Lý Do Của Sự Ngưỡng Mộ Một Ông Tổng Thống – Thanh Thủy

Cac Bai Khac

No sub-categories

Lý Do Của Sự Ngưỡng Mộ Một Ông Tổng Thống – Thanh Thủy

I.- Giấc mơ bình thiên hạ:

Ông Tập Cận Bình là nhân vật đầy tham vọng, ông ta muốn chinh phục thế giới vào tay trong lúc ông ta còn đương quyền.
Để chuẫn bị cho tham vọng to lớn nầy, họ Tập đã gấp rút thực hiện những vấn đề chủ chốt như sau:

1.- Đối nội: Ông ra tay loại trừ những phần tử thuộc những phe nhóm có thể cản trở hay muốn chia phần những việc làm của ông bằng chánh sách diệt trừ tham nhũng, mà phần lớn nhắm tới phe nhóm của cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân, vì nhóm nầy có thế lực rất mạnh và rất đông . Loại trừ được phe nhóm nầy, họ Tập mới rảnh tay để củng cố nội bộ và thâu tóm quyền lực vào tay mình. Về việc nầy, họ Tập được xem như rất thành công vì gặt hái được nhiều uy tín trong dân chúng.

Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy rằng, việc chinh phục thế giới vào tay mình không phải là điều dễ dàng mà nhiệm kỳ lãnh đạo nước Tàu của ông như đã quy định có thể hoàn tất được như ý muốn, cho nên vì quyền lực đã có được trong tay, ông đã không ngần ngại thay đổi quy luật đảng để ông được lãnh đạo đất nước cho đến trọn đời, chẳng những vậy, ông ta còn nghĩ tới việc cha truyền con nối, để con cháu của ông nối tiếp công việc khi chẳng mai ông bị mãn phần đột biến. Muốn đạt tới đỉnh điểm nầy, cách duy nhứt là ông phải biến nước Tàu trở thành một quốc gia theo chế độ quân chủ phong kiến mà chính ông là vua.

2.- Đối ngoại: Song song với việc đối nội, họ Tập mở rộng lãnh thổ và lãnh hải trên khắp thế giới. Khởi động biểu dương lực lượng, đe dọa các nước láng giềng, gây chiến với Ấn Độ vùng biên giới phía Tây, với Nhựt Bổn tại đảo Điếu Ngư, đe dọa dùng sức mạnh quân sư để đánh chiếm đảo Đài Loan, quan trọng nhứt là tự vạch đường lưỡi bò 9 đoạn để chiếm gần hết Biển Động, mở đường cho chiến dịch phát triển 2 con đường Tơ Lụa, một bằng đường biển và một bằng đường bộ ra thế giới.

Đẻ hổ trợ thêm cho nhu cầu phát triển nầy, họ Tập bỏ ra một số tiền rất lớn để mua chuộc nhiều quốc gia nghèo ven biển từ Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương cho đến Nam Phi, Nam Mỹ, mục đích tạo ra những Bẫy nợ để chiếm lãnh thổ của người ta, dùng làm điểm dừng chân và phát triển sâu vào nội địa những quốc gia nầy để phục vụ cho con đường Tơ Lụa của họ

3.- Dẹp loạn: Để củng cố quyền uy, họ Tập bắt đầu tính sổ nội bộ, đầu tiên là phải sớm thâu tóm cho được khu tự trị Hồng Kông dầu phải xé rào vì không thể cho đặc khu nầy được tiếp tục hưởng quy chế tự do cho đến năm 2047 như họ đã ký kết.

Đặc khu Hồng Kông tuy là lãnh thổ thuộc về Trung Cộng, nhưng nhân dân của đặc khu nầy đã được hưởng quy chế tự do sau 99 năm dưới sự lãnh đạo của nước Anh và hơn 20 năm sau khi nước Anh trao trả lại cho Trung Cộng, nên rất giàu nhờ phát triển rất mạnh về kinh, do sự thỏa thuận giữa Anh và Trung Cộng, đặc khu Hồng Kông đươc có bộ phận cai trị riêng cho đến năm 2047, vì vậy Trung Cộng không thể kiểm soát người dân Hồng Kông một cách gắt gao như người dân trong nội địa. Do đó, khi họ Tập xé rào, giới trí thức vốn ít được kiểm soát, liền đứng ra lãnh đạo nhân dân cùng với sinh viên, học sinh quy tụ rất đông đảo người dân làm nên những cuộc biểu tình vĩ đại và liên tục để phản đối.

