Tranh Chấp Trên Biển Đông Á
Biển Đông Á bao gồm Biển Đông Trung Hoa (ECS) và Biển Nam Trung Hoa (SCS) được Bắc Kinh coi như thuộc về Trung Cộng. Sự sai lầm cố ý này được Bắc Kinh duy trì như một lợi thế chủ quyền.
Giới hàng hải Tây Phương từ ngàn xưa thường lấy hướng đến để chỉ địa danh chứ không hề xác định chủ quyền quốc gia. Ấn Độ Dương không thuộc về Ấn Độ. Vịnh Ba Tư không thuộc về Iran. Vịnh Mễ Tây Cơ không thuộc về Mễ Tây Cơ…
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) được
Hội nghị về Luật biển Liên Hiệp Quốc kéo dài từ 1973 đến 1982 và bổ
sung thêm để có hiệu lực từ năm 1994. Tính đến nay đã có 168 bên tham
gia, 157 bên ký, 60 quốc gia phê chuẩn. Vì lý do an ninh và kinh tế mà
Hoa Kỳ không tham gia do những luật lệ đều phù hợp với “tập tục hàng hải
quốc tế” nên chấp nhận thi hành nghiêm chỉnh UNCLOS.
Khi
mạnh, Trung Hoa tung quân xâm lấn lân bang và mở rộng giao thương hàng
hải. Lúc yếu như thời Từ Hy Thái Hậu và Mao Trạch Đông bế môn toả cảng.
Tập Cận Bình và Biển Đông Á
Trong
chuyến công du Đức Quốc hồi tháng 4/2014, Chủ tịch Tập Cận Bình được Tể
tướng Đức, Angela Merkel tặng cho tấm bản đồ China Proper (Trung Cộng
Đích Thực), do nhà bản đồ học người Pháp, Jean-Baptiste Bourguignon
d’Anville vẽ được một nhà xuất bản ở Đức xuất bản năm 1735. Tây Tạng,
Tân Cương, Mãn Châu không thuộc lãnh thổ Trung Cộng, các đảo Hải Nam và
Đài Loan được tô màu khác với những vùng thuộc lãnh thổ Trung Cộng.
Điều
này đã bác bỏ hoàn toàn luận điểm Biển Đông Trung Hoa (ECS) và Biển Nam
Trung Hoa (SCS) thuộc “quyền lịch sử” của Trung Cộng.
Tiến
bộ về sức mạnh trên biển (Hải Quân, Hải Cảnh, Hải Dân) nên Bắc Kinh
tiếp tục bành trướng thế lực trên ESC và SCS nhằm xác định “quyền lịch
sử” trên Biển Đông Trung Hoa và Biển Nam Trung Hoa bất chấp Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982.
Tập Cận Bình và Biển Đông Trung Hoa
Bắc
Kinh khó lộng hành trên ECS vì gặp sức mạnh tổng hợp của Hải Quân Nhật
Bản, Đại Hàn và Đệ Thất Hạm đội Mỹ trú đóng thường trực tại Hải cảng
Yokosuka của Nhật Bản.
Đại
Hàn, Nhật Bản không hề mất quyền tự chủ khi kết tình đồng minh với Hoa
Kỳ suốt từ năm 1945. Họ có kỳ kèo bớt một thêm hai về chi phí đóng quân
của Mỹ mà cuối cùng vẫn thỏa hiệp và tăng cường thêm sự phối hợp toàn
diện. Mỗi khi Bắc Kinh và Đài Loan đòi chủ quyền nhóm đảo Senkaku (Đảo
Điếu Ngư) thì Hoa Kỳ viện dẫn điều 5 Hiệp ước Phòng thủ Chung để tham
chiến nếu Nhật Bản bị tấn công. Có 47,000 lính Mỹ đóng quân thường trực ở
Nhật Bản và 28,500 ở Đại Hàn.
Khi
phe tả lên cầm quyền, Chính quyền Đại Hàn thường mở lại hồ sơ “Phụ nữ
Giải sầu” do quân đội Nhật Bản tạo ra để chống Tokyo. Dù cho năm 2015,
Tokyo và Hán Thành đã ký thỏa thuận chấm dứt vấn đề này khi Nhật Bản
đồng ý “bồi thường 9 triệu USD và lời xin lỗi chân thành tới các nạn
nhân”.
