Trao đổi với cựu Chủ tịch Trương Tấn Sang
Trao đổi với cựu Chủ tịch Trương Tấn Sang
Nguyễn Đình Cống
6-9-2018
1- Giới thiệu
Đầu năm 2018, cựu chủ tịch nước Trương Tấn Sang viết bài “Lịch sử giúp chúng ta hiểu về hiện tại, dự báo tương lai”. Ông trình bày việc, sau khi về hưu, nhờ đọc sách Bão táp Triều Trần, chiêm nghiệm lịch sử và thực tế mà hiểu ra rằng đất nước hưng thịnh nhờ có vua sáng tôi hiền, còn đất nước suy vong cơ bản là do tài năng yếu kếm và đạo đức suy đồi của những người cầm quyền. Rồi ông đặt câu hỏi “Đảng này, chế độ này, đất nước này sẽ đi về đâu”. Ông kết thúc bằng niềm tin vào Đảng để bước vào năm mới Mậu Tuất.
Dịp 2 tháng 9, ông Sang lại cho công bố bài “Quyền lực, trách nhiệm người lãnh đạo và niềm tin của nhân dân”. Viết bài này nhờ việc ông đọc được 2 tập hồi ký của Lý Quang Diệu. Ông nêu ra sự thành công của Lý Quang Diệu ở Singapore, Park Chung Hy ở Nam Hàn, sự độc tài, tham nhũng của Suharto ở Indonesia và của Marcos ở Philippines. Ông liên hệ tình hình Việt Nam và cho rằng đất nước đang rơi vào tình trạng tụt hậu, thua kém là do “sự thao túng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo suy thoái, hành động vì lợi ích cá nhân, không vì lợi ích Tổ quốc”. Ông kết thúc bài viết như sau: “Ðiều đáng mừng là những gì Ðảng, Nhà nước đã làm được, … Thời gian và cơ hội không chờ đợi ai. Có được niềm tin của nhân dân thì không một trở lực nào có thể ngăn cản chúng ta xây dựng thành công đất nước giàu mạnh”.
Về bài “Lịch sử giúp chúng ta…”, trước đây vào tháng 1/2018 tôi đã viết bài phê phán: “Nhận thức muộn và nhầm của cựu chủ tich nước”. Nay nhân bài “Quyền lực, trách nhiệm người lãnh đạo và niềm tin của nhân dân”, tôi xin bàn chút ít về các cán bộ lãnh đạo của cộng sản và phân tích thêm nhận thức sai lầm của ông Sang.
2- Về trình độ cán bộ lãnh đạo của cộng sản
Trong quyển sách “Thất bại lớn”, Brzezinski cho rằng, phong trào cộng sản tất yếu sẽ sụp đổ vì kém trí tuệ. Có thể dễ dàng chứng minh được rằng các tổ sư như Mác, Engels, Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông cũng đều kém trí tuệ. Họ thành công được một phần nào đó vì có lắm mưu mẹo, lắm thủ đoạn, họ sử dụng được bạo lực (ban đầu là của quần chúng, về sau là của chuyên chế), họ giỏi dùng ngụy biện, tuyên truyền dối trá kết hợp tạo ra sùng bái cá nhân, họ đánh lừa được hàng trăm triệu người. Nhưng rồi đã có nhiều công trình chứng tỏ rằng Chủ nghĩa Mác – Lênin đặt nền móng trên những sai lầm cơ bản và các tổ sư của phong trào cộng sản đã phạm nhiều tội ác đối với nhân loại.
Riêng ở Việt Nam, những người lãnh đạo cấp cao, kém trí tuệ như Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười v.v… có thể kể ra hàng hàng trăm, hàng ngàn. Có một số ít, được công nhận tương đối có trí tuệ trong một vài lĩnh vực như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Võ Văn Kiệt, v.v… nhưng điều quan trọng nhất là con đường họ đã chọn để dẫn dắt dân tộc là sai lầm, chủ nghĩa họ tôn thờ là phản tiến bộ. Cũng đã có một số người đủ thông minh để nhận thức ra quy luật của phát triển như Trần Độ, Trần Xuân Bách, Nguyễn Kiến Giang, v.v… nhưng họ bị loại bỏ. Riêng Hồ Chí Minh, một con người đầy bí ẩn, tuy được suy tôn lãnh tụ vĩ đại, nhưng cũng chưa kết luận được là biết mệnh trời và hiểu lòng người, đã thoát khỏi tình trạng vô minh.
