Tin Việt Nam – 15/11/2019
Vợ chồng luật sư Trần Vũ Hải
bị 12 tháng cải tạo không giam giữ
Tòa án ở Nha Trang chiều 15/11 tuyên phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ với vợ chồng luật sư Trần Vũ Hải.
Vụ LS Trần Vũ Hải: Chuyện gì xảy ra trong phiên toà đầu tiên?
Giới luật sư ‘quan ngại’ về vụ Trần Vũ Hải
Họ cũng phải đóng phạt bổ sung 20 triệu đồng/người.
Tòa án nhân dân TP Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) cũng xử hai bị cáo khác: Ngô Văn Lắm (37 tuổi), Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (47 tuổi, đều ngụ TP Nha Trang) nhận án phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ, bị phạt bổ sung 50 triệu đồng/người.
Ông Lắm bị tòa buộc nộp số tiền trốn thuế hơn 280 triệu đồng.
Theo tòa, nếu ông Lắm không có khả năng thi hành án, 3 bị cáo còn lại phải nộp số tiền trên.
Sau phiên tòa, ông Trần Vũ Hải đăng trên Facebook cá nhân văn bản mà ông nói là lời phát biểu sau cùng của ông ở tòa hôm 15/11.
Trong đó có đoạn nói: “Còn vụ án trốn thuế cỏn con này, vợ chồng tôi dù không phải là đối tượng nộp thuế nhưng vì muốn tước thẻ luật sư của tôi, họ đã tìm cách kết tội tôi về tội trốn thuế, và kết tội luôn cả vợ tôi. Một lần nữa, tôi xin lỗi vợ tội, con tôi và cháu tôi.”
Bà Ngô Tuyết Phương, vợ ông Hải, nói ở tòa: “Mục đích phiên toà này được mở ra là nhằm vào chồng tôi, điều này nhiều người ở đây cũng biết.”
“Nếu HĐXX thấy rằng chúng tôi có tội, vi phạm pháp luật, tôi đề nghị cơ quan pháp luật và chính quyền các tỉnh thành mở một đợt tổng thanh tra tất cả các phòng công chứng trên toàn quốc, mở ra nhiều phiên toà như thế này, tôi khẳng định sẽ truy thu được rất rất nhiều thuế cho ngân sách nhà nước.”
Cáo trạng về trốn thuế
Cáo trạng nói năm 2015, bà Hạnh nhờ ông Lắm đứng tên căn nhà trong hẻm đường Tuệ Tĩnh ở Nha Trang.
Đến tháng 6/2016, hai chị em bà Hạnh gặp vợ chồng luật sư Trần Vũ Hải để bán căn nhà này với giá hơn 16 tỷ đồng.
Bên mua đặt cọc 500 triệu đồng.
Theo cáo trạng, sau đó tại văn phòng công chứng ở Nha Trang, bà Hạnh yêu cầu em trai xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất cho vợ chồng ông Hải với giá 12 tỷ đồng.
Các bên sau đó thỏa thuận hủy hợp đồng này và xác lập hợp đồng mới giá 1,8 tỷ đồng với mục đích trốn thuế thu nhập cá nhân.
Công an Khánh Hòa cáo buộc bà Hạnh lên kế hoạch để trốn thuế.
Cũng theo cáo trạng, vợ chồng luật sư Trần Vũ Hải ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất không đúng với giá trị thực tế trong giao dịch, giúp người khác trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước hơn 280 triệu đồng.
Án treo khác cải tạo không giam giữ
Theo luật Việt Nam, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ.
Cải tạo không giam giữ là hình phạt nhằm tạo điều kiện cho người bị phạt cải tạo không giam giữ được lao động, học tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình.
Ông Trần Vũ Hải có bị thu hồi thẻ luật sư hay không?
Theo quy định ở Việt Nam, luật sư bị thu hồi Thẻ luật sư nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Bị Đoàn Luật sư xử lý kỷ luật bằng hình thức xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn Luật sư theo quy định tại Điều 40 Điều lệ Liên đoàn.
2. Bị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc bị cơ quan có thẩm quyền tước quyền sử dụng Chứng chỉ hành nghề luật sư.
3. Rút tên khỏi Đoàn Luật sư mà không gia nhập Đoàn Luật sư mới theo quy định tại khoản 4 Điều 30 của Điều lệ Liên đoàn.
4. Tự nguyện thôi không hành nghề luật sư.
https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-50422032
Luật sư Trần Vũ Hải trốn thuế – Động cơ chính trị?!
Nguyễn Ngọc Già
Luật sư Trần Vũ Hải cùng vợ mình – bà Ngô Tuyết Phương, bị truy tố về tội “trốn thuế” có liên quan đến bất động sản, theo điều 200 Bộ Luật Hình Sự 2015.
Không bao giờ có “tội trốn thuế” có liên quan đến bất động sản trong nền “kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”
Theo dõi phiên tòa diễn ra từ hôm 14/11 và dự kiến đến 18/11 sẽ chấm dứt, giới quan sát dễ nhận thấy toàn bộ trình tự thủ tục tố tụng và nội dung cáo buộc luật sư Trần Vũ Hải và bà Ngô Tuyết Phương hoàn toàn vô căn cứ.
Căn cứ vào 10 hành vi của tội danh theo điều 200 Bộ Luật Hình Sự, không có hành vi nào của ông Hải và bà Phương thuộc phạm vi điều chỉnh đủ để cấu thành tội danh “trốn thuế” có liên quan đến bất động sản mà Tòa án tỉnh Khánh Hòa cáo buộc.
Theo tường thuật trên tài khoản cá nhân, luật sư Lê Ngọc Luân cho biết: Chi cục thuế thành phố Nha Trang khẳng định họ đã thu đúng và đủ số thuế phát sinh trong giao dịch nhà đất mà có liên quan đến ông Trần Vũ Hải cùng bà Ngô Tuyết Phương.
Nền “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (KTTTĐHXHCN) tại Việt Nam là nền kinh tế đặc thù, có một không hai trên thế giới – toàn bộ Quốc hội nước CHXHCNVN, Nhà nước, Chính phủ cho đến các tổ chức đảng từ trung ương đến địa phương đều công nhận tính chất độc nhất vô nhị này – điều không còn có thể chối cãi.
Trong nền KTTTĐHXHCN, giá đất do chính phủ quy định theo khoản 2 điều 112 Luật Đất Đai. Bảng giá đất được ban hành theo năm cũng do Chính phủ chấp thuận. Chính vì vậy, pháp luật cho phép người dân cứ kê khai theo tính toán riêng nhưng cuối cùng nhà nước sẽ quyết định giá đất để tính thuế.
Theo đó, Cục thuế Nha Trang (tức là cơ quan nhà nước) đã xác định họ thu đủ và đúng số thuế phải nộp cho giao dịch có liên quan đến luật sư Trần Vũ Hải và bà Ngô Tuyết Phương.
Thêm nữa, Luật Giá có hiệu lực từ 01/1/2013 cũng đã quy định tại khoản 4 điều 4: “Giá thị trường là giá hàng hóa, dịch vụ hình thành do các nhân tố chi phối và vận động của thị trường quyết định tại một thời điểm, địa điểm nhất định”.
Toàn dân đều biết: Giá đất cũng do nhà nước định giá. Điều này có nghĩa, bất chấp cá nhân có kê khai thấp đi chăng nữa, nhà nước cũng không chấp nhận.
