Việt Nam: Kiểm duyệt báo chí quốc ngữ trong thời kỳ Pháp thuộc – Nam Kỳ, cái nôi của nền báo chí Việt Nam (giai đoạn cuối thế kỷ XIX)

Cac Bai Khac

No sub-categories

Việt Nam: Kiểm duyệt báo chí quốc ngữ trong thời kỳ Pháp thuộc – Nam Kỳ, cái nôi của nền báo chí Việt Nam (giai đoạn cuối thế kỷ XIX)

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Thu Hằng
16/102017

Việt Nam: Kiểm duyệt báo chí quốc ngữ trong thời kỳ Pháp thuộc
Trụ sở tòa soạn báo l’Avenir du Tonkin (Tương lai Bắc Kỳ) bên Hồ Gươm, Hà Nội.Flickr/Manhhai
Tải nạp chương trình này
print

inShare
Trong giai đoạn thuộc Pháp, Việt Nam bị chia thành ba vùng tách biệt : Nam Kỳ trở thành thuộc địa và theo luật lệ của Pháp ; Trung Kỳ và Bắc Kỳ nằm dưới chế độ bảo hộ, vẫn theo luật lệ của triều Nguyễn nhưng quyền hạn thật nằm trong tay chính phủ Đông Dương.
Tương tự, báo chí tại Việt Nam cũng bị tách thành hai chế độ riêng biệt. Tại Nam Kỳ, nơi được coi là cái nôi của nền báo chí Việt Nam, báo tiếng Pháp được hưởng quyền tự do báo chí như tại « Mẫu Quốc » theo luật ngày 29/07/1881. Bất kỳ người nào mang quốc tịch Pháp đều có thể ra báo mà không cần xin phép trước. Tuy nhiên, đối với báo chí quốc ngữ hay bằng bất kỳ ngôn ngữ nào khác tiếng Pháp phát hành trên Đông Dương, cần có giấy phép của chính phủ.
Sau giai đoạn « tập làm báo » dưới thời Trương Vĩnh Ký (Pétrus Ký), Huỳnh Tịnh Của (Paulus Của), báo chí Nam Kỳ bắt đầu đa dạng hơn với một số tờ chính luận của tư nhân phát hành bằng tiếng Pháp và chữ quốc ngữ, rồi dần lan rộng đến Bắc Kỳ sau Hòa ước Patenôtre 1884 với triều đình Huế công nhận quyền bảo hộ của Pháp.
Báo tiếng Pháp được tự do phát hành – Báo quốc ngữ phải xin phép
Cũng từ giai đoạn này bắt đầu xuất hiện nhiều vụ xung đột lợi ích giữa chính quyền và giới thực dân (colons), hoặc giữa các nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương. Báo chí trở thành công cụ tấn công, bảo vệ quyền lợi mỗi bên. Trong những năm 1880-1890, toàn quyền Đông Dương bị tờ Courrier d’Haiphong tấn công, còn đốc lý Hải Phòng là đối tượng chỉ trích của tờ Le Cancrelat – libre penseur. Nghiêm trọng hơn là một vụ tung « tin giả » của tờ L’Avenir du Tonkin(Tương lai Bắc Kỳ), được nêu trong bức thư ngày 09/02/1889 (1) của toàn quyền Đông Dương Richaud gửi bộ trưởng Hàng Hải và Thuộc Địa Pháp :
« Nhà vua (Đồng Khánh) băng hà ngày 28/01/1889, lúc 8h30 tối và tin này được báo cho Toàn quyền qua điện tín sáng 29. Thế mà tờ L’Avenir du Tonkin đã dán trước cửa văn phòng hai tin nhanh như sau: « Huế, ngày 26/01/1889 – Hoàng đế An Nam bị đầu độc : người ta còn giữ hy vọng cứu được ngài» – « Huế, ngày 28/01/1889 – Hoàng đế An Nam đã băng hà » ».
Theo báo cáo của toàn quyền Đông Dương, lý do là chủ báo De Saint Mathurin bất bình vì chính quyền ngừng đặt mua và tài trợ tờ L’Avenir du Tonkin để chuẩn bị thành lập Công báo Đông Dương Journal officiel de l’Indochine.