Đứng
trước viễn ảnh “Hoa Kỳ Xã hội Chủ nghĩa Dân chủ” manh nha tại Hoa Thịnh
Đốn buộc giới lãnh đạo Nhật Bản và Đại Hàn phải dẹp tình riêng mà đoàn
kết để bảo vệ chủ quyền quốc gia trước mưu đồ nham hiểm của Tập Cận Bình
và tình trạng ngớ ngẩn của Joe Biden.
Tổng
thống Đại Hàn Dân Quốc, Moon Jae-in sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào tháng
5-2022 tạo điều kiện cho phe hữu cầm quyền hợp tác chặt chẽ hơn với Hoa
Kỳ và Nhật Bản cùng bảo vệ Đài Loan và bao vây Trung Cộng.
Nhật
Bản và Đại Hàn đang nỗ lực xây dựng sức mạnh quân sự hiện đại để cùng
với Hoa Kỳ bảo vệ Đài Loan, một mắt xích an ninh trong Chuỗi đảo số 1
không thể thiếu tại Biển Đông Trung Hoa.
Hồi
tháng 7-2020, Hoa Kỳ đồng ý bán cho Nhật Bản 105 tiêm kích cơ tàng hình
F-35 gồm 63 chiếc F-35A cất cánh từ đường băng và 42 chiếc F-35B cất
cánh như trực thăng. Như thế, Nhật Bản có số lượng F-35 đứng hạng nhì
thế giới, sau Hoa Kỳ. Hai hàng không mẫu hạm của Nhật Bản đang diễn ra
cuộc thực tập của Tiêm kích cơ Tàng hình F-35B.
Đại
Hàn cũng muốn mua F-35 của Mỹ, đồng thời chuẩn bị tự đóng Hàng không
mẫu hạm và tiềm thuỷ đỉnh diesel điện ngày càng lớn và hiện đại trong
khi vẫn âm thầm nguyên cứu việc chế tạo tiềm thuỷ đỉnh nguyên tử.
Bộ
ba Nhật Bản-Hoa Kỳ-Đại Hàn là “con át chủ bài” trên Biển Đông Trung Hoa
đóng vai trò quyết định tình hình khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương Tự do
và Mở rộng.
Tập Cận Bình và Biển Nam Trung Hoa
Năm
1948, Trung Hoa Dân Quốc (thời Tưởng Giới Thạch) đã công bố Đường 9
Đoạn trên SCS kéo dài từ phía Đông Đài Loan tới Cụm Bãi cạn Luconia của
Mã Lai Á. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Cộng) nối tiếp tuyên bố chủ
quyền.
Năm
2009, Trung Cộng gửi yêu sách chủ quyền Thềm lục địa lên Uỷ ban Thềm
lục địa Liên Hiệp Quốc đã bị chất vấn: (1) Không cung cấp lý do đòi chủ
quyền Đường 9 Đoạn. (2) Bản đồ đính kèm không phù hợp với nguyên tắc vẽ
bản đồ quốc tế. Bắc Kinh không phúc đáp mà tự coi như lẽ đương nhiên,
bất chấp UNCLOS.
Toà
án Trọng tài Thường trực về Luật Biển (PCA) được Công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) tạo ra đã công bố Phán quyết ngày
12/07/2016 trong vụ Phi Luật Tân kiện Trung Cộng về tranh chấp
quyền-chủ-quyền trên Biển Nam Trung Hoa.
Toà
phán: không có cơ sở pháp lý cho việc Trung Cộng đòi hỏi “quyền lịch
sử” trên những tài nguyên tại các vùng biển nằm trong bản đồ “Đường 9
Đoạn” ở Biển Nam Trung Hoa.
Mặc
dù vậy, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vẫn không đưa ra Tuyên
bố chung lên án Trung Cộng vi phạm Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển
năm 1982 tạo điều kiện cho Bắc Kinh ngày càng lộng hành, vô thiên, vô
pháp trên Biển Nam Trung Hoa.