Phong trào cộng sản trên thế giới cũng như ở VN, thời gian đầu có thu hút được một số ít người tài giỏi, nhưng càng về sau số người có trí tuệ càng giảm. Số thì bị loại trừ, số thì công khai hoặc lặng lẽ từ bỏ.
Tại sao cộng sản vốn kém trí tuệ mà họ đã từng thành công một số nơi và đã từng là mối lo cho thế giới dân chủ? Cộng sản kém trí tuệ, nhưng để lôi kéo, lãnh đạo quần chúng đông đảo công nông binh thường chỉ cần đẩy mạnh tuyên truyền và hứa hẹn về quyền lợi trước mắt, chỉ cần tạo dựng được lãnh tụ đầy sức hấp dẫn, kết hợp sự khủng bố tàn độc đối với “kẻ thù giai cấp hoặc thế lực thù địch”. Mà những việc này cộng sản khá thành thạo.
Ông cựu chủ tịch Sang kể rằng, sau khi về hưu mới có dịp đọc “Bão táp Triều Trần”, “Hồi ký Lý Quang Diệu”, còn khi tại chức ông chẳng có thời gian để đọc sách. Chắc rằng đại đa số các cán bộ lãnh đạo các cấp của cộng sản, kể cả các vị trong Hội đồng lý luận, trong trung ương và cả trong Bộ Chính trị cũng rất ít đọc sách. Trong các cán bộ cao cấp đã về hưu, ông Sang tỏ ra là người có đọc được vài quyển trong hàng trăm tác phẩm cần đọc. Mà các chính trị gia cần đọc từ lúc còn rất trẻ chứ không phải đợi đến lúc về hưu.
Ông Sang thể hiện có đọc sách để có chút tự hào với nhiều người cùng trình độ và hoàn cảnh. Nhưng rồi việc làm đó phơi trần sự kém cỏi về kiến thức, sự thiếu hụt về trí tuệ của cán bộ lãnh đạo trước mắt toàn dân và đặc biệt là trước mắt tầng lớp trí thức. Cán bộ lãnh đạo của cộng sản tưởng nhầm rằng biết được vài luận thuyết của Chủ nghĩa Mác-Lê là có thể lãnh đạo việc quản trị đất nước. Mà khốn thay các luận thuyết ấy đang chứng tỏ sai lầm, càng tiếp thu nhiều lý luận Mác-Lê càng làm cho con người ta trở nên ngu dốt, xơ cứng, bảo thủ.
3-Nhận xét về bài của ông Sang
Ông Nguyễn Khắc Mai đã có những nhận xét rất hay về bài viết vừa rồi của ông Sang (Bài: Chủ nhật buồn, trò chuyện với anh Trương). Tôi làm việc “Tát nước theo mưa”.
Phải chăng những điều cơ bản ông Sang viết ra trong hai bài trên là nhận thức mới có được sau khi đã về hưu, sau khi đọc được Bão táp Triều Trần và Nhật ký Lý Quang Diệu? Phải chăng trong lúc làm Chủ tịch nước ông chưa từng biết đến điều ông vừa viết? Nếu quả như thế thật thì ông Tư Sang quá kém về trí tuệ, vậy ông nhờ vào thủ đoạn nào, mẹo mực nào, dựa vào thế lực nào để làm đến Chủ tịch nước? Hay là hồi làm chủ tịch ông cũng biết cả rồi nhưng không dám nói, không thể viết vì “há miệng mắc quai”?
Ông Sang đã có được cái nhìn thực tế vào xã hội Việt Nam, thấy được những bầy sâu đang đục khoét, thấy đất nước nợ nần và lệ thuộc, mắc kẹt trong “bẫy thu nhập trung bình”. Ông cho rằng “nguyên nhân là sự thao túng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo suy thoái”. Rồi ông đặt câu hỏi: Phải làm gì để Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn được nhân dân tin tưởng, trường tồn cùng non sông đất nước?