Dĩ nhiên, họ Tập ra lịnh đàn áp, nhưng vì biết mình đã tự động xé rào khiến cho dư luận Tây Phương, nhứt là Anh và Mỹ dưới thời Tổng thống Trump phản ứng mạnh, nên họ Tập chưa dám đàn áp thẳng tay, không dám tạo nên một Thiên An Môn thứ hai như nhiều người lo sợ, họ chỉ bắt một số người tình nghi là lãnh đạo những cuộc biểu tình trong một thời gian ngắn rồi thả ra để xoa dịu dư luận và giãm bớt áp lực trong lúc họ đang gặp nhiều khó khăn trên trường quốc tế vì đang bị Tổng thống Trump trừng phạt kinh tế.
Cho nên, khi cuộc biểu tình nầy bị đàn áp thì những cuộc biểu tình khác nổi lên mạnh mẽ hơn với sự lãnh đạo rất quy mô mà đảng Cộng sản Tàu chưa thể tìm ra hết những người xách động để bắt nguội.
So sánh với người dân Hồng Kông, nhân dân Việt Nam hoàn toàn không có được điều kiện nầy vì bị hệ thống công an của bạo quyền kiểm soát gắt gao, giống như tình trạng của người dân Trung Hoa trong nội địa, nên không có cơ hội và điều kiện để đứng lên quật khởi.

Cho đến nay thì tình trạng Hồng Kông khác đi nhiều sau khi ông Joe Biden lên làm Tổng thống Mỹ, những cuộc biểu tình như trước kia sẽ không còn cơ hội được tổ chức dễ dàng được nữa, những người lãnh đạo chống đối lần lượt sẽ bị bắt với những tội danh tiền chế nặng nề nên những cuộc biểu tình chưa thấy xuất hiện đáng kễ và nếu có xãy ra chắc chắn họ Tập sẽ đàn áp thẳng tay.
Đến thời điểm nầy thì số phận của người dân Hồng Kông và Việt Nam sẽ giống như nhau vì họ Tập không còn sợ Mỹ “phá đám” nữa.

Số phận của người dân Tây Tạng, người dân Duy Ngô Nhĩ của Tân Cương, và của tổ chức Pháp Luân Công rồi sẽ thê thảm hơn, bắt buộc làm vật hy sinh để Trung Cộng tư do cướp lấy nội tạng như họ đã làm thường xuyên như từ trước đến nay trong chánh sách tiêu diệt những chũng tộc nầy để thực hiện cho mục tiêu Hán hóa mà tiền nhân của họ đã từng làm.

4.- Số phận của Đài Loan: Trước sau gì thì họ Tập cũng sẽ gấp rút tấn công đánh chiếm đảo Đài Loan trong thời gian ông Joe Biden làm Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ, vì trong thời gian nầy họ Tập sẽ không còn e ngại Hoa Kỳ can thiệp như thời kỳ Tổng thống Trump. Việt Nam cũng sẽ cùng chung số phận với Đài Loan.

Hiện nay họ Tập còn đang cân nhắc, thận trọng theo dỏi rất sát tình trạng biến động chánh trị của Hoa Kỳ vì cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2020 chưa biết chắc sẽ ra sao. Người mà họ Tập lo sợ nhứt hiện nay là ông Tổng thống Donald Trump của Mỹ, ngoài ra, bất cứ là ai trên thế giới, dù ở bất cứ địa vị nào, đối với ông ta cũng đều không đáng kễ, cho nên những sự kiện đã xãy ra về việc đảng Dân Chủ Mỹ tìm mọi cách để luân tội và quyết chí tìm mọi cách để loại ông Trump ra khỏi mọi sinh hoạt chánh trị, vĩnh viễn không được ra tranh cử bất cứ nhiệm kỳ nào, và việc các sự kiện xãy ra làm kinh ngạc, ngoài sức tưởng tượng của mọi người là các Tòa án địa phương, nhứt là Tòa án Tối Cao Pháp Viện đã ngoãnh mặt, xoay lưng với ông Trump vả tệ hại đáng xấu hổ của nước Mỹ là một số đảng viên đảng Cộng Hòa đã phản bội ông, kễ cả ông Phó, người mà ông rất tin tưởng. Những biến cố nội tình nầy chắc gì không có bàn tay lông lá của họ Tập nhúng vào khuấy động vì nếu thành công thì họ Tập mới an tâm tiến hành những mưu đồ đã vạch sẳn của giấc mộng bá vương mà ông ta ấp ủ.

