ĐS Martin nói gì (20.4) khiến TT Thiệu từ chức (21.4) và rời Sài Gòn (25.4.1975)

Cac Bai Khac

No sub-categories

ĐS Martin nói gì (20.4) khiến TT Thiệu từ chức (21.4) và rời Sài Gòn (25.4.1975)

✱ ĐS Martin: Tôi nói, tôi có cảm giác rằng nếu ông không có quyết định sớm, các tướng lãnh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi – tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lãnh của ông ta cho thêm vài ngày nữa – và rằng nếu ông không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông.

✱TT Thiệu: Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản – tôi nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó nếu như ông chấp nhận bản hiệp vì lý do riêng tư tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận – Nếu tôi không có thiện chí đàm phán thì làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết? Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó.

 TT Thiệu: Người Mỹ… thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.

ttt-4.75.jpg

Gần 50 năm trước báo chí Sài gòn nêu ra nhiều thắc mắc không biết Đại Sứ Martin nói gì (20.4.1975) mà một ngày sau (21.4.1975) TT Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình  đưa những lời chỉ trích Mỹ và tuyên bố từ chức… Phần sau là tóm lược trích đoạn văn bản về cuộc họp ngày 20.4.1975 được phía Bộ Ngoại Giao công bố và phía cơ quan CIA (2017) loan tải nội dung tuyên bố từ chức của  TT Thiệu  vào ngày 21.4.1975 (dài 28 trang) – sau đó là câu chuyện TT Thiệu rời Sài gòn vào tối ngày 25.4.1975.

  Điện văn của ĐS Martin gửi TS Kissinger về cuộc họp với TT Thiệu

Sài Gòn, 20 Tháng Tư 1975, 1645Z.

1.
Sáng nay tôi ( Martin)  gặp Thiệu đưa ra tất cả các điểm được nêu trong
mệnh lệnh số 9 trong phúc trình của tôi. Tôi mang theo bản tóm tắt mới
nhất về tình hình quân sự thực tế tại các mặt trận  và phân tích so sánh
lực lượng mỗi bên. Như các ông đã biết, đó là một bức tranh rất ảm đạm,
và không thể tránh khỏi để kết luận rằng, nếu Hà Nội quyết định nhanh
chóng tấn công để tiêu diệt thì Sài Gòn khó có thể cầm cự được hơn một
tháng, kể cả với sự kháng cự khéo léo và kiên quyết nhất cũng
chỉ có thể cầm cự được không quá ba tuần. Tôi nói rằng theo ý kiến của
tôi là họ muốn Sài Gòn nguyên vẹn, không phải là một đống đổ nát.

 2.
Thiệu hỏi về triển vọng viện trợ quân sự bổ sung. Tôi nói rằng câu trả
lời có vẻ mơ hồ đối với tôi. Chúng tôi rất có thể nhận được thêm 350
triệu đô la, từ quốc hội nhưng ngay cả điều đó cũng không chắc chắn. Tôi
nói rằng mỗi ngày trôi qua đầy ắp những tuyên truyền bất lợi đã che
khuất  thực trạng ở Việt Nam.  Tôi đã rất hy vọng rằng trong hiện tại
một  thực tế là nó sẽ bảo toàn cơ hội để có một vị thế đàm phán tốt hơn,
nhưng  nó không thể đến kịp để thay đổi bảng phân tích mà ông ta vừa
đọc. Cho đến bây giờ cán cân lực lượng hiện nay chống lại ông ta là áp
đảo.

