Văn Hóa và Ngôn Từ Của Hai Miền Đất Nước – Thanh Thủy
Sau khi Hiệp Định Genève năm 1954 chia cắt đất nước Việt Nam ra làm 2, lấy vĩ tuyến 17 và sông Bến Hải làm biên giới hai miền thì văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam cũng bắt đầu phân biệt Nam Bắc rõ rệt.
1.- Văn hóa và ngôn ngữ miền Bắc
Miền Bắc theo chế độ Cộng sản nên sự cai trị rập khuôn theo các quan thầy Trung Cộng và Liên Sô, chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp, xã hội chỉ có một giai cấp độc nhứt là giai cấp bần cố nông mà đảng Cộng sản là đại diện, là lực lượng tiên phong, dùng bộ đội và công an càn quét khắp nước để tiêu diệt tất cả mọi giai cấp khác, không phân biệt già trẻ, trai gái và luôn cả những người thân thuộc của chúng cũng phải triệt để xóa bỏ, nhẹ thì cải tạo, tẩy não bằng những hình thức lao động khồ sai, nặng thì phải giết chết.
Để thi hành chánh sách khủng bố khốc liệt nầy, ngay sau khi đất nước chia đôi, đảng Cộng sản miền Bắc liền phát động ngay Phong Trào Cải Cách Ruộng Đất một cách sâu rộng trên toàn miền Bắc với chủ trương Tam Cùng: Cùng Ăn, Cùng Ở và Cùng Làm, đưa cán bộ vào ở nhà dân để phát động phong trào đấu tố lẫn nhau, con tố cha mẹ, cha mẹ tố con, vợ tố chồng, chồng tố vợ, anh chị em, bạn bè tố cáo lẫn nhau. Sau đó, bọn chúng đem ra sát hại những người bị tố và nhiều trường hợp, chính những người tố cáo cũng bị sát hại và đồng thời, chúng càn quét tịch thâu ruộng đất, nhà cửa và mọi thứ tài sản.
Trong một thời gian ngắn, chỉ qua phong trào cải cách ruộng đất không thôi, chúng đã sát hại một cách oan ức hàng trăm ngàn người dân vô tội. Trong suốt chiều dài lịch sử Việt, chưa bao giờ đất nước có một sự khủng bố nào tàn bạo và ghê gớm đến như vậy, biến mọi người dân trở thành bần cùng, đói ăn, thiếu mặc và nghi kỵ lẫn nhau, không ai dám tin ai, nên lòng người thay đổi, xã hội suy đồi, đạo đức hoàn toàn sụp đổ. Văn hóa, ngôn từ tươi đẹp và lòng người cũng vì đó mà biến đổi theo. (Xem tài liệu trích dẫn đính kèm ở cuối bài viết, nguồn Internet: “Nhà Thơ Hữu Loan Kễ Chuyện Bố Mẹ Vợ Bị Hành Quyết Trong Cải Cách Ruộng Đất”).
Vì phải chạy theo chánh sách cai trị độc ác với chủ trương bần cùng hóa nhân dân như vậy nên đã khiến cho người dân miền Bắc luôn sống trong hoàn cảnh bị khủng bố khốc liệt, nghèo khổ, đói cơm, thiếu nước, khố rách, áo ôm để chúng dễ bề huy động, lùa người dân miền Bắc đi làm công tác “nghĩa vụ quốc tế”, tràn vào xâm chiếm Miền Nam, tạo nên cảnh cốt nhục tương tàn ròng rã suốt mấy chục năm qua. Trong chiều hướng đó, chúng đã tạo nên một nền văn hóa nô dịch, thích hợp với chánh sách cai trị của chúng, khác hẳn với văn hóa truyền thống cổ truyền của dân tộc, từ đó phát sinh ra những ngôn từ để chúng sử dụng và truyền dạy trong dân gian luôn luôn là những ngôn từ vừa mạnh bạo vừa sắt máu, nghe rất trái tai.
