Trung Quốc đổ dầu vào ngọn lửa biểu tình ở Việt Nam
Những người biểu tình chống Tập Cận Bình, lãnh đạo Trung Quốc (trái), trong khi Nguyễn Phú Trọng, lãnh đạo VN bắt tay Tập Cận Bình, lãnh đạo TQ. Nguồn: YaleGlobal
YALE GLOBAL Tác giả: Tom Fawthrop
Dịch giả: Châu Minh Dũng 29-11-2018
Yale Global Online: Nước Việt Nam có một lịch sử quan hệ lâu dài và nhiều mâu thuẫn với Trung Quốc. Sau giai đoạn căng thẳng đến từ cuộc xâm lược của Trung Quốc năm 1979 và quá trình tranh chấp Biển Đông, hai quốc gia đã tiến hành bình thường hóa quan hệ vào năm 1991 để mở cửa cho hoạt động thương mại và ngoại giao xuyên biên giới. Tuy nhiên, người dân Việt Nam không dễ dàng quên đi quá khứ, tinh thần đó được thể hiện qua phong trào biểu tình mùa hè năm 2018 nhằm chống lại đề xuất xây dựng ba đặc khu kinh tế ở các vị trí rất nhạy cảm với thời hạn thuê đất lên tới 99 năm.
“Các nhà lãnh đạo Việt Nam ngày nay hết sức cẩn thận trong việc cân bằng giữa chuyện chính thức lên án hành động của Trung Quốc ở Biển Đông với việc duy trì quan hệ hợp tác trong thương mại và đầu tư. Cuộc tổng biểu tình khổng lồ diễn ra trong tháng 6/2018 phản ánh tình cảm của người dân Việt không còn tin chính quyền của họ có thể đạt được sự cân bằng đúng mực với những dự án đầu tư từ Trung Quốc đầy dấu vết tham nhũng, thiếu minh bạch và cướp đất của dân”, nhà báo và nhà làm phim Tom Fawthrop giải thích như vậy.
Các cuộc biểu tình quy tụ những nhà bất đồng chính kiến chống cộng sản cũng như các cựu quan chức, buộc chính quyền Việt Nam phải hoãn việc thông qua dự luật đặc khu đến tận tháng 5/2019. Tác giả Fawthrop kết luận rằng lãnh đạo Việt Nam phải xây dựng được tầm nhìn cho sự phát triển và một chiến lược để bảo vệ văn hóa và sự độc lập của quốc gia trước tham vọng bá quyền của Trung Quốc trong khu vực.
Người dân Việt Nam, cảnh giác trước chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc, luôn mong các nhà lãnh đạo của họ kiểm soát được tiến trình phát triển, song song với nghĩa vụ bảo vệ nền văn hóa và sự độc lập.
Hà Nội: Rất ít người dự đoán một cuộc tổng biểu tình nổ ra khắp cả Việt Nam vào năm 2018, nhà nước độc đảng ở Việt Nam thường dập tắt dễ dàng các phong trào bất đồng chính kiến trước khi nhiều người kịp nhận ra vấn đề hoặc có cơ hội huy động lực lượng.
Một đạo luật mới về các đặc khu kinh tế được Quốc hội Việt Nam tranh luận vào tháng 6/2018 đã làm dấy lên phong trào biểu tình chưa từng có. Công chúng đặc biệt phẫn nộ trước đề xuất mở ba vị trí chiến lược trên lãnh thổ Việt Nam trong hợp đồng thuê đất lên tới 99 năm, mà hầu như chắc chắn sẽ rơi vào tay các công ty Trung Quốc. Chế độ cộng sản Việt Nam thường thẳng tay đàn áp các phong trào kêu gọi xây dựng nền dân chủ đa đảng. Dù vậy, xã hội dân sự và một số tiếng nói cải cách ngay trong các cấp chính quyền có thể trì hoãn và việc sửa đổi các chính sách không được ưa chuộng, gắn liền với lịch sử đầy rắc rối của người Việt với Trung Quốc.