Tại Việt Nam cũng vậy, Nguyễn Phú Trọng được tái đắc cử Tổng Bí Thư đảng lần thứ 3 mặc dầu ông ta đã vượt quá xa độ tuổi mà chính đảng của ông ta quy định, chỉ duy nhứt một mình ông ta được hưởng. Bởi vậy, nếu ông nầy không phải là “con cờ chiến lược” mà họ Tập dựng lên đễ sai bảo thì làm sao việc nầy có thể xãy ra được trong mưu đồ mở đường bành trướng xuống phương Nam?

5.- Miến Điện: Số phận của Miến Điện (Myanmar) cũng giống như Hồng Kông trước đây, mặc dầu không phải là thuộc địa của Trung Cộng, nhưng đất nước Miến Điện tuy vừa mới có được chánh phủ dân sự do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo, nhưng có thể nói bà nầy vả hệ thống đảng của bà rất bất lực vì tất cả quyền hành đều do quân đội vốn lệ thuộc vào Trung Cộng nắm giữ.

Chủ trương của giới quân phiệt nầy mục đích nhằm tiêu diệt chũng tộc Hồi giáo Rohingya và có vũ khí tuyệt đối trong tay nên khinh thường thế lực của bà San Suu Kyi, do đó họ lõng lẽo trong việc kiểm soát người dân vốn ủng hộ bà nầy. Cho nên, khi nền chánh trị Mỹ thay đổi thì là lúc giới quân phiệt Miến Điện được lịnh làm đảo chánh và họ đã thành công dễ dàng, lật đổ chánh phủ dân sự, bắt giam bà San Suu Kyi và những thành phần trong chánh phủ của bà, thì người dân vốn không được kiểm soát chặt chẽ, ngay lập tức huy động tập hợp được quần chúng để làm nên những cuộc biểu tình rần rộ chống lại. Trường hợp nầy giống như tình trạng của Hồng Kông trước đây.

Đến lúc nầy thì quân đội Miến Điện thẳng tay đàn áp, một hình thức tiểu Thiên An Môn của Trung Cộng được diễn ra mà rồi đây, Hồng Kông cũng sẽ giống y như vậy, nếu họ còn cơ hội để tổ chức những cuộc biểu tình như trước kia.

II.- Những điều cần suy nghĩ

1.- Những dự đoán cần lưu ý: Khi ông Biden lên làm Tổng thống nhiệm kỳ thứ 46, người Việt chúng ta hiện đang sinh sống tại Mỹ có thể dự đoán là sẽ không còn được sống yên ổn như từ trước đến nay nữa vì sự kỳ thị và ác ý đối với người Việt Nam đã ăn sâu trong dòng máu của ông ta từ rất lâu, trước năm 1975. Hoàn cảnh lúc đó ông ta vừa mới được làm Thượng nghị sĩ nên chưa đủ sức để làm được gì nên đã mang mối hận trong lòng và bây giờ, khi được cầm quyền, chính là lúc để ông và cả bọn phản chiến ngày xưa dần dà ra tay phục hận.
Mấy ngày nay đã xãy ra những vụ bắn giết người gốc Á và người Việt Nam một cách bừa bãi có thể là hiện tượng bắt đầu cho sự phục hận nầy.

2.- Những điều khó quên: Chúng ta còn nhớ là sau ngày 30/4/1975, ông Joe Biden lúc đó là Thượng Nghị sĩ của Thượng Viện Hoa Kỳ, là một trong những người có hành động quyết liệt nhứt, tuyên bố không nhận bất cứ người Việt nào được nhập cư vào Mỹ để tỵ nạn, tránh sự trả thù tàn bạo của bọn Cộng sản Bắc Việt sau khi cuộc chiến đã hoàn toàn chấm dứt.