Tuy nhiên, khoản 4 điều 4 nói trên được bao bọc rất kỹ và chắc chắn bằng khoản 2 điều 12 (cũng tại Luật Giá) trong đó nói rõ nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân: “Chấp hành quyết định về giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Toàn dân đều biết: Giá đất cũng do nhà nước định giá. Điều này có nghĩa, bất chấp cá nhân có kê khai thấp đi chăng nữa, nhà nước cũng không chấp nhận.
Như vậy, đủ xác quyết luật sư Trần Vũ Hải và bà Ngô Tuyết Phương, không bao giờ có thể quyết định và không bao giờ có quyền quyết định bất cứ loại giá nào có liên quan đến đất. Nói cách khác, luật sư Trần Vũ Hải và bà Ngô Tuyết Phương hoàn toàn vô tội.
Động cơ chính trị?!
Trước khi bị cáo buộc “trốn thuế”. luật sư Trần Vũ Hải được biết là luật sư duy nhất nhận trách nhiệm bào chữa cho nhà báo Trương Duy Nhất trong một vụ án mà cho đến nay, chưa biết khi nào nhà cầm quyền CSVN mang ông Nhất ra xử.
Khi tiến hành khám xét nhà riêng của luật sư Trần Vũ Hải, thông tin bên lề cho hay nhiều tài liệu không liên quan đến cáo buộc trốn thuế cũng bị tịch thu đi. Trong số tịch thu này, có cả các tài liệu của nhà báo Trương Duy Nhất gởi riêng cho luật sư Trần Vũ Hải trước đó.
Nếu các tài liệu nói trên không được hoàn trả cho luật sư Trần Vũ Hải, điều đó chứng thực nhà cầm quyền CSVN làm việc phản khoa học và vi phạm pháp luật.
Giới quan sát cho hay, mục tiêu của nhà cầm quyền CSVN trong cáo buộc ông Trần Vũ Hải và vợ “trốn thuế” nhằm tước thẻ hành nghề luật sư của ông.
Cho đến khi thẻ hành nghề của ông Hải bị tước bỏ và các hồ sơ có liên quan đến nhà báo Trương Duy Nhất không được hoàn trả đầy đủ, người ta có quyền nghi ngờ một động cơ chính trị nấp phía sau, nhưng thật lộ liễu, bởi ông Trương Duy Nhất là người thân cận với Nguyễn Bá Thanh – dù đã chết nhưng vẫn chưa… hết “nợ trần gian” nhằm chứng minh : Bóng tối vẫn phủ trùm trên “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” tại nước CHXHCNVN.
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
Giảng viên âm nhạc bị tuyên 11 năm tù
vì “tuyên truyền chống nhà nước”
Sáng ngày 15 tháng 11 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm đối với giảng viên âm nhạc trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An – Nguyễn Năng Tĩnh và tuyên ông này với mức án 11 năm tù giam và 5 năm quản chế với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” theo điều 117, Bộ luật Hình sự.
Luật sư Nguyễn Văn Miếng, một trong ba người bào chữa cho ông Tĩnh ngay sau khi kết thúc phiên tòa bình luận với phóng viên Đài Á Châu Tự Do như sau:
“Bản án này rất là khắc nghiệt bởi khung hình phạt từ 5 đến 12 năm, Viện kiểm sát đề nghị từ 11-12 năm thì tòa đã tuyên 11 năm.
Vì không có hồ sơ vụ án trong tay, chúng tôi chỉ được đọc và ghi chép lại. Tất cả các luật sư đều căn cứ vào, thứ nhất là quyền của bị cáo là được tự do ngôn luận và quyền trong Công ước Quốc tế về Quyền chính trị và dân sự, mỗi con người được biểu lộ quan điểm riêng của mình.
Bản án này căn cứ vào bản Giám định tư tưởng trích xuất tất cả các tài liệu trên Facebook anh Tĩnh và họ kết luận những bài trên đó, kể cả những bài anh tự viết và những bài anh chia sẻ lại của người khác.”
Báo Công an Nghệ An hôm 15/11 cũng dẫn thông tin từ Cơ quan An ninh điều tra Công an Nghệ An xác định, ông Nguyễn Năng Tĩnh lập trang Facebook mang tên mình từ tháng 6/2011.
Từ khi thành lập đến ngày 17/6/2018, ông Nguyễn Năng Tĩnh đã sử dụng trang Facebook này để đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết, hình ảnh, video có nội dung vi phạm pháp luật.
Theo đó, Hội đồng giám định tập thể Sở Thông tin và truyền thông tỉnh Nghệ An kết luận:
“Các tài liệu trên có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân; Xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ, xâm phạm chính quyền nhân dân và chế độ chủ nghĩa xã hội, nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Tuy nhiên, cả ba luật sư gồm Đặng Đình Mạnh, Trịnh Vĩnh Phúc và Nguyễn Văn Miếng đều cho rằng những giám định đó là không có căn cứ, việc thu thập chứng cứ tài liệu không đúng với trình tự pháp luật.
Cơ quan an ninh điều tra đã tự sao chép lại, tự giám định và tự ra kết luận ông Tĩnh vi phạm pháp luật, trong đó có nêu ra 2 video ông dạy cho học sinh các bài hát “Việt Nam tôi đâu” và “Trả lại cho dân”.
Bài viết ký tên “Nhóm Phóng Viên” của báo Công an Nghệ An cho rằng, “Hành vi phạm tội của Nguyễn Năng Tĩnh không những đi ngược với lợi ích của nhân dân, của dân tộc mà còn làm giảm lòng tin của nhân dân với chính quyền, với Nhà nước; kích động người dân chống đối chính quyền; hành vi đó còn bị các cá nhân, tổ chức phản động lợi dụng để tuyên truyền chống chính quyền Nhà nước, làm ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Nhà nước ta.”
Bài báo cũng cho rằng “đây là bản án vừa nghiêm khắc, đúng đối tượng, đúng tội, vừa thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, là lời cảnh tỉnh cho những ai có tư tưởng chống đối Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đi ngược lại lợi ích với nhân dân, dân tộc.”
Ngay sau phiên xử, người đại diện của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền quốc tế (Human Rights Watch), ông Phil Robertson, phó giám đốc phân ban Châu Á có tuyên bố nêu rõ: “ Việt Nam hoàn toàn xem thường tiến trình xét xử công bằng và tự do được phô ra trong cách gói gọn toàn bộ vụ xử chỉ trong vài tiếng đồng hồ trước khi đọc bản án 11 năm đã định trước đối với ông Nguyễn Năng Tĩnh, một giảng viên âm nhạc có những bài viết trên Facebook mà chính phủ không ưa. Việt Nam từ chối không cho phép ông này được tiếp cận luật sư tư vấn nhiều tháng trời mà chỉ để luật sư bào chữa tiếp cận 100 hồ sơ trong vòng 1 tiếng đồng hồ. Bản án tù dài đối với ông Tĩnh và phiên xử mang tính trình diễn đưa ra bản án đó cho thấy chính xác tại sao tòa án Việt Nam là trò hề nhất tại các nước ASEAN khi đem những người bị cáo buộc ra xét xử.”
Ông Nguyễn Năng Tĩnh, năm nay 43 tuổi, từng là giảng viên âm nhạc ở Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Nghệ An.
Trên Facebook, ông thường xuyên lên tiếng ủng hộ các tù nhân chính trị và đăng tải hình ảnh các cuộc biểu tình phản đối dự thảo luật về đặc khu kinh tế, và biểu tình phản đối công ty Thép Formosa Hà Tĩnh, công ty Đài Loan đã thải độc xuống biển gây ra tình trạng khủng hoảng môi trường dọc bờ biển miền Trung Việt nam hồi tháng Tư năm 2016.