Nhiều ông bà cán bộ cao cấp khác về hưu chỉ lo cho cuộc sống gia đình, không quan tâm đến thế sự. Ông Sang có hơn bọn họ, có đọc sách, có viết bài. Tuy vậy, ông Sang đã tỏ ra yếu về trí tuệ và thiếu gương mẫu.
Về trí tuệ, ông Sang không thấy được nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân sâu xa của tham nhũng, của lợi ích nhóm nằm ở trong sự độc quyền đảng trị, ở việc đặt Đảng cao hơn tất cả. Những thứ đó do chủ thuyết Mác-Lê sinh ra và nuôi dưỡng. Việc đổ lỗi cho một số cán bộ suy thoái là không sai, nhưng chưa đúng, chưa chỉ ra bản chất.
Theo Nguyễn Khắc Mai, ông Sang tuy có biết Marcos và Suharto độc quyền, tham nhũng, đẩy đất nước vào khó khăn, đã bị lật đổ, nhưng không biết đến hoặc không dám nói đến động lực của sự lật đổ là nhân dân, là chế độ đa đảng với bầu cử tự do, với nền dân chủ tam quyền phân lập. Ở ta, ĐCS phản ứng với những thứ đó như đỉa phải vôi, thế thì làm sao họ chấp nhận để nhân dân lật đổ độc tài. Nhắc tới sự liêm khiết của Park Chung Hy và Lý Quang Diệu, ông Mai nhắn ông Sang liên hệ bản thân, xem có dám minh bạch về tài sản và nhóm lợi ích sân sau không?
Tôi chỉ muốn nhắc ông Sang rằng ông đã mê muội, đã bị nhồi sọ quá sâu về chủ thuyết Mác Lê và sự độc quyền toàn trị của đảng cộng sản. Trong nhiệm kỳ Chủ tịch nước chưa thấy ông làm được việc gì, có được chủ trương gì để nâng cao dân chủ và nhân quyền, để làm giảm oan sai của dân.
Về hưu rồi, có thấy được một vài sự thật mà khi còn tại chức ông bị bưng bít và tự bưng bít, nhưng ông vẫn một lòng trông đợi vào Đảng có thể lấy lại lòng tin của dân. Một thời dân đã vì lòng tốt mà bị mắc lừa, tin vào Đảng. Ngày nay, khi đã nắm chắc quyền lực, Đảng đã lộ rõ bản chất độc đoán, phần lớn nhân dân đã thấy rõ lòng tin của họ bị phản bội. Nhắc ông đừng hy vọng vào việc xui nhân dân tiếp tục tin vào Đảng nếu như đảng ấy vẫn kiên trì Mác Lê và độc quyền. Chắc rằng cộng sản đã đem lại cho ông quá nhiều quyền lợi, không dễ gì ông thấy được sự thối nát của nó. Nếu như ông chưa thấy được những sai lầm và tội ác của cộng sản để đứng về phía nhân dân đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền, để thoát cộng sản và Tàu khựa Đại Hán mà vẫn tiếp tục viết những bài nhằm lấy lại lòng tin của dân thì tôi e rằng ông đã nhầm.
Gần cuối bài ông viết: “Phải đặt sang một bên những do dự và ngại ngần, quyết liệt và không chậm trễ trong việc loại trừ những nhân tố gây phương hại đến niềm tin của nhân dân, cản trở sự phát triển của đất nước”. Nghe thì rất hay, rất đúng về nguyên lý, nhưng nó rất tù mù ở khái niệm “nhân tố gây phương hại…”. Những người đấu tranh vì dân chủ cho rằng nhân tố đó chính là Chủ nghĩa Mác Lê, chính là sự độc quyền toàn trị của ĐCS. Còn theo ông, nhân tố đó là cái gì thì xin nói thẳng ra. Phải chăng như ông đã viết, đó là “sự thao túng của một bộ phận cán bộ lãnh đạo suy thoái”. Đã bao giờ ông chịu khó suy nghĩ để biết cái bọn suy thoái ấy sinh ra từ đâu và được nuôi dướng như thế nào để trở thành “cả bầy sâu”?