2.- Văn hóa và ngôn ngữ miền Nam
Trái với Miền Bắc, người dân miền Nam được sống trong chế độ dân chủ tự do, không chấp nhận một thứ văn hóa và ngôn ngữ lai căng như Cộng sản miền Bắc nên tiếp tục theo đuổi nền giáo dục học đường khai phóng với nền văn hóa dân bản cổ truyền của dân tộc, cho nên những ngôn từ được dùng trong nhân gian đều dịu dàng, hiền hòa và đôn hậu.
Ngay trong lãnh vực văn nghệ, tôi còn nhớ vào năm 1978, trong một buổi văn nghệ ăn mừng sau khi hoàn thành chuyển đổi hệ thống sưỡi qua hệ thống điều hòa không khí của chiếc tàu Thống Nhứt, sau khi được nghe một số ca sĩ miền Nam hát tại công-ty Đại-Dương tại Quận Tư, Khánh-Hội, Saigon, một ông Phó Cục-Trưởng Cộng-sản Cục Đường Biển tên Xuân đến tham dự, trong cơn chếch-choán hơi men, đột nhiên ông ta đứng lên thốt lời: ”Cũng những bài hát nầy, ca-sĩ miền Nam hát nghe sao hay quá, trong khi những ca sĩ miền Bắc hát nghe như chó sủa”!
Miền Nam sống trong tự-do, mọi người dân cùng nhau góp công điểm-tô, xây-dựng đất nước, nên hồn nhạc và giọng ca của những ca sĩ vô cùng phơi-phới, không bị gò-bó, trái lại, nó còn biểu-lộ tình thương chan-hòa trong cảnh sống thái-bình và hạnh-phúc, cho nên tự nó đã dễ-dàng thâm-nhập sâu vào tâm-hồn mọi người từ giới thượng-lưu, trí-thức cho đến các nàng thôn-nữ, các em bé mục-đồng.
Chúng ta thấy, nhạc thời đó là lúa chín vàng, là trăng thanh bình, là hoa đồng cỏ nội, là tình yêu đôi lứa, là tình yêu thương cha mẹ, anh em , là tiếng chày, là nhịp võng, là những điệu ru tươi-mát của mẹ hiền, êm dịu như nước dừa tươi, như đọt nhãn lồng, như cọng rau má.
Trong xóm, trong làng hay ngoài đồng lúa, đâu đâu ta cũng nghe những tiếng cười dòn, những đoạn ca khúc:
Người từ, từ là phương Bắc
Đã qua dòng sông, sông dài
Tìm đến nơi nầy, một nhà thân-ái…..
(Khúc Hát Ân-Tình – Xuân-Tiên)
Mừng trăng lên chúng ta cùng múa hát
Ước mong sao lúa hai mùa thơm ngát
Lúa về mang bao khúc ca tuyệt vời…
(Khúc Ca Ngày Mùa – Lam-Phương)
Trong đêm trăng, tiếng chày khua
Ta hát vang trong đêm trường mênh-mang
Ai đang say, chày buông rơi nghe tiếng vơi, tiếng đầy…
(Gạo Trắng Trăng Thanh – Hoàng-Thi-Thơ)
Em gái vườn quê, cuộc đời trong-trắng
Dầm mưa dãi nắng mà em biết yêu trăng đẹp ngày rằm
Anh biết mặt em, một chiều bên thềm,
Giọng hò êm-đềm và đôi mắt em lóng-lánh sau rèm…
(Duyên Quê – Hoàng-Thi-Thơ)
Vân vân và vân vân….
3.- Sự khác biệt về văn hóa và ngôn từ:
Như đã dẫn chứng ở những phần trên, chúng ta nhận thấy nền văn hóa giữa hai miền Nam Bắc đã đi theo hai ngã rẽ hoàn toàn đối chọi nhau mà hoàn cảnh xã hội thực tế giữa hai miền của đất nước bắt buộc phải như vậy và không có cách nào khác hơn được. Ngôn từ Miền Bắc cũng vì vậy mà thay đổi theo.