3.
Tôi đã nói rằng bất cứ ai ngồi trên ghế của ông, Dinh Độc Lập ở Sài
Gòn, Tòa Bạch Ốc, Điện Elysée, Điện Kremlin, hay ở Bắc Kinh, đều có một
điểm chung. Họ không bao giờ có thể chắc chắn rằng họ đang nắm được toàn
bộ sự thật. Một số  báo cáo bị che
đậy vì lợi ích cá nhân hoặc vì quan liêu, những người khác vì sợ làm tổn
thương ông ta,  vì họ sợ ông ta, một số người khác vì họ không muốn trở
thành người truyền tải tin xấu. Dù lý do là gì, đôi khi rất khó để nhận
định chính xác mọi thứ như chúng vốn có. Tôi nói rằng tôi chỉ nói
chuyện với ông ta với tư cách cá nhân, không phải đại diện cho Tổng
thống hay Ngoại trưởng, hay thậm chí với tư cách là Đại sứ Hoa Kỳ, mà
với tư cách là một người đã theo dõi các sự kiện ở Đông Nam Á trong một
thời gian rất dài và là người trong hai năm qua,  đã  hiểu được sự đan
xen trong kết cấu của các vấn đề Việt Nam.  Một vài điều đã rất rõ ràng
với tôi. Tình hình quân sự rất tồi tệ, và mọi người buộc ông ta phải
chịu trách nhiệm về điều đó. Các thành
phần chính trị, cả những người ủng hộ và kẻ thù của ông ta, đều không
tin rằng ông ta có thể dẫn dắt đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện
nay. Và kết luận của tôi là hầu như tất cả các tướng lãnh của ông ta,
mặc dù họ sẽ tiếp tục chiến đấu, đều tin rằng việc phòng thủ là vô vọng,
trừ khi có thể đạt được thời gian nghỉ ngơi một khi  tiến trình đàm
phán bắt đầu, và họ không tin rằng điều này có thể khởi sự trừ khi Thiệu
ra đi, hoặc ngay lập tức thực hiện các bước để bắt đầu  cho tiến trình đàm phán. Tôi nói,  tôi có cảm giác rằng nếu ông  không có quyết định sớm, các tướng lãnh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi.

4.
Thiệu chăm chú lắng nghe, ông ta hỏi liệu việc ông ta ra đi có ảnh
hưởng đến cuộc bỏ phiếu trong Quốc hội hay không. Tôi nói rằng tôi nghĩ
nó có thể đã thay đổi vào vài tháng trước, nhưng bây giờ sẽ không đủ
thời gian để đảm bảo các khoản chi quân sự cần thiết. Nói cách khác, đề
nghị từ chức nếu Quốc hội đảm bảo một mức độ phân bổ để miền Nam Việt
Nam tồn tại, là một thỏa hiệp đã thuộc về quá khứ. Điều quan trọng, có
lẽ, liệu nó có thể có tác dụng gì đối với phía bên kia hay không. Tôi
nói tôi không biết câu trả lời, nhưng rõ ràng là hầu hết người Việt Nam
đều nghĩ như vậy. Tôi nghi ngờ nó sẽ tạo ra nhiều khác biệt cho họ. Bản
thân họ không chống lại cá nhân ông ta, mà chống lại bất kỳ nhà lãnh đạo
mạnh mẽ nào. Họ sẽ khăng khăng đòi một người lãnh đạo yếu kém hơn
nhiều. Nhưng điều quan trọng là thời gian. Đối với Việt Nam, bây giờ
thời gian là thứ thiết yếu nhất. Nếu có thể tránh được sự hủy diệt của
Sài Gòn, nếu một nước Việt Nam độc lập có thể tiếp tục tồn tại, người ta
có thể hy vọng, rằng mọi thứ sẽ được cải thiện. Thiệu hỏi tôi nghĩ gì
về tương lai của Lào. Tôi nói rằng, từ cuối Hội nghị năm 1962, tôi đã
thấy rất rõ ràng rằng Hà Nội có thể tiếp quản nó bất cứ lúc nào phù hợp
với mục đích của họ, nếu phe không cộng sản ở Lào vẫn không có sự hỗ trợ
từ bên ngoài. Cuộc diện hiện tại có thể đã đạt được từ nhiều năm trước,
nếu chúng tôi sẵn sàng nhượng lại toàn quyền kiểm soát miền Đông Lào.

5.
Cuộc trò chuyện diễn ra trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ. Tôi sẽ gửi
bản văn đầy đủ khi có thời gian. Ông ta hoàn toàn hiểu điểm cốt yếu
trong đánh giá cá nhân của tôi rằng  các sự kiện diễn ra quá nhanh, khó
có  thời gian dành cho việc suy ngẫm, và rằng nếu ông  không hành động
sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông ta. Tôi đã nói rõ ràng rằng tôi đang
nói hoàn toàn với tư cách cá nhân, và  tôi cũng như Washington không đề
nghị ông ta từ chức.