Như lời nhắc ở cuối bài của ông Nguyễn Khắc Mai, ông Tư Sang nên biết xấu hổ và sám hối. Khi ông chịu khó suy nghĩ để nhận ra sự thật, rồi đứng về phía nhân dân để đấu tranh cho nhân quyền, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân thì mới là thức thời, còn nếu vẫn tiếp tục luận điệu như các bài vừa nêu thì may lắm ông có thể đánh lừa một số kẻ thân tín cùng phe nhóm, còn không có hy vọng gì vận động để nhân dân tăng lòng tin vào đảng của ông đang trên con đường rệu rã, sụp đổ.
Tôi ngờ rằng ông Sang chưa đọc được những quyển sách như: Thất bại lớn (Brzezínki), Giai cấp mới (Milovan), Cách mạng 1989 (Sebattian), Chủ nghĩa phát xít (Zeliu Zelev), Trần Đức Thảo-Những lời trăng trối (Phan Ngọc Khuê), Đêm giữa ban ngày (Vũ Thư Hiên), Mặt thật (Thành Tín) và nhiều quyển quan trọng khác, mô tả những phần sự thật của phong trào cộng sản, của Chủ nghĩa Mác Lê. Chắc rằng ông Sang cũng chưa được nghe, được đối thoại với những người vạch ra những sai lầm cơ bản của Mác Lê.
Nếu ông muốn nghe, muốn biết và có lời mời chân thành, tôi vui lòng đến gặp và trao đổi với ông về những vấn đề trên với tinh thần giữa những người bạn hưu trí. Điện thoại của tôi: 01689 578 620. Email: ndcong37@gmail.com
____
Nguyễn Đăng Hưng
8-1-2018
“Lịch sử giúp chúng ta hiểu về hiện tại, dự báo tương lai”
Hôm nay, Ông Trương Tấn Sang, cựu Ủy viên Bộ Chính trị, cựu Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam cho đăng trên báo Nhân Dân, Thanh Niên và Dân Trí một bài viết rất đáng được quan tâm.
Ông đề cập đến những vương triều chính thống của dân tộc Việt, thời Trần, thời Lê, với những suy ngẫm về lẽ thịnh suy trong lịch sử. Đặc biệt ông đề cao vai trò và hành động “phản biện” của những các tầng lớp nho sỹ các thời bấy giờ. Về cụ Chu Văn An, ông viết:
“Hơn 100 năm kể từ khi vị Hoàng đế đầu tiên của Trần triều, vào buổi sáng sớm cái ngày mà quan Tư nghiệp Quốc tử giám Chu An (Chu Văn An), bậc quốc sư dạy dỗ cho hai Hoàng đế Hiến Tông và Dụ Tông, phải chấm tay áo gạt nước mắt, treo mũ ở cửa Huyền Vũ rồi về quê dạy học, kinh thành Thăng Long vẫn vắng lặng. Tờ sớ mà ông liều thân xin chém đầu 7 tên gian thần đầu triều vẫn nằm im đâu đó trong mật viện hay trên long án… Đó cũng là cái ngày báo hiệu cho sự lung lay và sụp đổ của vương triều Trần từng một thời rực rỡ”.
Ông nhắc đến vị vua trí thức đời nhà Lê và lòng cung kính tin dùng kẻ sỹ:
“Triều Lê với những vị hoàng đế anh minh như Lê Thánh Tông, người lệnh cho danh sĩ Thân Nhân Trung soạn văn bia với câu ‘hiền tài là nguyên khí quốc gia’, đã dựa vào các nhân tài để tạo dựng hàng loạt những giá trị văn hiến truyền lại cho đời sau, đưa Đại Việt lên hàng cường quốc trong khu vực”.
Ông cũng trích dẫn và bình luận một cách xác đáng:
“Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 – 1784) có tổng kết 5 nguy cơ dẫn đến quốc gia suy vong là: Trẻ không kính già, trò không trọng thầy, binh kiêu tướng thoái, tham nhũng tràn lan, sĩ phu ngoảnh mặt. Cả 5 điều ấy đều là những yếu tố bên trong. Dân tộc Việt Nam không bao giờ sợ giặc ngoại xâm, chỉ sợ những người cầm quyền không đủ dũng khí để tự sửa mình, để thực hành nghiêm khắc nội bộ”.