ASEAN
là một tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của các quốc gia
trong khu vực Đông Nam Á. Tổ chức này được thành lập ngày 8 tháng 8 năm
1967 với các thành viên đầu tiên là Philippines, Thái Lan, Indonesia,
Malaysia, Singapore nhằm biểu hiện tinh thần đoàn kết giữa các nước
trong cùng khu vực với nhau. Đồng thời, hợp tác chống tình trạng bạo
động, bất ổn tại các nước thành viên và bảo vệ, chấn hưng Chủ nghĩa Quốc
gia. Sau Hội nghị Bali năm 1976, ASEAN xúc tiến chương trình cộng tác
kinh tế mà các nỗ lực đều đi đến bế tắc vào giữa thập niên 1980. Phải
đợi đến năm 1991, khi Thái Lan đề xướng thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN mới hình thành. Hàng năm, các nước thành viên đều luân phiên tổ
chức các cuộc hội họp chính thức để tăng cường hợp tác.
Tin
vào tinh thần hợp tác trong ASEAN nên 5 thành viên chủ cốt quyết định
tiếp nhận Brunei (1984). Sau khi Liên Xô sụp đổ 1991 và Chủ nghĩa Cộng
sản bị ném vào giỏ rác lịch sử thì ASEAN tiếp nhận thêm Việt Nam (1995),
Lào (1997), Cambodia và Myanmar (1997).
Lúc
ASEAN còn 5 thành viên chủ chốt đã tham gia cùng cộng đồng quốc tế ngăn
chặn Khmer Đỏ và Chủ nghĩa Cộng sản bành trướng tới ASEAN gây bao nhiêu
tang tóc nên hy vọng sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia trong vùng chia
tay với Chủ nghĩa Cộng sản mà hoà nhập vào nếp sống tự do dân chủ.
Tiếc
thay, do quá cao ngạo làm cho ASEAN với 5 thành viên đã lầm khi thu
nhận Việt Nam, Lào, Cambodia và Myanmar sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991.
Thứ
nhất, ASEAN đã chọn mô hình Liên hiệp Châu Âu (EU) sinh hoạt trong tinh
thần “Xã hội Chủ nghĩa Dân chủ”, nơi ươm mầm và xuất phát của Chủ nghĩa
Cộng sản. Châu Âu thiếu tinh thần quốc gia dân tộc nên sau khi được Hoa
Kỳ và Anh Quốc giải phóng khỏi Chủ nghĩa Quốc Xã thì hình thành EU bao
gồm các nước Tây Âu, Bắc Âu, Nam Âu.
Sau
khi Đông và Trung Âu vùng lên lật đổ chế độ Cộng sản được EU thâu nhận
để có 27 quốc gia thành viên như bây giờ. Cho đến nay, EU vẫn sinh hoạt
dưới chiếc dù che quân sự của Hoa Kỳ vì không đủ sức hoặc chẳng muốn tốn
kém do quá ích kỷ.
Đa
số các quốc gia ASEAN từng là thuộc địa hoặc nhượng địa của các Đế quốc
Châu Âu nên tiêm nhiễm lề thói sinh hoạt Châu Âu, đặc biệt đối với giới
khoa bảng, những cột trụ quốc gia. Họ thiếu tinh thần bức phá nên cứ
đường cũ mà đi.
Ngoại
trừ Tân Gia Ba dám làm cuộc cách mạng dân tộc thực sự như Hoa Kỳ đã tin
vào sức mạnh vô địch của công dân, đồng thời đặt nhiệm vụ phục dịch
công dân lên hàng tối thượng. Tân Gia Ba là quốc gia phát triển, ổn định
và an ninh nhất trong ASEAN nhờ chính sách ngoại giao linh động và hữu
hiệu.
Thứ
hai, sau khi Việt Nam, Lào, Cambodia gia nhập ASEAN mà vẫn duy trì chế
độ Cộng sản, gần gũi và chịu ảnh hưởng của Trung Cộng ngày càng sâu đậm.
Quân đội Myanmar lệ thuộc vào Trung Cộng nên rất trung thành với Bắc
Kinh.
Mô
hình đồng thuận làm cho mọi quyết định của ASEAN bị thui chột vì khi
Bắc Kinh không hài lòng thì sẽ có một thành viên của tổ chức này chống
đối làm cho kế hoạch soạn thảo công phu bị sụp đổ. Bắc Kinh dễ dàng
vô-hiệu-hoá các quyết định của ASEAN. Vì thế, ASEAN muốn tìm sự đồng
thuận giữa 10 thành viên cũng khó như hái sao trên trời bất chấp vấn đề
quan trọng hoặc thường nhật.
