Tinh Thần Dân Tộc Và Lòng Yêu Nước Của Người Việt Nam – Thanh Thủy
Tham luận 139
I.- Hiện tượng xã hội
Thời gia gần đây thỉnh thoảng trên các diễn đàn và Internet thường xuất hiện những bài viết đả kích người dân trong nước, nhứt là giới trẻ có thái độ vô cảm, chỉ biết lo ăn chơi mà không nghĩ gì đến vận mạng của đất nước sắp bị mất vào tay bọn Tàu Cộng xâm lược.
Người ta còn so sánh, trong khi tuổi trẻ Hồng Kông đang liều mình tranh đấu cho đất nước của họ, không chùn bước trước cường quyền và bạo lực, còn tuổi trẻ Việt Nam hàng ngày chỉ biết tụ tập nhau rượu chè ở những nơi công cộng, ở những quán vĩa hè, rồi cãi vã, đánh lộn, say rượu lái xe, cướp giựt, trộm xe, thậm chí còn gây ra những thảm cảnh tồi tệ gây chết người, những cảnh tượng thấy người bị tai nạn trên đường phố mà người qua lại rất thờ ơ, bỏ mặc cho người bị tai nạn, dù là một cụ già, một em bé hay một cô gái nằm đó cho đến chết như không có việc gì xãy ra trong khi kéo nhau ra đường thoát y táo bạo, ồn ào như lễ hội để chào đón những đội banh đi thi đấu trở về.
Nếu cho tất cả những điều đó là những tệ trạng xã hội băng hoại trầm trọng, làm sụp đổ nền đạo đức truyền thống, sụp đổ nền văn hóa dân tộc Việt Nam thì quả không sai, vì bạo quyền Việt cộng muốn tạo ra một xã hội như vậy. Đó là căn nguyên của mọi vấn đề, nhưng có lẽ chúng ta cần phải suy xét một cách khách quan hơn về chiều sâu của hiện tượng, có phải thật sự tinh thần dân tộc anh hùng của chúng ta đã hoàn toàn bị sụp đổ dưới chế độ cai trị của Chủ nghĩa xã hội chăng?
II.- Những giai đoạn lịch sử đã qua
1.- Quốc nội trong giai đoạn 10 năm đầu từ sau ngày 30/4/1975: Sau khi dùng bạo lực cưỡng chiếm được Miền Nam, Bọn Cộng sản Hà Nội liền đóng chặt bức màn sắt trên toàn lãnh thổ Việt Nam, nội bất xuất và ngoại bất nhập. Mọi thông tin liên lạc trừ trong nước ra ngoài và ngược lại đều bị chấm dứt.
Những người chạy thoát được ra hải ngoại trong thời gian gần ngày 30/4/1975 cho đến năm 1985, tức là 10 năm sau, hầu như đều biệt tăm, không thể liên lạc để cho những người thân còn ở lại biết tin tức và tình trạng ra sao. Trong khoảng thời gian đó, những gia đình có thân nhân đã ra đi xem như tuyệt vọng, không còn hy vọng gì có thể còn gặp lại những người thân của mình nữa.
Trong khi đó bọn Việt cộng vô cùng tàn bạo, ra lịnh ngăn sông, cấm chợ, bắt tất cả quân, dân ,cán chính của Việt Nam Cộng Hòa nhốt vào tù không biết được ngày về, đày ải đi lao động khổ sai ở những vùng núi non hiểm trở, những vùng rừng thiêng nước độc từ Miền Nam cho đến tận Miền Việt Bắc, đồng thời tìm mọi cách để chiếm đoạt tất cả tài sản, nhà cửa, ruộng vườn của tất cả mọi người dân kễ cả chùa chiền và đất đai của mọi tôn giáo. Bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chúng không cần phải che giấu nữa và lộ diện ngay bản chất của một tập đoàn chuyên đi cướp của, giết người.
Mấy lần đổi tiền và đánh tư sản liên tục để cướp vàng bạc và tịch thâu tất cả mọi tài sản như ngân hàng, nhà máy và những cơ sở sản xuất, kễ cả những nhà thuốc Tây, nhà thuốc nam, nhà thuốc bắc, tiệm buôn, bất kễ nhỏ hay lớn của mọi tầng lớp người để nhanh chóng hoàn thành chánh sách bần cùng hóa nhân dân, một chánh sách căn bản của Chủ Nghĩa Xã Hội, nói cho rõ hơn là của chế độ Cộng sản, để biến tất cả mọi người dân Miền Nam Việt Nam đang có cuộc sống sung túc, hạnh phúc gia đình bổng chốc trở thành trắng tay, vô gia cư, không có việc làm, cha xa con, vợ xa chồng, không ai nương tựa được ai, phải sống vất vả, đói khát, lang thang đi ăn xin từng đàn khắp đầu đường xó chợ.
Tóm lược tình cảnh như thế để chúng ta thấy lại và không bao giờ được quên cuộc sống của nhân dân chúng ta trong thời kỳ đó cùng cực và đau khổ như thế nào và tự đặt mình sống vào thời điểm đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, để có thể thấy được phần nào mầm móng của một con bịnh trầm kha hiện tại. cần phải được thông cảm để chữa trị hơn là cứ ngồi phiền trách vô ích.
Trong hoàn cảnh mà cuộc sống của tất cả mọi người dân phải chịu đau đớn cùng cực, đói nghèo, hoàn toàn không còn chút hy vọng gì có thể được sáng sủa hơn, và hàng ngày chỉ được nghe tin bạo quyền khủng bố, nay xử bắn người nầy, mai nghe tòa án của chúng tử hình người kia để trấn áp mọi hình thức phản kháng, dù chỉ bằng một, hai lời nói.
Tạo ra cảnh trạng xã hội thê thảm như vậy, bạo quyền vẫn không làm tê liệt được lòng yêu nước của người dân Miền Nam, nhứt là giới trẻ vẫn nổi lên chống lại bạo quyền, và tìm đường cứu nước.
Theo tài liệu cũ đăng tải trên Diễn Đàn Việt Nam (không thấy ghi nơi phát hành) có ghi lại những biến cố thật sự đã xãy ra như sau:
– Tháng 11/1975, Miền Nam Việt Nam ra đời 3 Mặt Trận Kháng Chiến mang tên:
Lực Lượng Bảo Quốc, Đệ Tam Cộng Hòa và Mặt Trận Đoàn Kết Dân Tộc Việt Nam.
– Tháng12/1975 tổ chức Phục Quốc chạm súng với Việt cộng tại nhà thờ Vinh Sơn, đường Trần Quốc Toản Sài Gòn, nhưng vì thế cô nên thất bại và đến cuối năm 1978, chiến sĩ Nguyễn Việt Hưng thủ lãnh của tổ chức nầy bị Việt cộng đem ra tử hình tại sân bắn Thủ Đức.
– Ngày 23/3/1976: Các chiến sĩ kháng chiến thuộc tổ chức Đệ Tam Cộng Hòa đặt chất nổ phá vỡ con rùa tại công trường Duy Tân, Saigon.
– Ngày 23-26/3/1976: Trí thức, văn nghệ sĩ, ký giả bị bắt hàng loạt.
– Năm 1977: Giám mục Nguyễn Kim Điền, địa phận Huế, đả kích chính sách đàn áp tôn giáo của Việt Cộng, ngay tại Đại hội Mặt Trận Tổ Quốc, Huế.
– Năm 1977: Bạch thư số 1 và số 2 của Phật giáo chống chế độ được dán đầy các ngôi chùa ở Saigon. Một số lãnh tụ Phật giáo bị bắt.
– Ngày 19.3.1977: Nổ kho đạn Long Bình
– Từ tháng 7/76 – 4/77: Lần lượt ra đời các tổ chức kháng chiến sau đây:
1.- Mặt Trận Việt Tiến, với tờ báo Việt Tiến. Hai thủ lãnh của Mặt Trận là giáo sư Đỗ Vạn Lý và mục sư Phan Tần bị tòa án Việt Cộng tại Saigon kết án tử hình (1980).
2.- Mặt Trận Liên Tôn, với chiến khu Phụng Thiên và tờ báo Vì Dân. Thủ lãnh Mặt Trận là Linh mục Nguyễn Văn Vàng bị kết án chung thân khổ sai (năm 1979) và hai Tư lệnh quân sự, Nguyễn Văn Viên (em ruột cha Vàng) và Hà Văn Thành (bí danh Hà Tùng Linh) bị kết án tử hình.
3.- Tổ chức Việt Nam Nhân Chủ Cộng Hòa, với Quốc trưởng Bùi Ngọc Phương, bị Việt Cộng bắt và giam tại Chí Hòa, chết vì thiếu dinh dưỡng (năm 1982).
