Xung đột Ukraine: Phân tích quan điểm của Nga qua Chủ nghĩa kiến tạo

Cac Bai Khac

No sub-categories

Xung đột Ukraine: Phân tích quan điểm của Nga qua Chủ nghĩa kiến tạo

25/3/2022 – “Chiến dịch quân sự đặc biệt” mà chính quyền Nga đang tiến hành trên lãnh thổ của Ukraine đã làm bùng nổ trong cộng đồng quốc tế những tranh cãi về bản chất của cuộc xung đột và các phương án khả thi để chấm dứt khủng hoảng này. Khi giao tranh đang tiếp diễn, sẽ là quá sớm để xác định kết quả giữa các bên, nhưng chúng ta hoàn toàn có khả năng làm sáng tỏ nguồn gốc cho cuộc đụng độ ở Ukraine thông qua lý thuyết quan hệ quốc tế.

Trong bài viết này, các tác giả cố gắng làm rõ quan điểm của Nga khi áp dụng biện pháp quân sự đối với Ukraine. Mục tiêu này được thúc đẩy bởi hai lý do sau. Thứ nhất, hiện có quá nhiều xuất bản về quan điểm của Nga, song chiến tranh thông tin đã để lại rất ít hoặc đã xoá bỏ hoàn toàn không gian cho các nghiên cứu công bằng, chưa kể tới những ảnh hưởng của “chứng sợ Nga” (Russophobia) đang tăng lên trên quy mô toàn cầu. Thứ hai, Nga là một trong những chủ thể chính trong cuộc khủng hoảng này, do vậy việc thấu hiểu quan điểm của Nga là điều kiện cần thiết để đạt được hoà bình trong tương lai gần.

Giả thiết được đặt ra là sự đối kháng về bản sắc quốc gia làm tăng lên sự cạnh tranh địa chính trị trong quan hệ quốc tế. Bản sắc quốc gia là cách quốc gia nhìn nhận bản thân mình, trên cơ sở đó định hình các mục tiêu chiến lược về an ninh và phát triển. Thật khó có được bức tranh toàn cảnh về xung đột ở Ukraine mà không xét đến bản sắc quốc gia, thứ vốn là một trong những trụ cột của cuộc đối đầu Nga – phương Tây, và Ukraine chỉ là một phần nhỏ trong chiến trường địa chính trị lớn giữa các trung tâm quyền lực này.

Sau khi Liên Xô tan rã, Nga và Ukraine đã từ bỏ hệ tư tưởng Mác – Lê-nin và quay trở về với bản sắc quốc gia. Đối với Nga, điều phải làm là phục hưng lại vinh quang của Đế quốc Nga trong quá khứ song song với việc hạ thấp tầm quan trọng của cuộc Cách mạng tháng Mười năm 1917 do Bolshevik lãnh đạo và chấm dứt hoàn toàn “các nghĩa vụ quốc tế xã hội chủ nghĩa”. Trong khi đó, Ukraine đã phải vật lộn để xây dựng bản sắc quốc gia của riêng mình. Với mong muốn định vị bản thân, Ukraine bắt đầu quá trình tách rời khỏi “thế giới Nga” (Russianhood) – một đặc điểm chung của hết thảy các quốc gia độc lập hậu Xô viết. Nhưng nhà nước Ukraine mới lại bị người Nga xem là “quốc gia nhân tạo” và gán cho là có tư tưởng “chống Nga”, những điều này được thể hiện trong phát biểu của Tổng thống Nga V. Putin, rằng Ukraine hiện đại thực chất chỉ là dự án sai lầm của V. Lenin.