Vụ
đảo chính quân sự tại Myanmar đã đủ làm cho ASEAN thức tỉnh chưa? Hình
như Cambodia của Thủ tướng Hun Sen cũng đang manh nha thoát khỏi sự ràng
buộc của ASEAN.
Gần
20 năm trôi qua mà Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Nam Trung Hoa (COC) vẫn
chưa được ký kết vì: (1) Các nước trong ASEAN chưa đồng ý theo sự sắp
đặt của Bắc Kinh. (2) Trung Cộng và các quốc gia duyên hải Đông Nam Á
không dựa vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 để phân định
chủ quyền và quyền-chủ-quyền và quyền-tài-phán nên vẫn bế tắc. (3) Bắc
Kinh muốn duy trì hiện trạng để có thể hành xử tuỳ thích trên SCS nên
gạt bỏ các yếu tố từ bên ngoài.
Phần
lớn sức mạnh trên biển của Trung Cộng dồn vào Biển Nam Trung Hoa để xây
dựng thành chiếc ao nhà vì các lý do: (1) Cưỡng đoạt toàn bộ tài nguyên
ở SCS. (2) Thiết lập chủ quyền Trung Cộng tại SCS. (3) Cưỡng đoạt
quyền-chủ-quyền và quyền-tài-phán của các quốc gia duyên hải. (4) Thiết
lập nơi thao dượt cho Hải quân Trung Cộng.
Các
quốc gia duyên hải Đông Nam Á như Việt Nam, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân,
Mã Lai Á, Brunei, Indonesia đều chịu áp lực từ Trung Cộng. Nặng nề nhất
là Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã Lai Á. Brunei nhỏ mà khá an toàn nhờ được
Anh Quốc chống lưng. Indonesia chỉ một phần nhỏ dính tới Đường 9 Đoạn
vẫn bị Bắc Kinh đe doạ. Tân Gia Ba ở xa Đường 9 Đoạn nhất mà vẫn làm
đồng minh không hiệp ước với Hoa Kỳ nên Bắc Kinh không dám động tới.
Cộng
sản Việt Nam có 96 triệu dân, lợi tức bình quân đầu người 3,500USD,
cùng chung ý thức hệ với Trung Cộng nên chỉ chống đối bằng mồm để kiếm
viện trợ từ Tây Phương, Nhật Bản và gây tí áp lực lên Bắc Kinh làm màu
mè. Brunei có 460,000 dân với lợi tức bình quân đầu người 30,000USD. Phi
Luật Tân có 109 triệu dân, lợi tức trung bình đầu người 3,600USD. Mã
lai Á có 33 triệu dân, lợi tức đầu người 10,000USD, Tân Gia Ba có 5
triệu dân, lợi tức bình quân 64,000USD.
Mục
tiêu và chủ trương của Bắc Kinh trên SCS rất rõ ràng: (1) Thống trị
Đông Nam Á. (2) Bắt buộc các quốc gia Đông Nam Á sản xuất hàng hoá cho
Chuỗi Cung ứng Toàn cầu của Trung Cộng qua Sáng kiến Đường và Lộ (BRI)
trên biển. (4) Thiết lập cứ điểm huấn luyện và xuất phát của Hải Quân
Trung Cộng. (5) Luật An toàn Giao thông Hàng hải Sửa đổi của Trung Cộng
có hiệu lực từ 1 tháng 9 năm 2021 buộc chiến hạm, tiềm thuỷ đỉnh, tàu
chở vật liệu độc hại đi vào SCS phải báo cáo chi tiết liên quan đến lộ
trình, cảng cuối cùng, hàng hóa, cảng ghé ngang. Không tuân hành sẽ bị
trục xuất. (6) Bắc Kinh áp dụng các biện pháp ngày càng cứng rắn và
quyết liệt hơn nhằm chuẩn bị thiết lập Vùng Nhận dạng Phòng không (ADIZ)
trên biển Nam Trung Hoa càng sớm càng tốt.
Tại
Hội nghị Thượng đỉnh hôm 22/11/2021, Tập Cận Bình nói với 10 quốc gia
Đông Nam Á “Trung Cộng sẽ không bắt nạt các nước nhỏ hơn”. Nhưng, Tổng
thống Phi Luật Tân, Rodrigo Duterte, từng thán phục và vo ve bên cạnh
Tập Cận Bình, đã hình ảnh 3 chiếc Hải Cảnh của Bắc Kinh đã xịt vòi rồng
vào hai chiếc tàu nhỏ chở tiếp tế cho một tiểu đội Thuỷ quân Lục chiến
trấn đóng trên chiếc Dương vận hạm bị đánh chìm ở Bãi Cỏ Rong (Second
Thomas Shoal) để xác lập chủ quyền. Chuyến tiếp tế đành huỷ bỏ.