4.- Tuyên ngôn Nhân quyền được các luật sư Trần Danh Sang và Triệu Bá Thiệp, cùng 17 người nữa, tuyên đọc trước nhà thờ Đức Bà Saigon. Toàn bộ bị bắt và bị giam khổ sai tại Pleiku.
5.- Việt Nam Độc Lập Thống Nhứt Trung Lập Hạnh Phúc Đồng Minh Hội. Thủ lãnh Hồ Hữu Tường bị bắt, giam ở nhiều trại liên tiếp, cuối cùng chết vì kiệt sức tại Chí Hòa (tháng 9.1980).
6.- Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Dân Tộc. Thủ lãnh, giáo sư Trần Thanh Đình, bị bắt và bị xử tử hình tại sân bắn Thủ Đức (năm 1980).
7.- Mặt Trận Dân Tộc Tiến Bộ.
– Ngày 31/12/1977: Việt Cộng cắt đứt quan hệ ngoại giao với Kampuchia (Pol Pot). Cả hai rút đại sứ.
– Từ tháng 3 – 5/1978: Tập thể hóa mọi cơ sở kinh doanh cá thể. Các đảng phái quốc gia, các lãnh tụ tôn giáo bị truy nã.
– Ngày 2/9/1978: Âm mưu phá trại giam T20 Phan Đăng Lưu Gia Định thất bại. Ba người lãnh đạo bị 20 năm tù mỗi người.
– Tháng 3/1980: Tòa án Việt Cộng tại Saigon xử các kháng chiến quân thuộc tổ chức Liên Bang Đông Dương. Hai thủ lãnh, Thẩm Phan và Nguyễn Minh Sang, bị bắt (và bị xử tử hình năm 1982 tại sân bắn Thủ Đức). Chiến sĩ Nguyễn Văn Thụ bị kết án 20 năm tù và bị đánh nát mặt bên phải, vì hô to trước tòa “Đả đảo cộng sản”. Các chiến sĩ Thái Văn Hết, Hồ Tống, Hứa Hồng Hải bị xử 15 năm khổ sai mỗi người.
– Tháng 12/1982: Tổng khủng bố hai tôn giáo Cao Đài và Hòa Hảo. Một số rất đông lãnh tụ hai tôn giáo nầy bị bắt.
– Tháng 5/1984: Lại bắt giử hàng loạt các lãnh tụ tôn giáo, văn nghệ sĩ, trí thức. Nhiều người bị bắt lần thứ hai.
– Tháng 12/1984: “Vụ án nhà hát tây Saigon” xử các chiến sĩ thuộc Mặt Trận Thống Nhứt các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam.
– Tháng 1/1985: Ba chiến sĩ Trần Văn Bá, Hồ Thái Bạch và Lê Quốc Quân bị tử hình (Hết trích dẫn)
III.- Những thủ đoạn của bạo quyền để tiêu diệt những người Miền Nam yêu nước.
Sau khi chiếm được Miền Nam Việt Nam, bạo quyền Việt cộng mới nhận chân được rằng, nhân dân Miền Nam không bao giờ chấp nhận ách Cộng sản đè nặng trên đầu, trên vai mình, nên mưu đồ tẩy não của chúng sẽ không bao giờ thành công như ý muốn và chắc chắn rằng người dân sẽ tổ chức chống lại chúng, vì vậy, bọn chúng mới tổ chức rất nhiều tổ chức kháng chiến giả, truyền tai tung những tin mật giả mạo, đại để là có những ông Tướng Việt Nam Cộng Hòa nổi danh ngày xưa như Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Cao Kỳ, Bùi Thế Lân, Đại tá Mã Sanh Nhơn, v.v… xâm nhập về nước và hiện đang ở trong những mật khu để lãnh đạo kháng chiến. Rất nhiều người có nhiệt tâm, từ thường dân cho đến những cựu chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã âm thầm tìm đến điểm hẹn để được người hướng dẫn đưa vào các mật khu đó, họ có biết đâu lần ra đi là vĩnh biệt muôn đời, bỏ lại gia đình, cha mẹ, vợ con càng bơ vơ nghèo đói hơn và cũng vì vậy mà các tổ chức phục quốc thật sự bị hao mòn, suy yếu dần và cuối cùng vì không được sự yễm trợ tích cực từ bên ngoài (thời gian đó thì vô phương), nên tất cả có thể xem như đều bị bạo quyền dập tắt.
Dẫn chứng như trên để chúng ta cùng nhận thấy rằng suốt thời gian 10 năm gian khổ, sống trong một đất nước tràn ngập khủng bố và chết chóc như vậy mà nhân dân, nhứt là giới trẻ Việt Nam vẫn luôn kiên cường chống lại bạo quyền Việt cộng để mong phục quốc, đã chứng tỏ nhân dân Miền Nam không hèn, không thua kém chút nào, nếu không muốn nói là hơn hẳn về tinh thần yêu nước, yêu tự do, dân chủ của người dân và giới trẻ Hồng Kông như một số người lầm tưởng.
IV.- Hải ngoại trong giai đoạn 10 năm đầu từ sau ngày 30/4/1975:
1.- Các tổ chức kháng chiến ra đời: Trong suốt thời gian hơn 10 năm, người Việt tỵ nạn Cộng sản ở hải ngoại một mặt lo chuẫn bị cho cuộc sống, một mặt tham gia vào những tổ chức kháng chiến phục quốc, phần lớn được những đảng phái Quốc Gia như Đại Việt, Tân Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Phục Việt, Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, một số ngoài đảng phái như Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, Tổng Đoàn Thanh Niện Thiện Chí và Lực Lượng Người Việt Quốc Gia của các ông Đặng Giang Sơn và Trần Quốc Bảo, Mặt Trận Thống Nhứt Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam của ông Lê Quốc Túy, v.v…đứng ra tổ chức. Tất cả các tổ chức kháng chiến phục quốc kễ trên, tổ chức nào cũng được đông đảo người Việt tỵ nạn Cộng sản hăng hái tham gia với cả một bầu nhiệt huyết, đông đảo và rần rộ nhứt một thời là Mặt trận của ông Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh.
2.- Những thực trạng phấn khởi: Những đảng phái và tổ chức đấu tranh kễ trên hầu như đều có cán bộ hoạt động trong nước. Các tổ chức trong nước vì nghèo, thiếu thốn đủ mọi phương tiện nên rất cần sự yễm trợ từ bên ngoài để có điều kiện tổ chức cơ sở, để có phương tiện chiến đấu và phát động phong trào, nhưng thời đó sự liên lạc giữa hai phía đều bị bế tắt toàn diện, nên chỉ hoạt động bí mật, độc lập và chờ đợi thời cơ.
Các tổ chức bên ngoài sống trong hoàn cảnh tự do, thoải mái và có nhiều điều kiện để hoạt động cho nên tất cả đều hăng hái tạo dựng và phát triễn cơ sở rất rần rộ với một khí thế vô cùng phấn khởi, một số Tướng lãnh lòng còn tràn đầy niềm trăn trở đã nhiều lần tìm về biên thùy Miên-Việt và Lào-Việt để nghiên cứu địa thế lập chiến khu.
3.- Sự chia rẽ và những căn nguyên phát sinh
Trong hoàn cảnh sục sôi như thế, những tổ chức và các đảng phái thay vì hợp tác với nhau thành một sức mạnh để vận động cứu nước thì lại chia rẽ theo 3 khuynh hướng với quan niệm tranh đấu khác nhau:
a.- Nhóm thứ nhứt quan niệm rằng, chúng ta bỏ nước ra đi là vì không chấp nhận chế độ Cộng sản, một chế độ độc tài toàn trị, cho nên chống Cộng thì phải chống tuyệt đối, không liên hệ với bất cứ quốc gia Cộng sản nào vì tất cả Cộng sản, dù bất cứ ở đâu cũng đều tàn ác và bất nhân giống như nhau.
b.- Nhóm thứ hai quan niệm rằng, trong cuộc chiến 20 năm qua, Mỹ và các nước Tây Phương đã bỏ rơi Người Việt Quốc Gia khiến cho Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, vì vậy họ sẽ không bao giờ trở lại giúp chúng ta nữa, cho nên vận động sự giúp đở của họ chỉ hoài công, vô ích.
Bởi vậy, họ quan niệm rằng mặc dầu là Cộng sản với nhau, nhưng Trung Cộng là nước hiện đang căm hận bọn Cộng sản Việt Nam, cho rằng Cộng sản Việt Nam là bọn phản thầy, chạy theo Nga chống lại họ, nên năm 1979, Đặng Tiểu Bình đã xua quân dạy cho chúng một bài học và cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề tại những vùng biên giới Hoa-Việt.
