Vành đai và Con đường của Trung Quốc đã đi vào ngõ cụt?
Tác giả
Milton Ezrati
- Chủ nhật, 13/11/2022
Bắc Kinh rút lui đối với sáng kiến độc nhất của mình
Cảng Sihanoukville ở Campuchia, một phần của Sáng kiến Vành đai và Con
đường của chế độ Trung Quốc. Dự án kết nối Phi Châu, Á Châu và Âu Châu
thông qua việc xây dựng mạng lưới đường sắt và đường bộ đã vấp phải
nhiều chỉ trích. (Ảnh: Tang Chhin Sothy/AFP/Getty Images)
Cách đây không lâu, lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã ngợi ca Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Bắc Kinh là “dự án của thế kỷ”, điều sẽ thay đổi cán cân quyền lực và ảnh hưởng toàn cầu. Gần đây hơn, nhà cầm quyền này ít khoe khoang về tiềm năng của BRI và nói một cách khiêm tốn hơn về cải tổ và cắt giảm.
Sáng kiến này dường như đã không đạt được mục tiêu ban đầu cũng như những nỗi lo sợ mà nó từng gây ra rộng rãi ở phương Tây.
Ngay từ đầu, BRI của Trung Quốc (còn gọi là “Một Vành đai, Một Con đường” hay “Nhất Đới, Nhất Lộ”) luôn có cảm giác giống như Mafia. Bắc Kinh sẽ tiếp cận các quốc gia khó khăn ở Á Châu, Phi Châu, Mỹ Châu, Trung Đông, và ngoại vi Âu Châu đồng thời cung cấp các khoản vay cho các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng — gồm các cảng, liên kết đường sắt, đập, đường sá, v.v. Các ngân hàng quốc doanh của Trung Quốc sẽ thu xếp tài chính và các nhà thầu Trung Quốc sẽ thực hiện các dự án, và khi các dự án này hoàn thành thì sẽ quản lý chúng.
Nếu nước chủ nhà không thanh toán, thì các dự án sẽ thuộc quyền sở hữu của Trung Quốc.
Dù bằng cách nào, thì Bắc Kinh đã giành được ảnh hưởng và đòn bẩy đáng kể đối với các quốc gia tự cho phép mình bị can dự. Kể từ lần đầu tiên ông Tập lên nắm quyền vào năm 2012, Trung Quốc đã thực hiện hơn 1 ngàn tỷ USD đối với các các khoản cho vay như vậy ở 150 quốc gia, đưa Trung Quốc trở thành chủ nợ chính thức lớn nhất thế giới.
Giờ đây, kế hoạch này đã gặp rắc rối.
Vấn đề là các dự án được chọn vì những lý do chính trị và ngoại giao chứ không phải vì lý do kinh tế. Nhiều nỗ lực trong số các dự án này luôn mập mờ, và giờ đây, rõ ràng là chúng không thể mang lại đủ doanh thu để hỗ trợ các khoản cho vay.
Ví dụ ở Sri Lanka, ngay cả trước khi đại dịch COVID-19 phong tỏa hoạt động thương mại, một cảng do BRI xây dựng đã thiếu lưu lượng giao thông để đáp ứng các điều khoản của khoản vay. Khoản vay đó đã trở thành nợ xấu, ngay cả khi các ngân hàng quốc doanh có liên quan của Trung Quốc vẫn chưa sẵn sàng tuyên bố như vậy.
Những điều tương tự đang xảy ra trên toàn bộ BRI. Pakistan, một trong những nước tham gia BRI lớn nhất, cho đến nay đã không thực hiện được các nghĩa vụ của mình đến mức nước này phải nhờ đến Quỹ Tiền tệ Quốc tế để được cứu trợ.
Các nhà kinh tế tại Ngân hàng Thế giới ước tính rằng hiện khoảng 60% tổng số các khoản vay BRI liên quan đến các quốc gia gặp khó khăn tài chính. Các khoản cho vay ở Phi Châu dường như đặc biệt rủi ro.
Ngay cả trước tin tức mới nhất về khả năng vỡ nợ này, các chủ ngân hàng Trung Quốc đã cảnh báo Bắc Kinh về tính khả thi về tài chính và kinh tế của các thỏa thuận BRI. Một số chủ ngân hàng lo ngại đến mức họ khăng khăng đòi Bắc Kinh mở rộng áp dụng cho một số khoản vay nhan đề “do chính sách chỉ thị” để làm rõ rằng quyết định cho vay này đến từ Bắc Kinh chứ không phải do quản lý của ngân hàng.