Cựu cố vấn kinh tế Chính phủ, đồng thời là một đảng viên Cộng sản Việt Nam, ông Lê Đăng Doanh dự đoán sẽ có “phản ứng mạnh mẽ từ người Việt”, theo tin từ báo South China Morning Post. Ông đã ký vào bản một bản kiến nghị gửi tới Quốc hội, đề nghị hoãn dự luật gây tranh cãi. Còn “phản ứng mạnh mẽ” đã nổ ra ở ít nhất sáu thành phố và thị trấn, bao gồm TP HCM, Đà Nẵng, Nha Trang, Vinh và Hà Nội, lực lượng an ninh Việt Nam hầu như bị động.
Việt Nam đã chứng kiến một loạt các cuộc biểu tình nhỏ hơn trong những năm gần đây, chủ yếu chống Trung Quốc và ủng hộ tuyên bố chủ quyền lịch sử của Việt Nam đối với các đảo ở Biển Đông. Phía Việt Nam gọi vùng biển trong vòng tranh chấp chủ quyền là “Biển Đông” hoặc “vùng biển phía Đông”. Một nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền và blogger với khoảng 42.500 người theo dõi trên Facebook là Anh Chí, giải thích: “Những cuộc biểu tình gần đây của người Việt nổ ra nhằm chống lại làn sóng xâm lược, bành trướng và gây chiến của Trung Quốc ở Biển Đông”. Những dự án đầy sai phạm của Trung Quốc cũng dẫn tới một loạt các cuộc biểu tình vào năm 2009, chống lại dự án bauxite Tây Nguyên, và cuộc biểu tình sau thảm họa môi trường năm 2016, đã khiến cá chết dọc theo 120km bờ biển Việt Nam.
Số người sử dụng internet ở Việt Nam chỉ đạt hơn 60%, theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, quốc gia này có lượng người sử dụng Facebook đứng thứ bảy trên toàn thế giới, với 58 triệu tài khoản. Các nhà phê bình nghi ngờ rằng, chính quyền Trung Quốc đã trao đổi các thủ thuật giám sát với chính quyền Việt Nam, nhưng họ thừa nhận rằng họ vẫn chưa có bằng chứng khả tín. “Chúng tôi biết rằng công an mạng Việt Nam được đào tạo tại Trung Quốc. Chúng tôi không thể loại trừ khả năng Trung Quốc giúp Việt Nam thiết kế và trang bị cơ sở hạ tầng an ninh mạng của mình”. Blogger Mạnh Kim viết như vậy hồi tháng 6/2018.
Cuộc tranh luận sôi nổi trên mạng xã hội đã kích thích phong trào phản đối dự luật về các đặc khu kinh tế. Truyền thông nhà nước thậm chí còn đưa tin về báo động của dân chúng. Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, một biểu tượng lãnh đạo trong cộng đồng Công giáo Việt Nam, tuyên bố trong một bản kiến nghị gửi Quốc hội Việt Nam, rằng dự luật đặc khu có“nguy cơ gây thiệt hại cho quyền lợi quốc gia, đặc biệt có thể xâm hại đến an ninh và chủ quyền quốc gia của Việt Nam”.[1] Ông Nguyễn Quang, cựu quan chức Bộ Ngoại giao và chuyên gia phân tích chính trị, viết rằng, người Trung Quốc, “thông qua các tập đoàn tư bản của họ có đầy đủ tiềm lực và động cơ để chinh phục các đặc khu như một cuộc xâm lược mềm”.
Anh Chí thừa nhận rằng, anh “hầu như không thấy có lợi ích công trong Quốc hội, một cơ quan lập pháp chỉ có vai trò bù nhìn, không hơn không kém, cho Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản”.
