tôi không có rượu lậu để uống nên thường sai tôi ra đầu phố mua rượu của ty, gọi là rượu ty, tức là rượu nhà nước sản xuất. Cụ thích nhất rượu Gia Lâm, đựng trong một chai nhỏ. Ở miền Bắc, đơn vị đo lường của rượu là “cút” (một cút rượu). Hình như chai rượu Gia Lâm là chai hai cút. Tôi không rõ một “cút” có bằng một “xị” của miền Nam không ? Mỗi lần rảnh rỗi ngồi uống rượu một mình, bố tôi chỉ uống hết nửa chai rượu Gia Lâm. Ðôi khi bố tôi cũng có bạn nhậu, đó là ông hàng xóm. Ông này đặc biệt chỉ thích ăn thịt luộc và nậm chó. Tôi không hiểu nậm là cái gì nên một hôm hỏi thẳng ông. Thì ra nậm là cái vú của con chó cái. Ông khen nậm vừa dòn vừa béo ngậy. Nhưng nậm rất ít bán vì chỉ chó cái mới có.

Dân trong tỉnh tôi hồi đó không có một tiếng lóng nào để gọi thịt chó. Người ta cứ nói thẳng là “thịt chó”, như thịt lợn, thịt bò hay thịt gà… Sau này, trong vùng kháng chiến chống Pháp, lần đầu tiên tôi nghe nói “hạ cờ tây” thì không hiểu là chuyện gì, cứ tưởng là đem quân tấn công đồn Tây để hạ lá cờ xanh trắng đỏ (thường gọi là cờ tam tài) của Tây đang bay phất phới trên cao. Mãi đến khi thấy các bạn trong đơn vị trói một con chó để cắt tiết, tôi mới hiểu rằng “hạ cờ tây” là hạ cầy tơ. Khi đã di cư vào Nam, người ta lại gọi thịt chó là “nai đồng quê” vì gần nhà thờ Ba Chuông, đường Trương Minh Giảng, có một tiệm bán thịt chó lấy tên là “Nai Ðồng Quê”. Gọi như vậy là có ý coi con chó giống như con nai, không ở trong rừng mà ở ngoài đồng ruộng. Ví như vậy, tôi cho là không đúng, vì thịt nai khác với thịt chó, mỗi loại thịt có một mùi vị riêng và cách nấu nướng cũng không giống nhau. Nai là loại ăn cỏ, lá cây, chó là loại ăn thịt. Chó ở Việt Nam còn ăn cả phân người nữa. Những người ghét ăn thịt chó cho rằng ăn thịt chó tức là ăn…phân người một cách gián tiếp. Nói như vậy là hoàn toàn sai lầm và phản khoa học. Ngày xưa, khi chưa có phân bón hóa học, ở Việt Nam, nhà nông cũng bón ruộng bằng phân người. Vậy, ăn cơm cũng là ăn phân một cách gián tiếp sao?

Vào đầu thế kỷ 20 có một ông tổng đốc một tỉnh sát Hà Nội, cũng là một tay nghiện thịt chó, đã nghĩ ra một cách rất sạch sẽ để “hạ cờ tây”, khỏi bị coi là ăn phân người một cách gián tiếp. Ông cho đầy tớ ra chợ tìm mua một con chó vào loại choai choai, đúng là “cờ tây”. Khi đem về dinh tổng đốc, con chó được “cách ly” với thế giới bên ngoài để khỏi ăn lầm phân người. Nó được “tẩm bổ” bằng cơm trắng và thịt nấu nướng rất sạch sẽ. Sau một tháng tẩm bổ, con chó mới bị cắt tiết. Không biết mùi vị thịt con chó được “ăn chay” có khác với thịt chó trong dân gian không? Hay cũng phải có giềng mẻ mới đúng vị “cờ tây” ?