Dĩ nhiên, cả bọn ông Joe Biden, John Kerry đã biết rất rõ là trước đó khoảng hơn một tháng, khi nước Campuchia nhò bé bị thất thủ, bọn Cộng sản Pol Pot lên cầm quyền, đã ra tay diệt chũng, tàn sát thô bạo người dân của họ lên đến hàng mấy triệu người, cho nên có thể nói, hành động của ông Biden không nhận người Việt Nam thời đó vào đất Mỹ tỵ nạn là hành động vô cùng tàn bạo, ý muốn người dân miền Nam Việt Nam cũng phải chịu sự thảm sát của bạo quyền Hà Nội như số phận như người dân Campuchia để cho bọn họ thỏa mản thú tính khi ngồi xem màn giết người kinh dị vô tiền khoáng hậu có một không hai trên thế giới văn minh.

Giả sử như nếu lúc đó Tổng thống Mỹ nghe theo lời họ, không nhận bất cứ người Việt nào vào Mỹ để tỵ nạn thì cả thế giới tự do cũng sẽ làm theo vì lúc đó họ đã nhanh chóng thiết lập bang giao với bạo quyền Việt cộng để mua bán, làm ăn kễ cả những nước Tây Âu và Úc Đại Lợi, nên số người dân vô tội miền Nam sẽ bị bạo quyền Việt cộng tàn sát sẽ lên đến con số khủng khiếp, sẽ vượt xa rất nhiều lần số người dân Miên đã bị bọn Pol Pot sát hại tại Campuchia. Không có sự tàn nhẫn nào bằng sự tàn nhẫn nầy của bọn người Mỹ phản chiến, trong đó có John Kerry, Joe Biden.

Chúng ta còn nhớ thời gian sau ngày 30/4/1975 không lâu, chính tên Thủ tướng Việt cộng Phạm Văn Đồng đã sang Pháp “ăn mày”, vận động ngoại giao, đã tuyên bố một cách trắng trợn, đại khái là những kẻ vượt biên, trốn chạy khỏi Việt Nam là những thành phần phản động, bao gồm những kẻ bất hảo, xì ke, ma túy, lười biếng lao động, muốn ngồi mát ăn bát vàng…Mục đích của hắn ta là muốn tạo cho thế giới Tây Phương một cái nhìn xấu xa về người tỵ nạn chúng ta để tạo ra phong trào kỳ thị và xua đuổi, không nhận thêm người tỵ nạn vì lúc đó đã hiện có vài trăm ngàn người đã vượt thoát khỏi được bàn tay đẫm máu của họ.

Cho nên, có thể nói mà không sợ nhầm lẫn là nếu lúc đó những sự vận động của ông Biden và bạo quyền Việt cộng thành công thì tất cả chúng ta và những người ngồi đây đều không có mặt ngày hôm nay trên khắp thế giới vì tất cả đều đã bị thảm sát cùng chung số phận với những Quân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hòa và gia đình cùng với con cháu của họ, và tất nhiên ngày nay:

  • Chắc chắc sẽ không có phong trào thuyền nhân Boat People làm rúng động lương tâm thế giới
  • Chắc chắn sẽ không có chương trình HO để cứu vớt những quân, dân, cán chính đang chịu cực hình trong những lao tù khổ sai từ Nam chí Bắc
  • Chắc chắn sẽ không có Chương Trình Đoàn Tụ Gia Đình nhân đạo mà mọi người chúng ta ngày nay được hưởng.
  • Chắc chắn cũng sẽ không thể có những Khoa học gia, những kỹ thuật gia, những Tướng lãnh ưu tú người Việt gốc Mỹ, và cũng sẽ không có tất cả mọi giới trong số người Việt tỵ nạn đã đóng góp nhiều trong sự thăng hoa của Mỹ, đóng góp nhiều vào sự phồn thịnh của Úc, của Âu Châu, con cháu và hậu duệ của chúng ta cũng sẽ không có ai được định cư trên thế giới Tây Phương để thành công trên nhiều lãnh vực khác nhau một cách vẻ vang mà ai ai cũng phải kinh ngạc.
  • Và điều cực ký quan trọng khó tránh khỏi là đất nước Việt Nam sẽ bị xóa sổ để trở thành một tỉnh lỵ của Tàu, của Nga mà số người Việt Nam còn sót lại sẽ trở thành một dân tộc thiểu số giống như các dân tộc Mãn Châu, Hồi Giáo Tân Cương, Mông Cổ, Tây Tạng, không bao giờ có thể cất đầu dậy nổi.
    Đó là tất cả những điều mà chúng ta cần phải nhớ và khắc cốt, ghi tâm.

