Tưởng niệm anh hùng Trần Văn Bá (14/5/1945 – 8/1/1985

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tưởng niệm anh hùng Trần Văn Bá (14/5/1945 – 8/1/1985

1- Youtube Tưởng Niệm Anh Hùng Trần Văn Báhttps://www.youtube.com/watch?v=OmpfIRaDF5c
2-

TRẦN VĂN BÁ MÃI LƯU DANH MUÔN ĐỜI

https://ongvove.wordpress.com/2016/01/07/tuong-niem-tran-van-ba/

TranBa-a

(Kính viếng hương hồn Anh Hùng Trần Văn Bá và các chiến hữu của ông.)
(Ngày 14, tháng 5 năm 1945 – Ngày 8, tháng 1 năm 1985)

Giả từ tất cả cuộc chơi
Hy sinh tuổi trẻ một thời vàng son
Trở về tính chuyện nước non
Sa cơ bị bắt chưa tròn ước mơ.

Anh cùng đồng đội dựng cờ
Lá cờ chính nghĩa Mẹ chờ, Cha trông
Dựng cờ trên khắp non sông
Thời cơ chưa đến phụ lòng người trai.

Trước giờ lên đoạn đầu đài
Anh còn nghĩ đến tương lai nước nhà
Thời gian dù có trôi qua
Tinh thần Văn Bá vẫn là trăm năm.

Cùng chung một nỗi hờn căm
Xác anh chẳng biết đang nằm nơi nao
Nhớ anh tôi rất tự hào
Trong gian khó vẫn tin vào ngày mai.

Anh đi thắp lửa tương lai
Đông A hào khí miệt mài đấu tranh
Tám tây ngày giỗ của anh
Người trai đi viết sử xanh năm nào.

Bài thơ tôi viết nghẹn ngào
Hồn thiêng sông núi quyện vào trong anh
Dâng lên với tấm lòng thành
Trần Văn Bá mãi lưu danh muôn đời.

Trần Lễ Nguyên
Ngày 5, tháng 1 năm 2016

Trần Văn Bá (1945-1985)

Ngày 8 Tháng Giêng năm 1985, nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội tuyên án tử hình ba chiến sĩ phục quốc thuộc Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam. Ðó là các ông Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và Trần Văn Bá. Ðây là một tin dữ đối với người Việt trong và ngoài nước, cũng như đối với các dân tộc yêu chuộng tự do dân chủ trên thế giới. Mọi người đều lên án chế độ cộng sản Hà Nội và xem đây là một thái độ thách thức lương tâm loài người. Riêng trường hợp người thanh niên Trần Văn Bá, hành động vị quốc vong thân của anh là một đại tang đối với Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris và với những người trẻ khắp nơi trên thế giới.

Trần Văn Bá sinh năm 1945 tại Sa Ðéc. Anh lớn lên với ruộng đồng miền Nam và đã được un đúc, thừa hưởng tinh thần bất khuất của cha ông. Năm 1966, thân phụ của anh là Dân Biểu Trần Văn Văn đã bị cộng sản sát hại. Cái chết của cha bắt buộc anh phải rời bỏ quê hương, xa gia đình, xa bạn bè để sang Pháp sống và theo học tại Paris. Anh tốt nghiệp cao học kinh tế năm 1971 và sau đó làm giảng viên của Ðại Học Nantes. Song song với việc học, anh tích cực hoạt động trong phong trào sinh viên và trở thành Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Paris trong nhiều nhiệm kỳ, từ năm 1973 đến 1980. Chính Trần Văn Bá đã đem đến cho Tổng hội Sinh viên tại Paris một sinh khí mới. Ðể un đúc lòng yêu quê hương và tạo dịp cho các sinh viên thành tài về phục vụ đất nước, Trần Văn Bá đã tổ chức các chuyến về thăm nhà trong mùa Hè năm 1973. Từ đó, các hội đoàn ở Pháp và các nước Âu Châu khác đã liên lạc và gắn bó với nhau trong mọi sinh hoạt để chuẩn bị cho sự ra đời của Ðại hội Việt Nam Âu Châu những năm sau này.