Hồi
tháng 3/2021, Bắc Kinh đã điều động 200 tàu Dân quân Biển vào khu Bãi
Ba Đầu (Whitsun Reef), đến tháng 5/2021 lại đưa 287 chiếc tới nên bị
Manila tố cáo.
Bắc
Kinh thường xuyên quấy nhiễu và ngăn cản các quốc gia duyên hải Đông
Nam khai thác tài nguyên thiên nhiên trong Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ)
và các ngư trường truyền thống như Bãi cạn Scarborough của Phi Luật Tân
và Hoàng Sa của Việt Nam khiến cho ngư dân lao đao. Thường xuyên quấy
rối buộc các công ty ngoại quốc phải từ chối hợp tác khai thác dầu khí
với các quốc gia duyên hải Đông Nam Á.
Tranh
chấp trên Biển Nam Trung Hoa ngày càng leo thang, không có điểm dừng vì
tham vọng vô bờ của Trung Cộng: (1) Khi Trung Cộng chưa đủ sức tự vệ
nên kéo theo nhiều nước nhỏ và yếu trên thế giới nâng hải phận quốc gia
từ 3 lên 12 hải lý trong lúc soạn thảo UNCLOS (1958 -1982). (2) Lúc đã
đủ sức, Bắc Kinh coi UNCLOS thuộc về quá khứ mà bảo vệ chủ quyền bằng
“quyền lịch sử” do Thủ tướng Chu Ân Lai tuyên bố ngày 15/8/1951 đã chính
thức đưa yêu sách đòi toàn bộ “chủ quyền” Biển Đông. (3) Sự yếu hèn của
các quốc gia duyên hải Đông Nam Á (Philippines, Việt Nam, Brunei, Mã
Lai Á. Indonesia, Tân Gia Ba) đã không khai thác và áp dụng Phán quyết
ngày 12/7/2016 của Toà án Trọng tài Thường trực về Luật Biển (PCA) giúp
cho Bắc Kinh điều kiện phong toả trên SCS. (4) Tình hình SCS sẽ ổn định
khi các quốc gia trong khu vực áp dụng triệt để UNCLOS mà xác định vùng
lãnh hải hợp pháp và vùng chống lấn. Từ đó, chấm dứt tranh chấp ranh
giới và mở đường hợp tác khai thác chung tài nguyên thiên nhiên có trật
tự và bảo vệ nguồn tài sản quý giá. (5) Đông Nam Á phải học kinh nghiệm
của Nhật Bản và Đại Hàn đã ổn định, và phát triển thần kỳ nhờ kết tình
đồng minh khắn khít với Hoa Kỳ, khắc tinh của “Chủ nghĩa Bành trướng Bá
quyền Trung Cộng”. (6) Tự ái dân tộc của các nhược tiểu Đông Nam Á đang
giúp Trung Cộng dùng bàn tay sắt bọc nhung sẽ đưa ASEAN thành thuộc địa
như Tây Tạng, Tân Cương.
Quan hệ Joe Biden và Tập Cận Bình
Lần
đầu tiên, sau 10 tháng trở thành Tổng thống Hoa Kỳ thứ 46, Joe Biden
mới gặp qua kênh truyền hình với Chủ tịch Tập Cận Bình và mong mỏi được
giáp mặt trong tương lai gần. Cuộc trao đổi kéo dài gần 4 giờ đồng hồ mà
các báo Mỹ từ phe hữu tới tả đều có chung nhận định “Thượng đỉnh
Biden-Tập sáng tạo nhiều từ ngữ mới mà chẳng có ích gì nhiều”.
Biden
nói Trung Cộng và Hoa Kỳ là cường quốc có trách nhiệm với dân tộc và
quốc tế nên bảo đảm cạnh tranh mà không bị đẩy vào xung đột, dù cố ý
hoặc vô tình.
Tập
phát biểu: Mỗi người chúng ta hãy điều hành tốt công việc “đối nội của
mình”, đồng thời gánh vác những trách nhiệm quốc tế và cùng nhau nỗ lực
vì mục tiêu cao cả là hòa bình và phát triển thế giới.