6. Thiệu nói rằng ông ta sẽ làm những gì ông ấy nghĩ là tốt nhất cho đất nước. Tôi nói tôi biết rằng ông ta sẽ hành động. Ông ta sẽ suy nghĩ về nó. Ông ta có thể làm được. Ông ta rất có thể tìm kiếm  những phương án giúp ông ta dẫn trước đối thủ, nhưng thời gian thì có hạn.  Cân bằng lại, tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lãnh của ông ta cho thêm vài ngày nữa, ông ta có thể nghĩ ra một sự từ chức kịch tính sẽ có hữu ích. Trân trọng. (Theo BNG/FRUS ngày 20.4.1975: «  Message From the Ambassador to Vietnam (Martin) to Secretary of State Kissinger »).

✱ Bài diễn văn từ chức của TT  Thiệu được phổ biến trên thư viện online của cơ quan CIA ngày 11.1.2017 – bản văn thiết lập ngày  21.4.1975

“…”  Trước
hết, tôi xin lỗi  hôm nay tôi nói chuyện trực tiếp  mà không có đọc
thông điệp trước qúy vị và trước quốc dân hay anh em chiến sĩ, cán
bộ. Cũng vì vấn đề cấp bách đòi hỏi một  quyết định cấp bách và phải
được bảo vệ sự kín đáo tối đa vì lý do an ninh quốc gia. Cho nên tôi mạn
phép mời Quốc hội lưỡng viện, Tối cao pháp viện, các cơ quan hiến định
và tất cả quý vị với một  thời hạn rất là ngắn ngủi ở trong một khung
cảnh đáng lẽ phải là khác hơn ở Dinh Độc Lập.

Đây
là một cuộc nói chuyện rất quan trọng, nhưng nó đã không được thông báo
trước. Vì lý do an ninh quốc gia và vì tầm quan trọng của cuộc nói
chuyện đối với an ninh quốc gia, tôi xin đồng bào và các anh chị  cán
bộ, chiến sĩ  toàn quốc hãy hiểu cho. Nếu thời gian cho phép, tôi đã
triệu tập một phiên họp toàn thể của cả hai viện của quốc hội với sự
hiện diện của tòa án tối cao và các tổ chức quần chúng và tôn giáo khác
nhau, ðể tôi có thể giải quyết tình huống mà tôi sẽ trình bày chi tiết
ngày hôm nay. Tôi có thể yêu cầu qúi vị  rộng lượng thứ lỗi cho tôi vì
đã giải quyết vấn đề cấp bách này theo cách không hoàn toàn phù hợp với
nghi thức. “…”

Cái
bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam
cho cộng sản. Và tôi đã có đủ can đảm nói với ông Ngoại trưởng Kissinger
lúc đó  nếu như ông chấp nhận bản hiệp định này, nghĩa là ông chấp nhận
bán cái miền Nam này cho cộng sản. Còn tôi mà chấp nhận cái bản văn
hiệp định này thì tôi cũng chấp nhận phản quốc, bán cái dân tộc và đất
nước miền Nam cho cộng sản. Nếu
như ông chấp nhận bản hiệp định  vì lý do riêng tư  tôi không biết, nể
nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam
này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận.

Bản văn hiệp định đó là một bản văn mà tôi đã từ chối, tôi đã phản đối
trong 3 tháng trời (tháng 10.1972 đến tháng 1.1973 ). Và trong 3 tháng
trời ấy chỉ có 3 điểm chánh mà tôi tranh đấu sống chết. Và sự tranh đấu
của tôi được chứng minh một cách rõ ràng bởi mỗi một lần tôi mời họp có
ông chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền , ông chủ tịch Hạ viện Nguyễn
Bá Cẩn, ông Tổng trưởng ngoại giao, ông chủ tịch Tối cao pháp viện, có
Phó tổng thống, đại tướng Tổng tham mưu trưởng và Thủ tướng, thỉnh
thoảng có một vài nhân vật chính trị khác. Ba cái điểm mà tôi cho là mất
nước:

Đầu tiên là một
chính phủ ba thành phần ở trên thượng tầng chỉ huy hai chính phủ là
chính phủ VNCH và chính phủ của Mặt trận giải phóng, và cái chính phủ
liên hiệp ba thành phần đó được đặt để cho tới tỉnh, quận, xã, ấp. Tôi
cho đó là một cái chính phủ liên hiệp, dù dưới hình thức nào, dù ở cấp
bậc nào, tôi cũng không chấp nhận và tôi không chấp nhận cái chuyện đó
từ 5, 7 năm trước.  Cho nên, đừng có nói gì tới ấp cho tới xã, mà ngay
cả trung ương tôi đã không chấp nhận 3 thành phần, 4 thành phần và 2
thành phần tôi cũng không chấp nhận, cho nên tôi đã nói không chấp nhận
!.