Trong suốt mùa Hè năm 1973 tại quê nhà, Trần Văn Bá hầu như không bao giờ vắng mặt trong các hoạt động của thanh niên sinh viên. Từ những đêm hát cộng đồng, đi công tác ủy lạo chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại các tiền đồn ở Quảng Trị, ở Bastone, ở Rừng Sát, cho đến cứu trợ nạn nhân chiến tranh; đâu đâu cũng có mặt Trần Văn Bá.

Trần Văn Bá (hàng đầu thứ nhì từ bên phải) tại Nghĩa trang Ba Đồn
nơi chôn tập thể nạn nhân Tết Mậu Thân ở Huế. (Hình do Trần Đại Lộc chụp năm 1973)

Trần Văn Bá thâm trầm nhưng không xa cách. Trần Văn Bá ít nói, nhưng khi lên tiếng thì say sưa và nội dung phát biểu rất sâu sắc. Trần Văn Bá có cái bớt đỏ trên trán bên tay mặt, khiến cho anh khó có thể bị lẫn lộn với những người chung quanh.

Những ngày Hè năm đó, Trần Văn Bá thường mặc chiếc áo lính mà anh xin được của một binh sĩ tại đặc khu Rừng Sát và đem chiếc áo khi quay trở lại Pháp. Không biết sau này, khi anh về khu chiến phục quốc, chiếc áo lính bạc màu đó có được theo chân Trần Văn Bá hay không.

Ngày 30 Tháng Tư, năm 1975, cộng sản chiếm miền Nam, đất nước bị quy về một mối. Nói theo cách diễn đạt trong thơ của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, dân tộc bị dìm trong một mối căm hờn, một mối oan khiên.

Trong giai đoạn bàng hoàng ngay sau biến cố sẩy đàn tan nghé đó, Trần Văn Bá đã bôn ba khắp nơi để kêu gọi mọi người phải tiếp tục đấu tranh. Anh thường thổ lộ với bạn bè rằng, biết bao người đã nằm xuống, chúng ta không thể ngồi yên được.

Một người bạn sinh viên từng gắn bó với Trần Văn Bá trong giai đoạn sau 1975 và hiện đang sống tại Úc là chị Phan Thị Ngọc Dung nói, “Tôi quen biết anh Trần Văn Bá vào khoảng đầu năm 1975 khi tôi bắt đầu hoạt động với Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris, lúc ấy anh Bá là chủ tịch nên tôi xem anh như một đàn anh vừa lớn tuổi hơn, vừa kinh nghiệm hơn về hoạt động.

Ðiểm nổi bật của anh Bá là sự triệt để và dấn thân của anh. Tôi rất ngưỡng mộ anh ở điểm anh dám sống tới cùng cho lý tưởng của mình đối với đất nước. Hầu hết anh em tuy hoạt động nhưng cũng lo đi học, khi ra trường, đi làm, có bạn trai, bạn gái và lập gia đình. Anh Bá thì khác hẳn, anh dấn thân triệt để và trọn vẹn, anh bỏ rất nhiều thì giờ để gặp người này, người kia để liên lạc, vận động, không phải chỉ riêng gì ở Paris mà còn ở các nước khác ở Âu Châu. Anh cũng là một người biết rất nhiều tin tức và anh em luôn kinh ngạc là tại sao anh biết nhiều thế, không biết từ đâu mà anh có những tin tức này. Sau 1975 thì anh Trần Văn Bá trầm ngâm hơn, lâu lâu trong câu chuyện nói với tôi anh phải về Việt Nam mới được.”