Sang
phần thảo luận, Biden đề cập tới thỏa thuận giao thương “Giai đoạn Một”
mà Tập và Trump đã đạt được. Trung Cộng cam kết mua 200 tỷ USD hàng hóa
của Mỹ mỗi năm, để Hoa Kỳ không tăng thuế với một số hàng Mỹ nhập từ
Trung Cộng. Nhưng, Bắc Kinh mới thực hiện 58% nên Biden chưa giảm lệnh
trừng phạt kinh tế do Trump ban hành. Tập làm ngơ và khuyên Biden “đừng
chính-trị-hoá vấn đề thương mại”.
Biden nêu vấn đề Tân Cương, Hồng Kông, Tây Tạng. Tập nhắc “Mỹ đừng can thiệp vào vấn đề nội bộ của Trung Cộng”.
Biden
nhắc lại tầm quan trọng của tự do và an ninh hàng hải đối với sự thịnh
vượng của khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương. Tập cảnh cáo “Hoa Kỳ tăng cường
Hải quân ở Tây Thái Bình Dương là khởi động Chiến Tranh Lạnh”.
Dù
công nhận “Chính sách One China” nhưng, Biden phản đối Trung Cộng dùng
biện pháp quân sự với Đài Loan. Tập đốp chát “Đại Lục kiên nhẫn thống
nhất hòa bình với Đài Loan, nhưng, sẽ hành động quyết liệt nếu các cường
quốc vượt lằn ranh đỏ”. Rồi cao giọng “Nếu Mỹ dùng Đài Loan để kiềm chế
Trung Cộng, giống như chơi với lửa, sẽ bị thiêu cháy”. (Theo bản ghi
của Trung Cộng).
Dư
luận ở Hoa Lục ca tụng và hãnh diện vì Chủ tịch Tập Cận Bình đã làm chủ
hoàn toàn trong Thượng đỉnh truyền hình đầu tiên Tập-Biden.
Tập
Cận Bình không quan tâm gì tới Thỏa thuận Quốc phòng AUKUS giữa Úc Đại
Lợi, Hoa Kỳ và Anh Cát Lợi bất chấp những bàn luận xôn xao trên trường
quốc tế.
Sự
thật, AUKUS bắt nguồn từ thời Tổng thống Donald Trump nhằm tăng cường
lực lượng tiềm thuỷ đỉnh nguyên tử trên Biển Đông Á vì: (1) Tổng thống
Pháp, Emmanuel Macron ôm tham vọng xây dựng Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương mà không cần hợp tác với Hoa Kỳ dù biết rõ Pháp không đủ năng
lực đối đầu với Trung Cộng. Macron đã quên bài học thất bại của Tổng
thống Charles de Gaulle thời Chiến tranh Lạnh. (2) Hoa Kỳ-Úc Đại Lợi-Anh
Quốc từng hợp tác chặt chẽ tạo ra chiến thắng trong hai trận Đệ nhất và
Đệ nhị Thế chiến. Trump ủng hộ Brexit để Anh rút chân ra khỏi Liên Hiệp
Châu Âu (EU) mà dồn nỗ lực cùng Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi đương đầu với
Trung Cộng. (3) Canberra quyết định huỷ hợp đồng đóng tiềm thuỷ đỉnh
diesel với Pháp để đóng loại nguyên tử đã được công khai khi Úc hứa sẽ
bồi thường thích đáng. (4) Tiềm thủy đỉnh nguyên tử mới đáp ứng được nhu
cầu chiến tranh tương lai.
Biden trước trận chiến kinh tế với Tập
Đương
cự với một tên ma đầu cộng sản như Tập Cận Bình với chủ trương chiến
tranh tổng lực khó hơn đối phó với Mao Trạch Đông giàu kinh nghiệm du
kích chiến. Mao dựa vào Hoa Kỳ để đối phó với Liên Xô. Tập hợp tác với
Putin, một cựu trung tá tình báo của KGB, đối phó với Hoa Kỳ từ Trung
Đông tới Biển Đông Á, từ kinh tế tới kỹ thuật, từ quân sự tới gián điệp,
từ văn hoá tới không gian.