Thứ hai, họ nói rằng ở Đông Dương chỉ có ba nước là Cao Miên, Ai Lao và Việt Nam. Tôi hỏi ngoại
trưởng Kissinger, Việt Nam nào? Việt Nam của Sài Gòn hay Việt Nam của
Hà Nội? Nếu mà ông chấp nhận bản văn này là ông chấp nhận cái Việt Nam
của Hà Nội. Theo cộng sản, Việt Nam này bao gồm cả miền Bắc và miền Nam. Tôi
không chấp nhận. Tôi muốn trở về nguyên thủy hiệp định Genève là có hai
quốc gia Việt Nam, hai chính quyền Hà Nội và Sài Gòn, tôi gọi họ là
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, họ phải kêu tôi là Việt Nam Cộng hòa không
xâm phạm lẫn nhau, lấy vĩ tuyến 17 và lấy hiệp định Genève làm căn bản,
chờ đợi ngày thống nhất bằng phương tiện hòa bình và dân chủ, dù cho
ngày đó không biết là ngày nào. Tôi bác bỏ cái
chuyện đó. Tôi nói trở về hai miền Nam Bắc, hai quốc gia riêng biệt có
thể vô Liên Hiệp Quốc, giữ cái vĩ tuyến 17, giữ vùng phi quân sự chờ
ngày thống nhất.

Điểm thứ ba là đối với quân đội miền Bắc Việt Nam,  thì
ông Ngoại trưởng Kissinger chấp nhận là quân đội Bắc được quyền ở trong
miền Nam một cách hợp pháp, đương nhiên. Tôi nói điểm này là điểm quan
trọng nhất.  Không có gì kỳ lạ hơn
việc những kẻ xâm lược, sau khi chiến tranh kết thúc và hòa bình lập
lại, có quyền để lại quân đội của chúng mãi mãi trên lãnh thổ của người
khác.  Tôi nói điều kiện tiên quyết
và quan trọng nhất là quân đội Bắc Việt phải rút lui về Bắc. Ông
Kissinger trả lời với tôi rằng: “Cái chuyện này thương thuyết với Nga
Sô, Trung Cộng đã 3 năm nay không được, Mỹ chịu thua”.  “…”

Con số 722 triệu đô la mà Tổng
thống Hoa Kỳ Gerald Ford yêu cầu quốc hội không đủ cho miền Nam Việt
Nam và các lực lượng vũ trang chống lại quân cộng sản miền Bắc Việt Nam
và ổn định tình hình quân sự để bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm
túc. Những người cộng sản biết điều này, và họ chỉ cần tận dụng để thúc
đẩy dành chiến thắng quân sự mà không cần đàm phán. Để đạt được mục tiêu
mà Hoa Kỳ mong đợi – đó là ổn định tình hình quân sự để tiến hành các
cuộc đàm phán trên cơ sở hiệp định Paris và do đó đạt được một giải pháp
chính trị – phải có hơn 722 triệu đô la. Hơn nữa, phải có B-52 để trừng
phạt cộng sản miền Nam và nếu có thể là cả cộng sản miền Bắc. Cũng cần
phải có xe tăng, trọng pháo, thiết bị, súng lớn nhỏ, và đạn dược. những
thứ này phải được gửi vào liên tục, liên tục, liên tục và ngay lập
tức. Điều đó  không phải là vấn đề của vài tháng hay vài tuần, mà là vấn
đề của vài ngày. Các khí tài này phải dồi dào  hầu trang bị cho các sư
đoàn để đánh với 20 sư đoàn Bắc Việt. Tôi thách thức – giả sử quân đội
của miền Nam Việt Nam Cộng Hòa rút đi – quân đội Hoa Kỳ tiến vào với
quân số ngang bằng với quân đội VNCH và với cùng số lượng vũ khí và đạn
dược và không có B-52  thì quân đội Hoa Kỳ có thể đối phó với cộng sản
trong bao nhiêu ngày?  Vậy làm thế nào chúng ta có thể được bảo để làm
điều đó? Do đó, thật phi lý, bất công và mâu thuẫn khi nói rằng tôi là
một người không muốn đàm phán. Nếu tôi không có thiện chí đàm phán thì
làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết?  Mặc dù
thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó. Tôi đã
thể hiện thiện chí tối đa khi nhận nó.  Chúng tôi đã thể hiện thiện chí
tối đa khi chấp nhận văn bản của một thỏa thuận không đáp ứng các lý
tưởng và tiêu chuẩn của chúng tôi. chúng tôi chỉ mong đợi ba điều: Thiện
chí của những người cộng sản và chủ nhân của họ – Liên Xô và Trung
Cộng.  Điều thứ hai chúng tôi mong đợi là hành động cấp cao mạnh mẽ giữa
các quốc gia thống nhất, Liên Xô và Trung cộng. Điều thứ ba chúng tôi
mong đợi là đủ viện trợ quân sự và kinh tế để cho phép chúng tôi đương
đầu với quân Bắc Việt Nam. Không có điều nào trong số này đã thành hiện
thực. “…”