Tết năm Kỷ Mùi 1979, Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tổ chức đêm văn nghệ tại Paris, cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới và tràn ngập cả hội trường Maubere với sự tham dự của hàng ngàn khán giả. Ðây là một sự thể hiện sống động nhất tinh thần của những người không chấp nhận ngày 30 Tháng Tư 1975 là sự kết thúc công cuộc đấu tranh vì hạnh phúc tự do của dân tộc.

Ðối với Trần Văn Bá, tất cả các hoạt động tại hải ngoại cũng chỉ nhằm
chuẩn bị cho một ngày về chiến đấu ngay tại quê nhà. Trong đêm văn nghệ
Tết năm đó, Trần Văn Bá nói những lời cuối, trước khi anh về khu chiến
phục quốc,

Kính thưa quý bác, anh chị em Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris rất hân hoan đón tiếp quý vị trong đêm hội Tết Kỷ Mùi; sự hiện diện quý báu của quý bác và quý anh chị là một khích lệ lớn lao cho tập thể sinh viên.

Chúng tôi xin chân thành cảm tạ quý vị đã luôn luôn dành cho sinh viên sự ủng hộ nồng nhiệt nhất trên mọi phương diện, cụ thể là đêm hôm nay đã thành tựu với sự giúp sức tận tình của các phụ huynh và nhất là do sự đóng góp tích cực của hơn 1 ngàn sinh viên trong ròng rã 3 tháng trời

Kính thưa quý bác, thưa quý anh chị,

Cảm tình mà quý vị dành cho sinh viên nói lên sự tín nhiệm và sự mong ước của quý vị nơi giới trẻ để đáp lại nguyện vọng thiết tha của nhân dân trong 30 năm chiến tranh tàn phá đang bị đè nén tại quê nhà, ách thống trị khát máu đang áp đặt đã tước đoạt mọi quyền làm người của người dân Việt Nam, xô đẩy hàng trăm ngàn đồng bào phải bỏ xứ ra đi bất chấp mọi hiểm nguy; chính sự can trường của đồng bào vượt biển trước chết chóc và đời sống cơ cực trong các trại tạm cư tại Ðông Nam Á đã làm chấn động dư luận thế giới, vì thế nhiều quốc gia và đoàn thể không nỡ làm ngơ trước thảm nạn của cả trăm ngàn đồng bào, đã có hảo tâm muốn cứu vớt và giúp đỡ người tị nạn.

Những thái độ cao thượng đó dù sao cũng chỉ có tính cách nhất thời nhằm xoa dịu thương đau của những người ra đi chứ không giải quyết vấn đề ở căn bản.

-Vấn đề tị nạn là hậu quả của việc vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, người dân bỏ xứ ra đi là vì mọi quyền làm người của họ bị tước đoạt, an ninh bị đe dọa; như thế nguồn gốc của vấn đề tị nạn nằm ở Việt Nam, vấn đề chỉ có thể giải quyết tại Việt Nam mà thôi. Giải pháp là người Việt Nam có thể sống tại quê cha đất tổ mà nhân phẩm của họ không bị chà đạp, người ra đi có thể trở về và mạng sống của họ không bị đe dọa. Mọi thay đổi trong chiều hướng khả quan đó có thể có hay không là do ở nơi anh em kháng chiến đã hơn 3 năm lặn lội ở bưng biền tranh đấu cho tương lai của dân tộc, cứu vãn nhân dân khỏi thảm họa diệt vong. Chánh quyền Cộng Sản đang đưa đẩy dân tộc đến bờ vực thẳm, làm lính đánh thuê cho ngoại bang, đi xâm lăng các quốc gia Lào và Campuchia, đe dọa an ninh của cả Ðông Nam Á.