Các đoạn video trên trang Youtube cho thấy hình ảnh ông dạy trẻ em một bài hát về nhân quyền do cựu tù nhân chính trị Võ Minh Trí (bút danh Việt Khang) sáng tác.
Ông hỗ trợ Quỹ Phát triển Con người Vinh, một tổ chức từ thiện Công giáo, và gây quỹ giúp người nghèo.
Ông Nguyễn Năng Tĩnh bị côn an Nghệ An bắt giữ hôm 29/5.
Từ đầu năm 2019, chính quyền Việt Nam đã bắt giữ và bỏ tù hàng chục người hoạt động ôn hòa với các cáo buộc liên quan đến an ninh quốc gia.
Nhà hoạt động bị Việt Nam bị câu lưu
sau 4 năm vận động nhân quyền ở nước ngoài
Nhà hoạt động nhân quyền Đinh Thảo vừa bị cơ quan an ninh Việt Nam câu lưu vào sáng ngày 15/11/2019 sau khi đáp chuyến bay từ Bangkok trở về phi trường Nội Bài. Đến khoảng 5 giờ chiều cô được trả tự do.
Theo thông cáo từ tổ chức VOICE, “trong gần bốn năm vừa qua, bà Đinh Thảo luôn chủ trương thúc đẩy tình hình nhân quyền ở Việt Nam bằng cách tham gia vào các cơ chế nhân quyền của Liên Hợp Quốc, vận động các cơ quan Liên minh Âu châu và các chính phủ nước ngoài khác thông qua những hiệp định đối tác song phương với Việt Nam.
Bà cũng làm việc chặt chẽ với các tổ chức phi chính phủ nhân quyền quốc tế và trong khu vực để nâng cao nhận thức của cộng đồng quốc tế về tình hình nhân quyền ở Việt Nam,” thông cáo nêu rõ.
Đinh Thảo tốt nghiệp Đại học Y vào năm 2015, là một gương mặt tiêu biểu trong các hoạt động dân sự ở Hà Nội trước khi ra nước ngoài làm công việc vận động nhân quyền.
Nhà hoạt động Vi Yên trong thông báo về việc bà Đinh Thảo bị câu lưu cho hay, “Đinh Thảo chính là người từng điều phối nhóm Green Trees với mục tiêu kêu gọi bảo vệ môi trường, và chị cũng là một trong những người đứng ra tổ chức chiến dịch hỗ trợ các ứng cử viên đại biểu quốc hội độc lập năm 2016.”
Tổ chức Ân Xá Quốc Tế- Amnesty International, có thông cáo báo chí về việc cơ quan chức năng câu lưu nhà hoạt động Đinh Thảo.
Theo Giám đốc Nghiên cứu Đông Nam Á- Thái Bình Dương của Ân Xá Quốc Tế, Joanne Mariner, chính phủ Hà Nội lại cho thấy sự thù hận trắng trợn đối với những người muốn có một tương lai tốt đẹp cho đất nước- trong đó có việc tôn trọng nhân quyền.
Ông Phil Robertson từ Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch cũng có kêu gọi cơ quan chức năng Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho nhà hoạt động nhân quyền và môi trường Đinh Thảo, cho phép cô đoàn tụ với con trai 16 tháng tuổi cũng như với cha mẹ cô. Theo HRW, cô ĐinhThảo không làm gì sai trái và hẳn nhiên không đáng phải bị câu lưu, bị thẩm vấn tại phi trường.
Theo ông Phil Robertson, việc bày tỏ quan điểm một cách công khai, thực thi quyền tự do tham gia với những nhóm hoạt động mà chính phủ Việt Nam không thích, không thể biện minh cho dạng thức thù hận, vi phạm quyền mà cô này nhận lấy khi trở lại quê nhà sau 4 năm xa cách. Các nhà ngoại giao và giới chức Liên hiệp Quốc cần yêu cầu Việt Nam trả tự do cho cô này và hứa không để cô phải chịu hình thức sách nhiễu liên tục, lạm dụng mà nhiều nhà bất đồng chính kiến phải hứng chịu khi trở về từ nước ngoài.
Hướng dẫn viên Việt tiếp tay cho khách Trung Cộng
lăng mạ cột mốc quốc gia
Tin Vietnam.- Báo Lao động ngày 14 tháng 11 năm 2019 loan tin, ông Trần Hiếu Hùng, Giám đốc sở Văn Hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Cà Mau cho biết, nhân viên hướng dẫn viên du lịch chụp hình cho nhóm người Trung Cộng đã bị đình chỉ dẫn tour 2 tháng.
Trước đó, có 7 du khách đến tham quan khu văn hoá du lịch Mũi Cà Mau đã trèo lên đứng trên cột mốc toạ độ Quốc gia GPS 0001 để chụp hình. Những du khách này đã tạo nhiều kiểu dáng như tay cầm chiếc dép dơ cao, hoặc 1 tay dơ cao 1 tay chỉ vào phần nhạy cảm của cơ thể. Trong sự việc này, có một hướng dẫn viên du lịch thuộc công ty Vietravel đã đứng chụp hình cho 7 người khách trên. Những hình ảnh này sau đó được loan truyền trên mạng xã hội, gây bất mãn dư luận.
Mặc dù truyền thông của nhà cầm quyền không dám nhắc đến 7 du khách trên đến từ đâu, nhưng một số trang tin như Thời sự Việt Nam và mạng xã hội facebook khẳng định nhóm du khách này là người Trung Cộng. Nhiều người cho rằng, Cột mốc toạ độ Quốc gia là nơi thiêng liêng, thể hiện chủ quyền đất nước của Việt Nam, nên việc đứng trên cột mốc tạo dáng chụp hình của nhóm du khách trên là không chấp nhận được.
https://www.sbtn.tv/huong-dan-vien-viet-tiep-tay-cho-khach-trung-cong-lang-ma-cot-moc-quoc-gia/
Người dân phản đối cưỡng chế đấtở Vân Đồn
bị tạm giữ hình sự
Một số người dân ném bom xăng tự chế vào lực lượng thi hành công vụ để phản đối cưỡng chế đất tại xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn hôm 14/11, bị tạm giữ hình sự.
Mạng báo Nhân Dân, cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản Việt Nam, loan tin ngày 15 tháng 11 trích thông tin từ Ủy ban Nhân dân (UBND) tỉnh Quảng Ninh như vừa nêu.
Tin cho biết, vào sáng ngày 14 tháng 11 năm 2019, các lực lượng chức năng đã cưỡng chế bảy hộ dân đang nuôi trồng thủy sản trên nhà bè trong khu vực Cảng Vạn Hoa, ở xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên, một số người dân đã phản đối và ném bom xăng tự chế vào đoàn cưỡng chế, làm 3 người trong đoàn cưỡng chế bị phỏng nặng, gồm: Chủ tịch UBND xã Vạn Yên, 1 nữ cán bộ xã Vạn Yên và 1 Công an huyện Vân Đồn.
Theo UBND tỉnh Quảng Ninh, bảy hộ dân này trước đây được Trung đoàn 242 cho vào neo đậu tạm thời để tránh trú bão, sau đó đã tự ý ở lại nuôi trồng thủy sản trong vùng nước thuộc quân đội quản lý trong nhiều năm.