Chánh quyền Miền Bắc vì chạy theo chế độ Cộng sản, cho nên họ quyết tâm chống lại mọi thứ văn hóa của Miền Nam tự do mà họ dẫn dụ lý do là “Văn Hóa Đồi Trụy” , cho nên họ thực hiện những hành vi bạo ngược như đốt mọi thứ sách vở có trước thời kỳ mà họ chiếm đống, hủy hoại các thành phần trí thức, một hình thức chôn sống học trò qua câu tuyên bố bất hữu của Hồ Chí Minh: ”Trí thức không bằng cục phân”.
Vua Tần Thủy Hoàng của Tàu đã thực hiện chánh sách thâm độc nầy cả ngàn năm trước ở Trung Quốc và đã bị lịch sử nhân loại lên án, chỉ có bọn Việt cộng và Tàu cộng lại lên tiếng ca tụng, ngợi khen. Bởi vậy, những gì mà chánh quyền và nhân dân Miền Nam làm, bọn chúng nhứt định phải đánh đổ hoặc làm ngược lại, đó là lý do tại sao có sự thay đổi ngôn từ giữa hai miền Nam Bắc, ngôn từ Miền Nam thì dịu dàng, tươi mát, trái lại ngôn từ Miền Bắc thì sắt máu, cục mịch, thô lỗ. Một vài thí dụ tiêu biểu, xin được ví dụ như sau:
Ngôn từ Miền Nam Tương đương với Ngôn từ Miền Bắc
Kẹt xe Ùn tắt
Đàng hoàng Nghiêm túc
Suy luận, suy nghĩ (sử dụng trí tuệ) Động não
Trỡ ngại Sự cố
Mệnh đề, câu văn Cụm từ
Túc cầu Bóng đá
Hàng không mẫu hạm Tàu sân bay
Trực thăng Máy bay lên thẳng
Huy hoàng, Lộng lẫy Hoành tráng
Văn minh, tân tiến Hiện đại
Hỏa tiễn Tên lửa
Hạch hỏi Đàn hặc
Có thể (làm được) Có khả năng (có thể làm được)
Nhà bảo sanh Xưỡng đẻ
Di tản Sơ tán
Tháo chạy, rút chạy Chém vè
Phản ảnh Phản ánh
Hài kịch Tấu hài
Thoại kịch Kịch nói
Ghi danh Đăng ký
Một số ví dụ điển hình nêu trên cho thấy những ngôn từ Miền Bắc sử dụng thường nặng nề, cục mịch, thiếu chất thanh tao, nho nhả, khác hẳn với ngôn từ được sử dụng tại Miền Nam. Một vài thí vụ để phân tích:
a.- Xưỡng Đẻ: Đặc biệt một số danh từ như Xưỡng Đẻ, tự nó đã xem người phụ nữ như là một cái máy đẻ vì chữ Xưỡng là nơi chế-tạo, sửa chữa vật dụng, là nhà máy sản xuất đồ dùng, ví dụ như Xưỡng May sản xuất quần áo, xưỡng đóng tàu, xưỡng đóng giày , xưỡng đúc súng đạn, xưỡng cơ-khí, v.v…chỉ thuần dùng cho vật dụng chớ không bao giờ dùng cho con người.
Còn Nhà Bảo Sanh là nơi bảo-vệ cho sự sanh sản của phụ nữ được tốt đẹp, được “mẹ tròn, con vuông”, hàm ý bảo vệ, chăm sóc cho sự sanh nở được suông sẻ theo như quy-luật của tạo-hóa dành cho con người, nên danh từ Xưỡng Đẻ tự nó đã cho thấy bạo quyền hạ thấp nhân cách của người phụ nữ xuống đến tận cùng, không còn là con người nữa, phù hợp với chánh sách bóp chẹt của họ là mỗi cặp vợ chồng, giống như Tàu cộng, chỉ được phép sanh một con mà thôi, vì sanh nhiều sẽ tạo ra nhiều miệng ăn.