Người
Mỹ đánh giặc ở đây, không đánh được, đi về. Đặt ra  cái chương trình
Việt Nam hóa, chúng ta chấp nhận dù không muốn Việt Nam hóa. Có Việt
Nam hóa rồi, hứa  cộng sản hành động thì sẽ phản ứng mà không phản ứng.
Thì chỉ còn có một thứ tối thiểu là đưa đồ cho người ta đánh  mà không
đưa. Thì thử hỏi cái đó là cái gì? Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu
chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn
tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.

Sở
dĩ tôi từ chức hôm nay là bởi vì hôm nay ở bên Hoa Kỳ, Quốc hội đưa vấn
đề viện trợ ra mổ xẻ. Tôi nghĩ rằng cái hành động tôi từ chức hôm nay,
biết đâu ngày mai từ cái chỗ 322 nó lên 722 hay nó lên 1 tỉ mấy.  Rồi
thì tới tấp cầu hàng không chở xe tăng, đạn, pháo  qua đây viện trợ,
viện trợ, viện trợ. Tôi hy vọng như vậy, để coi Quốc hội Hoa kì có đọc

Tôi
cũng hy vọng rằng trong cái lúc mà tình thế quân sự căng thẳng tại Quân
Khu III Quân Khu IV, ông Thiệu đi rồi, còn ông TT Hương thì biết đâu
còn 3, 4 ngày, còn 1 tuần thì chuyện nó có thể lật được. Nếu như tôi để
ngày mai ngày mốt mà tôi mới từ chức, mà cộng sản thực sự nó tấn công
thì e nó quá trễ. Lúc đó nó quá dở, trễ quá rồi làm không được. Quốc hội
Hoa kỳ viện trợ 3 trăm rưỡi, để trễ quá 3 trăm rưỡi cũng không lên 722
được. Không sớm hơn mà không trễ hơn, bởi vì tôi nghĩ rằng: Cái thời
gian tính mà ngày hôm nay còn thay đổi cục diện quân sự của cả chiến
trường miền Nam. 
(Ghi chú: đoạn văn viết chữ nghiêng trích từ video clip người viết upload lên Youtube vào  ngày 23.2.2014 – Phần audio lấy trên net, phần hình ảnh của TV Histoire, Pháp:« Diễn văn từ chức của TT Ng V Thiệu 21.4.1975»).


do thứ hai của việc từ chức, đây là một trong những điều tôi đã nói
trước đó. Tôi nghĩ rằng việc từ chức của tôi là một sự hy sinh rất nhỏ
với tất cả người dân và các lực lượng vũ trang của chúng ta sẽ nhận được
nguồn viện trợ dồi dào để chiến đấu và bảo vệ lãnh thổ còn lại, và nếu
không có sự hiện diện của tôi, các cuộc đàm phán trong tương lai với
những người cộng sản, để có thể giúp bảo vệ một nền tự do và dân chủ
cho miền Nam và giành quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam theo
tinh thần của Hiệp định Ba-Lê. Tôi kêu gọi tất cả những người, tổ chức,
tôn giáo và chính trị gia, những người cho rằng tôi là kẻ cản trở hòa
bình và cho rằng tôi bất lực trong việc mang lại hòa bình và bảo vệ miền
nam đã không thể đánh bại cộng sản và lập lại hòa bình, hãy tiếp tay
giúp Tổng thống Trần Văn Hương đem lại hòa bình, danh dự, tự do, ấm no,
dân chủ, bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Paris mà CSVN bắt
buộc phải tôn trọng, và thực hiện quyền dân tộc tự quyết của nhân dân
miền Nam như trong Hiệp định Ba-Lê. Tóm lại, tôi không muốn bất cứ ai sử
dụng cá nhân tôi – tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – như một cái cớ để
ngược đãi đất nước này. Kể từ giờ phút này trở đi, không thể viện cớ đó
nữa và bây giờ phải thể hiện sự chân thành và trung thực của mình. “…”