Hàng chục ngàn người Việt đã chấp nhận mạo hiểm, biểu tình trên mạng và xuống đường biểu tình, bởi các vị trí chiến lược ở các đặc khu kinh tế. Chuyên gia phân tích chính trị Việt Nam, ông Carl Thayer giải thích rằng, các đặc khu có thể mang lại một số lợi ích kinh tế, nhưng địa điểm được chọn vẫn quá nhạy cảm: Tỉnh Quảng Ninh ở sát biên giới với Trung Quốc; Đảo Phú Quốc nằm trong phạm vi đường chín đoạn của Trung Quốc ở phía nam Biển Đông [2], đồng thời rất gần các dự án và hải cảng của Trung Quốc ở vùng duyên hải Campuchia; còn Bắc Vân Phong ở tỉnh Khánh Hòa.
Trung Quốc có thể sẽ là nhà đầu tư chủ yếu trong ba vùng được chọn làm đặc khu, bởi quá trình thao túng kinh tế ngày càng mở rộng trong khu vực sông Mekong của vùng Đông Nam Á, một phần trong Sáng kiến Vành đai và Con đường rộng lớn. Ông Vũ Quang Việt, cựu kinh tế gia của Liên Hiệp quốc và là người thường đóng góp thông tin cho truyền thông Việt Nam, đã bày tỏ sự hoài nghi về lợi ích của các đặc khu và gợi ý, “chuyện xúc tiến dự luật này chỉ kích thích sự phát triển bất động sản và các dự án casino, thực chất không tăng cường các ngành công nghiệp công nghệ cao, lại chính là các mũi nhọn mà Việt Nam rất cần để thúc đẩy nền kinh tế”.
Ông Nguyễn Phú Trọng, với tư cách Chủ tịch nước và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, đã một lần trì hoãn thông qua dự luật đặc khu đến tháng 10/2018, rồi sau đó trì hoãn tiếp đến tháng 5/2019, đó là chiến thắng phần nào cho những người phê phán luật đặc khu.
Giới lãnh đạo Việt Nam chắc chắn sẽ để dành dự luật này cho năm sau, nhưng hy vọng rằng tới thời điểm đó, với sự hỗ trợ của chính sách kiểm soát các phương tiện truyền thông xã hội, đặc biệt là Facebook, họ có thể đạt được điều họ muốn. Các quan chức ngành an ninh vốn đã bẽ mặt [vì không tiên liệu được các cuộc tổng biểu tình hồi tháng 6/2018] quả nhiên đã áp đặt những bản án khắc nghiệt lên những người bất đồng chính kiến và các nhà vận động nhân quyền, với hơn 80 người vào tù. Việt Nam cũng đã thông qua đạo luật an ninh mạng mới, nhằm mở rộng khả năng giám sát và kiểm duyệt, để chống lại các blogger đối lập.
Vấn đề Trung Quốc đặt ra câu hỏi hóc búa cho các nhà lãnh đạo Việt Nam. Chiến lược của giới lãnh đạo CSVN, trong đó kết hợp các biện pháp tham vấn với sự đàn áp khắc nghiệt, vẫn không thể giải quyết được rạn nứt thâm căn cố đế đã kéo dài qua nhiều thế kỷ của Việt Nam với người khổng lồ kinh tế ở biên giới phía bắc của quốc gia này. Học sinh Việt Nam được dạy rằng các hoàng đế và tướng sĩ Trung Quốc đã đô hộ nước Việt trong gần một thiên niên kỷ, từ năm 111 trước Công nguyên cho đến năm 938 sau Công nguyên. Gần đây, vào năm 1979, Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam như một biện pháp “trừng phạt” vì Hà Nội lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot đã tàn phá Campuchia, với hàng triệu người phải ly tán, bị bắt làm nô lệ, bị tra tấn và bị thảm sát. Trung Quốc và Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ trong thập niên 1990 về lĩnh vực thương mại, đầu tư và ngoại giao. Trong khi đó, xung đột vẫn tiếp diễn quanh việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông, cùng với việc tàu Trung Quốc thường xuyên đâm chìm các tàu cá Việt Nam trong vùng tranh chấp lãnh hải.