Vẫn trong bức thư trên, toàn quyền Đông Dương Richaud nhấn mạnh : « Các cuộc tấn công dai dẳng và mãnh liệt (như của tờ Cancrelat) nhắm vào công chức đã hạ thấp nhân viên của chúng ta và gây tổn hại đến ảnh hưởng của Pháp tại một nước mà chúng ta vừa mới chỉ thiết lập được quyền lực… ».
Có lẽ những sự kiện này buộc chính quyền Đông Dương phải ban hành sắc lệnh ngày 04/10/1898 hạn chế một số quyền tự do báo chí và quy định nhiều hình phạt khác nhau, kể cả đối với báo bằng tiếng Pháp, công dân Pháp và dân địa phương, phạm các tội kích động dân địa phương nổi loạn, đăng tải, tuyên truyền tranh ảnh thiếu tôn trọng chính quyền Pháp tại Đông Dương…
Kể cả báo chí quốc ngữ Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp, cũng trở thành đối tượng nhắm đến của sắc luật này, như trường hợp được nhà sử học Pháp Pierre Brocheux nhắc lại là vụ bắt giữ Gilbert Chiếu (Trần Chánh Chiếu), chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn của một người Pháp, vào tháng 10/1908 vì ông có quan hệ với phong trào Đông Du và viết báo chống chính quyền thuộc địa. Nhà sử học Pierre Brocheux đánh giá :
« Báo chí quốc ngữ phát triển từ báo thông tin thành báo chí chính luận và cũng nhanh chóng biến thành báo chí tuyên truyền, thậm chí còn đăng những lời yêu sách. Nhiều bài viết còn kêu gọi độc giả biểu tình, làm việc này hay việc kia, ký kiến nghị… Dĩ nhiên, hiện tượng này cũng nhanh chóng lan ra miền Bắc. Điều đáng nói là miền Bắc không phải là Nam Kỳ, có nghĩa là không phải là một thuộc địa, nên hệ thống kiểm duyệt, cảnh sát theo dõi rất chặt chẽ và trấn áp cũng rất nhanh, vì vậy, báo chí không phát triển rộng được như ở Nam Kỳ ».
Vẫn theo nhà sử học Brocheux, ở Nam Kỳ, nhiều người còn đặt mua được báo L’Humanité của đảng Cộng Sản Pháp và nhận được qua đường bưu điện.
« Người ta có thể thấy trong những tờ báo chính luận đầu tiên bằng chữ quốc ngữ một số bài viết dịch lại từ tờ L’Humanité. Đây là trường hợp của tờ Tiếng chuông rè (La Cloche fêlée) của Nguyễn An Ninh. Sau đó còn có bản dịch của luật sư Phan Văn Trường về « Tuyên ngôn đảng Cộng Sản » và nhiều bài báo trên tờ L’Humanité. Chính vì thế, luật sư Phan Văn Trường bị bắt giam, dù ông có quốc tịch Pháp. Ông còn dịch « Lời kêu gọi Binh sĩ » (Appel aux soldats) đừng ra chiến trường, đừng sang các nước thuộc địa hoặc đào ngũ… ».
Điều này đã được làm và có thể làm ở Nam Kỳ, song kéo dài không lâu, vì chính quyền luôn tìm chứng cứ để đình bản hoặc tiến hành các vụ bắt giam. Ngay khoảng năm 1925, toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne, thuộc đảng Xã Hội, đã ban hành nhiều biện pháp chống lại báo chí Đông Dương. Sắc lệnh ngày 04/10/1927, còn được gọi là sắc lệnh Varenne, quy định lại chế độ báo chí ở các vùng bảo hộ của Pháp, áp đặt chế độ kiểm duyệt, đã bị bãi bỏ ở Pháp, đối với báo chí quốc ngữ.
Báo chí phát triển – Kiểm duyệt khắt khe
Tuy nhiên, cũng từ năm 1927, báo chí Bắc Kỳ phát triển vượt bậc nhờ một tầng lớp trí thức trẻ người Việt, công nghệ in báo được cải tiến… Từ 9 đầu báo vào năm 1927 tăng thành 27 vào đầu năm 1933. Nhà sử học Brocheux cho biết thêm :
« Tại Bắc Kỳ và Nam Kỳ, báo chí được tự do phát triển hơn một chút dưới thời Mặt Trận Bình Dân tại Pháp (Front Populaire) vào năm 1936. Đây là thời kỳ nở rộ, người ta thấy xuất hiện rất nhiều « báo lá cải » theo cách gọi « feuille de chou » trong tiếng Pháp, có nghĩa là báo chỉ có một tờ in hai mặt, vì giai đoạn này có chút tự do hơn, luật pháp không bị áp dụng chặt chẽ đối với báo chí. Nhờ đó, rất nhiều báo cộng sản, hoặc những tờ ngả theo cánh tả, thậm chí là cực tả, xuất hiện trong giai đoạn 1936-1937, ví dụ như tờ La Lutte (Tranh đấu) ».