Tin cũng cho biết, theo yêu cầu của Bộ Tư lệnh Vùng I Hải quân về việc bảo đảm công tác quản lý trong khu vực quân sự-quốc phòng, UBND huyện Vân Đồn đã tổ chức cho các hộ dân này di dời đến khu vực quy hoạch. Tuy nhiên, người dân vẫn có biểu hiện cố tình ở lại, nên huyện đã tổ chức cưỡng chế.
Trong ngày cưỡng chế 14/11, sáu hộ dân đã tự nguyện di dời ngay, chỉ có duy nhất hộ ông Nguyễn Văn Tiến chống đối quyết liệt, ném bom xăng tự chế vào lực lượng thi hành công vụ gây thương tích cho một số cán bộ. Sau vụ việc ông Tiến và một số người đã bị tạm giữ hình sự.
Tình trạng người dân bức xúc phải dùng đến biện pháp mạnh để chống lại lực lượng cưỡng chế từng xảy ra tại nhiều nơi trên cả nước. Trong đó có những vụ được nhiều người biết đến như vụ gia đình ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng vào năm 2012 phải dùng súng hoa cải và bình ga tự chế để ngăn lực lượng cưỡng chế; tuy nhiên vẫn không được và ông này cùng một số thân nhân bị án tù.
Đại úy Lê Thị Hiền bị điều chuyển công tác
Đại úy Lê Thị Hiền, người có hành động chửi bới nhân viên hàng không hồi tháng 8, vừa bị kỷ luật hạ hai cấp và bị điều chuyển công tác.
Truyền thông trong nước, vào ngày 15 tháng 11, dẫn nguồn từ Công an thành phố Hà Nội cho biết cơ quan này đang làm thủ tục kỷ luật như vừa nêu đối với nữ Đại úy Lê Thị Hiền.
Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, Trung tướng Đoàn Duy Khương được Báo Công an Nhân dân dẫn lời cho biết trước đó nữ Đại úy Lê Thị Hiền đã bị khai trừ Đảng.
Nữ Đại úy Lê Thị Hiền, 36 tuổi, từng công tác tại Đội Cảnh sát giao thông Trật tự-Phản ứng nhanh Công an Đống Đa, Hà Nội. Vào ngày 11/08/19, Đại úy Lê Thị Hiền đã có hành vi la hét, chửi bới, xô đẩy lực lượng chức năng và nhân viên hàng không tại Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất. Công
an quận Đống Đa xác minh thái độ, lời nói của Đại úy Lê Thị Hiền là vi phạm về ứng xử nơi công cộng đối với cán bộ và ra quyết định tạm đình chỉ 30 ngày đối với bà để tiến hành làm rõ vụ việc.
Cục Hàng không Việt Nam đã ra quyết định cấm bay trong 12 tháng đối với nữ Đại úy Lê Thị Hiền đến cuối tháng 8/2020 và sau khi hết thời gian này, bà Hiền sẽ phải chịu sự kiểm tra bắt buộc 12 tháng tiếp theo nếu có nhu cầu đi lại bằng đường hàng không.
Một người Việt bị tù ở Bỉ vì tội ‘buôn người’
Tòa án ở Bruges vừa kết án 37 tháng tù với một người Bỉ gốc Việt, vì tội buôn người.
Nhiều gia đình Hà Tĩnh ‘rút đơn xin nhận tro cốt’
Đất nước VN ‘tiến bộ’ sao dân vẫn quyết ra đi?
39 nạn nhân: Nhìn lại vụ 58 người Trung Quốc ‘ngạt thở’ năm 2000
Người đàn ông 45 tuổi, gốc Việt, bị xử án sau khi cảnh sát phát hiện 8 công dân người Việt, trong đó có ba trẻ nhỏ, trong xe tải ở một bãi đậu xe ở Oostduinkerke, Bỉ.
Bị cáo thừa nhận giúp vận chuyển người Việt từ Bỉ sang Pháp từ tháng Giêng.
Nhưng bị cáo biện hộ rằng mình chỉ giúp đồng bào.
Giới chức nghi ngờ người này đã tham gia vận chuyển ít nhất 40 người, theo báo The Brussels Times.
Hồ sơ điện thoại thu giữ được cho thấy bị cáo dùng từ “gà” để chỉ người đi lậu, và “ngựa” để chỉ xe.
Luật sư cho bị cáo nói ông ta không làm giàu nhờ việc vận chuyển, và chỉ được hứa sẽ có 200 euro cho việc đưa 8 người từ Brussels tới Oostduinkerke.
Công tố viên ban đầu đề nghị án 5 năm tù và tiền phạt 64.000 euro cho bị cáo.
Vụ xử ở Bỉ xảy ra trong bối cảnh vừa có vụ 39 nạn nhân người Việt chết trong xe tải đã đi qua cảng Zeebrugge ở Bỉ đến Anh.
https://www.bbc.com/vietnamese/world-50422027
Cảnh báo ô nhiễm không khí nguy hại
tại Thành phố Hồ Chí Minh
Ứng dụng theo dõi chất lượng môi trường AirVisual hôm 14/11 đưa ra cảnh báo về tình trạng ô nhiễm không khí ‘nguy hại’ tại Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời xếp trung tâm kinh tế lớn nhất Việt Nam đứng hạng 4 trong danh sách 90 thành phố ô nhiễm nhất thế giới.
Truyền thông trong nước loan tin hôm 15/11 cho biết 15 điểm đo chất lượng không khí tại Thành phố Hồ Chí Minh hiển thị màu đỏ, được xác định nguy hại đến sức khỏe với chỉ số chất lượng không khí AQI vượt ngưỡng 150.
AirVisual cảnh báo đây là mức ảnh hưởng đến bệnh tim và phổi, khuyến cáo người dân đeo khẩu trang khi ra đường và đóng cửa sổ để hạn chế không khí bẩn vào nhà.
Theo Airvisual, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh là địa phương có không khí ô nhiễm nặng nhất với điểm chỉ số quan trắc AQI đạt 251.
Báo trong nước cho hay vào sáng 14/11, các tòa nhà cao tầng tại Thành phố Hồ Chí Minh bị che mờ bởi khói bụi và bầu trời có màu xám xịt tại bán đảo Thủ Thiêm.
Đài khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ cho biết Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của các cơn bão, thi thoảng xuất hiện mưa nên độ ẩm cao và bụi tích tụ hơi sương. Thạc sĩ Lê Thị Xuân Lan, nguyên Phó phòng dự báo và phục vụ Đài khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ nói việc gió không đủ mạnh cũng là nguyên nhân khiến hạt bụi liên kết với sương mai bay lơ lửng, không thể thoát ra.
Trong khi đó, ông Cao Trung Sơn, Giám đốc Trung tâm Quan trắc môi trường (Sở Tài nguyên – Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh) xác định 3 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng không khí tại thành phố đang có chiều hướng xấu là vì phương tiện xe máy quá nhiều, việc xây dựng và khí thải từ các nhà máy, khu công nghiệp.
Giám đốc Trung tâm Quan trắc môi trường Cao Trung Sơn cũng thừa nhận hệ thống quan trắc hiện nay của thành phố là ‘hạn chế, yếu kém’ và hứa hẹn đến năm 2020 sẽ có các thiết bị đo tự động.
Ông Sơn nói với các thiết bị đo tự động, cơ quan này sẽ khoanh vùng nguyên nhân để đưa ra kết luận chính xác hơn cũng như những giải pháp kiểm soát.
Tình trạng ô nhiễm không khí tại Việt Nam là một vấn đề thu hút nhiều sự quan tâm thời gian gần đây.