Việc định hình bản sắc quốc gia như vậy còn phụ thuộc vào nhận thức lẫn nhau của các chủ thể (intersubjective perception), đôi khi dẫn tới đụng độ giữa các cộng đồng xã hội. Hiểu đơn giản, nhận thức lẫn nhau giữa các chủ thể có nghĩa là “Tôi không chỉ là những gì tôi nghĩ về bản thân, mà còn là những gì người khác nghĩ về tôi”. Trường hợp giữa Nga và Ukraine, tồn tại xung đột sâu sắc về nhận thức lẫn nhau. Người Ukraine tự xem mình là một dân tộc độc lập và có bản ngã riêng, tách biệt với người Nga. Nhưng người Nga lại không nghĩ như vậy. Họ tin rằng người Ukraine có quan hệ gần gũi với mình theo nhiều cách diễn giải và hai dân tộc đã thực sự là một xã hội trong không gian của nước Nga lịch sử. Ukraine từng được biết đến như “một nước Nga nhỏ” (Minor Russia), do đó nó phải là một phần không thể thiếu của “thế giới Nga”. Điều này ăn sâu vào suy nghĩ và lịch sử quốc gia của người Nga, vậy nên đã rất khó để họ chấp nhận một đất nước vĩ đại mà lại thiếu đi Ukraine, không có Kiev cũng như các thành phố khác.

Trên thực tế, xung đột về nhận thức lẫn nhau giữa người Nga và người Ukraine đã bén gốc rễ qua nhiều thế hệ. Chúng ta có thể lấy ví dụ về Mazeppa – hetman (thủ lĩnh) của người Ukraine thế kỷ 18. Vốn là chư hầu của Sa hoàng Peter Đại đế, song Mazeppa đã phản lại Đế quốc Nga và gia nhập phe của vua Thụy Điển Karl XII trong Chiến tranh phương Bắc 1700-1721. Không cần phải nói, trong sử sách Nga, ông ta bị lên án như một kẻ phản bội. Còn trong tâm trí của người Ukraine, Mazeppa được suy tôn như một đấng anh hùng, người đã dám đứng lên chống lại chế độ chuyên quyền của Nga hoàng để bảo vệ quyền lợi của dân tộc Ukraine.

Nước Nga – cường quốc của chúng ta, nước Nga – đất nước thân yêu của chúng ta. Ý chí hào hùng, niềm vinh quang vĩ đại – là tài sản của Người cho mọi thời gian” – đây là những lời đầu tiên của quốc ca Nga được V. Putin chấp thuận khi vừa lên làm tổng thống. Vốn là phiên bản chỉnh sửa dựa trên quốc ca Liên Xô, sự trở lại của những hào khí cũ thể hiện quyết tâm của lãnh đạo Nga trong việc phục hưng đất nước với tư cách là một cường quốc trên chính trường quốc tế. Sự vĩ đại của một quốc gia đòi hỏi sự tôn trọng rộng rãi, nhưng đáng tiếc là người Nga đã không nhìn thấy điều đó từ tập thể các nước phương Tây.

Trong Chiến lược Đối ngoại Nga năm 2016, Nga đã cáo buộc Liên Hiệp Châu Âu (EU) và Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) thực hiện chính sách thù địch với mình. Từ góc nhìn của Nga, các nước này đã từ chối thiết lập hệ thống an ninh tập thể trên toàn Châu Âu và cố gắng loại trừ Nga khỏi khu vực an ninh của họ. Hệ quả là đã làm dấy lên mối nghi ngại và sự mất lòng tin của giới tinh hoa Nga. Họ cho rằng phương Tây không sẵn sàng chấp nhận Nga là một thành viên bình đẳng trong gia đình các quốc gia Châu Âu. Sự bành trướng về hướng Đông của NATO đi liền với việc giảm thiểu số lượng các quốc gia vùng đệm trung lập được cho là đã vi phạm tàn bạo lợi ích cốt lõi của Nga, tạo ra mối đe dọa hiện hữu với khả năng tự vệ của nước này. Nỗi thất vọng vì sự kém hiệu quả của các tổ chức quốc tế trong việc duy trì lợi ích quốc gia, cùng với nguy cơ Ukraine và Georgia trở thành thành viên trong EU và NATO, khiến Nga lựa chọn biện pháp quân sự như một phương tiện hiệu quả duy nhất để đảm bảo an ninh của chính mình. Như chiến lược gia S. Karaganov, người đảm đương vai trò cố vấn cho các đời tổng thống Nga, khẳng định : “Nga cần phải phá vỡ các quy tắc bất công vốn được phương Tây cài đặt trong các mối quan hệ quốc tế”.