Chút tự do báo chí tại Đông Dương nhanh chóng bị hạn chế với một sắc lệnh mới 30/06/1935 và thực sự bị trấn áp từ năm 1939 khi Thế Chiến II sắp bùng nổ, đồng thời Mặt Trận Bình Dân Pháp bị tan rã. Tại Pháp, đảng Cộng Sản bị giải tán theo sắc lệnh ngày 26/09/1939. Nhà sử học Brocheux giải thích :
« Sắc lệnh này đặt đảng Cộng Sản Pháp ngoài vòng luật pháp, cũng như mọi đảng Cộng Sản hay chi nhánh của đảng này ở các xứ thuộc địa Pháp. Các báo cộng sản cũng bị cấm, như L’Humanité ở Pháp. Ở Việt Nam, chính quyền lục soát trụ sở tất cả các báo cộng sản, bắt giữ người theo Cộng Sản và đưa họ vào trại giám sát ».
Một lần nữa, người Việt bị tước quyền tự do báo chí. Tuy nhiên, họ tìm cách lách luật bằng cách mượn tên của một người có quốc tịch Pháp để mở một tờ báo sau đó nhượng lại cho một người Việt khai thác, dễ như « thuê nhà mặt phố ». Tuy nhiên, các tờ báo quốc ngữ phải chịu kiểm duyệt trước. Bộ phận báo chí của chính quyền thuộc địa có quyền cắt hoặc xóa một khổ, một câu, thậm chí bỏ cả bài nếu nội dung đi ngược với lợi ích hoặc đe dọa chính quyền thuộc địa. Chính vì thế, từ năm 1940, độc giả không hề ngạc nhiên khi thấy nhiều chỗ bị bỏ trắng trong các nhật báo hoặc tạp chí (Tri Tân, Phong Hóa…) với hàng chữ « Kiểm duyệt bỏ ». Trong vòng ba năm, từ 1940-1943, 17 tờ báo bị rút giấy phép phát hành.
Nhà trí thức Phạm Quỳnh, chủ bút tạp chí Nam Phong, từng biện minh cho chính sách kiểm duyệt của chính quyền Pháp tại Đông Dương, là « phòng ngừa tốt hơn là trấn áp. Chính xác hơn là nên ngăn chặn các bài viết có nguy cơ đẩy nhà văn đến các hậu quả đáng tiếc trước khi chúng được in. Chế độ báo chí, ngược lại, rất tự do đối với những gì được cho là thể hiện quan điểm và chỉ cấm những gì phạm pháp. Có nghĩa là, giấy cấp phép ra báo không phải là một trở ngại mà là sự bảo vệ cho những người liên quan » (2).
***
TẠP CHÍ VĂN HÓA
Podcast
Nam Kỳ, cái nôi của nền báo chí Việt Nam (giai đoạn cuối thế kỷ XIX)
Thu Hằng

Phát Thứ Sáu, ngày 17 tháng 7 năm 2015

(1) CAOM, Gouvernement général de l’Indochine, dossier 9220.
(2) Phạm Quỳnh, « La presse annamite » (Báo chí An Nam), Nam Phong, n°107, tháng 07/1926.
————-

Nam Kỳ, cái nôi của nền báo chí Việt Nam (giai đoạn cuối thế kỷ XIX)
Trang bìa Công báo Nam Kỳ thời thuộc địa Pháp, năm 1881. DR
Tải nạp chương trình này
print

inShare
Trương Vĩnh Ký được đánh giá là người sáng lập ra nền báo chí quốc ngữ và Gia-định báo được coi là tờ báo quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Tuy nhiên, trước những mốc lịch sử này, đã có nhiều tờ báo được viết bằng tiếng Pháp, được người Pháp sáng lập để phục vụ công cuộc chinh phục thuộc địa tại Nam Kỳ.