III.- Vấn đề Việt Nam

Dẫn chứng từ những cuộc biểu tình quy mô liên tục của người dân Hồng Kông trước đây và những cuộc biểu tình của nhân dân Miến Điện đang diễn ra trước những họng súng tàn bạo của quân đội Miến Điện, một số người Việt ở hải ngoại cho rằng người dân Việt Nam trong nước giờ đây rất hèn nhác và vô cảm trước những bất công của xã hội nên không đủ can đảm để tổ chức những cuộc biểu tình chống lại bạo quyền Việt cộng, giống như người dân Hồng Kông trước đây và người dân Miến Điện như hiện nay.

Từ những dẫn chứng trên, chúng ta có thể nhận thấy, vì cảm xúc cá nhân mà những vị nói trên đã quên đi những sự kiện lịch sử đã xãy ra, tương quan với hoàn cảnh khác nhau giữa Hồng Kông, Miến Điện và Việt Nam rồi phê bình rất phiến diện, không đúng sự thật, có thể làm đau lòng những người hiện đang tranh đấu trong lòng địch và những tù nhân lương tâm.

Công cuộc chiến đấu chống lại bạo quyền Việt cộng của người dân trong nước lúc nào cũng rất kiên cường và liên tục từ sau ngày 30/4/1975 cho đến ngày nay và đã biến chuyển qua nhiều giai đoạn:
:
1.- Giai đoạn bạo lực: Giai đoạn nầy đã bị bạo quyền đàn áp thô bạo và xem như đã kết thúc qua việc thất bại của Mặt Trận Thống Nhứt Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam với cuộc hành quyết các chiến sĩ cách mạng lãnh đạo: Hồ Thái Bạch, Lê Quốc Quân, Trần Văn Bá…vào ngày 08/01/1985.

2.- Giai đoạn hòa giải của Phong Trào Thống Nhứt Dân Tộc và Xây Dựng Dân Chủ: Phong trào nầy chủ trương Đại Phản Tỉnh của Gs. Nguyễn Đình Huy đã bị bạo quyền đàn áp vào ngày 17/11/1993. Toàn thể cán bộ và những vị lãnh đạo đều bị bắt hết. Phong trào tan rã.

3.- Giai đoạn tự phát đơn lẻ: Sau khi 2 giai đoạn bạo lực và hòa giải bị đàn áp và kết thúc thì xem như những cán bộ có tầm ảnh hưởng lớn trong nước đều bị bạo quyền tiêu diệt, số ít ỏi còn lại đều bị kiểm soát gắt gao nên không còn ai có thể hoạt động được và lần lượt đều bị chết già. Tuy nhiên, công cuộc tranh đấu chống lại bạo quyền vẫn được tiếp nối bằng những hình thức khác nhau tùy theo những biến cố diễn ra, hình thức tuy nhỏ hơn, đơn độc, lẻ tẻ vì không có nhân sự lãnh đạo để phối hợp, mặc dầu vậy, nhưng những cuộc tranh đấu vẫn rất kiên cường và rất quyết liệt, ví dụ điển hình như:
a.- Những cuộc biểu tình chống lại dàn khoan HD 981 của Trung Cộng xâm phạm vào lãnh hải Việt Nam vào ngày 02/5/2014, trong đó, nổi bậc và tiêu biểu nhứt là cuộc biểu tình bạo động tại tỉnh Bình Dương.