Chánh sách nầy tự nó tạo nên thói lăng loàn cho những cán bộ đảng, lấy bà nầy có một con rồi bỏ, đi lấy bà khác, cũng chỉ có một con rồi bỏ, rồi tiếp tục đi lấy bà khác…cũng tiếp tục như vậy, cho phù hợp với chánh sách một con của đảng, cho nên những cán bộ đảng Cộng sản, nhứt là thành phần cao cấp từ Hồ Chí Minh trở xuống tới cấp Ủy, tên nào cũng nhiều vợ, nhiều con rơi, con rớt đầy đàng, được đổi họ, để nằm im đó, chờ khi chúng lớn lên, dầu thất học, dầu ngu dốt đến đâu cũng đều được ban phát cho cấp bằng Phó Tiến Sĩ, Tiến Sĩ, Giáo sư rồi đề bạt ngang xương vào đảng và đảm nhiệm những chức vụ lãnh đạo.
Ngoại trừ trường hợp những tên đã được Tàu Cộng huấn luyện thuần thục và tin cậy cài vào để làm Thái Thú, làm Tay sai cho những mưu đồ bán nước cho bọn bá quyền Đại Hán thì là ưu tiên ngoại lệ.
Bởi vậy, ở Việt Nam hiện nay, những tên Cộng sản có cấp bằng đại học cao rất nhiều, ngay cả trong giới nghệ sĩ chuyên hát xướng cũng có kẻ có cấp bằng Tiến Sĩ mà nhiều người đã mai mĩa là Tiến Sĩ thì đầy đàng, nhưng không làm nổi một con ốc, một bù lon cho ra hồn. Thật là nhục nhả và trân tráo!
Tiến sĩ gạo cội của chúng như tên Giáo sư Bùi Hiền đưa ra cách đổi chữ, đổi vần chữ Quốc Ngữ đã rõ là một tên Giáo sư ngu dốt đến độ “mạc hạng” mà những đám trẻ mục đồng, chăn trâu cũng chưa hề dám nghĩ tới. Tệ hại hơn là nữ Tiến sĩ (Thạc sĩ?), Bás sĩ Y khoa nhập lậu thuốc trị bịnh ung thư giả mà dư luận đã một thời lên án nặng nề, nhưng y thị thì vẫn tại vị vững vàng như bàn thạch.
Đó là cách mà bọn chúng cùng nhau che giấu việc thực hiện chánh sách “cha truyền, con nối” để bảo vệ “ngai vàng” và bảo vệ tài sản mà chúng đã tham ô, bốc lột của dân. Riêng những cấp nhỏ hơn thì cũng vậy, nhưng ít tiền hơn nên cũng có thể ít vợ bé hơn. Bởi vậy, như ngày nay, chúng ta thấy, những cấp lãnh đạo hiện thời hầu như đều có mang dòng máu của cha ông chúng là những cấp lãnh đạo tiền bối của chúng truyền lại. Cứ nhìn vào lai lịch của những Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Thị Kim Ngân, Nguyễn Thị Quyết Tâm, Nguyễn Kim Tiến… sẽ thấy rõ điều nầy mà không cần phải chứng minh dài dòng.
b.- Cụm từ: chỉ một nhóm chữ, một số câu mà người viết muốn đề cập đến. Đọc chữ nầy, người đọc liên tưởng đến những tiếng như: Cụm Tình-Báo, Cụm Giao-Liên…Khi đọc lên là cảm thấy có vẻ sắt máu, không phải là bản chất văn hóa của người Việt-nam. Miền Nam trước năm 1975, không thấy chữ nầy bất cứ ở đâu, cả trong sách vở hay trong giới bình-dân. Khi đề cập đến vấn đề nầy, người Miền Nam dùng chữ: Đoạn Văn hay Từ Ngữ hay danh từ. Ví dụ như: Đoạn văn nầy hay, Từ ngữ hay danh từ nầy không đúng nghĩa, v.v…nghe nó hiền hòa, khác hẳn với chữ Cụm Từ sắt máu của Việt-Cộng.