Được chỉ định ngày 08/06/1861 thay thế phó đô đốc Léonard Charner, chuẩn đô đốc Louis-Adolphe Bonard đã thu thập mọi thông tin liên qua tới vùng đất Viễn Đông. Trước khi rời Paris, ngày 03/09/1861, ông giao cho thuyền trưởng Lavaissière de Lavergne, người xuất phát sau ông một tháng, chuẩn bị mọi thiết bị và phương tiện cần thiết để công cuộc bình định được thành công : « như máy điện báo, thợ vận hành, máy in và không quên chữ Nam Kỳ (chữ Nho) và nếu có thể, đào tạo thợ học việc… ». Vì vậy, bốn người thợ vận hành máy in, cùng với các trang thiết bị cần thiết (như mực in, giấy, chữ cái…) tới Nam Kỳ trên con tàu của Lavaissière de Lavergne.
Ngay cuối năm 1861, nhà máy in đầu tiên, Nhà in Hoàng gia (l’Imprimerie Impériale), được thành lập để đáp ứng mọi công việc in ấn và đặc biệt là in các công báo của chính quyền. Trừ Nhà in Nhà chung (l’Imprimerie de la Mission, 1865-1945), chính phủ giữ độc quyền trong lĩnh vực này cho tới khi ban hành sắc lệnh 10/09/1870 về quyền tự do hoạt động trong lĩnh vực in ấn và nghề bán sách. Nhờ đó, một số nhà in tư nhân đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn ngay từ năm 1873.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, các ấn phẩm báo chí tại Nam Kỳ có thể được chia ra thành ba nhóm, gồm công báo được viết bằng tiếng Pháp, công báo được xuất bản bằng chữ viết địa phương và ấn phẩm khảo cứu. Tất cả đều nhằm phục vụ chính sách truyền bá của chính phủ thuộc địa.
Trong tạp chí này, chúng tôi xin chỉ đề cập tới các tờ báo đầu tiên được viết bằng chữ Pháp. Riêng tờ Gia-định báo, một tờ báo được viết bằng chữ quốc ngữ, đã được đề cập nhiều qua hai bài viết về sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký và quá trình ông phổ biến loại ký tự la tinh này, nên chúng tôi không đề cập trong tạp chí này.
Những tờ công báo bằng tiếng Pháp
Ngay cuối năm 1861, tờ công báo đầu tiên tại Nam Kỳ, le Bulletin officiel de l’expédition française de la Cochinchine (tạm dịch, Bản tin chính thức của đoàn quân viễn chinh Pháp tại Nam Kỳ), được phát hành ngay sau khi chuẩn đô đốc Bonard đặt chân tới đây, lúc đó gồm ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường nằm dưới sự quản lý của người Pháp. Trái với người tiền nhiệm, ông cố gắng tránh mọi thay đổi quá lớn hay quá đột ngột đối với người dân địa phương. Chính vì vậy, tờ công báo là công cụ giúp truyền đạt tới những “vị quan cai trị” mới người Pháp đường lối, chính sách của vị Thống đốc mới, được đánh giá là ôn hoà.
Tờ le Bulletin officiel de l’expédition française de la Cochinchine ra khổ tương tự các tờ công báo của Pháp thời kỳ đó và cũng bao gồm « các nghị định, quyết định và thông báo có thể liên quan tới nhân viên hành chính hay binh lính và người nước ngoài sống tại các tỉnh Nam Kỳ nằm dưới sự quản lý của chính quyền Pháp ». Văn bản của các năm 1861 và 1862 được đóng chung thành một tập. Còn những văn bản của tháng 11 và tháng 12 của năm trước được in chung vào năm sau cho tới năm 1866. Tuy nhiên, vì chỉ in bằng chữ Pháp nên công báo chỉ được phổ biến trong giới sĩ quan người Pháp và một cộng đồng nhỏ người bản xứ biết loại tiếng này. Trong một xứ mà đa số người dân sử dụng chữ Hán, tờ công báo trên không phải là một công cụ tuyên truyền hiệu quả.
Chính vì vậy, chỉ một năm sau đó, năm 1862, tờ le Bulletin des Communes (Cáo trình các Làng xã) ra đời vẫn theo lệnh của Bonard. Điều đáng tiếc là hiện nay, tờ công báo này bị thất lạc. Có cùng mục đích với tờ công báo tiếng Pháp, le Bulletin des Communes được giao tới tận tay quan lại địa phương « nhằm giúp dân chúng hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của họ, cũng như những biện pháp cai quản mà người đứng đầu xứ đưa ra nhằm ổn định và giúp đất nước phồn thịnh ». Có rất nhiều ý kiến cho rằng, tờ công báo viết bằng chữ Hán này có lẽ đã thực hiện chức vụ cung cấp thông tin cho quan lại địa phương tới khi tờ Gia-định báo được viết bằng chữ quốc ngữ ra đời (1865).