Giải pháp cho vấn đề tị nạn và hòa bình tại Ðông Nam Á hiện nay tùy thuộc vào sự lớn mạnh của kháng chiến để ngăn chặn những ý đồ điên dại của những người cầm quyền ở Hà Nội. Cho nên lúc nào chúng tôi cũng dành sự ủng hộ của chúng tôi cho các anh em kháng chiến tại quốc nội, đó là để tiếp nối lại truyền thống của dân tộc từ thời lập quốc, lúc Lạc Long Quân và Âu Cơ chia ly có hứa hẹn khi hoạn nạn sẽ về giúp đỡ nhau. Trong hoàn cảnh thê thảm của đất nước, những đứa con ra đi như chúng ta sẽ giúp đỡ những đứa con đang tranh đấu tại quê nhà đem lại tự do cho nhân dân, giải phóng dân tộc khỏi chiến tranh diệt vong để sống chung hòa bình với các quốc gia láng giềng.

Ðó là “Ðường Chúng Ta Ði”, “Ðường Chúng Ta Ði” cũng là đề tài của đêm văn nghệ Tết Kỷ Mùi nói lên truyền thống hào hùng của dân tộc. Nếu trong phần tổ chức có điều gì sơ xuất chúng tôi xin quý vị niệm tình tha thứ cho chúng tôi và Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris. Xin kính chúc quý vị một năm an khang và thịnh vượng. Xin cám ơn quý vị.

Trần Văn Bá đã tìm đường về. Trần Văn Bá về chiến khu phục quốc ngày 6 tháng Sáu, năm 1980, âm thầm, không một lời giã biệt. Anh trở thành một trong các cấp lãnh đạo của Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam. Anh từng chỉ huy nhiều chuyến xâm nhập người và vũ khí vào Việt Nam, trong khi ở hải ngoại, nhiều người không tin rằng, con người ốm yếu như anh có thể làm được công việc đội đá vá trời đó.

Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc đấu tranh chống cộng sản trên đất Pháp, từ những năm tháng trước thời điểm 1975 cho đến mãi những năm sau này và kể cả giai đoạn hiện nay. Những năm Tổng hội dưới sự lãnh đạo của Trần Văn Bá đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong ký ức của nhiều người, trong đó có anh Ðỗ Ðăng Lưu hiện đang sống ở Úc,

“Phải thành thực mà nói là uy tín của Tổng Hội Sinh Viên Paris tăng lên rất nhiều là nhờ uy tín và khả năng cá nhân của anh Trần Văn Bá. Lý do là vì anh Bá xuất thân từ một đại gia đình rất có thế lực về chính trị ở miền Nam Việt Nam và nhờ anh có những quen biết ở cấp cao nhất trong chính quyền miền Nam lúc bấy giờ, thành ra anh Trần Văn Bá có cơ hội nắm được tình hình chính trị một cách rất là vững vàng và do đó có khả năng hướng dẫn dư luận về đường hướng chính trị vào thời buổi bấy giờ.

Trong một lá thư từ chiến khu quốc nội gởi ra cho một chiến hữu tại Pháp, Trần Văn Bá cho biết rằng, đời sống trong khu chiến cơ cực, nhưng anh không sờn lòng và anh tin tưởng mãnh liệt là quê hương chắc chắn sẽ có ngày bừng sáng. Ðau đớn thay, chí lớn chưa thành thì Trần Văn Bá đã bị cộng sản bắt năm 1984 tại Minh Hải, sau đó bị kết án tử hình.

Trần Văn Bá bị cộng sản xử bắn ngày 8 Tháng Giêng năm 1985.

Trần Văn Bá đã vị quốc vong thân, nhưng anh lúc nào cũng là một tấm gương sáng và cái chết của người thanh niên đầy nhiệt huyết này là một mất mát lớn cho toàn thể dân tộc Việt Nam.