Nói đến chuyện ăn thịt chó, chắc nhiều người hâm mộ thể thao, nhất là bong đá, hẳn chưa quên chuyện tranh cãi giữa người Triều Tiên với cô đào chiếu bóng của Tây nổi tiếng khiêu gợi một thời, đó là nảng Brigitte Bardot. Mùa hè năm 2002, trong khi thế giới đang sôi nổi theo dõi các trận đá bóng quốc tế, Nàng BB, nhân danh là chủ tịch một hội bảo vệ súc vật của Tây, lên tiếng chê người Triều Tiên không văn minh vì mê “hạ cờ tây”. Người Triều Tiên bèn lên tiếng tự biện hộ rằng “hạ cờ tây” là một sắc thái của văn hóa Triều Tiên. Nàng BB liền trề môi nói :”Cái gì mà văn hóa! Văn hóa là văn chương, chữ nghĩa, âm nhạc, đâu có liên quan gì đến việc đớp cầy tơ. Chó là giống vật có nghĩa, tinh khôn, nên đã được coi là bạn của loài người. Ai lại đi giết bạn để nhậu bao giờ !”

Nói như vậy là em BB cũng chưa hiểu rõ hai chữ văn hóa. Theo các nhà nghiên cứu văn học, văn hóa chính là lối sống hàng ngày của con người, với những thói quen, những tập tục có từ lâu đời. Vì thế, mỗi xã hội có một nền văn hóa riêng và văn hóa có thể thay đổi tùy thời, tùy từng khu vực, với mục đích làm cho con người sống thoải mái hơn, có nhiều hạnh phúc hơn. Vì thế, dân Triều Tiên nói rằng ăn thịt chó chính là một sắc thái của nền văn hóa Triều Tiên là trúng phóc.

Ngày xưa, người Tàu thường nói :”Khuyển mã chi tình.”, nghĩa là ngựa và chó đều có tình nghĩa với người nuôi nó. Ðã có những chuyện xưa kể lại rằng khi chủ chết, con chó hay con ngựa ra nghĩa địa nằm cạnh mộ của chủ rồi chết theo chủ. Nàng BB chê người Triều Tiên kém văn minh mới ăn thịt chó. Thế là em quên không sờ gáy của em rồi. Dân Pháp có thua gì dân Triều Tiên khi họ ăn thịt ngựa. Bít tết (steak) ngựa là món ăn được dân Pháp coi là ngon nhất và đắt tiền. Ăn thịt ngựa cũng có thể coi là một sắc thái riêng của nền văn hóa Pháp.

Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam, dân Nam được biết thêm một món ăn khoái khẩu nữa của bộ đội Bắc Việt, đó là thịt mèo. Ðêm đêm họ đi lùng bắt mèo hoang về nấu cà ry. Họ cho biết cà ry mèo rất ngon vì thịt mèo giống thịt thỏ. Không biết sau này người Nam có ai bắt chước bộ đội cộng sản ăn thịt mèo không ? Trước năm 1975, ở trong Nam, hầu như rất ít người biết thưởng thức món ăn kỳ lạ này.