Thưa quý vị, đồng bào và anh chị em

Tôi
đã phục vụ đồng bào, anh chị em trong 10 năm qua. như tôi đã nói, tôi
không thiếu can đảm. Không phải là bất kỳ cuộc biểu tình hay vu khống
nào có thể làm tôi nản lòng và mất tinh thần và buộc tôi phải từ chức
một cách vô nghĩa và vô trách nhiệm, cũng không phải vì chịu trước áp
lực của đồng minh, cũng không phải vì  những khó khăn. Tôi từ chức nhưng
không đào ngũ. Kể từ giờ phút này, tôi đặt mình vào sự sử đụng của tổng
thống, đồng bào và quân đội. Khi tôi từ chức, ông Trần Văn Hương sẽ trở
thành tổng thống, và đất nước chúng ta sẽ không mất gì cả. Biết đâu đất
nước ta lại có thêm một chiến sĩ ra mặt trận. Kề vai sát cánh cùng đồng
bào và chiến sĩ bảo vệ  đát nước.  Giờ đây, tôi xin cám ơn đồng bào,
quý vị, anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, và tôi xin từ biệt.

Tôi xin nhắc lại  yêu cầu của tôi, yêu cầu Lưỡng Viện Quốc Hội, và Tối
Cao Pháp Viện chấp nhận với sự hiện diện của quý vị, theo  đúng điều 55
của Hiến Pháp để cho Phó tổng thống Trần Văn Hương tuyên thệ nhậm chức
Tổng thống.  Cảm ơn.

 (Theo
tài liệu của CIA, thiết lập ngày 21.4.1975, chấp thuận cho phổ biến
ngày 15.6.2010, loan tải trên thư viện online của cơ quan CIA ngày
11.1.2017: « TEXT OF THIEU’S RESIGNATION SPEECH ».)

 Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn

(
Trích đoạn theo tường thuật của  Thiếu Tá Nguyễn Tấn Phận, tháp tùng
phái đoàn TT Thiệu rời Sài Gòn  đi Đài Loan  tối ngày 25.4.1975).

 “
… Vào lúc 5 giờ Thomas Polgar gọi chúng tôi bốn người gồm có tướng
Timmes, anh Joe Kingsley và một nhân viên khác rồi hỏi chúng tôi là các
ông có rành đường phố Sài-Gòn ban đêm không. Chúng tôi đều gật đầu. Thế
thì tốt, Polgar tiếp, tôi muốn các ông giúp tôi đưa Thiệu và cựu Thủ
tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay…”   Đó là theo lời kể của ông Frank
Snepp trong cuốn Decent Interval, trang 434. “…”

Chúng tôi
lần lượt ra xe và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái samsonite vào, (Lúc
ông Polgar đang viết, tôi đã bỏ cây K54 vào samsonite ) hai khẩu súng
nhỏ va chạm vào nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc
tới chuyện này. Ông có nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp sắc
tay vào cốp xe, và có thể nghĩ đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu
báu!

Liền sau đó Tổng thống Thiệu, Đại tướng Khiêm, Polgar,
Timmes cùng ra xe. Đại tướng Khiêm ngồi xe trước với ông Polgar. Tổng
thống Thiệu ngồi xe sau với tướng Timmes; ông ngồi giữa tướng Timmes và
Đại tá Đức, Trung tá Chiêu ngồi ghế trước với tài xế là ông Frank Snepp.
Chúng tôi chia nhau vào hai xe còn lại. “…”

Đúng 9 giờ 15 phút, giờ Sài-gòn.- Buồng máy máy bay tắt đèn. Phi cơ từ
từ lăn bánh ra phi đao, đem theo hai vị lãnh tụ quốc gia, một tướng lãnh
Mỹ và 9 “quan” tùy tùng, hộ vệ! Chiếc phi cơ lượn một vòng trên bầu
trời “đen tối” của không phận Sài-Gòn, rồi hướng về biển Đông…

Danh
sách phái đoàn do cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trình  lên Tổng thống
Trần Văn Hương có nội dung như sau: (Tổng thống Thiệu viết tay)

 Kính trình:  Tổng  thống Trần Văn Hương.