Các nhà lãnh đạo Việt Nam ngày nay hết sức cẩn thận trong việc cân bằng giữa chuyện chính thức lên án hành động của Trung Quốc ở Biển Đông với việc duy trì quan hệ hợp tác trong thương mại và đầu tư. Bắc Kinh là đối tác thương mại không được ưa chuộng của Việt Nam, nhưng vẫn được được xếp hạng cao nhất trong danh sách các nước nhập khẩu và chỉ đứng thứ hai sau Hoa Kỳ trong danh sách các nước xuất khẩu của Việt Nam.
Cuộc tổng biểu tình khổng lồ diễn ra trong tháng 6/2018 phản ánh tình cảm của người dân Việt không còn tin chính quyền của họ có thể đạt được sự cân bằng đúng mực với những dự án đầu tư từ Trung Quốc đầy dấu vết tham nhũng, thiếu minh bạch và cướp đất của dân. Nỗi hoài nghi có âm mưu của Trung Quốc đằng sau các cuộc chiến giành độc lập của Việt Nam không chỉ giới hạn trong phạm vi các nhà bất đồng chính kiến lưu vong ở Mỹ và Pháp, mà còn lan rộng trong ngay cả các nhóm người vẫn tin tưởng ông Hồ Chí Minh, giữa những cố vấn cấp cao của chính phủ, sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu, các cán bộ cộng sản và những cộng đồng rộng lớn hơn nữa. Nhà bất đồng chính kiến Phạm Chí Dũng kết luận rằng, các nhà cải cách gần gũi với chính phủ đều có chung cảm giác vỡ mộng ngày càng rõ rệt về chính sách mơ hồ và quan hệ gắn bó giữa Hà Nội với Trung Quốc: “Thất bại của chính phủ trong việc quản lý kinh tế và tình trạng tham nhũng, ngay cả giới trí thức và chuyên gia ‘lề đảng’ cũng đang mất kiên nhẫn và bày tỏ sự bất đồng trước thái độ bế tắt của chính phủ”.
Trung Quốc, với vai trò kinh tế ngày càng chiếm ưu thế ở khu vực sông Mê Kông, dựa vào chính quyền Hà Nội để kiểm soát tình trạng bất ổn và ngăn chặn các cuộc biểu tình chống Trung Quốc. Hà Nội còn lâu mới có khả năng suy xét và lựa chọn cẩn thận trước các dự án đầu tư từ Trung Quốc – họ thậm chí có vẻ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc thu hút thêm tài trợ từ Trung Quốc để phát triển cơ sở hạ tầng. Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc tuyên bố tại hội chợ triển lãm quốc tế của Trung Quốc ở Thượng Hải, rằng đất nước của ông “là đất nước hứa hẹn cho các nhà đầu tư quốc tế, bao gồm cả Trung Quốc”. Ông nói thêm rằng, Việt Nam đang cần 25 tỷ USD mỗi năm để phát triển cơ sở hạ tầng.
Những tư tưởng bảo thủ của Hà Nội có thể đang mang họ lại gần với mô hình Trung Quốc, ngay cả một số nhà cải cách trong đảng và người trong chính phủ, cũng như những người có ý thức mạnh mẽ về chủ nghĩa dân tộc trong xã hội Việt Nam, ngày càng truy vấn tính hợp pháp trong sự cai trị của chế độ cộng sản Hà Nội. Lãnh đạo Hà Nội thiếu tầm nhìn cho một mô hình phát triển thích hợp với Việt Nam – cũng như chiến lược rõ ràng về giải pháp tốt nhất để bảo vệ nền văn hóa, giá trị và nền độc lập quý báu của Việt Nam trong chính sách toàn cầu hóa của Trung Quốc ở khu vực Mekong.
Tác giả: Tom Fawthrop là một nhà báo và nhà làm phim ở Đông Nam Á, là người đóng góp thường xuyên cho báo Economist và Guardian. Ông cũng cung cấp phim tài liệu cho BBC và Al Jazeera Online. Các phim tài liệu của ông bao gồm “Sứ mệnh của Liên Hợp Quốc tại Campuchia” và “Quá trình xây đập trên dòng sông Mekong” và các tài liệu cung cấp thông tin rộng rãi về Việt Nam kể từ chuyến thăm đầu tiên của ông đến đất nước này vào năm 1987.