Khá lâu rồi ta mới thấy một nhân vật từng là Chủ Tịch nước, từng là thành viên cao cấp của Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam đề đạt và suy ngẫm về chính sách hiện nay, nhằm soi sáng những bước đi chính trị tương lai, mà dựa trên lịch sử dân tộc truyền thống, nhất là đề cao vai trò của tầng lớp trí thức.
Đây là nét mới đáng ghi nhận, nhất là nó được đăng tải chính thức trên báo Nhân Dân! Sẽ lạc quan quá đáng nếu ta cho đây là bước ngoặt thể hiện xu hướng mới của Ban Tuyên giáo?
Riêng cá nhân tôi, tôi hoan nghênh tinh thần này, tinh thần dựa vào bài học lịch sử ngàn năm của dân tộc để tìm lối ra cho những ách tắc vô cùng rối rắm hiện nay.
Tôi sẽ hoan nghênh hơn nếu ông Trương Tấn Sang xác định rõ hơn những bài học này, đặc biệt cách đào tạo và sử dụng trí thức ngày nay ở Việt Nam… Thí dụ như ngày xưa các quan được tuyển lựa nghiêm túc qua các kỳ thi, mà giai cấp nông dân hay giai cấp quan quyền đều bình đẳng ghi danh ứng thí! Còn chúng ta, đã có một thời, dưới mái nhà xã hội chủ nghĩa vào đại học đã bị hạn chế vì lý lịch và ngày nay, việc xử dụng cán bộ không được chế tài nghiêm túc mà ngược lại, những thói quen cơ cấu thân hữu, bà con thân thuộc đã thành một thông lệ tràn lan từ cấp trung ương đến các cấp tỉnh, huyện, xã…
Tôi cũng sẽ hoan nghênh hơn nếu cựu Chủ tịch nước thấy được rằng thời xưa ta gọi là phong kiến, quyền tự do sáng tác là điều có thật mà thời nay phải học hỏi. Thời xưa không hề có cái “ban tuyên giáo”, các “cục biểu diễn”… ngăn cấm văn nghệ sỹ sáng tác, sinh hoạt theo xu hướng tự do. Ta còn nhớ vua Tự Đức tuy rất cay cú với nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều vì câu thơ: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Ngài đã không vì một câu thơ “khi quân” của Truyện Kiều mà ra lệnh đốt hết sách của Nguyễn Tiên Điền hay bỏ Đoạn trường Tân thanh vào cối giã để lấy giấy tái chế!
Ngoài ra, nếu lấy lịch sử dân tộc ra làm bài học cho hôm nay và ngày mai thì theo tôi, điều cốt lõi nhất là phải noi gương, là tinh thần quật cường dân tộc, truyền thống đoàn kết gắn bó giữa giới cầm quyền và người dân trong công cuộc tạo sức mạnh tổng hợp, chống xâm lược phương Bắc, dù kẻ thù có nhất thời hung hãn mạnh bạo đến bao nhiêu.
Đó là “Tuyên Ngôn Độc Lập” của Lý Thường Kiệt, đó là “Hịch Tướng Sỹ” của Trần Hưng Đạo, đó là Hội Nghị Diên Hồng, đó là “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi, đó là lời thề giữa ba quân của Hoàng Đế Quang Trung trước khi tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh.
Các vương triều Đại Việt, qua lời nói và việc làm, đã bảo vệ giang sơn đất nước, đã hun đúc cho giống nòi chúng ta lòng yêu nước thương dân, đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, vận dụng khí giới vô giá đó mà củng cố lực lượng, bảo vệ bờ cõi cho Đại Việt trường tồn qua lịch sử ngàn năm. Các vương triều đất Việt đi ngược lại lòng dân hay làm mất lòng dân đều tạo điều kiện cho phương Bắc thôn tính, nước nhà bước vào vòng nô lệ!
Hơn bao giờ hết, ngày nay trước hiểm họa lãnh thổ, lãnh hải bị xâm phạm, trước nguy cơ Biển Đông bị chiếm đoạt, chính quyền nên ghi nhận bài học này.