Đinh Quang Anh Thái
2010
Nguồn: Thông tin Berlin

3-Tưởng niệm anh hùng Trần Văn Bá

https://www.baoquocdan.org/2022/01/mai-thanh-truyet-tuong-niem-anh-hung.html
.com/

Gần 45 năm về trước, ngày 27/4/1975, tại Paris đã diễn ra một cuộc biểu tình tự phát (không có dự định tổ chức trước) chỉ tập hợp tại một trụ sở sinh viên Việt ở  số 2 Rue Berthollet Quận 5ème, thành phố Paris.

Vì không kịp xin phép cảnh sát Pháp, tuy nhiên, có lẽ vì thông cảm hoàn cảnh của Miền Nam VNCH lúc đó, cảnh sát đã cử một trung đội đi theo đoàn biểu tình để giữ gìn trật tự, không cho sinh viên xuống lề đường. Cuộc tuần hành diễn ra trong im lặng, chỉ có vài tiếng nhắc nhở anh chị em sinh viên đi trật tự và hoàn toàn không có tiếng hô to. Đoàn biểu tình khoảng độ 400 anh chị em sinh viên đi lần đến Tòa Đại sứ Trung Cộng. Nhưng được cảnh sát nhã nhặn nói với anh Trần Văn Bá là:”Chúng tôi không thể để các anh vào sát cửa Tòa Đại sứ được vì quy cách ngoại giao không cho phép”. Vì vậy, ACE sinh viên lùi lại khoảng hơn 20 thước.

Người điều khiển cuộc biểu tình là anh Trần Văn Bá (14 tháng 5 năm 1945 — 8 tháng 1 năm 1985) Chủ tịch Tổng hội sinh viên Việt Nam tại Paris lúc bấy giờ.

Trần Văn Bá (14 tháng 5 năm 1945 — 8 tháng 1 năm 1985) là người đã cùng Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh tổ chức đưa biệt kích cùng khối lượng lớn vũ khí vào Việt Nam với kế hoạch lật đổ Cộng sản Bắc Việt. Trần Văn Bá bị lực lượng công an bắt giữ trong Kế hoạch CM-12 do Nguyễn Tấn Dũng điều hành (lúc đó là Trưởng Công An Cà Mau) ở Cà Mau trong khi đang xâm nhập vào Việt Nam bằng đường biển và bị tòa án Việt Nam kết án tử hình năm 1985 vì tội phản quốc. Ông được Sáng hội Tượng đài Nạn nhân Chủ nghĩa Cộng sản tại Mỹ truy tặng Huy chương Tự Do Truman.

Trước vấn nạn mất nước do CSBV, Anh Trần Văn Bá đã ý thức rằng:

* Với dã tâm man rợ lăng nhục con người của CS vô thần, dã man và khát máu, chuyên dùng vũ lực để trị dân, nếu đối phó lại chỉ bằng “ƯỚC VỌNG và TINH THẦN” mà thôi thì hoàn toàn vô hiệu lực!

* Muốn bảo vệ hữu hiệu cuộc sống và tự do con người, ta phải chấp nhận đi vào chiến tranh. Vâng, phải đi vào chiến tranh để chống lại nguồn gốc của chiến tranh:

(1). Độc tài thống trị của CS ở Việt Nam là nguồn gốc chiến tranh!

(2). Sự trả thù và lòng thâm hận của CS Hànội đối với nhân dân miền Nam là nguồn gốc chiến tranh!

(3). Sách lược bành trướng quân sự điên rồ sang Cambodia và Lào là nguồn gốc chiến tranh!

Vì những lý do nêu trên, anh Trần Văn Bá và bạn bè đã quyết định cầm súng!

Vì anh tin tưởng rằng:

(a). Vấn đề Việt Nam phải được giải quyết tại Việt Nam!

(b). Kháng chiến phải bắt nguồn từ lòng đất Mẹ!

(c). Dù bị Đồng Minh phản bội hay bức tử, người Việt Nam cũng phải nhận trách nhiệm đã để mất miền Nam.

(d). Sự can thiệp trực tiếp của ngoại bang luôn luôn là một hiểm họa cho đất nước và dân tộc.