John Mearsheimer, một trong những học giả hàng đầu của trường phái hiện thực chủ nghĩa, đã từng quy kết rằng khủng hoảng Ukraine nổ ra là do lỗi của phương Tây. Ông lập luận : “Các cường quốc luôn nhạy cảm với các mối đe dọa tiềm tiềm tàng gần không gian lãnh thổ của họ” ; vì thế “Putin và các cộng sự của mình đã phải suy nghĩ và hành động theo các quy luật của chủ nghĩa hiện thực, trong khi các đối tác phương Tây lại tôn trọng những lý tưởng tự do trong chính trị quốc tế”. Từ quan điểm hiện thực, những gì Nga đang làm ở Ukraine không có mấy khác biệt so với những gì Mỹ đã làm ở Nam Tư, Afghanistan, Libya hay Iraq – bởi đó đều là cách các cường quốc bảo vệ an ninh và lợi ích quốc gia của mình. Họ có lý do để xem nhẹ tầm quan trọng của luật pháp quốc tế.

Ngược lại, F. Fukuyama – một đại diện của trường phái tự do trong lý thuyết quan hệ quốc tế, lại xem Nga là chủ thể duy nhất chịu trách nhiệm cho cuộc khủng hoảng này. Ông tin rằng sự thất bại có khả năng xảy ra của Nga có thể mang lại một sự khai phóng mới và một nền dân chủ phổ quát cho thế giới. Trong mắt những người theo chủ nghĩa tự do, EU và NATO là những tổ chức quan trọng, kết hợp với bá quyền toàn cầu của Hoa Kỳ, cho phép họ thực hiện những thay đổi ở các khu vực phi phương Tây mà không cần tính toán đến lợi ích của kẻ khác. Vì những ý định của Nga hoàn toàn mâu thuẫn với phương Tây nên các hành vi của Nga luôn bị xem là mối đe dọa đối với trật tự do phương Tây lãnh đạo.

Tóm lại, cuộc khủng hoảng Ukraine là một phần của sự dịch chuyển cán cân quyền lực trong hệ thống chính trị quốc tế hiện nay. Nga một mực coi các hành động của mình là cần thiết, đổ lỗi cho phương Tây đã không đếm xỉa đến các lợi ích quốc gia và đảm bảo an ninh của nước này. Trong khi đó, EU và NATO xem cuộc xung đột quân sự Nga – Ukraine là thách thức lớn nhất đối với sự thống trị của họ kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, những nỗ lực của Nga nhằm định hình lại trật tự toàn cầu được coi là không thể chấp nhận được. Do mâu thuẫn về bản sắc quốc gia, những ác cảm về các giá trị của nhau và tình trạng không tin tưởng lẫn nhau, tất cả đã biến Ukraine thành chiến trường địa chính trị chính giữa Nga và phương Tây vào lúc này. Chưa rõ khi nào mới có thể kết thúc, song xung đột ở Ukraine đã làm thay đổi tiến trình lịch sử thế giới, tạo ra xu thế mới trong quan hệ quốc tế. Như chuyên gia I. Timofeev, Giám đốc Hội đồng Các vấn đề Quốc tế Nga (RIAC), phân tích : “Đối với một số quốc gia, xung đột này sẽ gây ra những thiệt hại đáng kể trong trung và ngắn hạn. Tuy nhiên, đối với nhiều quốc gia khác, nó lại tạo ra những cơ hội để giúp họ gia tăng ảnh hưởng về lâu dài”.

Gofman Artem & Đinh Hồng Giang

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 18/03/2022

Gofman Artem, Tiến sĩ Lịch sử, nghiên cứu viên Viện Đông phương học, Viện Hàn lâm Khoa học Nga. Email : gofmanar@yandex.ru

Đinh Lê Hồng Giang, nghiên cứu sinh chính trị học tại Đại học Tổng hợp Sevastopol. Email : giangdinh@yandex.ru

***************************

Khía cạnh luật pháp quốc tế trong việc Nga xâm lược Ukraine

Oona A. Hathaway, Nguyễn Thị Kim Phụng, Nghiên cứu quốc tế, 17/03/2022

Cuộc xâm lược Ukraine của Nga là cuộc chiến tranh phi pháp trắng trợn nhất do một quốc gia có chủ quyền tiến hành chống lại một quốc gia có chủ quyền khác kể từ Thế chiến II. Hành động của Điện Kremlin rõ ràng đã vi phạm nghĩa vụ cốt lõi quy định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc, cấm “sử dụng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào”. Tổng thống Nga Vladimir Putin gần đây đã đe dọa rằng nếu người Ukraine tiếp tục phản kháng, họ sẽ “đưa tương lai địa vị nhà nước của Ukraine vào rủi ro”. Cũng có rất nhiều bằng chứng theo thời gian thực tại Ukraine cho thấy quân đội Nga đang phạm tội ác chiến tranh trên khắp nước này – kể cả việc tấn công dân thường.