Mới hôm 12/11, kết quả quan trắc cho thấy Thủ đô Hà Nội có mức ô nhiễm không khí lên tới ngưỡng nguy hại, và được truyền thông nhận định là ‘khủng khiếp’ hơn 4 đợt ô nhiễm từng xảy ra trong năm nay.
Hồi đầu tháng 10, AirVisual từng xếp Hà Nội là thành phố ô nhiễm nhất thế giới.
Vụ 39 người Việt chết ở Anh:
Gia đình chờ nhận xác trong hoang mang, đau khổ
Theo truyền thống ở Việt Nam thì người chết nên được chôn cất trong vòng ba ngày, nhưng ong Nguyễn Đình Gia giờ đây vẫn đang chờ xác con trai của mình được trở về nhà.
“Chúng tôi mệt mỏi. Chúng tôi muốn con mình được quay về càng sớm càng tốt, ông Gia nói. Con trai ông, anh Lượng, nằm trong số 39 người Việt Nam chết trong thùng lạnh xe tải ở Anh khoảng ba tuần trước.
Cảnh sát Anh truy tố hai người về tội ngộ sát trong vụ việc. Người trẻ nhất trong số các nạn nhân 15 tuổi. Đa số họ rời bỏ các làng quê nghèo khó nơi quê nhà để đi tìm việc làm ở nước ngoài.
Tại Việt Nam, gia đình của các nạn nhân đang bối rối và đau khổ về cách mà các thi thể sẽ được đưa về nhà.
Tin đồn về chi phí cao lan truyền trên các mạng xã hội, những thông tin mâu thuẫn từ phía chính quyền địa phương và việc báo chí Việt Nam, vốn bị kiểm soát chặt chẽ, phần nào không phơi bày hết tin tức đã gây ra tình trạng bất an hiện nay.
Sáu gia đình nói với Reuters rằng họ trông đợi nhận được xác người thân của mình, nhưng sau đó được công an Việt Nam yêu cầu nhất trí việc hỏa táng.
Tuần trước, ông Gia đã ký giấy để thi thể của Lượng được hồi hương. Nhưng ngay ngày hôm sau, công an khuyên ông chọn cách nhận tro cốt con trai của mình.
“Tôi được cho biết rằng giấy ban đầu, có việc lựa chọn hồi hương thi thể của Lượng, đã không còn hiệu lực”, ông Gia nói.
Kiệt sức và mong muốn câu chuyện sớm khép lại, ông Gia đã đồng ý cho thi thể con trai của mình được hỏa táng.
Gia đình của Phạm Thị Trà My đã yêu cầu chính quyền địa phương vô hiệu hóa thỏa thuận của họ về việc hỏa táng cô. Trong giây phút hấp hối, cô My đã gửi tin nhắn qua điện thoại báo cho bố mẹ biết rằng cô không thể thở được.
“Tôi muốn gặp em gái tôi một lần nữa trước khi chúng tôi chôn cất,” Phạm Mạnh Cường, anh trai của cô My cho biết.
Đại sứ quán Anh tại Hà Nội cho biết chính phủ Việt Nam đang nỗ lực tìm cách hồi hương hài cốt. Bộ Ngoại giao Việt Nam không trả lời yêu cầu bình luận.
Khó khăn vận chuyển
Một nghi lễ quan trọng trong đám tang của người Việt là người thân đi vòng quanh thi thể của người quá cố để chào từ biệt lần cuối.
Và đối với hầu hết người dân ở quốc gia Đông Nam Á này, kể cả ở các tỉnh bắc trung bộ như Hà Tĩnh và Nghệ An, nơi mà hầu hết các nạn nhân rời đi trong hành trình chết người, người chết nên được chôn cất trong vòng ba ngày.
“Chúng tôi phải thuyết phục các gia đình chấp nhận việc nhận lại tro cốt dù chúng tôi biết họ mong muốn được nhận lại thi thể, theo truyền thống và tín ngưỡng của Việt Nam,” một quan chức cấp cao ở Hà Tĩnh nói với Reuters.
Vì những khó khăn trong hậu cần và sự sắp xếp giữa hai nước, chúng tôi phải đưa ra lựa chọn đó,” ông cho biết và yêu cầu ẩn danh vì sự nhạy cảm của vấn đề. Không rõ những khó khăn hậu cần mà quan chức này nói đến là gì.
Các cơ quan truyền thông nhà nước lớn nhất Việt Nam, bao gồm Thông tấn xã Việt Nam (VNA) và báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ, suốt tuần nay không hề đưa tin về vụ việc này.
Các nguồn tin từ hai cơ quan truyền thông cho biết họ được chỉ thị từ chính quyền không phỏng vấn gia đình các nạn nhân.
Vấn đề chi phí hồi hương thi thể đã được thảo luận rộng rãi trên các phương tiện truyền thông xã hội ở Việt Nam, kể cả trong các nhóm Facebook của những người làm việc trong các tiệm nail của người Việt ở Anh, nơi nhiều di dân đến tìm việc.
Một nhóm như vậy đã quyên góp tiền để giúp tài trợ hồi hương thi thể nạn nhân.
Ông Gia nói họ hàng cho hay họ đã xem các bài đăng trên mạng xã hội trích dẫn các mức giá lên tới 1,2 tỷ đồng (52.700 đô la) để hồi hương thi thể.
“Công an không đề cập đến bất kỳ chi phí nào khi họ đến thăm,” ông Gia nói. “Họ chỉ thuyết phục chúng tôi rằng sẽ tốt hơn nếu mang tro cốt trở về vì rất khó để chuyển thi thể từ Anh về Việt Nam trong quan tài.
Văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975:
Gìn giữ và đánh giá đúng!
Diễm Thi, RFA
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số văn nghệ sĩ miền Nam tiếp tục có những nỗ lực nhằm duy trì những giá trị của nền văn học nghệ thuật miền Nam mà từng có ý kiến cho là ‘độc hại, đồi trụy’ và từng bị cấm đoán.
Nhà thơ Hoàng Hưng, từng đi tù hơn 3 năm với tội danh bị áp là “lưu truyền văn hoá phẩm phản động” chỉ vì mang theo trong người tập thơ của nhà thơ Hoàng Cầm vào năm 1982 khẳng định văn học nghệ thuật tại miền Nam trước 1975 là một bộ phận của thành tựu văn học Việt Nam. Ông nói:
“Sau năm 1975 tôi vào Sài Gòn rất sớm và tôi tìm đọc rất nhiều tác phẩm của Sài Gòn trước 1975 cũng như mua rất nhiều để đọc và nghiên cứu. Mấy năm gần đây khi làm trang Văn Việt của Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam chúng tôi có hẳn một hồ sơ cung cấp một cách hệ thống cho bạn đọc những thành tựu của văn học miền Nam trước 1975, tức văn học thời Việt Nam Cộng Hòa từ nhiều nguồn khác nhau.
Qua đó tôi có căn cứ để nói rằng thành tựu của văn học Việt Nam Cộng Hòa rất to lớn mà cho đến nay giới nghiên cứu văn học chính thống của Việt Nam trong chế độ này vẫn chưa chịu tìm hiểu một cách thấu đáo và chưa chịu công nhận những giá trị đó. Đó là khiếm khuyết rất lớn bởi đó không chỉ là thành tựu của miền Nam hay của Việt Nam Cộng Hòa mà đến nay thì phải khẳng định đó là một bộ phận của thành tựu văn học Việt Nam nói chung.”