(e). Diệt thù trong (CSBV) rồi mới đánh giặc ngoài (TC).

(f). Nếu người Việt Nam không chiến đấu cho tổ quốc Việt Nam thì ai sẽ chiến đấu cho tố quốc Việt Nam?

(g). Việc lãnh đạo quốc gia không thể để nằm trong tay những thành phần mà khả năng không tương xứng với trách nhiệm. (Góp nhặt trên mạng)

Thưa Bà Con,

Đó là Trần Văn Bá.

Đó là một người con Việt đúng nghĩa.

Trần Văn Bá đã hy sinh cho Tổ quốc vào lúc tuổi còn tràn đầy sự sống, 40 tuổi với công sanh sự nghiệp vững chắc.

Trần Văn Bá ra đi không vì bịnh hoạn, không vì tai nạn, không vì thất chí, thất tình.

Mà… Trần Văn Bá ra đi vì biết lấy “MÁU” làm phân bón cho QUÊ HƯƠNG!

Tuổi Trẻ Việt Nam phải biết lấy đó mà làm gương!

ĐỨNG DẬY ĐI!

Mai Thanh Truyết

Viết cho Trần Văn Bá 6-1-2022

4-Tưởng niệm Trần Văn Bá và chiến hữu của anh

Dân Việt 9.1.22 

https://www.baoquocdan.org/2022/01/tuong-nho-tran-van-ba.html

…..Bà Dương Như Nguyện, giáo sư Đại Học Luật Khoa tại Hoa Kỳ, tác giả nhiều sách nổi tiếng, trong đó có quyển “Daughters of the River Hương”,cũng đã trang trọng viết bằng cả tim mình một bài thơ dài rất hay, rất cảm động, rất ý nghĩa để tưởng niệm Anh :