ngatrung2

Tòa án Công lý Quốc tế ở La Hay, tháng 3 năm 202

Những hành động vi phạm pháp luật khác thường này đã phải đối mặt với những biện pháp thực thi pháp luật đặc biệt không kém. Phản ứng được thảo luận rộng rãi nhất đối với cuộc chiến bất hợp pháp trắng trợn này là một loạt các biện pháp trừng phạt có phối hợp, chưa từng có tiền lệ, đến từ Mỹ, Châu Âu, và phần lớn các nước còn lại trên thế giới. Các lệnh trừng phạt đó đã được áp dụng, cụ thể và trực tiếp, nhằm đáp trả việc Nga vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Do đó, chúng gửi đi một thông điệp rõ ràng : cuộc xâm lược Ukraine là một mối đe dọa không chỉ đối với Ukraine, mà còn đối với trật tự luật pháp quốc tế. Bằng cách gia nhập nhóm thực thi trừng phạt, các quốc gia trên khắp thế giới đang làm rõ rằng họ cũng phản đối cuộc xâm lược bất hợp pháp của Nga và sự vi phạm luật pháp quốc tế mà nó đại diện.

Luật pháp quốc tế đương đại yêu cầu các quốc gia đáp lại các hành vi vi phạm không phải bằng chiến tranh, mà bằng điều mà tôi và Scott Shapiro gọi là “tẩy chay” (outcasting) – nghĩa là các biện pháp trừng phạt nhằm loại trừ quốc gia vi phạm luật pháp quốc tế khỏi các lợi ích của hợp tác toàn cầu. Trong trường hợp này, tẩy chay không chỉ liên quan đến các biện pháp trừng phạt kinh tế, mà còn gồm việc cấm các vận động viên Nga tham gia các sự kiện thể thao quốc tế, cấm máy bay Nga bay vào không phận Châu Âu và Mỹ, cũng như hạn chế khả năng tiếp cận khán giả Châu Âu của các hãng truyền thông Nga.

Nhưng đó không phải là tất cả. Các thể chế luật pháp quốc tế vốn dĩ đang thoi thóp bỗng nhiên đã sống động trở lại do cuộc xâm lược bất hợp pháp này. Chỉ vài ngày sau khi cuộc chiến bắt đầu, công tố viên trưởng tại Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) đã thông báo rằng ông đang mở một cuộc điều tra về những gì có thể là tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người của Nga. Ukraine cũng đã yêu cầu Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) can thiệp vào cuộc xung đột. Thêm nữa, ngày càng có nhiều lời kêu gọi thành lập một tòa án đặc biệt để xem xét liệu đây có phải là một tội ác xâm lược hay không. Dù còn quá sớm để biết liệu có nỗ lực nào trong số này thành công hay không, nhưng phản ứng chưa từng có tiền lệ này vẫn có thể có tác dụng bất ngờ trong việc khôi phục và củng cố trật tự luật pháp quốc tế, theo những cách mà Putin không thể dự liệu. Trên thực tế, quyết định dựa vào luật pháp của Ukraine, bất chấp việc Nga dựa vào vũ lực thô bạo, đã giúp họ nâng cao ý nghĩa của cuộc đối đầu. Cuộc xung đột này không chỉ đơn giản là về tương lai của Ukraine, mà còn về tương lai của trật tự pháp lý toàn cầu như chúng ta đã biết.