Hai năm sau khi tờ le Bulletin des Communes ra đời, ngày 01/01/1864, bán nguyệt san le Courrier de Saigon (Thư tín Sài Gòn), cũng được viết bằng tiếng Pháp, phát hành số đầu tiên dưới sự điều hành của Gaston Amelot. Tờ báo này cũng chỉ đơn thuần là một tờ công báo, trích đăng những thông tin từ tờ Bulletin officiel. Một năm sau, năm 1865, khi công cuộc bình định kết thúc, cùng với việc sáp nhập thêm ba tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên, Vĩnh Long, chuẩn đô đốc de la Grandière quyết định đổi tên tờ le Bulletin officiel de l’expédition de la Cochinchine, thành tờ le Bulletin officiel de la Cochinchine française (Bản tin chính thức của Nam Kỳ thuộc Pháp, 1865-1888).
Thời gian sau đó, các ấn phẩm trên được đổi tên mỗi khi chính quyền thuộc địa mở rộng thêm lãnh thổ. Vì thế, trong khoảng thời gian từ 1889 đến 1901, khi Liên hiệp Đông Dương được thành lập, tờ le Bulletin officiel de la Cochinchine française trở thành « Phần Một » của tờ le Bulletin officiel de l’Indochine française (Bản tin chính thức Đông Dương). Còn « Phần Hai » giành cho Trung Kỳ và Bắc Kỳ, với các tên gọi le Bulletin officiel du Protectorat de l’Annam et du Tonkin (1883-1886), rồi le Moniteur du protectorat de l’Annam et du Tonkin (1886-1888) và cuối cùng, bắt đầu từ năm 1902, thành ba ấn bản độc lập giành cho ba miền : le Bulletin administratif de l’Annam (Công báo hành chính Trung Kỳ), le Bulletin administratif du Tonkin(Công báo hành chính Bắc Kỳ) và le Bulletin administratif de la Cochinchine (Công báo hành chính Nam Kỳ).
Tương tự, tờ le Courrier de Saigon (1864-1879) được đổi tên thành le Journal officiel de la Cochinchine française (Công báo Nam Kỳ, 1879-1889), trước khi mang tên le Journal officiel de l’Indochine française từ năm 1889 và cũng được chia thành hai phần : Phần một : Cam-Bốt và Nam Kỳ ; Phần hai : Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tờ công báo được phát hành một tuần hai lần, đăng tải mọi văn bản chính thức của chính quyền, cũng như biểu giá hàng hóa, quy đổi tiền bạc… Dĩ nhiên, các tổng biên tập (tổng-tài) đều là công chức người Pháp và mãi sau này mới là người bản xứ được chính quyền tin tưởng, như Trương Vĩnh Ký hay Huỳnh Tịnh Của.
Ấn phẩm khảo cứu
Nhiều tập niên bạ cũng sớm được phát hành tại Sài Gòn ngay từ năm 1865, song tại Bắc Kỳ phải chờ tới năm 1887. Các kỷ yếu của các ban chuyên ngành được thành lập nhằm mục đích nghiên cứu mọi lĩnh vực và mọi mặt văn hóa-xã hội tại thuộc địa. Các ấn bản này nổi tiếng nhờ những khảo cứu, nghị luận mang tính khoa học và có hệ thống, thay vì các công báo với lời văn cụ thể và khô khan.