b.- Những cuộc biểu tình chống lại công ty Formosa xã chất độc ra biển tại Hà Tỉnh năm 2016.

c.- Những cuộc biểu tình rần rộ chống lại Dự luật 3 Đặc Khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc của Quốc hội Việt cộng biểu quyết ngày 23/5/2018, trong đó, nổi bật và tiêu biểu nhứt là cuộc biểu tình bạo động của nhân dân tại tỉnh Bình Tuy.

d.- Vô số những cuộc biểu tình khiếu kiện chống lại những việc chính quyền cướp đất của dân, những cuộc biểu tình chống lại chánh quyền đàn áp để cướp tài sản, phá chùa, phá nhà thờ của các Tôn Giáo …

e.- Và cao điểm là vụ đàn áp, giết cụ Lê Đình Kình và con cháu của ông ngày 09/01/2020 tại xã Đồng Tâm, Hà nội, để cướp đất của ông, mặc dầu tất cả những người trong gia đình ông đều là những cán bộ trung thành tuyệt đối với đảng.

f.- Những Dư luận viên, những Blogger, những cá nhân có những tiếng nói phản kháng những việc làm sai trái của bạo quyền vẫn thường xuyên xuất hiện như Phạm Đoan Trang, như Huỳnh Thục Vy, như Lê Thị Công Nhân, như nhà bình luận Nguyễn Chí Dũng, v.v… Hầu hết những người nầy đều thường xuyên bị vô tù, ra khám hoặc còn đang chịu những bản án nặng nề như ông Phạm Chí Dũng chẳng hạn.

4.- Hệ thống kiểm soát dân của bạo quyền để tiêu diệt những mầm mống chống lại họ: Tất cả những người bị kẹt phải ở lại Việt Nam sau ngày 30/4/1975 đều biết thế nào là chế độ Công an trị và sự quản lý để kiểm soát người dân trong nước của bạo quyền Việt cộng chặt chẽ tới mức độ nào, có thể nói “ một con kiến” cũng khó lòng qua mắt được họ vì mỗi khu phố đều có một trụ sở công an và tất cả nhân viên cán bộ các xã, phường, khóm đều là cán bộ đảng đó là chưa kễ những công an chìm giả làm thường dân sống trà trộn, chen lẫn trong những khu gia cư. Những thành phần nầy luôn luôn bao vùng cả ngày lẫn đêm, chúng thường xuyên dòm ngó từng nhà, từng người dân để quan sát tất cả mọi sinh hoạt, mọi động tịnh trong khu phố.

Sau một thời gian dài nhiều năm, khi bạo quyền củng cố được hệ thống mật báo dân sự khắp nơi thì tình trạng kiểm soát của công an xem như được nới lõng, nhưng thật sự thì còn nguy hiểm hơn nhiều vì người dân lúc nầy rất dễ bị mất cảnh giác, thiếu đề phòng nên rất dễ bị bắt ở tù, vì vậy trong dân gian có những câu hát để nhắc nhở người dân như sau:

Lao động là vinh quang (câu nầy của bạo quyền)
Lang thang là chết đói,
Hay nói là ở tù,
Lù khù là đi kinh tế mới.
Bởi vậy, những nơi nào rục rịch có những cuộc biểu tình tự phát, bọn công an đều biết trước và cô lập ngay những nơi đó, những khu vực lân cận nhiều khi cũng không hay biết, đồng thời họ cũng cô lập luôn những người thường có những hành động chống đối họ, cấm không được ra khỏi nhà như Trần Huỳnh Duy Thức, Phạm Đoan Trang, Huỳnh Thục Vy…vì sợ những người nầy tham gia. Do đó, khi những cuộc biểu tình khởi động, thì bị đàn áp ngay lập tức, những người cầm đầu đều bị bắt hết. Cho nên, làm gì có thể tổ chức được những cuộc biểu tình vĩ đại như ở Hồng Kông trước đây và như ở Miến Điện hiện nay như mơ tưởng.
Tuy vậy, những cuộc biểu tình tự phát nầy vẫn còn luôn được tiếp diễn, bằng chứng là hiện tại vẫn còn rất nhiều những tân tù nhân lương tâm trong dân gian đã lần lượt âm thầm xộ khám.