Cuộc chiến đầy tội lỗi của Putin

Ngay khi cuộc xâm lược bắt đầu, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã cố gắng thông qua một nghị quyết để lên án cuộc xâm lược của Nga, đồng thời yêu cầu rút các lực lượng Nga khỏi Ukraine, nhưng phía Nga đã phủ quyết. Tuy nhiên, cho đến nay, Liên Hiệp Quốc vẫn đóng vai trò là trung tâm của phản ứng pháp lý quốc tế đối với cuộc chiến. Nga có thể tiếp tục sử dụng quyền phủ quyết của mình tại Hội đồng Bảo an, để ngăn cơ quan này thông qua bất kỳ hành động trừng phạt nào, nhưng việc cô lập Nga gần như hoàn toàn trong tổ chức này đã diễn ra nhanh chóng và triệt để. Ngay sau khi Nga chặn nghị quyết, Hội đồng Bảo an – áp dụng Nghị quyết Thống nhất vì Hòa bình, vốn lâu nay ít được viện dẫn, theo đó không cho phép phủ quyết – đã chuyển vấn đề này lên Đại Hội đồng, nơi mà ngay sau đó đã bỏ phiếu áp đảo yêu cầu Nga “rút tất cả các lực lượng quân sự của mình ngay lập tức, hoàn toàn, và vô điều kiện ra khỏi lãnh thổ Ukraine, theo các biên giới được quốc tế công nhận”. Chỉ một số ít các quốc gia – gồm Belarus, Eritrea, Triều Tiên, và Syria – đã cùng Nga bỏ phiếu chống lại nghị quyết này. Các quốc gia khác mà Nga từng hy vọng sẽ ủng hộ mình, đáng chú ý nhất là Trung Quốc, thay vào đó, đã chọn bỏ phiếu trắng. Rõ ràng là Nga đang bị cô lập hơn bao giờ hết.

Các bánh răng của hệ thống tư pháp hình sự quốc tế cũng đã bắt đầu quay nhanh hơn. Ngày 28/02, chỉ 4 ngày sau khi cuộc xâm lược bắt đầu, Công tố viên ICC Karim Khan thông báo rằng ông đang tìm kiếm sự phê duyệt để mở một cuộc điều tra càng sớm càng tốt. Cả Nga và Ukraine đều không tham gia Quy chế Rome, văn bản thành lập và trao quyền tài phán cho ICC. Nhưng vào năm 2013, Ukraine đã chấp nhận thẩm quyền của Tòa ICC đối với các tội phạm bị cáo buộc xảy ra trên lãnh thổ của nước này. Tuy nhiên, Khan cho biết, quá trình xét duyệt sẽ được xúc tiến nhanh hơn, nếu một quốc gia thành viên ICC chuyển cuộc khủng hoảng Ukraine đến văn phòng của ông xem xét. Ngày 03/02, Khan thông báo rằng mình đã nhận được 39 yêu cầu từ các thành viên, và sẽ ngay lập tức tiến hành điều tra. Chưa bao giờ ICC lại phản ứng nhanh đến vậy trước sự bùng nổ của một cuộc xung đột. Thông báo này có nghĩa là các binh sĩ và các chỉ huy của họ ở cả hai bên, bao gồm cả chính Putin, có thể bị ICC truy tố vì tội ác chiến tranh, tội ác chống lại loài người, hoặc tội ác diệt chủng. Vì tội xâm lược chỉ có thể được ICC tuyên cho các quốc gia thành viên của Quy chế Rome, trong khi Nga không phải là một thành viên, nên đã có những lời kêu gọi thành lập một tòa án đặc biệt để xét xử Nga vì đã tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược bất hợp pháp ở Ukraine.

Tương tự, Tòa án Công lý Quốc tế – cơ quan vẫn thường hành động chậm chạp – nay cũng đã bắt đầu các thủ tục tố tụng với tốc độ cực nhanh. Ngày 26/02, chỉ hai ngày sau khi cuộc xâm lược bắt đầu, Ukraine đã nộp đơn lên ICJ, bắt đầu các thủ tục chống lại Nga. Đơn kiện của họ đã sử dụng chính những tuyên bố thái quá (và vô căn cứ) của Putin về tội ác diệt chủng của chính quyền Ukraine ở miền đông Ukraine để chống lại ông ta. Nga, với tư cách là một bên của Công ước về Ngăn ngừa và Trừng phạt tội Diệt chủng, đã đồng ý rằng ICJ là diễn đàn có thể giải quyết các cáo buộc về tội diệt chủng. Trong một hành động pháp lý đầy khôn ngoan, Ukraine đã sử dụng tiền đề này, và lập luận rằng tuyên bố của Putin cung cấp cơ sở cho ICJ ra phán quyết liệu có thực sự xảy ra bất kỳ vụ diệt chủng nào như vậy hay không. ICJ ngay lập tức lên lịch điều trần vào ngày 07/03, nhưng Nga đã vắng mặt.