Ngay từ năm 1865, tập kỷ yếu của Ủy ban nông nghiệp và công nghiệp Nam Kỳ, (le Bulletin du Comité agricole et industriel de la Cochinchine française) đã xuất hiện và tồn tại tới năm 1881. Mục đích của ấn bản trên là để đăng tải biên bản những cuộc họp, báo cáo của Ủy ban, được thành lập ngày 28/10/1865, cùng với những bài nghiên cứu liên quan tới nông nghiệp và công nghiệp. Đồng thời, đây cũng là nơi để các tác giả, thường là sĩ quan hải quân, các nhà nghiên cứu và một số chủ đồn điền, phản ánh sự đa dạng của các bài nghiên cứu về mọi lĩnh vực : từ khai đồn điền tới các phương pháp canh tác, từ nghiên cứu đất đai của từng vùng tới đặc tính của cây trồng, hay từ nghiên cứu các nguồn khoáng sản tới các phương tiện giao thông vận tải…
Tập kỷ yếu không được ấn định ngày phát hành mà chỉ phát hành khi có đủ bài viết và được in tại Nhà in Hoàng gia (l’Imprimerie Impériale). Tới năm 1888, tập kỷ yếu này được tái bản khi Ủy ban trên được thành lập ở Bắc Kỳ vào năm 1885, nhằm giới thiệu những nguồn khoáng sản và sản vật của toàn cõi Đông Dương tới nước Pháp.
Trong khoảng thời gian 1879-1890, một tờ tạp chí khác, Excursions et Reconnaissances, ra đời và được đánh giá là một ấn bản đáng chú ý, với kỹ thuật in ấn và minh họa nổi bật. Nhu cầu khám phá và khai thác vùng thuộc địa mới đã thúc đẩy Thống đốc Le Myre de Vilers cho phát hành tạp chí này nhằm công bố những thông tin có ích để tìm hiểu đất nước và người dân địa phương. Tạp chí này chỉ ngừng phát hành khi vùng đất Nam Kỳ đã trở nên thân thuộc và được nhiều người biết tới.
Tuy nhiên, vào năm 1893, khi đã mở rộng lãnh thổ tới những vùng còn lại trên bán đảo Đông Dương, chính quyền thuộc địa lại nhận thấy cần quảng bá cho những vùng đất mới, đồng thời để thuyết phục chính phủ Pháp tiếp tục ủng hộ và chu cấp ngân sách cho công việc chinh phục và khai thác thuộc địa. Vì thế, tờ Revue indochinoise illustrée được ra đời tại Bắc Kỳ, tiếp tục mục tiêu của tạp chí Excursions et Reconnaissances.
Tóm lại, các tạp chí bằng tiếng Pháp xuất bản tại Nam Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XIX chỉ được phổ biến trong một cộng đồng thiểu số người Pháp và biết tiếng Pháp. Những ấn bản này nhằm phục vụ hai ý đồ của chính phủ thuộc địa : một mặt, giới thiệu, quảng bá Đông Dương và vùng Viễn Đông tới công chúng Pháp, mặt khác, cung cấp thông tin cho các cộng đồng bị trị.
Sau thời kỳ độc tôn của báo chí bằng tiếng Pháp do chính phủ phát hành, lần lượt xuất hiện một số tờ báo tư nhân, dù thời gian tồn tại rất ngắn. Như, ngay từ năm 1868, đã xuất hiện tờ Phan Yên Báo của Diệp Văn Cương. Phát hành được 7 hay 8 số, tờ báo nhanh chóng bị đóng cửa sau loạt bài chỉ trích hệ thống khai thác thuộc địa của Pháp, dưới tựa đề : « Đòn cân Archimède » của tác giả Cuồng Sĩ. Ngoài ra, còn có thể kể thêm một vài tờ như Nam Kỳ nhựt trình (le Journal de Cochinchine, 1885) hay Miscellanées (Thông loại khoá trình, 1888) và tờ Nông-cổ mín-đàm (1900). Có thể nhận thấy, hầu hết các tờ báo đều xuất hiện sau năm 1881.
Thực vậy, đạo luật về tự do báo chí 29/07/1881 được áp dụng tại Pháp và tại các thuộc địa, trong đó có Cam Bốt và Nam Kỳ. Song, theo quy định, chỉ những người mang quốc tịch Pháp và báo chí được viết bằng tiếng Pháp mới được hưởng chế độ tự do này. Mọi ấn phẩm viết bằng bất kỳ ngôn ngữ nào khác chữ Pháp vẫn phải xin phép phát hành và chịu chế độ kiểm duyệt trước. Tuy nhiên, dù tôn trọng những quy định trên, như về quốc tịch chủ sở hữu tờ báo và ngôn ngữ được dùng trong tờ báo, rất nhiều tờ báo vẫn bị trừng phạt và buộc phải giải tán. Song điều này không ngăn cản được họ tái bản ấn phẩm của mình dưới một tên gọi khác để… tiếp tục chỉ trích chính quyền thuộc địa.