Riêng tôi, thịt mèo chưa bao giờ tôi nếm một miếng dù nhỏ tý tẹo, còn thịt chó tôi cũng “cai” luôn sau khi nhìn thấy con chó sắp bị cắt tiết khóc, nước mắt chảy dòng dòng. Một hôm, tôi được một ông bạn mời tới nhà ăn mừng con ông vừa đỗ tú tài toàn phần hạng tối ưu, có nhiều hy vọng được học bổng đi du học. Ông mời khá đông bạn bè, nhưng tôi là một khách đặc biệt vì đã có chút công giúp cho con ông được đỗ hạng cao. Vì thế, tôi đến nhà ông chơi từ sang sớm. Nhà ông ở vùng ngoại ô Saigon nên có vườn rộng, mát mẻ. Ông cũng là một nhà giáo như tôi, nhưng thuộc lớp đàn anh. Ðến nơi, tôi mới biết ông sẽ “thịt” một con chó để đãi khách. Con chó đã mua từ mấy hôm trước và sẽ bị cắt tiết vào buổi xế trưa. Chuyện giết chó để đãi khách là một chuyện thường xảy ra, không có gì đáng nói. Thế rồi, sau bữa cơm trưa, người ta nhộn nhịp sửa soạn giết chó. Tôi đã nhiều lần ăn thịt chó, nhưng chưa bao giờ được xem cắt tiết. Tôi đề nghị ông bạn đưa tôi ra “pháp trường”. Ông vui vẻ nhận lời ngay. Con chó bị trói cả bốn chân và bị treo ngược lên một cành cây ngoài vườn. Ðó là một con chó vàng. Theo những người sành thịt chó thì thịt chó vàng ngon vào hạng nhì, vì thế đã có câu: ”Nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ vện.” Cũng có nơi, người ta xếp hạng khác một chút :“Nhất vàng, nhì vện, tam khoang, tứ mực.” Tôi không biết cách xếp hạng nào đúng vì không phải là một tay sành cẩu nhục. Ngoài bốn loại vừa kể, tôi còn thấy chó lài, loại chó ta lai berger. Nó không vàng, không vện, không khoang và cũng không mực luôn. Thịt chó lài không biết có ngon không mà không thấy ai nhắc tới. Cạnh con chó vàng sắp bị cắt tiết, người ta đã để sẵn mấy tô lớn, chuẩn bị hứng máu chó. Tôi tò mò đến gần con vàng để nhìn rõ hơn. Nó cũng nhìn tôi và tôi chợt nhận ra hai hàng nước mắt của nó. Tôi thốt kêu: ”Con chó khóc, anh ạ.” Ông bạn cười: ”Nó biết gì mà khóc với mếu. Mình treo ngược nó, làm cho cơ thể nó có một phản ứng gì đó, nên nước mắt chảy ra. Cũng như con cá sấu khi há mõm đớp mồi thì nước mắt chảy ra. Vì thế, người ta gọi những người khóc vờ, giả bộ thương kẻ khác là nước mắt cá sấu.” Tôi không nghĩ lời giải thích ấy là đúng vì tôi nhớ tới câu nói của người xưa ”Khuyển mã chi tình.” Bảo rằng nó không biết gì tại sao nó lại có tình với chủ? Phải chăng con chó vàng này biết nó sắp chết? Bản năng tự tồn của một sinh vật thúc đẩy nó có phản ứng tiêu cực là khóc vì đã bị trói cả bốn chân?

Bữa thịt chó hôm ấy tôi không ăn một miếng nào, chỉ ngồi nói chuyện xuông với khách khứa cho vui. Ðó cũng là bữa cuối cùng trong đời tôi vì mỗi lần nghĩ đến thịt chó, tôi lại nhớ đến hai hàng nước mắt của con vàng.

http://vietpho.org/2018/01/15/an-thit-cho-ta-quang-khoi/

Vui cười

Giáo sư kinh tế chính tr hi bài hc trò:

– Cô Khuyên, yêu cu cô đnh nghĩa v Tư Bàn Ch Nghĩa (TBCN), Xã Hi Ch Nghĩa (XHCN) và Cng Sn Ch Nghĩa (CSCN).

– Thưa thy. TBCN, theo con là mt căn phòng ti om, có mt chú mèo và mt người. Nếu người chp được mèo s có quyn gi ly mèo. XHCN, cũng theo con, vn là căn phòng ti đó, người tìm mèo mà không biết mèo không có trong phòng.

– Riêng CSCN, thưa thy, cũng là căn phòng ti nói trên, người c tìm mèo dù vn biết rng mèo không có trong phòng

 

Trong thi k chiến tranh Vit Nam, t báo Nhân Dân đưa tin: H Ch Tch tm đu ngun sông Hng, người dân cui ngun sông Hng ung nước còn thy ngt.CIA phân tích bài báo ri report lên tng thng Mo: Báo chí Vit Nam thông tin ch tch H Chí Minh b bnh đái đường nng.”