Nói lên những điều nầy để chứng minh là người dân trong nước không hèn, không vô cảm như một số người lầm tưởng mặc dầu họ sống trong hoàn cảnh luôn bị kềm chế khắc nghiệt triền miên, khó có cơ hội nào có thể bùng phát để vùng lên được. Sự can đảm, kiên cường và hy sinh xương máu của họ trong giai đoạn tranh đấu u tối nầy quả thật xứng đáng để tất cả chúng ta cúi đầu bái phục.

IV.- Lý do của một sự lựa chọn

Đó là tất cả những lý do vì sao người dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước vô cùng ngưỡng mộ ông Tổng thống Mỹ Donald Trump, vì vị Tổng thống Mỹ nầy có quyết tâm triệt hạ cho bằng được bọn Cộng sản Tàu và xoá sổ những nước còn theo đuổi Chủ nghĩa Xã hội (một cái tên khác của Chủ nghĩa Cộng sản) trên thế giới mà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không có lý do gì để được ngoại lệ.

Chúng ta đều biết rằng sở dĩ bạo quyền Việt cộng vẫn còn sống sót cho đến ngày nay đều nhờ vào sự trợ giúp của bọn Cộng sản Tàu, mỗi lần Đại hội đảng để bầu lên các Tổng bí thư và nhân sự của bộ Chánh trị đều có sự hiện diện của đại diện đảng Cộng sản Tàu bên cạnh để chỉ định nhân sự theo mệnh lệnh của Bắc Kinh.

Nguyễn Phú Trọng hiện nay sở dĩ được Bắc Kinh chỉ định làm Tổng bí thư tới nhiệm kỳ thứ 3 mặc dầu hắn ta đã già yếu, bịnh hoạn và quá hạn tuổi quy định, không có khả năng lãnh đạo và cũng không có uy tín đối với nhân dân và là người cố chấp, có đầu óc kỳ thị Nam Bắc. Điều đó có nghĩa là Bắc Kinh chưa tìm được người nào khác dễ sai bảo hơn để thay thế.

Nếu ông Trump vẫn tiếp tục được làm Tổng thống Mỹ thì chánh sách triệt hạ kinh tế của ông đối với Tập Cận Bình sẽ làm cho Trung Cộng kiệt sức và sụp đổ nên sẽ không còn có thể tự lo cho mình thì không còn lý do gì để lo cho một đàn em đã từng phản bội lại mình. Lúc đó bạo quyền Việt cộng sẽ không còn phao cứu tử nào để bám víu tất nhiên sẽ sanh loạn. Đó là thời cơ để toàn dân vùng lên đánh đổ bạo quyền, giải thoát đất nước khỏi chế độ độc tài toàn trị của những con người Cộng sản tàn bạo.

V.- Kết luận: Chúng ta phải làm gì?

Ông Donald Trump, ông Joe Biden đều là người Mỹ nên việc làm của họ là việc làm cho người Mỹ, nếu là người cao đẹp, họ dùng mọi tâm trí của chính bản thân họ để phục vụ cho quyền lợi của nhân dân Mỹ, còn nếu là người tệ hay quá tệ thì tối thiểu họ cũng lo cho quyền lợi của họ, của bản thân, gia đình và đảng phái hay tổ chức của họ.

Chúng ta là người Việt Nam, nếu còn nghĩ tới đất nước của chúng ta còn đang nghèo nàn, lạc hậu, dân tộc chúng ta còn đang bị áp bức, còn đang bị chà đạp quyền làm người, thì chúng ta cũng nên noi gương theo họ để làm việc cho đất nước Việt Nam của chúng ta. Tự mình không làm nổi thì cũng cần phải nương vào sức mạnh của người khác để làm việc cho mình hầu có thể giúp đở được phần nào cho công cuộc tranh đấu chung của dân tộc được sớm thoát khỏi bàn tay độc ác của bạo quyền Việt cộng, thay vì cứ chúi mũi vào chuyện của người ta mà gây thêm những cảnh chìm xuồng, rã đám vốn đã kéo dài hơn 40 năm nay. Nghĩ cũng thấy thật là vô lý.

Thanh Thủy (22/3/2021)