4.- Kết luận
Chúng ta bao giờ cũng chấp nhận những danh từ mới lạ mà chúng ta chưa có để đưa vào nền văn học, làm giàu cho nền văn hóa và ngôn ngữ của đất nước chúng ta, miễn là những ngôn từ ấy không có tác dụng làm bại hoại gia phong, đầu độc tuổi trẻ, phá hoại nền đạo lý cao đẹp muôn đời của dân tộc Việt Nam. Điều nầy chúng ta đã thấy bàng bạc trên văn đàn, trong học đường Miền Nam. Nhưng phần chắc là chúng ta sẽ không thể chấp nhận những ngôn từ dịu dàng, êm đẹp truyền thống của dân tộc bị thay thế bằng những ngôn từ của một nền văn hóa ngoại lai khác được ghi một số tiêu biểu ở đoạn viết trên.
Văn hóa và ngôn từ Việt Nam đã chia hai lối rẽ từ khi Hồ Chí Minh mang đảng Cộng sản vào Việt Nam. Ngôn từ Miền Nam thì dịu dàng, tươi đẹp như hồn dân tộc khác hẳn với ngôn từ Miền Bắc nặng nề, sắt máu, âm điệu ngoại lai của giặc thù Phương Bắc. Nếu người nào đó cố ý sử dụng ngôn từ Miền Bắc có nghĩa là người đó chạy theo nền văn hóa Miền Bắc mà chối bỏ nền văn hóa đẹp đẻ cổ truyền lưu hành ở Miền Nam. Bọn Việt cộng ở Bắc Bộ Phủ sẽ vỗ tay hoan nghinh họ.
Thời kỳ Trường Chinh Đặng Xuân Khu còn đương quyền, hắn ta hô hào hủy bỏ chữ Quốc Ngữ và thay thế vào đó bằng chữ Hán. Tên tố cha hại mẹ nầy đúng là một phường vong bản mà việc làm của tên giáo sư dõm Bùi Hiền và những người Miền Nam dù vô tình hay cố ý sử dụng những ngôn từ như ùn tắt, như chém vè, như sự cố, như đàn hặc…của Miền Bắc để thay thế cho những ngôn từ kẹt xe, tháo chạy, trở ngại, hạch hỏi…của Miền Nam quả là đáp ứng phần nào lời kêu gọi của tên ác tặc nầy.
Điều đáng lo và cũng đáng buồn là về phía Người Việt Quốc Gia tỵ nạn Cộng sản ở hải ngoại, cho đến nay, vẫn có một số người hay dùng những ngôn từ Cộng sản nhan nhản trong các văn bản của họ. Không hiểu là do sự cố tình hay vì vô tình mà bị chìm vào trong màn « Thiên La Địa Võng » của những kẻ phản dân, hại nước?
Thanh Thủy (06/4/2019)
—————————————————
Tài liệu trích dẫn:
Nhà Thơ Hữu Loan Kễ Chuyện Bố Mẹ Vợ Bị Hành Quyết Trong Cải Cách Ruộng Đất
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và …tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: “Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện “bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:- Thầy có thích ăn sim không ? Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ …
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng: Thầy ăn đi. Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: Ngọt quá. Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì….tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo! Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp….Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm “soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: ” yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn …
Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.
Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955 – 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng….Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông …
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi …
Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi. Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông.
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng. Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
“Cô bé” 17 ngày ấy. Ông Hữu Loan và vợ
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no…. Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa! Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.
Năm 1988, tôi “tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự. Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.”