Cái nguy hiểm trước mắt là những sai lầm chính trị, những biện pháp đàn áp đáng tiếc, phát sinh ra đối kháng giữa dân và nhà cầm quyền: Đồng Tâm, Formosa, BOT Cai Lậy, trưng thu đất dai làm dự án…
Mong thay ý tưởng dựa vào lịch sử dân tộc sẽ không dừng lại ở đây mà còn được các nhà hoạch định đường lối, chính sách, triển khai thêm trong tương lai.
Việt Nam ngày nay rất cần những giải pháp có thực chất trong giai đoạn kiến tạo, đổi mới đợt hai, thoát ra khỏi khủng hoảng triền miên, sớm đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển bền vững, dân chủ, văn minh.
____
Bài viết ông Trương Tấn Sang đã được đăng ở nhiều báo trong nước, như báo Nhân Dân: Lịch sử giúp chúng ta hiểu về hiện tại, dự báo tương lai ; báo Thanh Niên; báo Dân Trí…
Nguyễn Đăng Hưng
8-1-2018
“Lịch sử giúp chúng ta hiểu về hiện tại, dự báo tương lai”
Hôm nay, Ông Trương Tấn Sang, cựu Ủy viên Bộ Chính trị, cựu Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam cho đăng trên báo Nhân Dân, Thanh Niên và Dân Trí một bài viết rất đáng được quan tâm.
Ông đề cập đến những vương triều chính thống của dân tộc Việt, thời Trần, thời Lê, với những suy ngẫm về lẽ thịnh suy trong lịch sử. Đặc biệt ông đề cao vai trò và hành động “phản biện” của những các tầng lớp nho sỹ các thời bấy giờ. Về cụ Chu Văn An, ông viết:
“Hơn 100 năm kể từ khi vị Hoàng đế đầu tiên của Trần triều, vào buổi sáng sớm cái ngày mà quan Tư nghiệp Quốc tử giám Chu An (Chu Văn An), bậc quốc sư dạy dỗ cho hai Hoàng đế Hiến Tông và Dụ Tông, phải chấm tay áo gạt nước mắt, treo mũ ở cửa Huyền Vũ rồi về quê dạy học, kinh thành Thăng Long vẫn vắng lặng. Tờ sớ mà ông liều thân xin chém đầu 7 tên gian thần đầu triều vẫn nằm im đâu đó trong mật viện hay trên long án… Đó cũng là cái ngày báo hiệu cho sự lung lay và sụp đổ của vương triều Trần từng một thời rực rỡ”.
Ông nhắc đến vị vua trí thức đời nhà Lê và lòng cung kính tin dùng kẻ sỹ:
“Triều Lê với những vị hoàng đế anh minh như Lê Thánh Tông, người lệnh cho danh sĩ Thân Nhân Trung soạn văn bia với câu ‘hiền tài là nguyên khí quốc gia’, đã dựa vào các nhân tài để tạo dựng hàng loạt những giá trị văn hiến truyền lại cho đời sau, đưa Đại Việt lên hàng cường quốc trong khu vực”.
Ông cũng trích dẫn và bình luận một cách xác đáng:
“Nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 – 1784) có tổng kết 5 nguy cơ dẫn đến quốc gia suy vong là: Trẻ không kính già, trò không trọng thầy, binh kiêu tướng thoái, tham nhũng tràn lan, sĩ phu ngoảnh mặt. Cả 5 điều ấy đều là những yếu tố bên trong. Dân tộc Việt Nam không bao giờ sợ giặc ngoại xâm, chỉ sợ những người cầm quyền không đủ dũng khí để tự sửa mình, để thực hành nghiêm khắc nội bộ”.
Khá lâu rồi ta mới thấy một nhân vật từng là Chủ Tịch nước, từng là thành viên cao cấp của Bộ Chính Trị đảng cộng sản Việt Nam đề đạt và suy ngẫm về chính sách hiện nay, nhằm soi sáng những bước đi chính trị tương lai, mà dựa trên lịch sử dân tộc truyền thống, nhất là đề cao vai trò của tầng lớp trí thức.
Đây là nét mới đáng ghi nhận, nhất là nó được đăng tải chính thức trên báo Nhân Dân! Sẽ lạc quan quá đáng nếu ta cho đây là bước ngoặt thể hiện xu hướng mới của Ban Tuyên giáo?
Riêng cá nhân tôi, tôi hoan nghênh tinh thần này, tinh thần dựa vào bài học lịch sử ngàn năm của dân tộc để tìm lối ra cho những ách tắc vô cùng rối rắm hiện nay.