Tại sao lần này tình hình lại khác ?

Theo tất cả các báo cáo, Putin không hề mong đợi một phản ứng toàn cầu mạnh mẽ mà cuộc xâm lược Ukraine đã gây ra như vậy. Đó cũng là điều dễ hiểu. Xét cho cùng, ở Ukraine, Putin đang dùng cùng một cuốn cẩm nang hủy diệt mà nhiều năm qua ông đã dùng ở Syria, nhưng không gặp phản ứng gì đáng kể. Và dù việc sáp nhập Crimea bất hợp pháp vào năm 2014 cũng đã dẫn đến nhiều lệnh trừng phạt, chúng không thấm tháp gì so với cơn sóng thần kinh tế đang tấn công nước Nga ngày hôm nay.

Putin đã quên mất rằng cả Syria và Crimea đều không tạo ra một thách thức mở đối với nguyên tắc cốt lõi của trật tự luật pháp quốc tế – quy định của Hiến chương Liên Hiệp Quốc về việc cấm sử dụng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào. Tại Syria, Putin đã hành động với sự đồng ý của Tổng thống Syria Bashar al-Assad. Kết quả là, hành động của ông ta, tuy khủng khiếp, nhưng không vi phạm điều khoản cấm sử dụng vũ lực của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Trong khi đó, việc sáp nhập Crimea đơn giản là diễn ra trong cảnh rối rắm và ít có đổ máu. “Những người đàn ông áo xanh lá nhỏ bé”, những người mà Putin sau đó thừa nhận là binh sĩ Nga, đã đến bán đảo một cách bí mật. Chính phủ và người dân Crimea, nơi Hạm đội Biển Đen của Nga đã đóng quân từ lâu đời, phần lớn ủng hộ việc ly khai lãnh thổ khỏi Ukraine và sáp nhập vào Nga. Các nhà lãnh đạo trên khắp thế giới đã gọi hành động sáp nhập bằng đúng bản chất của nó là thôn tính (annexation) – một sự vi phạm rõ ràng đối với Hiến chương Liên Hiệp Quốc – nhưng họ đã mất nhiều thời gian để nhận ra bản chất sự việc và chuẩn bị một kế hoạch trừng phạt. Đến lúc đó thì việc thôn tính đã trở thành chuyện đã rồi (fait accompli).

Nhưng lần này mọi chuyện đã khác. Không giống như ở Syria, giới lãnh đạo Ukraine không đồng ý với việc Nga sử dụng vũ lực. Thay vào đó, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã lãnh đạo đất nước mình trong thời khắc phản kháng và định hình bản sắc dân tộc quan trọng nhất trong lịch sử gần đây. Ông đã biến Ukraine trở thành một biểu tượng của dân chủ và tự do trước sự tấn công dữ dội của Nga. Những người Ukraine bình thường đã đáp lại lời kêu gọi của Tổng thống, bằng cách chiến đấu vì đất nước của họ, chống lại một trong những đội quân hùng mạnh và hung tợn nhất hành tinh. Và họ đã truyền cảm hứng cho thế giới, dù phải hứng chịu những tổn thất to lớn.

Trong khi đó, được hỗ trợ bởi thông tin tình báo theo thời gian thực từ Mỹ về ý định thực sự của Nga, cộng đồng toàn cầu đã chứng minh rằng mình đã học được bài học từ Crimea, và sẵn sàng trừng phạt Nga ngay từ khi nước này phát động xâm lược. Nhiều quốc gia ở Châu Âu coi số phận của họ gắn liền với số phận Ukraine. Và họ nhận ra, lúc này đây, hơn bao giờ hết, nền hòa bình hậu Thế chiến II đã trở nên mong manh như thế nào – và việc cấm sử dụng vũ lực quan trọng ra sao đối với tương lai an ninh của chính họ.