Để biểu lộ lòng căm thù bọn phản thầy Việt cộng, Đặng Tiểu Bình hứa rằng những đoàn thể kháng chiến của Người Việt Quốc Gia nào cần đến sự giúp đở của Trung Cộng thì ông ta sẳn sàng, tổ chức có bao nhiêu quân, ông ta sẽ cung cấp đầy đủ cho bao nhiêu súng đạn vô điều kiện, đủ để lật đổ cho được bọn Việt cộng, kẻ thù không đội trời chung với ông ta. Tin vào lời hứa như vậy nên nhóm thứ hai nầy xem như hoàn toàn hướng về Trung Cộng để vận động.
c.- Nhóm thứ ba có quan niệm dung hòa, chấp nhận sự giúp đở đầy đủ súng đạn vô điều kiện của Trung Cộng, nhưng trước đó cần phải vận động được sự giúp đở đầy đủ đạn dược của Mỹ và nhiều nước Tây Phương. Vì nhiều nước tiếp tay, cho nên mỗi nước sẽ trợ giúp không cần nhiều nên không bị ảnh hưởng đến luật pháp sở tại của nước họ, cho nên việc vận động sẽ được dễ dàng hơn và vì quyền lợi họ trong tương lai, họ sẽ tự kềm chế lẫn nhau khi đất nước Việt Nam được giải phóng, đồng thời chúng ta sẽ tránh được nước Tàu “thay ngựa giữa dòng” khi cuộc kháng chiến khởi động, bất ngờ họ sẽ tung ra những điều kiện buộc ta phải tuân theo, nếu không, họ sẽ không tiếp tế đạn dược nữa. Kháng chiến quân chúng ta lúc đó có súng mà không có đạn chiến đấu thì xem như bị diệt vong. Điều nầy đã xãy ra bên Miên khi lực lượng kháng chiến Miên của ông Son San không chấp nhận sự lãnh đạo của Pol Pot mà Bắc Kinh yêu cầu nên bị cúp hết đạn được, lực lượng của ông Son San buộc lòng phải rút hết qua Thái Lan và Mã Lai để tránh bị diệt vong.
Xin mở dấu ngoặt để nói rõ thêm ở đây một sự kiện về việc “Thay ngựa giữa dòng” của Trung Cộng. Số là một Ủy viên Bộ Chính Trị Việt cộng tên Hoàng Văn Hoan tỏ thái độ chống lại việc Cộng sản Hà Nội bỏ Tàu theo Nga, nên nhân việc đi trị bịnh ở Đông Đức, ông ta đào tẩu chạy sang Bắc Kinh và làm con cờ tay sai cho Trung Cộng.
Lợi dụng dịp nầy, Trung Cộng lúc đó úp mở cho biết họ đã tập trung khoản 10 ngàn người Hoa bị Việt cộng xua đuổi dưới hình thức “Vượt Biên Bán Chánh Thức”, giao cho Hoàng Văn Hoan tổ chức thành một đoàn quân nằm yên chờ thời tại biên giới Việt-Trung. Sau những lần tiếp xúc, nhóm thứ ba biết được là khi cuộc kháng chiến bắt đầu bùng nổ, họ Đặng sẽ buộc Người Việt Quốc Gia giao quyền chỉ huy lại cho Hoàng Văn Hoan. Điều nầy không thể chấp nhận được nên nhóm nầy đành buông tay, xoay qua dùng vũ khí nhân quyền để tranh đấu.
4.- Sự chia rẽ và hậu quả của nó
Ba nhóm kháng chiến hải ngoại với ba quan niệm khác nhau như thế nên không có nhóm nào có đủ thực lực để mở mặt trận kháng chiến trong nước và vận động sự yễm trợ quốc tế trong lúc đó, cho nên nhu cầu cần thiết là phải đoàn kết lại với nhau để tạo thành một sức mạnh thống nhứt thì mới có được tiếng nói chánh nghĩa, đại diện chánh thức cho tập thể Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại để vận động sự trợ giúp của Mỹ và các nước Tây Phương để có thể mở được mặt trận trong nước, nhưng thực tế rất phũ phàng, sự đoàn kết cần thiết nầy chẳng những không bao giờ có được mà đôi khi các nhóm còn chống báng lẫn nhau khiến cho sự chia rẽ trở nên trầm trọng hơn, tệ hại hơn là ngay chính trong mỗi nhóm cũng đều có sự hiềm khích nội bộ, gây nên trình trạng phân hóa, đoàn thể yếu dần, mất niềm tin đối với đồng bào nên khó lòng vận động được tài lực và đặt vấn đề Việt Nam với các chánh khách Tây Phương.
5.- Tìm lối thoát
Đứng trước hoàn cảnh khó khăn như vậy, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy xoay qua chiến dịch mượn những chánh khách Tây Phương mà ông quen biết để nhờ họ đứng ra vận động cho mình. Ông chịu khó dành hết thời giờ đi vận động từ Mỹ sang Canada, sang Âu Châu rất nhiều lần trong năm và sang cả Úc Châu xa xôi, bất cứ cơ sở ở bất cứ quốc gia nào có nhu cầu cho vấn đề nầy ông đều đến ngay mà không hề quãn ngại khó khăn hay xa gần. Nhờ uy tín sẵn có và nhờ tài hùng biện tuyệt vời, ông đã chinh phục được lòng cảm mến của hầu như tất cả mọi người, nhứt là những chánh khách ngoại quốc.
Đầu tiên, ông Pierre Bas, Dân biểu kiêm Đô trưởng Thủ đô Paris, Pháp Quốc, nhận lời đứng ra thành lập Ủy Ban Pháp Yễm Trợ Cho Việt Nam Tự Do. Kế tiếp, bà Roland Peel đứng ra thành lập Ủy Ban Anh Yểm Trợ Cho Việt-Miên-Lào Tự Do, sau cùng và quan trọng hơn hết là ông Paul Vankerkhoven, cựu Dân biểu Nghị Hội Âu Châu, nhận lời đứng ra thành lập Ủy Ban Quốc Tế Yễm Trợ Việt Nam Tự Do (Comité International pour un Việt-Nam Libre (CIVL) năm 1986 tại Vương Quốc Bĩ. Ủy Ban Quốc Tế nầy phát triễn rất nhanh, trong một thời gian ngắn đã mời được hơn một trăm chánh khách khắp nơi trên thế giới tham gia đứng tên trong Ủy Ban Danh Dự của CIVL (đến năm 1990 trên 200 vị) gồm những vị Tướng lãnh, các Dân biểu, Nghị sị, nhà văn, nhà báo của những quốc gia như Mỹ, Canada, Pháp, Úc, Bỉ, Anh, Đức, Hòa Lan, Đan Mạch, Lục Xăm Bảo, Ý, Ukraina, Hy Lạp, Thụy Sĩ… CIVL đều có văn phòng Đại diện tại Mỹ, Canada, Úc và Âu Châu. Phong trào lúc đó thật rần rộ, Gs Nguyễn Ngọc Huy đi thuyết trình khắp nơi và nơi nào cũng đạt được nhiều thành quả tốt đẹp, các cơ sở do Gs. Nguyễn Ngọc Huy sáng lập từ Mỹ, Canada, Âu Châu và Úc Châu đểu phát triễn mạnh. Buổi thuyết trình của Gs.Nguyễn Ngọc Huy tại Melbourne, Úc Châu năm 1987 (1988?) trong hội trường có hơn một ngàn người tham dự và trong một buổi thuyết trình tại Ý, một nhà báoÝ đã có một bài bình luận đăng trên nhựt báo Il Mattino, đánh giá Gs.Nguyễn Ngọc Huy là sứ giả cùa nền Dân Chủ.
Nhận thấy công việc vận động quốc tế đã có rất nhiều triễn vọng thành công, để chuẫn bị cho phong trào tranh đấu bùng phát, nhân dịp những nước Cộng sản Đông Âu và bức tường Bá Linh sụp đổ, Gs Nguyễn Ngọc Huy phát triễn 2 mặt trận kế tiếp:
1.- Mặt trận hải ngoại, Gs.Nguyễn Ngọc Huy vận động kết hợp về phần Người Việt Quốc Gia để chuẫn bị cho giai đoạn Đại Đoàn Kết, song song với Mặt trận quốc tế là UBQTYTVNTD – CIVL, Gs.Huy chân thành tuyên bố là đến một giai đoạn cần thiết, giáo sư sẽ cho giải tán mọi cơ sở do Giáo sư sáng lập để sáp nhập cùng với tất cả mọi đoàn thể ở hải ngoại thành một đoàn thể lớn, đủ sức mạnh đương đầu với bạo quyền Cộng sản Hà Nội.
Đầu tiên, Gs. Nguyễn Ngọc Huy đã vận động thành công kết hợp được 8 đoàn thể lớn lại với nhau thành một lực lượng chung, gồm có:
1.- Liên-Minh Dân-Chủ Việt Nam (Nguyễn-Ngọc-Huy)
2.- Mặt-Trận Việt-Nam Tự-Do (Hà-Thúc-Ký)
3.- Việt-Nam Dân-Chủ Xã-Hội Đảng (Lê-Phước-Sang)
4.- Việt-Nam Quốc-Dân Đảng (Võ-Văn-Kỳ)
5.- Tổng-Đoàn Thanh-Niên Thiện-Chí và Lực-Lượng Người Việt Quốc-Gia (Trần-Quốc-Bảo)
6.-Liên-Minh Toàn-Dân Quốc-Gia VN (Hoàng-Ngọc-Cẩn đại diện ký thay cụ Trần-Văn-Lắm)
7.- Lực-Lượng Việt-Nam Tự-Do (Trần-Vũ-Bản)
8.- Nhóm Dân-Quyền Canada (Trương-Trí-Vũ)
9.- Nhóm Phục-Việt ở Pháp (Nguyễn-Văn-Trần đại diện ký thay cụ Trần-Văn-Ân)
10.- Các nhân-sĩ tham-dự gồm:Nguyễn-Long Thành-Nam, Bùi-Diễm, Nguyễn-Tường-Bách, Phạm-Ngọc-Lũy, Trần-Đức Thanh-Phong, Lưu-Trung-Khảo, Nguyễn-Mạnh-Hùng
2.- Mặt trận quốc nội: Đến năm 1990 Gs.Nguyễn Ngọc Huy đã liên lạc được với các đồng chí và những tổ chức của ông trước năm 1975 tại quốc nội. Hai bên đã thảo luận và phân công với nhau về mọi phương diện. Trách nhiệm tổng quát, quốc nội tranh đấu trực diện với bạo quyền, hải ngoại và Quốc tế là hậu phương yễm trợ.
3.- Gs. Nguyễn Ngọc Huy bất ngờ nằm xuống, mọi công trình gầy dựng tiêu tan
Mọi việc chuẫn bị xem như đã xong, mùa hè năm 1990, Gs.Huy tổ chức Đại Hội Thế Giới rất quy mô tại Hòa Lan, quy tụ đại diện các cơ sở, đoàn viên, cán bộ khắp nơi trên thế giới, kễ cả Việt Nam, về để nghe Giáo sư báo cáo và phân chia công tác. Đại Hội chuẫn bị xong, trước giờ khai mạc 2 ngày thì Gs.Nguyễn Ngọc Huy đột ngột qua đời tại Paris, Pháp Quốc, trước đó không lâu, ông Paul Vankerkhoven, chủ tịch CIVL cũng đã qua đời vì bạo bịnh. Tất cả mọi công trình gầy dựng gian khổ của Gs Nguyễn Ngọc Huy sau đó đều sụp đổ.
Xin tạm mượn một câu thơ của thi nhân đời Đường là Lý Thương Ẩn (do Hàn Giang Nhạn dịch) để có thể nói lên được nổi lòng của Người Nằm Xuống: “Xương trắng thành tro hận chửa tan”!!!
4.- Những hệ lụy
Kễ từ sau vụ bạo quyền xữ tử hình ba chiến hữu của ông Lê Quốc Túy trong Mặt Trận Thống Nhứt Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam gồm Ông Hồ Thái Bạch, Trần Văn Bá và Lê Quốc Quân, tình hình tranh đấu trong nước xem như có phần lắng dịu, có lẽ vì mạng lưới công an và tình báo của bạo quyền giăng ra dầy đặc khắp nước cho nên những chiến sĩ tranh đấu phải rút vào bóng tối chờ đợi công cuộc vận động từ bên ngoài.
Còn bên ngoài thì do nạn chia rẽ như đã kễ trên nên không ai ngồi lại được với ai, riêng trong nội bộ của mỗi đoàn thể cũng đều bị rạn nứt, phân hóa mỗi ngày một trầm trọng. Nếu nhìn lại từ năm 1975 cho đến nay, chúng ta có thể thấy không có bất cứ tổ chức, đảng phái hay đoàn thể nào còn nguyên, thậm chí còn có một số biệt tăm.
V.- Tổ chức Cựu Quân Nhân xuất hiện
Cựu Quân Nhân là lực lượng rất đông đảo trong số Người Việt tỵ nạn Cộng sản ở hải ngoại, có tình đồng đội sâu đậm, có tinh thần kỹ luật cao, có kỹ thuật tác chiến rất giỏi, cho nên từ lâu ai cũng trông chờ những vị Tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa cùng lên tiếng huy động anh chị em Cựu Quân, Cán, Chính/VNCH đứng ra gánh vác công cuộc tranh đấu chung để cứu nước. Lẻ ra phải được như vậy, nhưng trước đó chỉ thấy một vài vị xuất hiện, ngoài ra không biết tại sao tất cả còn lại đều giữ thái độ im lặng một cách rất khó hiểu cho đến tận ngày xuôi tay nhắm mắt. Đáng tiếc vô cùng!
Năm 2003 bổng nhiên xuất hiện một Đại Hội Toàn Quân rất sôi động, được tổ chức tại Hoa Kỳ, có nhiều Tướng lãnh và Sĩ quan Trung Cấp tham dự, mọi người ai cũng đều mừng rỡ và nghĩ rằng cơ hội vùng lên bắc đầu. Trong những cuộc phỏng vấn ngay trong hội trường Đại Hội, ông Tướng nào cũng bày tỏ lòng yêu nước, quyết liệt đấu tranh để đánh đổ bạo quyền Việt cộng, nhưng đến khi bầu Ban Chấp Hành để phân chia công tác, mọi người đều ngạc nhiên và tỏ ý thất vọng vì thấy chỉ có một ông Tướng mặt trận và một vị Đại tá cựu Tư lịnh Không Quân nhận lãnh trách nhiệm, những vị còn lại biến mất luôn và lần lượt rơi rụng dần, cho đến nay không còn thấy lực lượng nầy có những sinh hoạt nào đáng kễ.
VI.- Tổ chức Cộng đồng
Thời gian dài trôi qua, nhiều chiến sĩ trong nước cũng như ở hải ngoại trở nên già yếu hoặc qua đời cho nên sự sinh hoạt của những đoàn thể vì thế mà không còn sinh động rần rộ như xưa, ở hải ngoài chỉ còn thấy hoạt động của những Cộng đồng, tuy cùng mục tiêu chống Cộng nhưng ít thấy có những sinh hoạt chung nhau thường xuyên, đó là chưa kễ một số Cộng đồng còn chống báng lẫn nhau khiến cho sự chia rẽ càng thêm trầm trọng.
Riêng trong quốc nội thì còn thê lương hơn vì sự kiểm soát gắt gao của bạo quyền nên những cơ sở đấu tranh của những đoàn thể và đảng phái trước năm 1975 xem như biến mất. Các Tôn giáo cũng vậy, mạnh ai nấy làm, thiếu sự kết hợp, thiếu cơ sở hoạt động nối kết thành ra những lần tranh đấu của họ bị lẻ loi nên dễ bị đàn áp, dễ bị bạo quyền bao vây, cô lập rồi dập tắt.
Tóm lại, vì không có lãnh đạo chung để kết hợp, vùng nầy bênh vực cho vùng kia, Tôn giáo nầy bênh vực cho Tôn giáo kia cho nên công cuộc tranh đấu đều rời rạc, rất yếu nên dễ bị trấn áp.
Người dân dù bất mản chế độ vô cùng nhưng không biết chọn nơi nào thật sự tranh đấu để dấn thân, tuy nhiên, không phải vì vậy mà bạo quyền có thể tiêu diệt nổi tinh thần yêu nước của nhân dân, dù cho bọn chúng luôn những biện pháp khủng bố tàn bạo để đàn áp dân như xử dụng lực lượng Công an, thậm chí còn xử dụng cả bọn côn đồ và bọn xã hội đen, v.v…cho nên trong nước vẫn không ngừng xuất hiện công khai những cuộc tranh đấu dưới nhiều hình thức khác nhau, tuy lẻ tẻ, có tánh cách cá nhơn hoặc của một nhóm ít người nhưng rất kiên cường và không sờn lòng, mặc dầu họ vẫn biết rằng họ sẽ bị đàn áp dễ dàng để trở thành những tù nhân lương tâm, với các tội danh mơ hồ được gán cho họ như: gây rối trật tự công cộng, hay âm mưu lật đỗ chánh quyền, v.v…
Tinh thần yêu nước của nhân dân còn được bộc lộ rõ ràng, nhứt là qua những lần xuống đường rần rộ khi xãy ra những biến cố quan trọng được thế giới quan tâm một thời như:
1.- Biến cố dàn khoan Hải Dương HĐ81: Dàn khoan khổng lồ HD 981 của Trung Cộng ngang nhiên vào khoan thăm dò dầu khí 03 tháng trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần Vịnh Bắc Bộ vào giữa tháng 6 đến giữa tháng 9 năm 2014 đã khiến nhân dân căm phẩn tạo nên những cuộc biểu tình trên khắp nước, nhứt là những cuộc biểu tình tại Hà Nội và Saì Gòn, đặc biệt tại Bình Dương và Hà Tĩnh, cuộc biểu tình đã gây nên bạo động, các xí nghiệp của Tàu tại đây bị đập phá, tuy nhiên vì không được kết hợp thống nhứt nên bị bạo quyền cô lập, đàn áp dập tắt dễ dàng, nhiều người biểu tình bị bắt và bị xử tù nặng nề.
2.- Biến cố Nhà máy gan thép Formosa: Năm 2016, nhà máy gan thép Formosa xã chất độc bừa bải xuống biển gây ô nhiễm cả một vùng biển rộng lớn dọc theo miền duyên hải khiến cá chết đầy mặt biển, gây thiệt hại nặng nề cho ngư dân Vũng Án-Hà Tĩnh và một số tỉnh lân cận Miền Trung. Nhân dân cả nước rần rộ biểu tình phản đối, nhưng cũng vì không được kết hợp thống nhứt rộng rãi nên bị bạo quyền cô lập, đàn áp dập tắt dễ dàng, nhiều người bị bắt và bị xử tù nặng nề.
3.- Biến cố Đặc Khu Kinh Tế 99 năm: Năm 2018 bạo quyền Việt cộng dự thảo thành lập 3 Đặc Khu Kinh Tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc cho Trung Cộng thuê 99 năm và luật An Ninh Mạng khiến cho lòng dân căm phẩn, cho nên ngày 10 tháng 6 năm 2018, hàng ngàn người dân tại một số địa phương là Hà Nội, Đà Nẵng, Bình Thuận, Nha Trang, Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu và Sai Gòn xuống đường biểu tình phản đối. Đặc biệt tại thị trấn Phan Rí Cửa, tỉnh Bình Thuận cuộc biểu tỉnh bạo động dữ dội, chiếm thị xã, đập phá, đốt xe khiến cho đoạn Quốc lộ1 tại Phan Rí bị tê liệt, 49 người yêu nước trong biến cố nầy hiện đã bị xử án tù, tổng cộng lên đến 150 năm.
Cuộc biểu tình rần rộ thứ hai, ôn hòa hơn tại khu Lăng Cha Cả Sai Gòn đã làm cho đoạn đường lên phi trường Tân Sơn Nhứt bị tắt nghẽn lưu thông trong nhiều ngày, nhưng cũng vì không được kết hợp thống nhứt trên toàn quốc nên cũng bị bạo quyền bao vây, cô lập và đàn áp dập tắt khiến nhiều người yêu nước bị bắt giữ và bị xữ tù tội nặng nề.
Tất cả những điều dẫn chứng dong dài nói trên đã cho chúng ta thấy người dân trong nước không hề vô cảm, không hề lãnh đạm với tương lai đất nước đang ngày một đen tối như một số người lầm tưởng.
VII.- Lòng yêu nước theo dòng sinh mệnh của lịch sử
Có lẻ chúng ta không nên đánh giá quá thấp khi nhìn thấy những cảnh ồ ạt, cuồn loạn của đông đảo thanh niên xuống đường chào mừng đội túc cầu trên về thành phố rồi vội vã chỉ trích chê bai, mà không nghĩ đó là sự kiện cuồng nhiệt của một thế hệ người dân khi họ không có nơi nào đáng tin cậy cho lý tưởng của họ bám víu.
Quả vậy, nếu chịu khó nhìn vào những cuộc xuống đường tự nhiên khác của nhân dân để chào đón các Tổng thống Mỹ Bill Clinton, Giorge Bush, Barack Obama, Donald Trump, thấy đồng bào rất trật tự, rất nồng nhiệt và cũng rất đàng hoàng, khác hẳn với lúc xuống đường chào mừng đội túc cầu vì họ nghĩ Mỹ là nơi mà họ tin cậy để đặt niềm tin trong công cuộc vận động cứu nước.
Trường hợp nầy thật giống với quan niệm của tuổi trẻ Hồng Kông hiện nay, biểu lộ được lòng yêu nước và sự can đảm tranh đấu của dân tộc Việt mà không có một sức mạnh dã man nào có thể hũy diệt được.
Thật đúng vậy, lịch sử đã cho thấy dù bị giặc Tàu đô hộ vô cùng dã man và khắc nghiệt, tưởng chừng như bị xóa tên Việt Nam trên bản đồ thế giới, vậy mà trên một ngàn năm sau, ông bà chúng ta vẫn quật khởi, đánh đuổi được giặc Tàu và xây dựng lại non sông cho đến ngày nay. Một chuyện vô cùng hy hữu mà dân tộc Việt Nam đã làm được.
Bạo quyền Việt cộng cần ý thức điều nầy hơn ai hết để sớm thức tỉnh hầu tránh đổ máu vô ích trong thời gian gần sắp tới khi mà Mỹ và Tây phương đang chuyễn mình để bôi xóa chế độ Cộng sản và Xã Hội Chủ Nghĩa trên toàn thế giới.
VIII.- Vì sao qua 44 năm tranh đấu mà vẫn chưa thành công?
Từ sau ngày 30/4/1975, người dân trong nước bao giờ cũng trông ngóng chờ đợi sự yễm trợ từ bên ngoài và rất trông mong sự trổi dậy những cơ sở quốc nội của những lực lượng hải ngoại, để mọi người cùng tham gia cứu nước, nhưng vô vọng vì lực lượng người Việt hải ngoại ngày càng suy yếu vì nạn chia rẽ, phân hóa, không còn đủ sức để yễm trợ cho công cuộc đấu tranh càng lúc càng khó khăn hơn.
Hầu như tất cả mọi lực lượng, mọi đoàn thể, mọi Tôn giáo hải ngoại hiện nay so với những năm 1980, 1990, 2000 … khác biệt rất nhiều, dường như chỉ còn có các Cộng đồng là còn có những sinh hoạt đáng kễ, nhưng ngay cả các Cộng đồng cũng mạnh ai nấy làm mà không ngồi lại với nhau được mặc dầu có cùng mục tiêu chung, đó là chưa kễ có những lúc kình chống lẫn nhau mạnh bạo.
Người dân trông mong nhiều những vị Tướng lãnh anh hùng, thao lược Miền Nam trước năm 1975, nhưng dường như hầu hết đều an phận, ít thấy ai chịu dấn thân, một số vị còn vô chùa tu không màn đến thế sự, xem như phủi tay, bỏ cuộc trong thời điêu linh của đất nước.
Mọi người hầu như ai cũng có thân nhân còn ở lại Việt Nam, chờ đợi kháng chiến vô vọng nên lần lượt về thăm quê hương ngày càng nhiều, không kễ những kẻ lợi dụng phong trào du lịch Việt Nam mặc dầu những thành phần nầy chẳng còn thân nhân gì ở trong nước, nhưng vẫn về nước thường xuyên để thỏa mãn nhu cầu ăn chơi, đàng điếm.
Khai thác yếu tố nầy, bạo quyền mở những đòn thâm độc để chiêu dụ, khiến những người đã về nước được rồi đều bị Quỹ Việt Cộng Ám, nên hầu hết đều muốn về thêm vì thế họ âm thầm xa lánh dần những đoàn thể đấu tranh vì sợ bị mang tai họa. Lực lượng hải ngoại vì thế mà suy yếu dần, một phần cũng đều do nguyên nhân nầy gây ra.
Lỗi nầy quy trách cho ai? Suy cho cùng có thể là muôn phần đều do lỗi tại ta, những người Việt tỵ nạn Cộng sản ở hài ngoại, kẻ ít người nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã vì chia rẽ mà làm mất đi lòng kỳ vọng của nhân dân, nên nay đã qua 44 năm mà chưa thấy được ngày về.
Trước những cảnh ngộ khó khăn trước mắt như vậy, ta phải làm gì ? Đó là những nổi niềm trăn trở chung cần phải được khơi mào để cùng chung nhau tìm lối thoát.
IX.- Kết luận
Ngày xưa ở Sai Gòn có chiếu một cuốn phim ngoại quốc mà tựa đề của phim được dịch ra tiếng Việt là “Cà Chớn Chống Xâm Lăng”, liên tưởng đến một ngày nào đó khi Trung Cộng vì đuối sức trong cuộc thương chiến với Mỹ mà bị sụp đổ hoặc bị nội loạn, khi đó, dĩ nhiên họ phải lo tự cứu lấy họ chớ không còn hơi sức để chống lưng cho một “đàn em phản bội” Việt Nam. Lúc đó thì dù là “Thất phu”, dù là Cà Chớn đến đâu cũng đều “Hữu trách”, nên chắc chắn sẽ có hai trường hợp rất có thể xãy ra:
1.- Bộ đội sẽ ý thức được những lời phân tách của Đại tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Phạm Bá Hoa qua rất nhiều lá thơ của ông nhắn gởi cho họ: Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, sẽ đồng loạt đứng ra thực hiện một cuộc đảo chánh. Hoặc
2.- Nhân dân sẽ đồng loạt đứng lên giật sập chế độ Cộng sản Hà Nội dưới sự án binh bất động của bộ đội, giống như trường hợp đã xãy ra ở Đông Âu vào năm 1989 với cái chết thê thảm của vợ chồng nhà độc tài Cộng sản Romania Nicolae Ceausescu.
Trong cả hai trường hợp, chắc chắn sẽ có lãnh đạo đứng ra điều họp cuộc nổi dậy toàn quốc với sự tham gia của toàn dân và với lòng yêu nước chất chứa trong lòng tự bấy lâu nay, những đoàn thanh niên trong những cuộc xuống đường mừng đội túc cầu và những cuộc xuống đường chào đón các Tổng thống Mỹ Bill Clinton, Giorge Busch, Barack Obama, Donald Trump, bao giờ cũng sẽ là những toán xung phong đi đầu trong cuộc tranh đấu để bẻ gãy xích xiềng nô lệ của bạo quyền Việt cộng và bè lũ tay sai bán nước.
Hai hình thái xuống đường chào đón, tuy khác nhau nhưng cùng một biểu tượng cho sự cuồng nhiệt của người dân trước những biến cố không giống nhau.
Còn việc thấy người té ngã nằm đường mà ra tay tế độ thì chỉ có bác sĩ và người hùng mới dám làm vì rất dễ bị rước họa vào thân mà xã hội Cộng sản đã luôn dồn con người vào những tình huống như vậy.
Thanh Thủy (06/10/2019)
Trích dẫn: Phần đọc thêm lấy trên net của cô Hồng Thúy trong bài viết:CÂU CHUYỆN GIA ĐÌNH VỚI BỨC TÂM THƯ GỬI CÁC CHIẾN SỸ QUÂN ĐỘI VÀ CÔNG AN NHÂN DÂN VIÊT NAM.
18 tháng 7 năm 2016
Hồng Thúy sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Ông bà nội ngoại của HT đều tham gia các hoạt động chống Pháp từ trước năm 1945. Bố HT là trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Mẹ HT là chủ nhiệm Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, đã cùng đồng đội vượt qua bom đạn, đưa lời ca tiếng hát tới các trận địa, góp phần vào nhiều thắng lợi trong sự nghiệp độc lập dân tộc.<!>
Hồng Thúy giới thiệu như vậy chỉ để các anh chị biết rằng những dòng này không phải do một “phần tử phản động” viết ra. Bản thân HT và anh chị HT đều từng là cán bộ nhà nước. Anh Q. và chị K. làm việc trong ngành quốc phòng. Trước kia HT đã lập gia đình với anh H, một thượng úy công an đẹp trai, chính trực, liêm khiết và có với anh một con gái. Năm lên 7 tuổi cháu bị sốt xuất huyết và đã mất. Bẩy tháng sau anh H. hy sinh trong khi điều tra một vụ án hình sự. Từ đó HT về ở với bố mẹ và không có ý định lập gia đình nữa.
Tháng 8 năm 2011 nhân dân cả nước sôi sục biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm vùng biển, cắt cáp tầu thăm dò dầu trên biển VN, HT tham gia biểu tình và bị bắt giam. Chờ tới chiều không thấy con về, bố HT gọi điện cho chú N, thượng tướng công an, trước kia làm việc dưới quyền bố. Ngay sau đó HT được tự do và được một thiếu tá công an chở về nhà. Anh thiếu tá nói với bố HT: “Chú nói chị Thúy đừng tham gia biểu tình nữa, không được phép đâu. Chính bọn cháu đã đưa lên mạng kêu gọi biểu tình để bọn đầu sỏ kích động lộ mặt và xử lý đấy chú ạ”. Chủ nhật tuần ấy, chú thượng tướng N đến thăm và ngồi nói chuyện rất lâu với bố mẹ. Sau khi chú về, bố mẹ HT đều rất buồn, suốt ngày bố ngồi trước máy vi tính, thỉnh thoảng lắc đầu và thở dài, mẹ HT vẫn lúi húi với những việc hàng ngày, không nói gì. Đôi khi HT thấy có ngấn nước trên khóe mắt mẹ.
Chủ nhật tuần sau đó, bố mẹ gọi cả gia đình anh Q và chị K đến ăn cơm. Sau bữa cơm, bố bảo các cháu ra ngoài sân chơi, trong phòng khách còn lại bố mẹ và các con trai, gái, dâu, rể. Bố nói giọng nghẹn ngào: “Nước mình sắp thành một khu tự trị của Trung Quốc rồi các con ạ”. Bố nói như khóc, mắt ướt đẫm. Anh Q kêu lên: “Kìa bố ! làm gì có chuyện ấy. Bố đừng tin, bọn phản động tuyên truyền bậy đấy bố ạ”. Bố chậm rãi nói: “Chú N nói với bố đấy con ạ. Chú đang giữ trọng trách trong Đảng và Nhà nước, sao có thể tung tin đồn bậy được”. Rồi bố kể lại cho mấy anh chị em những điều chú N đã nói, và sau đó bố đã lên mạng kiểm tra lại: “Trước đây thế giới có 13 nước XHCN, Việt Nam là một. Cuối năm 1989 các nước Đông Âu đồng loạt bỏ CNXH, Liên xô đang gặp khó khăn nên không can thiệp được. Nước mình lúc ấy đang có chiến tranh biên giới với TQ và chiến tranh Campuchia, lại bị Mỹ cấm vận nên tình hình hết sức khó khăn. Bộ Chính trị quyết định đề nghị bình thường hóa quan hệ với TQ. Nhân dịp ấy, TQ ép mình sát nhập vào TQ sau 30 năm. Trước đây bố đã nghe nói đến Hội nghị Thành Đô năm 1990 nhưng bố không tin. Sau khi chú N nói, bố đã lên mạng đọc hồi ký của cựu thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng, cũng nói đến Hội nghị này, có cả ảnh các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười chụp với Giang Trạch Dân, Lý Bằng tại Hội nghị nữa”.
Anh Q nói: “Sát nhập vào thì mình cũng thành công dân TQ như hàng tỷ người TQ thôi, có sao đâu bố?”. Bố trả lời, mặt rất buồn…“Không đâu con ạ! Các con có biết ý nghĩa năm ngôi sao trên cờ TQ là gì không? Ngôi lớn nhất để chỉ người Hán, 4 ngôi sao nhỏ dành cho các dân tộc Mãn, Hồi, Mông, Tạng, là 4 sắc tộc đông nhất trong số hơn 100 dân tộc thiểu số ở TQ. Trước đây Mãn, Hồi, Mông, Tạng đều là những nước lớn và rất hùng mạnh. Người Mông Cổ đã thôn tính các nước từ Á sang Âu, cai trị cả TQ qua hàng thế kỷ. Người Mãn Thanh cũng cai trị TQ suốt 3 thế kỷ, trong khi họ chỉ coi nước mình là Man Nam xứ hay An Nam nhược tiểu quốc thôi. Bây giờ riêng VN mình đã 86 triệu dân, trong khi cả 4 dân tộc Mãn-Hồi-Mông-Tạng cộng lại chưa tới 20 triệu người. Các con có biết vì sao không?. Họ bị diệt chủng! TQ đã làm cho các dân tộc khác suy kiệt đi, để không bao giờ có thể giành lại độc lập được nữa. Riêng với Tây Tạng thì từ sau khi bị TQ chiếm năm 1959, hầu hết đàn ông và con trai Tạng bị đưa đi khai phá các vùng đất ở Tân Cương và Nội Mông, không trở về nữa. Sau này VN mình cũng sẽ như Tây Tạng thôi các con ạ !”. Các anh chị đều ngồi yên lặng, HT hỏi: “Không thể khác được hay sao bố? Con đi biểu tình, thấy nhân dân mình vẫn hừng hực khí thế, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng tuyên bố cương quyết bảo vệ chủ quyền đất nước mà”. Bố lắc đầu, mắt lại ướt đẫm và nói: “Bố cũng hy vọng như thế đấy. Bố già rồi, không còn được bao lâu nữa. Các con nhớ mình là người VN, phải có trách nhiệm trước sự tồn vong của đất nước và dân tộc”. Nhìn sang bên, HT thấy hai dòng nước mắt chảy dài trên gò má mẹ.
Từ hôm ấy, bố ngồi suốt ngày bên máy vi tính, đọc và viết rất nhiều. Bốn tháng sau bố qua đời. Năm 2014 TQ đưa dàn khoan 981 vào hải phận VN, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phản đối kịch liệt, HT lại thấy tin yêu Đảng và không nghĩ đến chuyện bố nói nữa.
HT là kỹ sư làm việc trong ngành điện lực, nhận thấy hầu hết các nhà máy điện và công trình điện quan trọng đều do các công ty TQ thắng thầu. Các anh chị kỹ sư lâu năm trong ngành thường nói: dòng điện là dòng máu của đất nước, khi có xung đột quân sự, TQ chỉ cần làm cho các nhà máy và trạm điện ngừng hoạt động thi toàn bộ hoạt động quân sự, kinh tế, xã hội của VN sẽ tê liệt. Những người nói như vậy đều lần lượt phải ra khỏi ngành điên lực.
Đầu năm 2015 có một việc lớn làm cho HT thức tỉnh: Tỉnh Nình Thuận và Tập đoàn điện lực EVN đưa ra đấu thầu dự án Nhà máy điện gió Phú Lạc ở Tuy Phong – Nình thuận. Hồng Thúy chịu trách nhiệm kiểm tra về kỹ thuật các hồ sơ đấu thầu. Nhiều nhà thầu bị loại từ các vòng ngoài, đến vòng cuối còn lại một tập đoàn Đức và hai công ty TQ. Nếu TQ thắng thầu sẽ rất nguy hiểm cho nền quốc phòng VN, vì trong mỗi máy phát điện gió trên cao hàng trăm mét, TQ đều có thể đặt thêm các thiết bị khác và trở thành một trạm quan sát, trạm thông tin, trạm rada và gây nhiễu các rada khác…(Chính phủ Mỹ đã quyết định cấm sử dụng các máy phát điện gió TQ trên toàn bộ lãnh thổ Mỹ, Xem http://www.reuters.com/…/us-usa-china-turbines-idUSBRE88R19…). Nhà máy điện gió Phú Lạc nằm gần các hệ thống phòng thủ bờ biển nam Trung bộ. Với hàng chục máy phát điện gió, TQ có thể quan sát và tiếp nhận thông tin đồng thời từ mọi hướng, theo dõi mọi hoạt động quân sự của Việt Nam trên biển và trên đất liền. Nếu xẩy ra đụng độ quân sự, quân đội TQ hoàn toàn khống chế mọi hoạt động của VN từ đất liền tới quần đảo Trường Sa. Hồng Thúy đã đề nghị loại bỏ các nhà thầu TQ, nhưng sau cùng công ty Hydrochina vẫn trúng thầu. Nghĩ rằng UBND tỉnh Ninh Thuận và tập đoàn EVN ăn cánh với nhà thầu TQ nên HT đã gửi thư trình bày sự việc lên thủ tướng, chủ tịch nước, tổng bí thư ĐCSVN và các Bộ, Ngành có liên quan. Những bức thư đó đều không được trả lời mà Hồng Thúy còn bị đuổi ra khỏi biên chế nhà nước. Đã có một sự thống nhất từ trên xuống dưới về việc giao cho TQ những công trình tuyệt mật này sao?
HT càng bức xúc hơn khi cá ở biển miền Trung chết hàng loạt, ai cũng biết do Formosa thải ra chất độc, giám đốc Chu Xuân Phàm cũng đã tự nhận lỗi khi nói: “chọn nhà máy thép hay chọn tôm cá”, hôm sau cả ban giám đốc Formosa còn cúi đầu xin lỗi…“tại hạ đáng chết”… Nhưng rồi Nhà nước lại công bố với báo chí : “cá chết vì thủy triều đỏ” và cương quyết không cho phép điều tra nguyên nhân. Những cuộc biểu tình nổ ra khắp nơi, tố cáo Formosa phá hoại môi trường, đều bị đàn áp thô bạo. Ngày 30 tháng 6 Formosa tự nhận là thủ phạm và bồi thường 500 triệu USD. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chấp nhận ngay và kêu gọi “đánh kẻ chạy đi, không đánh kẻ chạy lại”, khác hẳn với các trường hợp vi phạm trước đây, thủ phạm đều bị đưa ra xét xữ và chịu án rất nặng, bị tịch thu tài sản và lãnh cả án tử hình… Ngay trong việc Formosa nhận lỗi cũng còn nhiều điều vô lý: Formosa nói vì mất điện 4 ngày nên hệ thống lọc ngừng hoạt động, vậy máy bơm hoạt động bằng điện nào để đẩy hàng chục ngàn m³ nước thải độc hại ra biển?. Tháng sáu Formosa mới hoạt động, nhưng việc thải độc đã xẩy ra từ tháng tư, và lượng chất độc rất lớn, đủ hủy diêt một vùng biển rất rộng, vậy chất độc từ đâu ra mà nhiều thế?. Chất thải Formosa còn độc hại gấp ngàn lần chất độc da cam trước đây. Nạn nhân không chỉ là thế hệ hôm nay ăn phải cá và muối biển nhiễm độc mà còn di truyền cả cho con cháu sau này. Formosa là khối ung thư khổng lồ, toàn dân Việt Nam đòi cắt bỏ nhưng lãnh đạo nhà nước tìm mọi cách giữ lại. Rõ ràng đàng sau sự kiện là một ý đồ hủy diệt tàn bạo, và đàng sau Formosa là một thế lực rất mạnh, Đảng và Nhà nước VN đang bị thế lực đó điều khiển.
Tháng 6.2016, hai máy bay quân sự VN bay ra biển liên tiếp bị rớt. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Ai đã điều máy bay quân sự ra biển trong lúc TQ đang tập trận trên biển Đông? Máy bay chiến đấu luôn xuất phát từng phi đội từ hai chiếc để bảo vệ lẫn nhau, tại sao SU30 phải bay một mình ra biển? Tại sao anh phi công Cường lại thấy hai tầu chiến Trung Quốc trong hải phận VN khi nhảy dù khỏi máy bay? Tại sao sau khi nói ra điều này, anh Cường đang khỏe mạnh phải vào bệnh viện và không được đi dự đám tang anh Khải? Cái gì gây ra vết thương lớn ở đốt sống cổ anh Khải trước khi anh rơi xuống biển? Máy bay SU30 phát tín hiệu gặp nạn ở bờ biển Nghệ An, ai đã phát lệnh cho máy bay CASA C-212 ra Hạ Long để tìm và rơi ở đấy? Cả hai máy bay rơi xuống nước đều bị xé tan từng mảnh nhưng chỉ đưa tin máy bay gặp tai nạn, sao không nghĩ rằng máy bay bị bắn hạ? Tại sao chỉ nói đến việc tìm kiếm và đưa tang, không hề nói đến việc điều tra nguyên nhân máy bay rơi?. Rõ ràng sự kiện này cũng bị một thế lực rất mạnh dàn dựng. Hai chiếc máy bay quân sự hiện đại của VN được điều ra biển để làm mục tiêu bay cho hải quân TQ tập trận mà thôi!
Thiếu tướng anh hùng quân đội Lê Mã Lương nói: “chúng ta đã mất quyền bay trên Biển Đông…”; Thiếu tướng nguyên phó tư lệnh Quân khu 5 Trần Minh Hùng nói: “Toàn bộ tuyến đường Trường Sa, Hoàng Sa và Võ Nguyên Giáp (từ chân núi Sơn Trà đến phường Điện Nam, xã Điện Ngọc, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) là tuyệt mật, bất khả xâm phạm, nhưng đã nằm trong tay người Trung Quốc…”. Hai vị trung tướng Đồng Sỹ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh tố giác 10 tỉnh phía Bắc cho TQ thuê 305.535 ha rừng đầu nguồn là: “hiểm họa cực lớn đối với an ninh nhiều mặt của quốc gia…”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng 165 nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam đã ký giấy phản đối việc cho Trung Quốc khai thác bauxite Tây nguyên là một “nguy cơ cực kỳ lớn đối với an ninh quốc phòng”. Tất cả đều chỉ là những tiếng kêu vô vọng, không ai có đủ quyền hạn để ngăn chặn những hiểm họa đe dọa sự sống còn của đất nước !
Cũng trong thời gian này, hàng trăm ngàn “khách du lich” từ TQ tràn vào các thành phố Đà Nẵng, Hội An, Cam Ranh, Nha Trang… quậy phá. Hàng ngàn hướng dẫn viên du lich TQ công khai giới thiệu với du khách TQ rằng đây là vùng biển của TQ, lãnh thổ của TQ đã bị đánh cắp, đang trở lại với TQ, và chúng đe dọa tấn công các hướng dẫn viên du lịch người Việt. Các hàng quán TQ mở ra khăp nơi, cấm người Việt không được bước vào. Trước tất cả các hiện tượng đó, không hề thấy công an hay thanh niên xung phong được điều đến để giải quyết, và chính quyền các cấp hoàn toàn làm ngơ! Rõ ràng sự việc này cũng bị một thế lực rất mạnh dàn dựng, không phải từ Đà Nẵng, Nha Trang, Hà nội, mà từ Bắc Kinh.