Tổng
thống Donald Trump phối hợp với Ả Rập Saudi để làm thay đổi vị thế cầm
cân nảy mực về giá dầu hỏa trên thế giới do Tổ chức Các quốc gia Xuất
cảng Dầu hoả (OPEC) kiểm soát thị trường dầu thô toàn cầu. OPEC gồm có
13 quốc gia: Ả Rập Saudi, Iran, Iraq, Venezuela, Kuwait, Libya, Angola,
Equatorial Guinea, Gabon, Nigeria, the Republic of the Congo, the United
Arab Emirates, Venezuela. Nhiều quốc gia sản xuất dầu thô không tham
gia OPEC như Nga vẫn hưởng lợi từ giá dầu thô 120 USD/thùng.
Trump
cho phép người Mỹ khai thác các giếng dầu hỏa trên biển, chấp thuận kế
hoạch khai thác dầu đá phiến thành khí tự nhiên đã làm giá dầu thô hạ
xuống 40 USD/thùng làm cho nhiều quốc gia trong OPEC lao đao. Trump cho
phép Gia Nã Đại xuất cảng dầu thô theo ống dẫn tới các nhà máy lọc dầu
của Mỹ ở vùng Vịnh Mễ Tây Cơ mà không bị áp lực từ Trung Cộng. Hoa Kỳ
trở thành nhà sản xuất khí tự nhiên số 1 trên thế giới. Năm 2020, Liên
Hiệp Quốc khen Hoa Kỳ là quốc gia xả khí thải ít nhất so với Trung Cộng,
Ấn Độ, Nga.
Vừa
mới ngồi vào ghế số một trong Toà Bạch Ốc, Tổng thống ký Lệnh hành pháp
cấm khai thác dầu hoả trong vùng thuộc quyền hạn Liên bang; ngưng
chuyển dầu từ Gia Nã Đại tới Vùng Vịnh. Lập tức giá dầu thô trên thế
giới tăng vọt đến nay đã tới mức 83 USD/thùng dầu tốt. Cả thế giới lao
đao chưa biết tương lai sẽ về đâu. Biden viết thư yêu cầu OPEC và một số
nước khác bán dầu hoả cho Hoa Kỳ và tăng lượng sản xuất. Các nhà phân
tích quốc tế cho rằng giá dầu thô sẽ vượt quá 100 USD/thùng vào năm
2022.
OPEC
bị Trump trừng phạt bằng biện pháp kinh tế đành phải thoi thóp. Biden
đã cống hiến cho OPEC một cơ hội trả thù. Biden quyết định sẽ mở “Kho Dự
trữ Chiến lược” tung 50 triệu thùng dầu ra thị trường cùng lúc với
Trung Cộng, Ấn Độ, Nhật Bản, Anh Quốc, Đại Hàn (khoảng 50 triệu thùng
chưa bảo đảm). Tổng số 100 triệu thùng chỉ đủ cho thế giới tiêu thụ
trong một đôi ngày..
Nga
cam kết sẽ bán khí đốt cho Trung Cộng để Công xưởng Thế giới làm chủ
Chuỗi cung ứng Toàn cầu. Putin sẽ dùng khí đốt để hành hạ Liên Hiệp Châu
Âu trong mùa rét mướt mà đổi lấy lợi thế chiến lược lâu dài.
Hoa
Kỳ và các quốc gia khác sẽ lâm vào trường hợp bán rẻ, mua đắt trong khi
OPEC sẽ không giờ thỏa mãn yêu cầu tăng sản lượng của Biden. Họ sẽ hành
động vì quyền lợi riêng tư mà không màng tới phúc lợi của nhân loại như
đẩy giá dầu thô leo thang dài dài. Người mới học vỡ lòng về môn kinh tế
cũng không hành động như Biden.
Joe
Biden đã học được từ sư phụ Barack Obama nên cứ phun những lời hoa mỹ,
chải chuốt làm êm tai người nghe những hậu quả tai hại cho nước Mỹ và
thế giới. Cách hành xử vô-trách-nhiệm của Obama-Biden đã lưu lại những
hậu quả vô cùng tai hại cho Hoa Kỳ và nhân loại. Loại người này còn phá
hoại nhiều hơn một chính trị gia độc tài, sắt máu.
Công dân Mỹ và toàn thế giới hãy cảnh giác cao độ đối với giới chính trị gia chuyên bán nước bọt.
Đại-Dương, 1/12/2021
Source: Internet