Bài Thơ Xuôi Cho Trần Văn Bá

“Tôi chưa biết anh mà đã gọi tên anh…
Trần Văn Bá
Tôi chưa hề biết anh
Mà đã hình dung ra đứa bé trai chạy chơi ở Cù Lao Cát,
Đứa bé thích hội họa, thích máy bay, ở tuổi thơ ngây chắc đã mơ làm nên vũ trụ,như họa sĩ,như nhà phát minh cơ khí.
Ngày mẹ đặt vào nôi,đặt luôn tên anh là chính đạo.
Mộng bá vương là mộng giúp đời, như tùng bách trong rừng sâu,
Cô độc mà nghênh ngang,
cao vời mà nhân đạo,
cương quyết trong ân cần.
Anh đó,
Nuôi dưỡng bằng đất bồi Cửu Long,
Tim đỏ thắm như bã trầu của mẹ quê, sinh con trai lớn lên làm cách mạng, ôi cách mạng Thế Giới Thứ Ba nổi trôi hơn thân phận con người.
Thóc thơm,
Gạo trắng,
Gió hiền
Miền Nam phì nhiêu nắng ấm
Mang vào đời anh chân thiện mỹ giữa hai làn tư tưởng Đông Tây,
tư tưởng mở tung xích xiềng nhược tiểu, cởi trói lý thuyết vô bằng.
Anh không chỉ nói, mà làm.
Anh chỉ làm mà, mà không cần nói.
Đứa bé trai lớn lên ở vựa lúa Phương Đông, rồi đứng ở Phương Tây,
Đọc sách mà trông về Phương Đông, ửng một khối trùng trùng khí phách.
Khí như khí hiên ngang của loài cây không biết ngã,
Phách như phách linh thiêng của rừng già không dấu chân người qua.
Tôi chưa hề biết anh
mà đã hình dung ra một thiếu niên có đường môi cong, mặc áo len trong trời thu Đà Lạt.
Tôi hình dung ra
phố thị cao nguyên khi tấp nập, khi đìu hiu mà anh đã một lần đi qua, với đôi chân đùa nghịch của tuổi trẻ.
Trời Đà Lạt thấp sương mù, mang cái lạnh của Hoàng Triều Cương Thổ, anh đã mang mùa thu Đà Lạt vào đôi mắt hiền lương,
Đôi mắt của niềm tin chính đạo, của loài cây cao vương bá trong rừng già.
Khi sách vở bạn bè Yersin chưa nhận ra chân dung người đi tìm công lý trong cuộc đời,
thì trường lớp cao nguyên vẫn là hàng rào không hoa trái,cản chân anh trong khuôn khổ bình an.
Nhưng rồi,
Bình an không còn nữa,
Khuôn khổ phải xóa đi,
Một lần
trong hoa lệ Sài Thành, trên vũng máu của chính trị vô nhân,
giây phút cha anh nằm xuống
là ngày vương đạo lên ngôi.
Vương đạo trong lòng bàn tay anh,
Chỉ tay ngoằn ngoèo của những người luôn mơ tạo dựng lại vũ trụ,
Chỉ tay phức tạp mà an bày như định mệnh, cho cuộc đời đã trót đi theo đường đã vạch rồi.
Đường đã vạch rồi…
Tôi chưa hề biết anh
mà đã hình dung ra người thanh niên mặc áo sô trắng, chít khăn tang,
khóc cha trong lòng dân tộc.
Ôi trong lòng dân tộc…
Anh có hay chăng….một ngày
Cũng trong lòng dân tộc, anh bắt đầu cuộc hành trình,
Để rồi,
bên ngoài dân tộc,
Có tiếng khóc anh
Ở hành lang đại học.
Ôi hành lang đại học,
Là nơi giấc mộng của loài cây cao trong rừng già bắt đầu ươm trái
cho anh và cho tôi.
Khi Phương Tây rộng mở, đón anh vào,
vành môi cong thiếu niên đã đượm nét ưu tư,
Tim óc anh đã nhập vào vòng lịch sử.
Lịch sử oái oăm khi lá cờ đổ xuống, anh đã hăm hở dựng lên.
Lịch sử thử thách vương đạo trong lòng bàn tay anh,
Lịch sử réo gọi trái tim nuôi dưỡng bằng gạo trắng Cửu Long,
chảy vào Đông Hải.
Anh đã làm theo đường đã vạch rồi, trong khi bao người còn đứng nói.
Bao người nói cũng không thành một bước anh đi, một việc anh làm, theo đường đã vạch rồi.
Ôi đường đã vạch rồi….
Như Cửu Long đổ vào Đông Hải,
Đinh mệnh biến anh thành dòng huyết nhục cội nguồn tan biến vào ngàn khơi.
Tôi chưa hề biết anh
Mà hình dung ra những con đường mang dấu chân anh.
Từ bầu trời rực nắng của tháng sáu Paris mùa oi ả, khi âm nhạc đổ dồn vào phố xá tưng bừng.
Ai đó còn nghe tiếng kèn đồng của người nhạc sĩ vỉa hè….
Qua đến tháng mười hai, mưa tuyết Paris phủ trắng dòng sông Seine.
Đâu đây vang vọng tiếng Hồ Cầm trong giai điệu cuối cùng
Còn văng vẳng tấu khúc không trọn vẹn của Schubert trước khi đêm xuống
làm đứt ngang giấc mộng.
Những nơi chốn anh đã nằm,ngồi, cười, nói, đã suy tư, đã uất nghẹn, từ Đà Lạt đến Paris.
Từ Paris quay lại những nẻo đường đất nước.
Anh đã trở về.
Ôi lục tỉnh lầm than, nơi bùn lầy nước đọng, con rồng Lạc Long của Biển Đông đã u sầu câm nín
vì xác người làm bạc sóng kêu than.
Này đây biên giới,
Này đây rừng nước với cù lao
Này đây những con người vất vưởng trong trại tù, trong nghèo đói.,
trong chính sách tiêu diệt hết một thế hệ phải buông súng, chịu cúi đầu.
Anh đã thấy, đã nhìn, và đã biết,
Đã chua xót, đã đau lòng,
Đã bất nhẫn,đã buồn hiu.
Ngày một ngày hai,
Anh đội đá vá trời,
Dầm mưa , dãi nắng,
Giã từ nhung lụa,
Chối bỏ vinh thân.
Tất cả
Đưa bàn chân anh tới,
Lót đường cho anh đi,
Đẩy anh về Cha,
Cho anh xa rời Mẹ.
Ôi đường vào dân tộc là túi mật của kẻ tử tù.Ôi Cửu Long, Cù Lao Cát, Đà lạt, Sài Gòn, Paris, và Biên Giới.
Tuồng diễn trâng tráo nhà hát lớn, vách tường vô nhân cay nghiệt nhà lao, và tiếng súng nổ sau cùng….
Tôi chưa hề biết anh,
Nhưng đã nghe nhân loại kể chuyện những con người không chịu chết,
chỉ biết khuất phục trước hai sức mạnh : Tình Yêu và Tổ Quốc.
Trong anh,
Tình yêu chưa một lần đến,
Mà Tổ Quốc đã một lần đưa.
Tôi chưa hề biết anh
Nhưng đã khóc ngày anh nằm xuống.
Anh nằm xuống như cha già đã nằm xuống,
Anh nằm xuống cho mẹ già đứng bên cạnh biểu ngữ trước nhân loại, khi nước mắt xót thân con phải chảy ngược vào lòng.
Trên con đường Thiên Lý và Thiên Cổ
Bên vong linh những Thiên Tài không chịu chết….