Trong một thời gian dài, Bắc Kinh từ chối thừa nhận rắc rối tài chính. Các quan chức đã gây áp lực buộc các nhân viên ngân hàng tránh đề cập đến các khoản nợ xấu hoặc vỡ nợ. Thay vào đó, các ngân hàng được khuyến khích giữ cho những bên đi vay tồn tại bằng cách kéo dài thời gian đáo hạn của các khoản vay, mà theo thuật ngữ ngân hàng, được gọi một cách hoài nghi là “gia hạn và giả vờ.”
Bắc Kinh đã từ chối hợp tác với các nỗ lực của phương Tây thông qua Câu lạc bộ Paris của nhóm các nước G-20 để đàm phán lại các khoản vay gặp khó khăn. Không nghi ngờ gì nữa, giới lãnh đạo Trung Quốc muốn tránh thừa nhận một cách lúng túng rằng các khoản vay BRI có vấn đề, nhưng có lẽ việc từ chối hợp tác cũng sẽ khiến cho Trung Quốc được ưu tiên hoàn tiền trước những bên cho vay khác khi vỡ nợ là điều không thể tránh khỏi.
Nhưng giờ đây, các ngân hàng quốc doanh của Trung Quốc đang phải đối mặt với các vụ vỡ nợ lớn từ các nhà phát triển địa ốc trong nước — chẳng hạn như Evergrande — cũng như các khoản cho vay BRI của họ, áp lực đã trở nên quá lớn để Trung Quốc có thể gánh chịu một mình, chứ chưa nói đến việc giữ im lặng các vấn đề.
Trong quá khứ, khi nền kinh tế Trung Quốc đang phát triển nhảy vọt, lẽ ra Bắc Kinh đã có thể trang trải các vụ vỡ nợ bằng chính nguồn lực của mình, nhưng đó không còn là một lựa chọn nữa.
Theo
đó, Bắc Kinh đã trở nên cởi mở hơn nhiều trong các cuộc đàm phán về tái
cấu trúc nợ. Các cuộc đàm phán đã bắt đầu giữa Trung Quốc và Chad,
Ethiopia, và Zambia. Thật vậy, các nhà chức trách Trung Quốc đã tham gia
với các nhóm quốc tế như Câu lạc bộ Paris để tìm ra cái được gọi là
“khung khổ chung” để giải quyết các khoản nợ quốc gia này, dù là một
phần của BRI hay không.
Ông Tập chắc chắn đã thay đổi cách hùng biện của mình. Giờ đây, ông mô tả BRI là “ngày càng phức tạp” và cần sự hợp tác cũng như kiểm soát rủi ro mạnh mẽ hơn. Quả là một bước lùi.
BRI của Bắc Kinh không biến mất, nhưng trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, sáng kiến này đã mất đi nhiều động lực. Các biện pháp kiểm soát rủi ro mới sẽ khiến BRI kém hấp dẫn hơn rất nhiều đối với các nước chủ nhà tiềm năng. Trung Quốc đã có một bước thụt lùi lớn về uy tín và chắc chắn là về mặt tài chính. Sáng kiến này không còn có thể được gọi là “dự án của thế kỷ” nữa.
Có một bài học khác ở đây dành cho Bắc Kinh và bất kỳ chính phủ đầy tham vọng nào khác: Các mục tiêu chính trị, thậm chí là quyền lực, không thể bỏ qua các quy luật kinh tế một cách vô thời hạn. Nếu các dự án không thể thanh toán, thì gánh nặng sẽ đổ xuống nơi khác. Đây cũng là bài học thất bại trong quá trình thúc đẩy phát triển địa ốc kéo dài hàng thập niên của Bắc Kinh.
Với những thành tích trong quá khứ, chưa chắc giới lãnh đạo Trung Quốc hoặc các nhà hoạch định trung ương của họ sẽ học được bài học này. Rốt cuộc, Hoa Thịnh Đốn, sau bất kỳ một số lượng thất bại nào, dường như vẫn không thể học hỏi được.
Quan điểm trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm của The Epoch Times.