Nền văn học nghệ thuật nói chung cũng như nền âm nhạc nói riêng, theo thiển ý của tôi, đó là một kho tàng vô giá của dân tộc Việt Nam bởi nó đạt được tính nhân bản, tính dân tộc và tính khai phóng. – Ông Nguyễn Ngọc Già
Nhà báo Nguyễn Ngọc Già, người có nhiều bài viết về nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, từng học về thanh nhạc nhận xét nền văn học nghệ thuật thời Việt Nam Cộng Hòa đặc biệt mang tính đa nguyên và tính cá nhân nên rất phong phú và sáng tạo. Ông giải thích:
“Nền văn học nghệ thuật nói chung cũng như lĩnh vực âm nhạc nói riêng, theo thiển ý của tôi, đó là một kho tàng vô giá của dân tộc Việt Nam bởi nó đạt được tính nhân bản, tính dân tộc và tính khai phóng.
Tính nhân bản có lẽ không cần phải nói nhiều. Một bài hát gây cho người ta một sự rung cảm, thiện cảm. Có những ca khúc vượt thời gian. Có những ca khúc đã 60 năm, 70 năm vẫn sống mãi trong lòng khán thính giả.
Về tính dân tộc thì các nhạc sĩ của miền Nam trước 1975 vận dụng tính dân tộc rất hay trong từng nhạc phẩm. Sử dụng tính chất dân ca của từng vùng miền để áp dụng vào tân nhạc phải nói là rất nhuần nhị và rất là đẹp.
Về tính khai phóng thì không thể chối cãi vì nó xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân. Trong mỗi nhạc phẩm của một nhạc sĩ hay mỗi giọng ca của một ca sĩ họ đều thể hiện cá nhân họ rất rõ. Chính vì vậy có thể nói đó là một sự sáng tạo, mà nếu không có sự sáng tạo thì không thể nói về âm nhạc nói riêng cũng như văn chương, thi phú, thơ ca nói chung.”
Ông kết luận rằng, chính tính cá nhân mới tạo cho âm nhạc miền Nam trước 1975 một vườn hoa đầy hương sắc, bởi mỗi ca sĩ, mỗi nhạc sĩ là một bông hoa rất riêng, rất đặc biệt và rất hay. Và đó chính là thể hiện của tính đa nguyên.
Là một họa sĩ đồng thời là một nhà báo phụ trách mục “Văn Học Nghệ Thuật” của RFA suốt một thời gian dài, Nhà báo Mặc Lâm cho biết ông tìm hiểu rất kỹ nền văn học Việt Nam trước 1975 và điều ông tâm đắc nhất là tính sáng tạo trong từng sản phẩm. Ông nói thêm:
“Nói về văn học nghệ thuật trước 1975 ở miền Nam thì có thể gói gọn trong một câu rằng nền văn học Việt Nam non trẻ chỉ trong 20 năm nhưng rất tươi thắm và khởi sắc, căn cứ trên tinh thần văn học nghệ thuật rõ ràng chứ không vì chính trị hay vì động cơ nào khác.
Cái đẹp thể hiện qua văn chương, chữ nghĩa và sáng tạo riêng của từng người, từ người viết văn, thi sĩ, họa sĩ hay những người tạo hình.”
Nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình ở Hoa Kỳ thì cho rằng dấu ấn văn học miền Nam từ 1954 đến 1975 đã làm cho những nhà văn, nhà thơ ở hải ngoại có động lực để tiếp nối. Bà đưa nhận định của mình:
“Văn học miền Nam từ 1954 đến 1975, tức chỉ vỏn vẹn 20 năm, nhưng nó vô cùng quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam vì nó rất là đột phá và không có tính cách được “đặt hàng” giống như văn học thời Xã hội chủ nghĩa do đảng lãnh đạo.
Người làm nghệ thuật không sáng tác theo đơn đặt hàng, không theo lịnh của ai, không phải bẻ cong ngòi bút do có tự do ngôn luận, tự do tư tưởng. Nó tạo cơ hội cho sáng tạo bùng vỡ và đẩy đến tận cùng của cảm xúc chứ không phải viết một câu rồi nịnh một câu hay viết một câu rồi lách một câu.”
Văn học miền Nam từ 1954 đến 1975, tức chỉ 20 năm nhưng nó vô cùng quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam vì nó rất là đột phá và không có tính cách được “đặt hàng” giống như văn học thời Xã hội chủ nghĩa do đảng lãnh đạo. – Nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2019 Bộ trưởng Văn hoá, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện cho biết Chính phủ chấp thuận chủ trương sửa đổi hai nghị định 79 và 15 về nghệ thuật biểu diễn, tức sẽ bỏ việc cấp phép ca khúc trước năm 1975.
Nhận xét về quyết định này, Nhạc sĩ Tuấn Khanh cho rằng đây là sự thất bại của kiểm duyệt văn hóa chứ không phải là một bước mở của chính quyền:
“Ngày hôm nay nhà nước cho phép bình đẳng tất cả mọi thứ thì thực chất cái tên gọi của nó là sự thất bại toàn phần của những chương trình kiểm duyệt văn hóa. Cho nên khi người ta bắt đầu cho phép là người ta lùi lại cái sự thất bại của mình và người ta đánh loãng đi cái vòng kiểm tỏa đã không còn giá trị nữa.
Do đó nếu hôm nay họ không vội vàng tháo dỡ những nghị định đó thì bản thân họ mãi mãi vướng trong hình ảnh một kẻ thất bại và mãi mãi không lấy lại được tư cách trong việc đã từng cấm đoán như vậy, chứ đây không phải là một bước mở của chính quyền cộng sản.”
Những ai từng ở Việt Nam sau 1975 đều biết việc kiểm duyệt văn hóa ngặt nghèo không kém gì chính trị. Chỉ cần giữ trong nhà một băng cassette, một tờ nhật báo trước năm 1975 là có thể bị lôi ra đấu tố ngay trước cửa nhà mình bởi bị quy kết tội “sử dụng, tàng trữ văn hóa phẩm đồi trụy”.
Việt Nam: Nghị trường đang bộc lộ năng lực quan chức
PGS. TS. Phạm Quý ThọGửi cho BBC News Tiếng Việt từ Hà Nội
Nghẽn nhân lực khu vực công là nghiêm trọng. Phẩm chất và năng lực quan chức thường được che đậy bởi các quy định của tổ chức và sự thích nghi của cá nhân họ.
Chính họ tạo ra cơ chế, và rồi trở thành ‘nạn nhân’ của nó. Trong chiến dịch chống tham nhũng họ biết ‘giấu mình chờ thời’. Tình trạng ‘trên nóng dưới lạnh’ phản ánh ‘sự ứng phó’ của quan chức với cơ chế.
Nguyên nhân chủ yếu là thể chế không kịp thay đổi để thích ứng với quá trình chuyển đổi sang thị trường. Tuy nhiên, có những tình huống, như trên nghị trường, quan chức đã bộc lộ phẩm chất và năng lực quan chức bởi họ đã không thể che giấu được con người thật.
Để nâng cao chất lượng quan chức, cải cách tổ chức, bộ máy hành chính trở nên cấp bách, song trước hết phải thay đổi tư duy.