Anh đã đi vào Thiên Thu.
Tôi chưa hề biết anh
Đứng chơ vơ bên này bờ đại dương,
tôi sẽ gọi tên anh cho tất cả những thiếu nữ có ánh mắt làn môi Gina Lollobrigida ngoài lòng đất nước,
con tim vẫn óng ánh đường gươm của rừng già Mê Linh,
nơi mà tùng bách ngàn đời còn đứng vững,
đôi chân son còn mang guốc mộc của nàng Thanh Hóa,
muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, trên con đường anh đã đi qua,
Trong âm thầm,
Tôi sẽ gọi tên anh cho tất cả những nam nhân ở ngưỡng cửa học đường, mặc áo len,mang giấc mộng kinh bang tế thế,
Trên viền môi cong nghịch ngợm, nói tiếng Anh, tiếng Pháp, nhưng vẫn đánh vần chữ Việt,
Đôi mắt hiền lương đọc Camus, Steinbeck, nhưng trên diện mạo vẫn còn phảng phất vầng trán vuông và chiếc cằm vuông Nguyễn Thái Học….
Ngày xưa, đã có người viết sử cho 13 người trai trẻ lên đoạn đầu đài….
Nay mai, ai sẽ là người viết sử do anh làm ra,
Nhánh thông non,
Cây cao rừng già,
TRẦN VĂN BÁ
TRẦN VĂN BÁ
Vì thế
Tôi chưa hề biết anh,
Nhưng sẽ gọi tên anh,
Những sáng tuyết trắng trời Tây,
Những trưa nắng khét sa mạc bên này biển,
Khi người nhạc sĩ blue jazz đã buông kèn đồng trong hầm rượu tối
Khi tiếng réo rắt cuối, cùng Hồ Cầm đã ngừng giai điệu.
Tôi sẽ gọi tên anh,
Trong trầm tư mộng mị,
Trong thương nhớ u hoài,
Trong ánh nến lung linh tôi thắp trong lòng, ngọn nến không bao giờ tắt, cho riêng anh.
Tôi chưa hề biết anh
Nhưng đã gọi tên anh
TRẦN VĂN BÁ.”