Đứng về phía lẽ phải

Rõ ràng, sẽ không có thể chế luật pháp quốc tế nào có thể ngăn chặn hoặc đảo ngược được cuộc xâm lược của Nga. Nhưng dù sao, chúng vẫn có quyền lực. Cùng với nhau, các thể chế này đang khiến Putin khó có thể “thả bùn” vào môi trường pháp lý và níu giữ bất kỳ đồng minh nào còn lại ủng hộ mình. Kể từ khi cuộc xâm lược bắt đầu, nhà lãnh đạo Nga đã đưa ra nhiều tuyên bố vô căn cứ – rằng Ukraine đã có hành vi diệt chủng ở các tỉnh Luhansk và Donetsk của nước này, rằng các lệnh trừng phạt kinh tế về bản chất chính là một lời tuyên chiến, rằng Nga chỉ đơn giản là đáp lại yêu cầu xin được bảo vệ của người dân sinh sống ở các vùng “độc lập” của Ukraine. Nhưng căn cứ của các tuyên bố này đều đã bị suy yếu, do các bằng chứng về tội ác chiến tranh của quân Nga, cũng như phản ứng thống nhất của các thể chế luật pháp quốc tế là sẽ soi xét kỹ lưỡng các tuyên bố của Putin. Ukraine và các đồng minh gọi Putin là kẻ xuyên tạc. Và họ đang sử dụng các thể chế luật pháp quốc tế để chứng minh điều đó.

Ukraine và những người ủng hộ họ đã quyết định dựa vào Hiến chương Liên Hiệp Quốc và các thể chế luật pháp quốc tế để chứng minh rằng hành động của Putin không chỉ đáng bị lên án về mặt đạo đức, mà còn là bất hợp pháp. Và quyết định đó đã giúp cô lập Putin. Điều này giúp giải thích tại sao chỉ có các quốc gia bị bài xích, hoàn toàn phụ thuộc vào Nga, mới bỏ phiếu ủng hộ nước này tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Ngay cả các quốc gia độc tài thường đứng về phía Nga cũng thấy lập trường pháp lý của Nga là không thể chấp nhận được. Hai trong số các luật sư của Nga, những người từng đại diện cho nước này tại ICJ trong các vụ việc liên quan đến Crimea, đã từ chức, công khai tuyên bố rằng họ “không thể trở thành đại diện trong các diễn đàn thực thi luật pháp cho một quốc gia vốn coi thường chính nền luật pháp ấy”.

Dù có rất ít triển vọng Putin sẽ xuất hiện tại vành móng ngựa trong phòng xử án của ICC ở La Haye, và cũng rất ít khả năng Nga sẽ tuân theo quyết định của ICJ, nhưng luật pháp quốc tế vẫn là một trong những vũ khí mạnh mẽ nhất của Ukraine trong cuộc chiến chống lại Nga. Luật pháp quốc tế đang giúp các quốc gia – vốn ít khi đồng ý với nhau trong nhiều vấn đề – có thể thống nhất cùng nhau chống lại cuộc xâm lược. Nó đã tập hợp một liên minh toàn cầu chưa từng có để phản đối sự can thiệp của Nga, và xây dựng một chương trình trừng phạt nhấn mạnh đến cái giá phải trả cho hành động xâm lược của Điện Kremlin. Nó cũng thúc đẩy những quốc gia kể trên hỗ trợ Ukraine, bao gồm cả việc chuyển giao một lượng lớn vũ khí để nước này có thể phòng vệ. Luật pháp quốc tế sẽ giữ vững liên minh các quốc gia đa dạng này bằng cách chứng minh, hết lần này đến lần khác, rằng Putin không có lý lẽ chính đáng nào để có thể dựa vào.

Ngay cả trong trường hợp chính phủ Ukraine sụp đổ, hành động lên án thống nhất và kiên định về mặt pháp lý đối với cuộc xâm lược là điều cần thiết, không chỉ để duy trì hy vọng về một tương lai tự do và độc lập cho Ukraine, mà còn để duy trì một trật tự pháp lý quốc tế được thiết lập trên nguyên tắc “kẻ mạnh không phải luôn là kẻ đúng”.

Oona A. Hathaway

Nguyên tác : International Law Goes to War in Ukraine , Foreign Affairs, 15/03/2022

Nguyễn Thị Kim Phụng biên dịch

Nguồn : Nghiên cứu quốc tế, 17/03/2022

Oona A. Hathaway là Giáo sư Luật Quốc tế tại Trường Luật của Đại học Yale.