Tôi sẽ hoan nghênh hơn nếu ông Trương Tấn Sang xác định rõ hơn những bài học này, đặc biệt cách đào tạo và sử dụng trí thức ngày nay ở Việt Nam… Thí dụ như ngày xưa các quan được tuyển lựa nghiêm túc qua các kỳ thi, mà giai cấp nông dân hay giai cấp quan quyền đều bình đẳng ghi danh ứng thí! Còn chúng ta, đã có một thời, dưới mái nhà xã hội chủ nghĩa vào đại học đã bị hạn chế vì lý lịch và ngày nay, việc xử dụng cán bộ không được chế tài nghiêm túc mà ngược lại, những thói quen cơ cấu thân hữu, bà con thân thuộc đã thành một thông lệ tràn lan từ cấp trung ương đến các cấp tỉnh, huyện, xã…
Tôi cũng sẽ hoan nghênh hơn nếu cựu Chủ tịch nước thấy được rằng thời xưa ta gọi là phong kiến, quyền tự do sáng tác là điều có thật mà thời nay phải học hỏi. Thời xưa không hề có cái “ban tuyên giáo”, các “cục biểu diễn”… ngăn cấm văn nghệ sỹ sáng tác, sinh hoạt theo xu hướng tự do. Ta còn nhớ vua Tự Đức tuy rất cay cú với nhân vật Từ Hải trong Truyện Kiều vì câu thơ: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Ngài đã không vì một câu thơ “khi quân” của Truyện Kiều mà ra lệnh đốt hết sách của Nguyễn Tiên Điền hay bỏ Đoạn trường Tân thanh vào cối giã để lấy giấy tái chế!
Ngoài ra, nếu lấy lịch sử dân tộc ra làm bài học cho hôm nay và ngày mai thì theo tôi, điều cốt lõi nhất là phải noi gương, là tinh thần quật cường dân tộc, truyền thống đoàn kết gắn bó giữa giới cầm quyền và người dân trong công cuộc tạo sức mạnh tổng hợp, chống xâm lược phương Bắc, dù kẻ thù có nhất thời hung hãn mạnh bạo đến bao nhiêu.
Đó là “Tuyên Ngôn Độc Lập” của Lý Thường Kiệt, đó là “Hịch Tướng Sỹ” của Trần Hưng Đạo, đó là Hội Nghị Diên Hồng, đó là “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi, đó là lời thề giữa ba quân của Hoàng Đế Quang Trung trước khi tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh.
Các vương triều Đại Việt, qua lời nói và việc làm, đã bảo vệ giang sơn đất nước, đã hun đúc cho giống nòi chúng ta lòng yêu nước thương dân, đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, vận dụng khí giới vô giá đó mà củng cố lực lượng, bảo vệ bờ cõi cho Đại Việt trường tồn qua lịch sử ngàn năm. Các vương triều đất Việt đi ngược lại lòng dân hay làm mất lòng dân đều tạo điều kiện cho phương Bắc thôn tính, nước nhà bước vào vòng nô lệ!
Hơn bao giờ hết, ngày nay trước hiểm họa lãnh thổ, lãnh hải bị xâm phạm, trước nguy cơ Biển Đông bị chiếm đoạt, chính quyền nên ghi nhận bài học này.
Cái nguy hiểm trước mắt là những sai lầm chính trị, những biện pháp đàn áp đáng tiếc, phát sinh ra đối kháng giữa dân và nhà cầm quyền: Đồng Tâm, Formosa, BOT Cai Lậy, trưng thu đất dai làm dự án…
Mong thay ý tưởng dựa vào lịch sử dân tộc sẽ không dừng lại ở đây mà còn được các nhà hoạch định đường lối, chính sách, triển khai thêm trong tương lai.
Việt Nam ngày nay rất cần những giải pháp có thực chất trong giai đoạn kiến tạo, đổi mới đợt hai, thoát ra khỏi khủng hoảng triền miên, sớm đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển bền vững, dân chủ, văn minh.
____
Bài viết ông Trương Tấn Sang đã được đăng ở nhiều báo trong nước, như báo Nhân Dân: