Tin Việt Nam – 18/3/2015

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tin Việt Nam – 18/3/2015

New Zealand ‘do thám’ quan chức CSVN?

“New Zealand do thám Việt Nam và một loạt các nước khác nhằm trám vào lỗ hổng trong hoạt động tình báo trên khắp thế giới do Cơ quan An ninh Quốc gia của Hoa Kỳ (NSA)”.

Tờ The New Zealand Herald mới đưa tin như vậy sau khi phân tích nhiều trang tài liệu được Edward Snowden, cựu nhân viên hợp đồng của NSA, cung cấp.

Nhật báo có số lượng phát hành thuộc loại lớn ở quốc đảo nằm ven bờ Thái Bình Dương nhận định rằng việc đó cho thấy sự khác biệt giữa chính sách ngoại giao chính thức và bí mật của New Zealand.

“Việt Nam không phải là mối đe dọa an ninh hay khủng bố đối với New Zealand, nhưng vẫn nằm trong danh sách bị do thám,” tờ báo viết.

The New Zealand Herald dẫn lời các tài liệu được Edward Snowden tiết lộ cho biết rằng cơ quan an ninh quốc gia New Zealand sử dụng hệ thống có tên gọi Warriorpride để “cài phần mềm độc hại vào các máy tính, cũng như theo dõi liên lạc của các máy điện thoại di động, trong đó có iPhone và loại sử dụng hệ điều hành Android”.

Theo nhận định của một số chuyên gia, thông tin này nhiều khả năng sẽ làm sứt mẻ quan hệ vốn nồng ấm giữa Việt Nam và New Zealand, khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có chuyến công du đầu tiên tới quốc đảo nằm ven bờ Thái Bình Dương này vào ngày mai, 19/3.

Ông Nicky Hager, phóng viên điều tra, tác giả bài báo trên tờ The New Zealand Herald, cho VOA Việt Ngữ biết ông và các đồng nghiệp của ông bất ngờ phát hiện vụ do thám này trong khi tìm kiếm thông tin thông tin liên quan tới New Zealand trong các tài liệu mà cựu chuyên viên phân tích tình báo Mỹ Edward Snowden công bố.

“Các tài liệu không đề cập tới lý do vì sao họ lại chọn do thám Việt Nam. Theo nhận định của tôi, trong khi New Zealand có mối quan hệ thân thiện với Việt Nam và thương mại giữa hai nước đang trên đà tăng trưởng, thì vụ do thám này chắn chắn cho thấy New Zealand muốn giúp đỡ Hoa Kỳ vì là đối tác của Washington trong nhóm “Năm cặp mắt”.

Tin chức cho hay, nhóm liên minh tình báo này bao gồm năm nước trong đó có Mỹ, New Zealand, Australia, Canada và Anh.

Chuyên gia về vấn đề do thám này cũng nói thêm rằng nhóm nghiên cứu của ông đã liên lạc với chính phủ New Zealand, nhưng theo lời ông, “họ không bình luận bất kỳ điều gì về vấn đề này”.

Nhưng theo ông Hager, “điều đó cũng vô nghĩa vì đó là các tài liệu nội bộ của họ nên không còn nghi ngờ gì về việc thông tin đó là đúng”. Nhà báo điều tra nói thêm:

“Những tài liệu đó cho thấy rằng New Zealand đang thực hiện một chính sách ngoại giao hai mặt. Một mặt nước này công khai tỏ ra thân thiện với các quốc gia ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, tỏ ra không có kẻ thù với ai, nhưng mặt khác lại có chính sách liên kết với Mỹ, do thám các quốc gia mà New Zealand coi là bạn hữu”.

CSVN chưa lên tiếng bình luận về những cáo buộc do tờ The New Zealand Herald đưa ra.

Qua email, VOA Việt Ngữ cũng đã đặt câu hỏi phỏng vấn với Đại sứ New Zealand ở Việt Nam, ông Haike Manning về quan hệ Việt Nam-New Zealand cũng như các cáo buộc do thám nhưng đại diện của cơ quan ngoại giao này nói ông sẽ có buổi họp báo vào ngày 26/3 để “giải đáp mọi thắc mắc liên quan tới chuyến thăm của Thủ tướng Việt Nam tới New Zealand”.

Các cáo buộc về việc do thám xuất hiện trước chuyến thăm kéo dài 2 ngày được coi là nhằm củng cố quan hệ toàn diện giữa CSVN và New Zealand của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Chưa rõ là người đứng đầu chính phủ CSVN có bày tỏ quan ngại về vấn đề vốn từng gây sứt mẻ quan hệ giữa nhiều quốc gia trên thế giới hay không.

Hai quốc gia sẽ đánh dấu 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước trong năm 2015.

Theo Bộ Ngoại giao CSVN, hợp tác kinh tế song phương “phát triển mạnh với kim ngạch thương mại hai chiều tăng từ 300 triệu USD năm 2009 lên 794 triệu USD năm 2014”.

Hồi cuối năm 2013, báo chí Úc cũng đã dẫn tài liệu mật của NSA cho biết rằng các cơ quan đại diện ngoại diện của Canberra đã được dùng để nghe lén điện thoại và lọc dữ liệu tại nhiều quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam, như một phần của hệ thống do thám của Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, các quan chức cấp cao của Australia sau đó đã từ chối bình luận về các vụ do thám này.

Trong một diễn biến mới nhất liên quan tới quan hệ CSVN-Australia, thủ tướng hai nước đã nhất trí tăng cường hợp tác an ninh sau các cuộc thảo luận tại Canberra nhân chuyến thăm Australia của Nguyễn Tấn Dũng, trong đó cả hai bày tỏ sự lo ngại về việc Trung Cộng “diễu võ giương oai” ở biển Đông. – Theo VOA

CSVN-Australia siết chặt quan hệ an ninh

CSVN và Australia đồng ý tăng cường thêm nữa các mối quan hệ an ninh trong khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thực hiện chuyến viếng thăm chính thức tới Australia. Theo tường thuật của thông tín viên Ron Corben của đài VOA tại trung tâm tin tức Đông Nam Á ở Bangkok, việc này diễn ra trong lúc ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực đang gia tăng và vụ tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông tiếp tục gây ra nhiều mối căng thẳng.

Loan báo về việc tăng cường các mối quan hệ giữa CSVN và Australia được đưa ra trong lúc Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng chuẩn bị kết thúc chuyến viếng thăm chính thức kéo dài hai ngày. Trước đó, người đứng đầu chính phủ ở Hà Nội nói rằng các nước trong khu vực nên tự chế để tránh làm cho căng thẳng leo thang.

Tại cuộc họp báo ở Canberra, Dũng cho biết Việt Nam và Australia đồng ý với nhau về tầm quan trọng của an ninh biển và tự do hàng hải ở Biển Đông và sự cần thiết của việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế.

TC hồi gần đây đã gia tăng các hoạt động nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền đối với hầu như toàn bộ Biển Đông, một khu vực có những đòi hỏi chủ quyền chồng chéo nhau của nhiều nước, kể cả Việt Nam, Philippines, Malaysia và Đài Loan.

CSVN và Philippines cho biết họ sẽ ủng hộ cho nhau, sau khi Philippines nộp đơn kiện TC ra trước tòa án trọng tài ở La Haye về yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Theo thỏa thuận mới đạt được ở Canberra, 120 nhân viên quân đội CSVN sẽ được huấn luyện ở Australia và Việt Nam sẽ tham gia các cuộc thao dượt quân sự hỗn hợp. Hai nước đã thiết lập quan hệ quốc phòng vào năm 1999. Từ đó tới nay, hơn 1.200 binh sĩ CSVN đã tham gia các chương trình hợp tác về giáo dục, đào tạo quân sự.

Ông Christopher Roberts, giáo sư chính trị học của Đại học New South Wales, cho biết những thỏa thuận này nêu bật mối quan tâm của CSVN và Australia về tình hình căng thẳng ở Biển Đông.

“Nó cho thấy, ở một mức độ, một sự bày tỏ quan tâm không những của Việt Nam mà của cả Australia về những hành động hồi gần đây, nhất là trong vòng 6 hoặc 7 năm qua – một số những hành động đã gia tăng trong khoảng một năm vừa qua của Trung Quốc ở Biển Đông. Và dĩ nhiên, theo cái nhìn của Australia, vấn đề quan trọng nhất là lập trường của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông và một cách rộng lớn hơn là nỗ lực hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc.”

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã kêu gọi tự chế để tránh những hành động có thể làm leo thang căng thẳng trong khu vực, kể cả việc sử dụng sức mạnh quân sự và đơn phương thay đổi hiện trạng.

Ông Carl Thayer, một nhà phân tích chính trị Á châu, cho biết một yếu tố chính đối với CSVN là Australia có một mối quan hệ rất chặt chẽ với Hoa Kỳ.

“Australia là đồng minh của Mỹ. Đó là điểm then chốt – xích gần hơn tới Australia thì Việt Nam sẽ tiến gần hơn tới chỗ có được một hiệp định đối tác chiến lược với Philippines. Và sau đó quí vị sẽ có được một số lợi thế trong mối quan hệ. Quí vị được xem là một nước có trách nhiệm, tuân thủ những chuẩn mực quốc tế.”

Giáo sư Thayer nói rằng sự hội tụ của những quyền lợi giữa Australia và CSVN mỗi lúc một tăng vì sự căng thẳng trong môi trường an ninh và sự thay đổi cán cân quyền lực giữa các cường quốc thế giới.

Thông cáo chung CSVN-Australia cũng đề cập tới sự gia tăng hợp tác tại các định chế đa phương, như Liên hiệp quốc, APEC và ASEAN.

Quan hệ kinh tế giữa Australia và CSVN cũng đang trên đà gia tăng. Kim ngạch mậu dịch hai chiều đã lên tới mức 6 tỉ đô la năm 2014, và trong số các nước ở Đông Nam Á, Việt Nam là nước có tỉ lệ tăng trưởng mậu dịch cao nhất với Australia.

Theo lịch trình đã được ấn định, Bộ trưởng Thương mại Australia sẽ đi thăm Việt Nam trong năm nay với một phái đoàn cấp cao để bàn về những kế hoạch thương mại và đầu tư.

Nguyễn Tấn Dũng cũng đi thăm New Zealand, là nước mà quan hệ thương mại với Việt Nam cũng đã tăng mạnh trong thời gian qua. Chỉ trong vòng 5 năm, thương mại hai chiều đã tăng hơn gấp đôi, lên tới 794 triệu đô la vào năm 2014. – Theo VOA

‘Dư Luận Viên’ lên báo chí nhà nước

Công an Hà Nội cho biết chính phủ không liên quan gì đến nhóm dư luận viên ngăn cản người dân đặt hoa tưởng niệm các liệt sĩ Gạc Ma tại tượng đài Lý Thái Tổ và tượng đài Quyết Tử ở thủ đô sáng 14 tháng Ba vừa qua.

Trong một cuộc họp báo, Thiếu Tướng Nguyễn Đức Chung, Giám Đốc Công An Hà Nội cho rằng nhóm thanh niên mặc áo đỏ có in logo giống như logo của công an và dòng chữ viết tắt là DLV chỉ là một nhóm tự phát, hoạt động của họ không do công an thủ đô hay ban tuyên giáo điều khiển.

Trong hai ngày 17 và 18 tháng ba, các tờ báo lớn của Việt nam đã đồng loạt đưa tin này có trích lời tướng Nguyễn Đức Chung. Sau đây là ghi nhận ý kiến một số người có tham dự vào sự việc ngày 124/3 cũng như một số nhà báo Việt nam.

Một sự thay đổi về nhận thức?

Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, từng làm việc cho báo Thanh niên tại TP HCM cho biết:

“Lần đầu tiên công an Hà nội lên án những người đó, cho đó là những kẻ quậy phá và phải đi điều tra xác minh. Rồi nói những người đi tưởng niệm là những người yêu nước. Chứ hồi xưa tới giờ…. Mới cách đây mấy ngày có bài trên báo quân đội cho đó là những người phá nước. Đây là một bất ngờ lớn đối với công luận ở Việt nam.”

Kỹ sư Nguyễn Tiến Trung từ TP HCM cũng cho biết anh cũng thấy việc cơ quan công an và báo chí nhà nước lên tiếng về việc cản phá buổi lễ tưởng niệm là một sự lạ:

“Những lần đi dâng hương trước đây lần nào cũng bị quấy phá nhưng chưa bao giờ cơ quan công an hay báo chí lên tiếng, nhưng lần này thì lại có sự lên tiếng chính thức thì đó là một sự lạ. Việc này có thể là sự chuyển biến trong nhận thức của cơ quan chức năng, của chính quyền. Vì nếu cứ để cái tình trạng những người tự xưng là dư luận viên ngăn cản những người yêu nước đi tưởng niệm những liệt sĩ Hoàng sa, Trường sa, thì không thể chấp nhận được, vì nó chẳng khác nào ủng hộ Trung quốc cả.”

Nhà báo Võ Văn Tạo từ Nha Trang nói rằng việc truyền thông CSVN đồng loạt đưa tin về những diễn biến của buổi tưởng niệm ngày 14/3 ở Hà nội rằng báo chí Việt nam đã vượt qua được một nỗi sợ mơ hồ khi đụng tới những cuộc biểu tình không do nhà nước tổ chức.

Ông Nguyễn Hữu Vinh một nhà báo tự do nói rằng phát biểu của tướng Chung là do ông có mặt tại nơi diễn ra buổi tưởng niệm:

“Ông Nguyễn Đức Chung đã thấy được những người đi tưởng niệm. Họ là ai? Làm những cái gì? Có phù hợp luật pháp không? Tinh thần đó ra sao? Và chính ông Nguyễn Đức Chung đã phát biểu rằng đấy là những người yêu nước.”

Những người có mặt nói gì?

Ông Nguyễn Hữu Vinh có mặt tại buổi lễ tưởng niệm ngày 14 tháng 3 ở Hà nội cho biết là lần này nhóm của ông bị cản phá mạnh hơn những lần trước:

“Lần này có khác hơn là có cả cờ đỏ búa liềm, rồi hô rồi hét là như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng, rồi là đảng cộng sản Việt nam quang vinh muôn năm. Điều đó tạo nên một sự phản cảm vô cùng lớn trên các trang mạng xã hội, cũng như là đối với du khách nước ngoài và người dân có mặt ở bờ hồ sáng hôm đó.”

Chúng tôi liên lạc được với anh Nguyễn Quang Bách, thuộc nhóm được gọi là Dư luận viên sáng ngày 14/3. Bách nói rằng anh thuộc một nhóm tên là Viet Vision và báo chí đã không đưa đúng sự thật.

“Hai ngày vừa qua báo chí đưa tin không có lợi cho nhóm Viet Vision. Tôi nghĩ là hôm 14 tháng ba vừa rồi cả hai tổ chức No-U và Viet-Vision đều phải công bằng vì cả hai bên đều đi tưởng niệm. Theo tôi thì các bài báo không đúng sự thật, nó không được công bằng vì nhà báo không xác minh được ai là kẻ gây rối, ai là kẻ ngăn cản. Trong các video clip được ghi lại thì nhóm No-U cũng gây rối, ngăn cản nhóm Viet Vision tưởng niệm hôm 14/3.”

Khi được hỏi là nghĩ thế nào khi trong ngày đau buồn kỷ niệm mất đảo Garma mà lại hát như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng Bách nói là nhóm của anh không có hát như thế:

“Nhóm Viet Vision không có liên quan gì đến các sinh viên. Sau đó nhóm Viet Vision có phỏng vấn những sinh viên đang nhảy múa ở đấy, thì các bạn trả lời là đây là một sự kiện do đoàn trường tổ chức bao gồm bốn đại học, là đại học ngân hàng, đại học y dược, đại học giao thông vận tải, và đại học văn hóa các bạn giao lưu với nhau. Các bạn sinh viên tình nguyện giao lưu với nhau. Ở trong nước thì việc quan tâm đến các vấn đề lịch sử của một số bạn trẻ không còn nhiều. Và người ta cũng không biết ngày 14 tháng ba là ngày gì. Nên chuyện các sinh viên tình nguyện giao lưu với nhau là chuyện bình thường.”

Hoạt động của Báo chí và sự cần thiết của luật biểu tình

Trở lại chuyện báo chí Việt nam đưa tin ngày tưởng niệm Garma 14/3, nhà báo Phạm Chí Dũng cho biết:

“Đây là lần đầu tiên cũng diễn ra một sự kiện liên quan tới Trung quốc nhưng có một sự cộng hưởng nhất định giữa báo chí hai lề. Trước đây chúng ta gọi là lề trái lề phải bây giờ gọi gần gũi hơn là mạng xã hội và báo chí nhà nước. Chúng ta có thể đọc được trên báo Giáo dục Việt nam, bài Một hành động không thể chấp nhận được, họ lên án một cách quyết liệt nhóm người được gọi là dư luận viên. Như vậy là tinh thần báo chí, tôi muốn nói là báo chí nhà nước đã tự nguyện nâng cao hơn, vượt ra ngoài khuôn lề của cơ quan tuyên giáo, đặc biệt là những siêu Tổng biên tập như cơ quan tuyên giáo trung ương. Tôi cho đây là một động thái đặc biệt, và họ thấy rằng họ không thể im lặng được nữa. Một khi ngay cả công an, là Thiếu tướng Chung Giám đốc công an Hà nội lần đầu tiên đứng ra thanh minh rằng nhóm dư luận viên đó không phải là của công an, cũng không phải là của tuyên giáo. Và một cách gián tiếp phủ nhận vai trò kiêu binh, hồng vệ binh của nhóm dư luận viên ấy, thì có thể nói rằng không còn gì thuận lợi hơn để cho báo chí nhà nước mở miệng.”

Nhưng cũng có những ý kiến thận trọng hơn, như nhà báo Võ Văn Tạo ở Nha Trang cho biết:

“Hồi biểu tình năm 2011 ở Hà nội thì ông Thiếu tướng Nguyễn Đức Nhanh nói là biểu tình chống Trung quốc là yêu nước, và Hà nội không chủ trương đàn áp biểu tình. Báo Thanh niên, tờ báo có số phát hành thứ hai trong cả nước đăng chuyện đó lên trang nhất. Sau đó báo Thanh niên bị phê bình về chuyện đó. Chuyện biểu tình vẫn bị đàn áp. Những người biểu tình không chỉ bị đàn áp lúc đó, mà sau này còn bị khủng bố, quậy đủ thứ, thậm chí bị triệt đường mưu sinh.

Thì đây có sự thay đổi, có khả năng là lập trường chống Trung quốc rõ hơn trong Bộ chính trị. Trong lãnh đạo cấp cao của Việt nam.

Nhưng có khả năng thứ hai là người ta vẫn nói một đàng làm một nẻo, tức là nó không đồng bộ. Người này nói thế này, nhưng có khi người khác sau đó lại làm thế khác. Ông Chung giám đốc công an Hà nội thì cũng chỉ là công an Hà nội thôi. Còn sự chỉ đạo kia là từ cả bộ công an.”

Sự việc tưởng niệm Garma lại xảy ra đồng thời với việc chính phủ Việt nam đề nghi Quốc hội hoãn việc phê chuẩn luật biểu tình sang năm 2016. Anh Nguyễn Anh Tuấn, thành viên tổ chức dân sự Voice nhận xét rằng luật biểu tình đang là một nhu cầu cấp thiết cho dân chúng Việt nam. Và những hoạt động đường phố của những nhóm đối lập nhau như trong ngày 14 tháng ba vừa qua hẳn sẽ không xảy ra xung đột nếu như có luật biểu tình. – Theo RFA

Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đến Úc.

Thủ tướng chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và thủ tướng Úc Tony Abbott tại cuộc họp báo sáng 18/3.

Thủ tướng chính phủ CSVN Nguyễn Tấn Dũng và thủ tướng Úc Tony Abbott tại cuộc họp báo sáng 18/3.

Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã đến Sydney vào tối 16-03-2015 mở đầu chuyến viếng thăm chính thức nước Úc đến ngày 18-03. Mặc Lâm có cuộc trao đổi với nhà báo Lưu Tường Quang hiện đang sống tại Sydney để biết thêm về các hoạt động của ông Thủ tướng cũng như các phản ứng của truyền thông và cộng đồng người Việt tại Úc.

Mặc Lâm: Thưa anh ngày hôm qua Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gặp Toàn quyền Peter Cosgrove và Thống đốc bang New South Wales là David Hurley, anh có chi tiết đặc biệt gì về các cuộc gặp này hay không?

Nhà báo Lưu Tường Quang: Thưa đúng như anh nói trong chuyến đi chính thức thăm viếng Úc châu hai ngày 17 và 18 tháng Ba thì trong ngày hôm qua tại Sydney, thủ phủ của bang New South Wales thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gặp khá nhiều các giới chuyên gia, kinh tế tài chánh và đặc biệt là cuộc viếng thăm nghi lễ đến ông Toàn quyền tiểu bang là Tướng David Hurley và ông Toàn quyền Liên bang là cựu đại tướng Peter Cosgrove.

Tôi cũng xin nhắc thêm Peter Cosgrove từng là một trung úy trong chiến đoàn đặc nhiệm Anzac tại tỉnh Phước Tuy trong cuộc chiến Việt Nam mà ông tham chiến vào cuối thập niên 1960. Sau này khi ông trở thành Đại tướng và Chỉ huy trưởng quân đội Hoàng gia Úc Đại Lợi thì ông cũng đã thăm viếng Việt Nam hai lần cho nên sự hiểu biết của Tướng Peter Cosgrove về Việt Nam cả Nam lẫn Bắc Việt Nam tương đối khá rộng rãi. Tuy nhiên hai vị này chỉ giữ vai trò nghi lễ nhiều hơn là phương diện chính trị cho nên cuộc thăm viếng của ông Nguyễn Tấn Dũng nó có tính cách xã giao nhiều hơn về mặt chính trị.

Tuy nhiên ông Nguyễn Tấn Dũng cũng đã nhân cơ hội này bày tỏ sự tán đồng chính sách của nước Úc trong việc cải thiện bang giao hay thiết lập chặt chẽ hơn sự hợp tác giữa các quốc gia tại vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam.

Ông Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp gỡ với các nhà nghiên cứu tại Viện Lowy, là Viện nghiên cứu chính sách quốc tế hàng đầu của Úc…thì ông NTD đã trình bày không những vấn đề bang giao giữa Australia và Việt Nam mà còn là tầm nhìn của Việt Nam trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông nữa – nhà báo Lưu Tường Quang

Tôi nghĩ rằng trong ngày hôm qua 17 tháng Ba sinh hoạt quan trọng của ông Nguyễn Tấn Dũng là về đầu tư và kinh tế tài chánh vì Sydney là thủ đô kinh tế lớn nhất của nước Úc. Riêng về công luận chính trường thế giới thì sự xuất hiện của ông Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp gỡ với các nhà nghiên cứu tại Viện Lowy, là Viện nghien cứu chính sách quốc tế hàng đầu của Úc mà cũng là một trong những viện nghiên cứu lớn trên thế giới, thì ông Nguyễn Tấn Dũng đã trình bày không những vấn đề bang giao giữa Australia và Việt Nam mà còn là tầm nhìn của Việt Nam trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông nữa.

Mặc Lâm:Anh vừa nhắc tới vấn đề tranh chấp Biển Đông, có vẻ quan điểm của Úc và Việt Nam rất gần nhau, anh có thể cho biết trong đợt công du lần này Thủ tướng Dũng chương trình bàn vấn đề quan trọng này với Thủ tướng Tony Abbot không?

Nhà báo Lưu Tường Quang: Đúng như vậy, theo dự trù thì ngày hôm nay 18 tháng Ba tại thủ đô Canberra Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ có cuộc thảo luận chính thức với Thủ tướng Úc Tony Abbot. Tôi nghĩ đây là ngày quan trọng trong vấn đề ngoại giao. Biển Đông là một trong các vần đề mà lãnh tụ hai nước đã thảo luận. Tôi tin rằng như anh nói và đồng ý với anh là lập trường của Úc và lập trường của Việt Nam về Biển Đông không khác nhau nhiều. Tuy Australia không có tranh chấp biển đảo, thềm lực địa cũng như vùng kinh tế chuyên biệt đối với Trung Quốc hay với Việt Nam.

Lập trường của Úc và của Hoa Kỳ, Nhật Bản là Biển Đông phải có quy chế thông thương hàng hải một cách tự do. Vì đe dọa của Trung Quốc áp đặt vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông cho nên ngày nay khi người ta nói tới vần đề tự do lưu thông thì người ta không chỉ nói tới hàng hải mà còn là hàng không nữa. Cũng vì lý do này mà Úc, Nhật và Hoa Kỳ đã nhiều lần nêu rõ vấn đề này và khuyên các quốc gia tranh chấp cố giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông bằng phương tiện hòa bình thương thuyết theo đúng luật quốc tế và đặt biệt là luật biển 1982 của Liên Hiệp Quốc.

Chính ông Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc tiếp xúc với Viện nghiên cứu Lowy vào ngày hôm qua, đã lập lại lập trường Việt Nam về cuộc tranh chấp Biển Đông là các quốc gia phải hành xử theo luật quốc tế và theo luật biển 1982 cũng như theo cách ứng xử trong khu vực dựa theo bảng tuyên bố về nguyên tắc ứng xử DOC mà tổ chức ASEAN và Trung Quốc đang thảo luận để may ra có thể tiến tới quy luật ứng xử COC.

Mặc dù Việt Nam là nước có rất nhiều quyền lợi tại Biển Đông và đã bị mất chủ quyền một phần nào tại Hoàng Sa và Trường Sa, mà Úc không phải đối diện với các vấn để khó khăn này,  nhưng hai bên như anh nói và tôi đồng ý là lập trường của Úc và Việt Nam không có nhiều khác biệt.

Ngày hôm qua Thứ Ba tại tiền đình Quốc hội Tiểu bang New South Wales, nơi ông Nguyễn Tấn Dũng tới để sinh hoạt với giới chính trị của tiểu bang thì khoảng 1.000 người đã tới biểu tình với quốc kỳ Úc và cờ vàng của Việt Nam Cộng Hòa. Ngày hôm nay tại thủ đô Canberra một cuộc biểu tình tương tự – nhà báo Lưu Tường Quang

Mặc Lâm:Theo quan sát của anh thì chính giới và truyền thông của Úc có phản ứng gì về vấn đề nhân quyền, tự do tôn giáo hay Internet trong chuyến đi này của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng…

Nhà báo Lưu Tường Quang: Vâng, về vấn đề này thì báo chí Úc vẫn thường xuyên theo dõi tình trạng nhân quyền tự do dân chủ tại Việt Nam, đặc biệt nhân chuyến công du Úc châu lần này của ông Nguyễn Tấn Dũng, đây là lần thăm viếng thứ hai của ông Dũng tại Australia, thì báo chí Úc cũng đã đặt lại vấn đề nhân quyền. Tờ Guardian Oline đã viết một bài bình luận rất rõ ràng, yêu cầu Thủ tướng Tony Abbot không chỉ nhìn sự phát triển của Việt Nam trên phương diện kinh tế hay đầu tư mà cũng phải nhìn các vấn để tự do dân chủ và nhân quyền, và tờ báo đã nêu nhân quyền như là một điều căn bản mà Thủ tướng Tony Abbot phải nêu lên với ông Nguyễn Tấn Dũng.

Tôi không hiểu là ông Abbot có thể làm việc này hay không, tuy nhiên nếu ông có làm việc này, mà tôi nghĩ có thể ông sẽ làm, thì có lẽ ông cũng không tuyên bố công khai vì Úc từ trước tới nay vẫn giữ lập trường là vấn đề nhân quyền mà họ tranh đấu hay bàn thảo, vận động theo đường lối ngoại giao một cách thầm lặng hơn là công khai.

Vấn đề này là mối quan tâm chính yếu của người Việt tại Úc. Hiện nay có khoảng 300 ngàn người Việt sinh sống tại Úc châu và vấn đề tự do, dân chủ và nhân quyền của Việt Nam luôn luôn là quan tâm hàng đầu của cộng đồng. Cũng vì lý do đó mà ngày hôm qua Thứ Ba tại tiền đình Quốc hội Tiểu bang New South Wales, nơi ông Nguyễn Tấn Dũng tới để sinh hoạt với giới chính trị của tiểu bang thì khoảng 1.000 người đã tới biểu tình với quốc kỳ Úc và cờ vàng của Việt Nam Cộng Hòa. Ngày hôm nay tại thủ đô Canberra một cuộc biểu tình tương tự của cộng đồng người Việt cũng đang xảy ra vào sáng hôm nay trước tiền đình Quốc hội Liên bang.

Mặc Lâm:Vâng đó là hình ảnh mà chúng ta thấy trên Internet rất nhiều về những lá cờ vàng phản đối chuyến công du của ông Dũng. Tuy nhiên bên cạnh 300 ngàn người Việt còn có 30 ngàn du học sinh từ Việt Nam sang, thái độ của những du học sinh này ra sao thưa anh, có rõ ràng lắm hay không?

Nhà báo Lưu Tường Quang: Thái độ của họ tương đối rõ ràng. Nhưng khi chúng ta nói tới 30 ngàn du sinh hoặc nghiên cứu sinh từ Việt Nam sang Úc, đứng về mặt nhân số thì điều đó đúng nhưng không phải mọi người trong số 30 ngàn du sinh đó đều công khai ủng hộ chế độ CHXHCN Việt Nam trong khi họ ở nước ngoài. Cũng có người ủng hộ một cách rất nhiệt thành chế độ và trong góc cạnh này thì chuyến đi của ông Nguyễn Tấn Dũng đã là cơ hội cho ông ấy gặp gỡ những kiều bào của họ hay những phần tử ủng hộ trong hàng ngũ 30 ngàn sinh viên đang du học tại Úc.

Tôi cũng xin nói thêm là trong hàng ngũ người tỵ nạn Việt Nam cũng có một số thương gia ngày nay cũng tỏ ra ủng hộ chế độ CHXHCN Việt Nam vì lý do làm ăn buôn bán của họ đối với Việt Nam. Con số này tương đối rất nhỏ nhưng cũng đã được mời tới tham dự những cuộc tiếp tân, những lễ lạc, dạ tiệc mà tòa đạisứ CHXHCN Việt Nam tổ chức, hoặc do từ phía Úc tổ chức.

Nhìn chung tôi thấy đa số người Việt Nam bất kể tị nạn hay du học sinh họ đều mong muốn nước Việt Nam được ổn định, hòa bình và phát triển kinh tế đồng thời có những tiến bộ cụ thể về nhân quyền, tự do dân chủ. Đó là mong mỏi của tất cả mọi người bất kể người Việt Nam định cư tại Úc hay người đang có mặt trong tư cách tạm trú.

Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà báo Lưu Tường Quang.

Kiều hối gởi về Việt Nam tăng nhờ có “tiền rửa” ?

Kiều hối gởi về Việt Nam tăng nhờ có
 Một điểm thu phát tiền của hãng chuyển ngân Mỹ Western Union tại Saigon – Trọng Nghĩa/RFI

Nếu có một hằng số liên quan đến kinh tế Việt Nam trong một chục năm gần đây, thì đó là đà tăng trưởng của kiều hối, tức là ngoại tệ mà người Việt ở nước ngoài gởi về Việt Nam. Điều đáng ngạc nhiên là tính chất đều đặn và nhanh chóng của cho dù tại những nơi xuất phát chính của nguồn kiều hối đã xuất hiện khủng hoảng kinh tế, tác hại đến đời sống của người dân. Tính chất « không bình thường » của đà tăng kiều hồi đã tạo nên nghi vấn về nguồn gốc không minh bạch của một phần lớn kiều hối được chuyển về Việt Nam trong những năm gần đây.

Điểm cần ghi nhận trước tiên là tính chất quan trọng của lượng kiều hối gởi về Việt Nam trong thời gian qua. Trước tiên hết là về quy mô và tốc độ tăng trưởng.

Trong một bản báo cáo công bố tháng 08 năm 2014, Ngân hàng Thế giới – định chế tài chánh quốc tế có cả một bộ phận chuyên nghiên cứu về di dân và kiều hối trên thế giới, hai phạm trù có liên quan chặt chẽ với nhau – đã cung cấp số liệu về kiều hối của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam trong giai đoạn 2005-2014.

Tính theo tỷ đô la, các số liệu là như sau : 3,15 (2005) – 3,80 (2006) – 6,18 (2007) – 6,80 (2008) – 6,02 (2009) – 8,26 (2010) – 8,6 (2011) – 10 (2012) – 11 (2013) – 11,40 (2014).

Trong vòng 10 năm, kiều hối tăng gấp 4, vượt mức 11 tỷ

Nếu tính theo giá trị tuyệt đối, thì trong khoảng thời gian 10 năm từ 2005 đến năm 2014, tổng trị giá kiều hối chuyển ngân theo đường chính thức về Việt Nam đã tăng lên gần gấp 4 lần, từ 3,15 tỷ đô la năm 2005, lên thành 11,40 tỷ đô la theo số liệu ước tính của năm 2014.

Tốc độ tăng cũng rất nhanh với ba mốc quan trọng: từ 3,8 tỷ đô la năm 2006, vượt mức hơn 6 tỷ đô la năm 2007, dao động ở mức này trong hai năm, vọt ngưỡng 8 tỷ năm 2010, lên ngưỡng 10 tỷ năm 2012, và từ đó đến nay, năm nào cũng tăng khoảng 10%.

Giới chuyên gia tại Việt Nam rất lạc quan trước khả năng kiều hối sẽ tiếp tục tăng ít ra là trong hai năm 2015 và năm 2016.

Trong danh sách các nước có nguồn kiều hối cao nhất thế giới, théo số liệu chính thức mới nhất là năm 2013 (năm 2014 chỉ là số ước tính), thì Việt Nam được xếp thứ 10. Đứng đầu bảng là Ấn Độ (70 tỷ), Trung Quốc (60 tỷ) và Philippines (25 tỷ).

Nguồn «vốn» thứ hai của Việt Nam, thua FDI nhưng hơn ODA

Đối với Ngân hàng Thế giới, nguồn kiều hối đã góp phần không nhỏ vào việc cung ứng ngoại tệ cho Việt Nam. Cũng theo số liệu của năm 2013, kiều hối được ước lượng chiếm khoảng 6,4% GDP của Việt Nam.

Trong công trình nghiên cứu «Toàn cảnh kiều hối tại Việt Nam và những đóng góp cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước», công bố ngày 17/12/2014, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) một trung tâm nghiên cứu của chính phủ Việt Nam, đã ghi nhận sức nặng đáng kể của kiều hối đối với kinh tế Việt Nam.

Báo chí Việt Nam đã trích dẫn báo cáo này để xác định rằng: «Trong giai đoạn 2007-2013, Kiều hối là nguồn vốn lớn thứ 2 tại Việt Nam (sau tổng vốn Đầu tư Trực tiếp Nước ngoài FDI đã thực hiện) và lớn hơn cả vốn Viện trợ Phát triển Chính thức ODA đã giải ngân. Đặc biệt, trong giai đoạn 2004-2006, kiều hối là nguồn vốn lớn nhất của đất nước».

Nguyên nhân giúp kiều hối tăng là gì?

Điểm được các nhà quan sát ghi nhận là nguồn kiều hối đổ vào Việt Nam trong thời gian qua đã tăng đều đặn và tăng mạnh cho dù các vùng lãnh thổ được cho là nơi xuất phát truyền thống của kiều hối, cụ thể là Hoa Kỳ (chiếm 57% nguồn kiều hối chuyển về Việt Nam) hay là Châu Âu, đã bị vướng vào nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh liên tiếp, đặc biệt từ sau vụ Ngân hàng Mỹ Lehman Brothers phá sản vào năm 2008.