Thưa
cụ, Để thực hiện công cụ giao phó, tôi kính xin cụ đồng ý cho những bác
sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi
theo tôi trong suốt thời gian công du: 1. Đại tá Võ Văn Cầm 2. Đại tá
Nguyễn Văn Đức 3. Đại tá Nhan Văn Thiệt 4. Đại tá Trần Thanh
Điền 5.Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu 6. Thiếu tá Hồ Vương Minh 7. Đại úy
Nguyễn Phú Hải (giờ không có mặt) 8. Phục hồi chức năng viên (chờ không
có mặt). Ngoài ra, Cựu Thủ tướng Đại tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần
theo các sĩ quan và dân sự sau đây: 1. Trung tá Đặng Văn Châu – 2. Thiếu
tá Đinh Sơn Thông -3. Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận -4. Ông Đặng Vũ (giờ
không có mặt).  Đại tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi trình cụ chấp thuận
./. Kính chào Tổng thống (ký tên Thiệu) . Tổng thống Trần Văn Hương phê
duyệt, Đề ngày 25/4/75, và ký tên Trần Văn Hương. ( Theo Bất Khuất Net: « Những ngày cuối của TT Ng. V.Thiệu ở Sài Gòn » – Thiếu
tá NgT Phận: Tháng 4.1975 phụ trách an ninh cho Đại Tưóng Trần Thiện
Khiêm. – Tháp tùng phái đoàn cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và cựu Thủ
Tướng Trần Thiện Khiêm rời khỏi Việt Nam vào buổi tối ngày 25-4-1975).

ngTP5.jpg

Điều mà  TT Nguyễn Văn Thiệu lên án Mỹ nêu trên ” 
Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính ngĩa, vô nhân đạo đối với một
đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường
quốc
” là có nguyên do….Vì  vào ngày 21.1.1973, TT Thiệu đã phúc đáp tối hậu thư của TT Nixon (20.1.1973),   buộc TT Thiệu phải ký tắt vào bản Hiệp định Paris . Trong thư phúc đáp gửi TT Nixon, có đoạn văn với nội dung : “ Trước
những tuyên bố của Ngài rằng viện trợ của Hoa Kỳ cho VNCH sẽ bị cắt đứt
nếu tôi không tham gia cùng Ngài, dựa trên cơ sở đảm bảo mạnh mẽ của 
Ngài  về việc tiếp tục viện trợ cho Chính phủ Việt Nam sau khi ngừng
bắn, tôi  chấp nhận lịch trình của Ngài đã đề ra liên quan đến việc ký tắt  thỏa hiệp vào ngày 23 tháng 1 năm  1973″ .
 (Theo  Thư viện BNG/FRUS  ngày 21.1.1973: « Letter From South Vietnamese President Thieu to President Nixon »).

Xem ra qua chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã dùng cuộc chiến này để “… đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán”. Trước đó, có thể vì lo lắng cho tương lai khi quan hệ với Mỹ, vào năm 1957:  Trong cuộc gặp gỡ với TT Eisenhower, TT Diệm yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam – « During the meeting with Eisenhower, Diệm asked about the American commitment towards the defense of South Vietnam.». Bốn năm sau, năm 1961: Vào
ngày 18 (tháng 10), TT Diệm nói rằng ông ta không muốn quân đội Hoa Kỳ
tham gia với bất kỳ nhiệm vụ nào. Ông lặp lại yêu cầu về một hiệp ước
phòng thủ song phương 
«On the 18th, Diem said he  wanted no U. S. combat troops for any mission. He repeated his request for a bilateral defense treaty » ( page 26/197) . Vì thế  việc “yêu cầu Mỹ cam kết bảo vệ miền Nam Việt Nam” và yêu cầu ký kết ” hiệp ước phòng thủ song phương  đã không còn lý do tồn tại sau cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963.

Sang đến thời  Đệ II  VNCH, một thời gian sau cuộc đảo chánh, vào  năm 1965 chính phủ Phan Huy Quát  đã « “INVITE “ the United States to send the Marines   » đến Việt Nam, trái ngược với chủ trương thời Đê I VNCH là “wanted no U. S. combat troops“  Sau  8 năm  Mỹ đem quân vào Việt Nam, dẫn đến kết quả  là TT Thiệu bị buộc phải thi hành tối hậu thư (1.1973), để rồi hai năm sau dẫn đến việc khai tử  nền Đệ II  Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 30.4.1975.

Đào Văn