‘Xin lỗi’ ngày càng nhiều hơn
Các quan chức ‘xin lỗi’ ngày càng nhiều hơn trên nghị trường. Trong một kỳ họp Quốc hội thường chọn 4 vị bộ trưởng đăng đàn trong các phiên chất vấn và trả lời chất vấn, và trong quá trình đó có thêm một vài vị bộ trưởng liên quan hoặc các phó thủ tướng phụ trách lĩnh vực ‘làm rõ’ thêm các vấn đề… Trong phiên chất vấn ngày 7/11/2019 tại Kỳ họp 8 Quốc hội khoá XIV có vị đại biểu QH ‘đếm’ số lần ‘xin lỗi’ của vị Bộ trưởng Nội vụ là 5 lần…
Lời xin lỗi của quan chức là cực kỳ hiếm hoi và khó khăn, đặc biệt với dân chúng, nếu có thì chỉ từ tập thể đơn vị trực tiếp gây ra sự cố, và chỉ khi mọi việc đã rồi, hậu quả có thể nặng nề. Đơn cử, như sự cố ô nhiễm nước sạch ở Hà Nội vừa qua khiến cho hàng trăm nghìn cư dân khốn khổ vì nước ăn bị nhiễm dầu mỡ hàng tuần. Sau đó thủ phạm ‘Công ty CP đầu tư nước sạch sông Đà’ qua truyền thông gửi “lời xin lỗi và cầu mong được lượng thứ”. Ông Chủ tịch thành phố phát biểu vô cảm: “Qua sự việc này, chúng tôi cũng nhận thức rõ trách nhiệm và trong thời gian tới TP sẽ có cuộc họp để rút kinh nghiệm”.
Xin lỗi là một phẩm chất cá nhân tốt đẹp, thể hiện bản lĩnh dám nhìn vào sự thật, tôn trọng những người chịu ảnh hưởng bởi hậu quả có liên quan đến trách nhiệm hay hành vi gây nên. Tuy nhiên, đối với hành vi xin lỗi của quan chức có nhiều nghĩa hơn thế. Họ ít khi ‘áy náy’ về nhân cách bởi vì họ được cơ chế ‘bảo lãnh’ về quyền và lợi.
Trên nghị trường các quan chức nhận trách nhiệm về hành vi của mình thường dễ được các đại biểu QH cảm thông và tha thứ. Cả quan chức chính phủ và đại biểu QH đều thuộc hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Trong hệ thống chính trị dựa trên nền tảng chủ nghĩa tập thể, coi chế độ như một tổng thể và luôn quan trọng hơn những cá nhân cán bộ đảng viên cấu thành nó. Các quan chức và đại biểu QH cần phải tuân theo các nguyên tắc tổ chức của Đảng và cách tiếp cận tập thể, thứ bậc trong hành vi ứng xử. Họ thấu hiểu điều đó và cố né những phát biểu mang tính cá nhân, nếu không sẽ bị coi là vị kỷ hay chủ nghĩa cá nhân và sẽ khó tránh bị kỷ luật bởi quyền lực nhân danh ‘lợi ích chung’ hay lợi ích tập thể’. Bởi vậy, họ che giấu được con người thật.
Miễn nhiễm ‘văn hoá từ chức’
Không hoặc không thể công khai nhận xét về năng lực của quan chức chính phủ trên nghị trường Quốc hội, gần đây xuất hiện ý kiến về ‘văn hoá từ chức’.
Từ chức là việc rời bỏ chức vụ của cá nhân quan chức trước khi hết nhiệm kỳ. Đó là quyết định tự động hay do áp lực nào đó từ bên ngoài do mức độ không hoàn thành chức trách gây hậu quả, sự cố mà quan chức đó trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan.
Văn hóa từ chức là một văn hoá chính trị phổ biến ở các nước châu Âu, ảnh hưởng tới các nước đang phát triển với quan niệm đó là hành vi “đúng đắn cùng lương tri”. Văn hoá từ chức có thể được tiếp nhận ở các chế độ dựa trên chủ nghĩa cá nhân, trong đó trách nhiệm về hành vi của quan chức được nhìn nhận, nhưng không được thừa nhận bởi chế độ chính trị với nền tảng chủ nghĩa tập thể. Trong thời kỳ chế độ tập trung, bao cấp với hình thức phân biệt đối xử giữa tập thể, như nhà nước hay biên chế và cá nhân, như cá thể hay ‘làm ngoài’, thậm chí chia dân chúng thành ‘chúng ta’ và ‘chúng nó’.
Chia sẻ về văn hoá từ chức có đại biểu QH từng nói: “Thời nào cũng vậy, quan chức gắn với trách nhiệm. Có người chức càng to thì hy sinh càng lớn, đứng mũi chịu sào nhưng bây giờ quan chức trong thời đại này có hai mặt: Có quyền hành và quyền lợi. Điều này, ngăn cản quan chức trong quyết định có từ chức hay không từ chức.
Hiện nay, họ luôn dựa vào, họ nằm trong một tổ chức họ chỉ tuân thủ quyết định của tổ chức mà thôi”. Phát ngôn này từ hơn 5 năm trước, năm 2014, nhưng đến nay vẫn đúng.
Bản chất chế độ chính trị hiện hành tạo ra sự miễn nhiễm ‘văn hoá từ chức’ đối với quan chức, bởi vì công tác cán bộ là công việc nội bộ của Đảng CS mang tính nguyên tắc mà mọi đảng viên, lãnh đạo phải tuân thủ. Ngoài ra, cơ chế hiện hành tạo ra một bộ máy quan chức đặc quyền đặc lợi. Từ đó một hành lang răn đe cho hành vi ‘bất tuân’ được thiết lập. Nếu vị quan chức nào đó ‘có gan’ từ chức thì sự nghiệp chính trị của ông ta coi như kết thúc. Ngoài ra, ông ta không những mất đi đặc lợi cho bản thân và gia đình, mà còn có thể chịu rủi ro về đạo đức.
‘Che giấu năng lực yếu kém’
Quan chức ‘xin lỗi’, ‘xin nhận trách nhiệm’ khi những thiếu xót và hậu quả là rõ ràng. Tuy nhiên, trước những câu hỏi khó, vấn đề mới hay ‘nhạy cảm’ được đại biểu QH nêu lên, thì cách ứng xử tốt nhất của quan chức trên nghị trường là ‘xin lĩnh hội’. Nó có thể giúp che đậy năng lực yếu kém.
Thể chế chính trị không tương thích với sự chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường. Thái độ của nhiều quan chức là ‘vừa muốn nhưng lại vừa sợ’ thị trường. Họ muốn bởi vì thị trường sẽ là công cụ tăng trưởng kinh tế, tạo thêm đặc lợi cho vị trí quyền lực.
Họ sợ vì những tác động phụ, không mong muốn có thể tuột khỏi tầm kiểm soát, tạo nguy cơ sụp đổ chế độ tạo ra đặc quyền đặc lợi cho họ. Thái độ ‘nước đôi’ như trên là do nhận thức và diễn giải sai
lệch về thị trường. Thí dụ, khái niệm ‘nền thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’ được giải thích một cách nguỵ biện làm hạn chế về thái độ và hành động của quan chức.
Bất kỳ chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội đều là phương tiện đạt mục đích thịnh vượng của đất nước và người dân. Xã hội tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường có nền tảng là chủ nghĩa cá nhân, vốn coi động cơ cá nhân là cơ sở của mọi hoạt động xã hội. Phương thức này đang thắng thế.
Trái lại, xã hội chủ nghĩa được thiết lập bằng cách mạng bạo lực, nền kinh tế tập trung dựa trên chủ nghĩa tập thể đã sụp đổ ở Đông Âu. Việt Nam chọn cách duy trì chế độ đảng toàn trị tiến hành chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường ‘định hướng xã hội chủ nghĩa’.