Ngày 12.07.2016 Tòa Trọng tài Thường trực Quốc tế tuyên bố Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để đòi quyền lịch sử với các nguồn tài nguyên bên trong “đường lưỡi bò”. Philippine chỉ là nước nhỏ, bị thiệt hại một phần nhưng đã đứng ra kiện TQ và đã thắng lợi. Việt Nam với 93 triệu dân, lại là nước bị thiệt hại nặng nề nhất, sẽ mất toàn bộ biển vì “đường lưỡi bò” nhưng không dám làm việc này. Lãnh đạo Nhà nước Việt Nam chỉ còn là những tên tay sai đắc lực của TQ, đâu nghĩ đến đòi quyền lợi cho đất nước.
Những điều bố HT nói sau khi gặp cố thượng tướng N. trước đây 5 năm, giờ đây rõ ràng là sự thật. Nếu toàn dân VN không đứng lên đẩy lùi thế lực đen tối đang điều khiển Đảng và Nhà nước thì VN sẽ bị sát nhập vào TQ và dân tộc VN sẽ bị diệt vong. Thời gian 30 năm kể từ Hội nghị Thành Đô đã gần hết, chỉ còn lại 4 năm nữa thôi. Con tàu Đất Nước đang bị những kẻ phản bội bán rẻ cho một đảng cướp tàn ác và hiểm độc, nhưng hầu hết người trên tầu chưa biết mình đang bị lừa vào chỗ chết !
KÍNH GỬI CÁC CHIẾN SỸ CÔNG AN VÀ QUÂN ĐỘI NDVN!
Những sự việc trên đây đã thể hiện rất rõ: Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta đang bị Trung quốc thôn tính. Đội tiền trạm của quân xâm lược TQ đang nấp dưới danh nghĩa những công nhân nhà máy thép, nhà máy điện, công nhân xây dựng, khai thác bauxite, những đội trồng rừng, những thương lái và khách du lịch …đang lộng hành trên khắp dải đất Việt Nam, làm nội ứng cho những binh đoàn TQ sẽ tràn vào cướp nước ta một ngày gần đây.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước CHXHCN là những kẻ nội ứng nguy hiểm nhất cho giặc. Chính họ đã cấp giấy phép cho Formosa để chúng vào và đầu độc biển VN. Chính họ đã điều công an, quân đội cải trang thành thanh niên xung phong đàn áp các cuộc biểu tình ôn hòa, để bao che cho Formosa hủy diệt môi trường VN; Chính họ đã điều hai máy bay quân sự VN ra biển Đông làm mục tiêu bay cho hải quân TQ tập trận, để uy hiếp tinh thần các tướng lĩnh và sĩ quan Quân đội NDVN. Vô hình chung chúng ta đang phục vụ cho mưu đồ xâm lược của Trung Quốc. Công an và thanh niên xung phong đàn áp các cuộc biểu tình để bảo vệ cho Formosa, đâu phải để giữ trật tự đường phố?. Không quân bay ra biển để làm mục tiêu cho hải quân TQ tập trận, đâu phải để bảo vệ biển trời tổ quốc. Giờ đây những nơi đang bị người TQ quậy phá, cần được phục hồi trật tự là Cam Ranh, Đà Nẵng, Nha Trang …chứ đâu phải những cuôc biểu tình ôn hòa bảo vệ môi trường.
Có người nghĩ: chống lại TQ có thể dẫn đến xung đột đổ máu, nhiều người sẽ phải hy sinh?. Hãy nghĩ lại: nếu không chống lại TQ, đất nước Việt Nam sẽ bị TQ thôn tính, cả dân tộc VN sẽ bị diệt vong. Chúng ta chỉ còn một con đường duy nhất: đứng lên giữ lấy đất nước để cho cả dân tộc cùng tồn tại.
Cũng có người nghĩ: bây giờ mình tận tụy phục vụ, sau này có thể mình cũng được chính quyền TQ trọng dụng. Những gì đã xẩy ra ở Tây Tạng thì hoàn toàn ngược lại: cảnh sát và binh lính bản địa là những người đầu tiên bị điều tới những nơi xa xôi để không thể quay về với người Tạng được nữa. Công an và bộ đội người Việt sau này cũng sẽ như vậy, các bạn sẽ bị điều đi rất xa, sau khi VN bị sát nhập vào TQ. Cảnh sát và quân đội người Hán sẽ đến thay thế các bạn để trấn áp mọi phản kháng của người Việt. Những binh đoàn xe tăng TQ sẽ nghiền nát những đoàn biểu tình của người Việt, như họ đã từng nghiền nát hàng chục ngàn sinh viên TQ ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Trong số những người bị giết hại sau này sẽ có cả người thân của các bạn đấy! Cảnh sát và binh lính TQ sẽ thay các bạn đi cưỡng chế người Việt, cướp nhà cướp đất của cha mẹ các bạn để binh lính và dân Hán đến sinh sống. Chính sách diệt chủng với người Việt sau này chắc chắn còn tàn bạo hơn với người Tạng rất nhiều, vì VN chúng ta đã từng bị TQ thôn tính nhưng đã giành lại độc lập năm 905, trước đây 1111 năm. Bốn con số 1 liên tiếp như đang nhắc nhở chúng ta: quá khứ đau thương một ngàn năm Bắc thuộc chỉ được phép xẩy ra một lần thôi ! Nều lại chiếm được VN, TQ sẽ không để nền độc lập của VN tái diễn một lần nữa, bằng cách tận diệt người Việt, xóa sạch mọi dấu vết của dân tộc Việt trên mảnh đất này !
Từ nhiều năm nay, chính sách của TQ “mỗi gia đình chỉ có một con” cộng với thói quen “trọng nam khinh nữ” của người Hán đã làm cho số nam ở TQ nhiều hơn số nữ tới trên 200 triệu người. Sau khi đàn ông VN bị lùa tới các vùng xa xôi phía bắc TQ, hàng chục triệu đàn ông Hán sẽ lao vào VN như lũ quỷ thèm khát tình dục, bắt vợ và con gái, chị và em gái của bạn làm vợ và làm nô lệ tình dục cho chúng như đa số phụ nữ Tạng ngày nay, không ai ngăn cản được nữa.
Giữa lúc tổ quốc đang lâm nguy, các chiến sỹ quân đội và công an NDVN là những người mà cả dân tộc đang trông đợi. Sức mạnh của đất nước, sự tồn vong của dân tộc đều đang nằm trong tay các bạn và các anh chị. Hồng Thúy tin rằng các bạn, các anh chị sẽ là những người đẩy lùi ý đồ xâm lược của TQ, phá tan âm mưu của những kẻ đang tâm bán rẻ đất nước cho giặc, giữ cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam mãi mãi trường tồn. Nhiều người nghĩ rằng Trung Quốc là siêu cường, Mỹ còn nể sợ, VN chống lại TQ như trứng chọi đá, chống sao nổi?. Xin đừng quên thế kỷ 13, quân Mông Cổ thôn tính hầu hết các quốc gia trên khắp lục địa Á – Âu, chiếm cả TQ, nhưng cả ba lần đều bị quân dân nhà Trần đánh cho tơi tả phải bỏ chạy. Cũng đừng quên quân Mãn Thanh đã chiếm trọn nước Trung Hoa khổng lồ và nhiều nước lân cận, nhưng đã tan nát trước đoàn quân thần tốc của vua Quang Trung. Dân tộc Viêt Nam với 93 triệu người là sức mạnh vô địch sẽ cùng với các bạn và các anh chị đẩy lùi quân xâm lược TQ một lần nữa. Trước đây tổ tiên ta luôn phải một mình chống trả lũ ác quỷ khổng lồ phương bắc và đã nhiều lần chiến thắng, ngày nay cả thế giới tiến bộ đứng hẳn về phía chúng ta trong cuộc đấu tranh này. Thắng lợi của Philippine tại Tòa Trọng tài Quốc tế ngày 12 tháng 7 vừa qua lại một lần nữa khẳng định điều đó.
Sau khi gửi bức thư này tới các bạn và các anh chị, Hồng Thúy sẽ bị bắt và bị sát hại. Cái chết ấy sẽ góp phần cùng với các bạn và các anh chị giữ mảnh đất này cho con cháu chúng ta mãi mãi về sau, nên HT đã sẵn sàng đón nhận. Mong rằng những lời tâm huyết này sẽ là khúc quân hành nâng bước chân các bạn và các anh chị trong cuộc hành quân vĩ đại vì sự nghiệp thiêng liêng bảo vệ tổ quốc.
Hồng Thúy xin gửi tới các bạn và các anh chị những tình cảm yêu quý và kính trọng, như với các anh chị, cha mẹ, ông bà ruột của Hồng Thúy, cũng từng là những quân nhân Việt Nam đã cống hiến hết mình cho đất nước.
Phạm Hồng Thúy – Văn Giang – Hưng Yên