Những giải thích về nguyên nhân khiến kiều hối tiếp tục tăng rất nhiều. Trong một bài phỏng vấn dành cho Thông Tấn Xã Việt Nam vào đầu năm nay (23/01/2015), Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Hồng Nam đã nêu lên các nguyên nhân như số lượng người Việt Nam ra sinh sống và lao động tại nước ngoài ngày càng tăng, dịch vụ ngân hàng ngày càng cải thiện và đặc biệt là vấn đề chính sách.

«Sự thông thoáng về chính sách của Nhà nước trong việc thu hút nguồn kiều hối (bãi bỏ nhiều quy định về thuế, không hạn chế số lượng tiền, nhận và trả hàng bằng nguyên tệ, người nhận kiều hối không phải chịu thuế thu nhập đối với các khoản ngoại tệ từ nước ngoài chuyển về hoặc bắt buộc phải bán ngoại tệ cho ngân hàng, thông thoáng trong việc về thăm quê hương, mua nhà ở, đầu tư trong nước…) đã góp phần thu hút mạnh mẽ nguồn kiều hối.»

Mặt trái của kiều hối

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, một số nhà quan sát đã bắt đầu đặt câu hỏi là phải chăng phía sau của hiện tượng kiều hồi đổ về Việt Nam còn có những nguyên nhân khác nữa.

Một bài viết đăng ngày 10/02/2015 trên báo mạng Doanh nhân Saigon của Hiệp hội Doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã không ngần ngại tìm hiểu xa hơn về «Hai mặt của kiều hối», tựa của bài báo, trong đó tác giả đã đặt ra câu hỏi là «liệu có phải toàn bộ kiều hối là những khoản tiền chắt chiu dành dụm của bà con người Việt sinh sống và làm việc ở nước ngoài gửi về giúp gia đình hoặc đầu tư kinh doanh trong nước hay không?»

Trong một bài viết trước đó, đăng ngày 26/01/2015 trên báo mạng Diễn đàn (diendan.org) ở Paris, dưới tựa đề « Lý giải kiều hối tăng mạnh và 33 tỷ đô la xuất ngoại », Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nguyên là chuyên gia Thống kê tại Liên Hiệp Quốc, cũng đã phân tích các số liệu khác nhau về kiều hối để nêu bật tính chất phức hợp của cái gọi là kiều hối, không chỉ đơn giản là tiền dành dụm của người Việt sinh sống hay lao động ở ngoại quốc gởi về nước, mà còn «tiền rửa» được chuyển ngược về đầu tư ở trong nước.

Không thể có khả năng một người ở Mỹ gởi về Việt Nam 4000 đô la/năm

Trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ RFI, Tiến sĩ Vũ Quang Việt xác định rằng khối lượng kiều hối chính thức từ 9 đến 11 tỷ đô la/năm thật ra là quá nhiều so với sức gửi của người Việt làm việc hoặc định cư ở nước ngoài… Không thể có chuyện trung bình một người Việt định cư trên thế giới gửi hàng năm mỗi người là 1.400 đô la về nước, và tính riêng ở Mỹ là 4.000 đô la/năm (hay 12.000đô la/năm trong trường hợp thường thấy là một gia đình 3 người).

Đối với Tiến sĩ Việt, một phần không nhỏ số kiều hối gởi về Việt Nam phải là tiền quan chức tham nhũng tại Việt Nam, ăn cắp thông qua các hợp đồng thương mại (như tăng giá bán lên), tạm giữ ở ngoại quốc rồi gửi trở lại Việt Nam qua dạng kiều hối.

Trung bình trong 5 năm qua, có đến 6 tỷ chảy vào Việt Nam thêm hàng năm, riêng năm 2013 là 9 tỷ, tổng cộng 5 năm qua là 30 tỷ mà không nằm trong hệ thống tài chính, không được sử dụng trong kênh chính thức. Con số này được tính bằng cách so sánh nguồn ngoại tệ chảy vào (buôn bán, vay mượn, đầu tư nước ngoài, kiều hối) trừ đi ngoại tệ chảy ra, và trừ đi tiền đưa thêm vào dự trữ ngoại tệ. Số tiền này có thể nằm phần lớn ở cái gọi là kiều hối.

Tương quan giữa «tiền rửa» chuyển về nước và nhập lậu từ Trung Cộng

Một hệ quả của hiện tượng tiền được «rửa sạch» rồi chuyển về Việt Nam đó, theo Tiến sĩ Vũ Quang Việt, là nạn nhập lậu hàng ồ ạt từ TC. Nguồn tiền đó có thể thông qua các cách chu chuyển khác nhau, để bơm vào tài trợ cho việc nhập lậu từ TC.

Nhập lậu được tính bằng cách lấy số xuất sang Việt Nam theo báo cáo của Hải quan TC, trừ đi số nhập được Việt Nam báo cáo chính thức qua hải quan. Dấu hiệu cho thấy tương quan giữa hai vấn đề kiều hối và nhập lậu từ TC là mức tương đương giữa hai khối lượng tiền.

Sau đây là bài phỏng vấn Tiến sĩ Vũ Quang Việt:

Tiến sĩ Vũ Quang Việt tại Hoa Kỳ16/03/2015 – Trọng Nghĩa Nghe