Đặc trưng này thách thức năng lực của bất kỳ quan chức nào. Theo quan sát của tôi, trong nhiều phiên chất vấn trên nghị trường các đời bộ trưởng Bộ Nội vụ đều không thể hoặc không giải thích sự tác động của việc chuyển đổi kinh tế sang thị trường đến tổ chức, bộ máy và chính sách nhân lực khu vực công một cách rõ ràng, thuyết phục, cụ thể, câu hỏi như công cụ thị trường để tinh giản biên chế là gì và sử dụng như thế nào trong các bản giải trình trước Quốc hội.
‘Thay đổi tư duy cải cách’
Đảng CS xác định nghẽn nhân lực làm đất nước tụt hậu. Nghẽn nhân lực khu vực công, đặc biệt trong hệ thống chính trị, là trở ngại chính cho cải cách chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Tình trạng ‘trên nóng dưới lạnh’ khiến Đảng phải hành động để ‘giải toả’ điểm nghẽn này, mà trước hết là thay đổi tư duy cải cách.
Bị níu kéo bởi ý thức hệ CNXH giáo điều, quan niệm rằng tinh giản bộ máy và nhân sự như ‘tự lấy đá ghè chân mình’ khiến cho nhân lực khu vực công vẫn có xu hướng phình to, hiệu quả công việc thấp và các biểu hiện tiêu cực của quan chức đặc quyền đặc lợi.
Không ai phủ nhận việc nhà nước phải bảo vệ người dân từ ngoại xâm, từ tội phạm ở trong nước, vì vậy cần phải có cảnh sát, tòa án và những dịch vụ công thiết yếu như phòng cháy nổ, cứu nạn… Tuy nhiên, thực tế từ các nước tiên tiến chỉ ra rằng khi bộ máy đảng, nhà nước phình to thì không chỉ phẩm chất và năng lực quan chức giảm đi, mà quyền tự do sẽ nhỏ hơn, cá nhân sẽ nhỏ hơn, lòng tốt và nhân cách con người cũng sẽ nhỏ đi.
Cần tạo ra cơ chế sao cho nhà nước phải luôn là ‘chỗ dựa cuối cùng’ chứ không phải là ‘chỗ dựa đầu tiên’ mà nhân dân tìm đến khi ‘có vấn đề’ như hiện nay.
Ngoài ra, khi nhà nước bành trướng, thì nạn tham nhũng, trục lợi và lợi ích nhóm sẽ tăng lên, bởi vì quyền lực chính trị có sức thu hút vô cùng mạnh, và nhiều người khi có quyền lực vô hạn và tiền bạc vô hạn sẽ lạm dụng những quyền lực, đúng ra, thuộc về nhân dân.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của PGS. TS Phạm Quý Thọ, nguyên Chủ nhiệm Khoa Chính sách công, Học viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam.
https://www.bbc.com/vietnamese/forum-50422029
TQ xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại bãi Tư Chính:
Nhìn từ dư luận nước Nga
Vấn đề Biển Đông lâu nay được coi là nhạy cảm đối với Cộng hòa Liên bang Nga khi nước này có quan hệ mật thiết với cả Việt Nam và Trung Quốc. Về mặt chính thức, nhìn chung Nga vẫn giữ lập trường trung lập, không để các bên lôi kéo vào tranh chấp, xung đột ở Biển Đông. Quan điểm này mang lại cho Moskva sự linh hoạt trong xử lý các vấn đề nhạy cảm với các nước đối tác. Tuy nhiên, thực tế vài năm gần đây cho thấy lập trường của Moskva có thể bị các bên, trong đó có Trung Quốc, tác động theo hướng có lợi cho mình. Nhất là từ năm 2014 đến nay, quan hệ Nga – Trung tuy còn tồn tại những nghi kỵ, bất đồng, nhưng về tổng thể, đã có bước phát triển đột phá trên tất cả các lĩnh vực. Thậm chí, nguyên thủ của cả hai nước này đều công nhận quan hệ của họ gần gũi đến mức “chưa từng có” trong lịch sử quan hệ hai bên. Đặc biệt, họ dường như đã tìm được điểm đồng thuận, ngấm ngầm ủng hộ nhau về các vấn đề liên quan đến “lợi ích cốt lõi” của nhau. Minh chứng cho điều này được thể hiện rõ qua 2 sự kiện nổi bật sau:
Một là, sau khi Nga sáp nhập bán đảo Crimeavào lãnh thổ của mình (2014) và mở chiến dịch quân sự chống IS ở Syria, Trung Quốc đã ủng hộ Nga, không lên tiếng phản đối. Ngược lại, dư luận Nga cũng hầu như không đả động gì đến phán quyết cuối cùng của Tòa trọng tài thường trực quốc tế về Luật Biển (PCA) về vụ Philippines kiện Trung Quốc liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông (12/07/2016) mà phần thắng nghiêng về Philippines. Trong khi dư luận các nước trong và ngoài khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, EU, Indonesia, Singapore, Thái Lan… đều lên tiếng hoan nghênh phán quyết của PCA, mong muốn các bên liên quan tuân thủ nội dung phán quyết. Chưa hết, bên lề Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi (G20) nhóm họp vào tháng 9/2016, Tổng thống Nga Vladimir Putin còn tuyên bố: “Chúng tôi ủng hộ quan điểm của Trung Quốc là không công nhận phán quyết của PCA”.
Hai là, trong sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông năm 2014, truyền thông Nga đưa tin về Trung Quốc với những trích dẫn đậm nét các tuyên bố chính thức của Bắc Kinh, trong khi tỷ trọng thông tin về lập trường của Việt Nam lại chiếm rất ít, thậm chí có những bài bình luận mang tính chủ quan, công kích Việt Nam, gây phẫn nộ đối với dư luận.
Những tưởng sự kiện lần này Trung Quốc đưa tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào vùng biển bãi Tư Chính do Việt Nam kiểm soát thì phản ứng của Nga sẽ lại giống với 2 sự kiện kể trên. Ngờ đâu lại khác hẳn, lần này dư luận học giả, chính giới và báo chí Nga lại đưa tin nhiều hơn và có xu hướng “bênh vực” Việt Nam. Cụ thể:
Về phía học giả và chính giới Nga: Đầu tiên, ngày 31/07/2019, trả lời phỏng vấn tờ báo Độc Lập của Nga, chuyên gia nghiên cứu thuộc Phân viện Viễn Đông, Viện Hàn lâm khoa học Nga Grirory Lokshin đã cho rằng, việc tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc tiến hành các hoạt động thăm dò tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (bãi Tư Chính) là phi pháp. Ông này nói: “Ngày 03/07/2019, tàu khảo sát của Trung Quốc được sự hộ tống của hai tàu bảo vệ đã đi vào khu vực vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền của Việt Nam, tiến hành các hoạt động nghiên cứu. Những hành động như vậy không được Việt Nam cho phép là phi pháp”. Ông cũng tỏ ra lo ngại tình hình sẽ nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng tới lợi ích của các công ty Nga đang hoạt động hợp pháp trong khu vực theo thỏa thuận đã được Chính phủ hai nước Việt Nam và Liên bang Nga ký trước đó. Ông cho biết, phía Việt Nam đã phản ứng hoàn toàn chính đáng khi đưa các tàu bảo vệ bờ biển ra bảo vệ chủ quyền và ngăn chặn các tàu Trung Quốc xâm phạm. Việt Nam đã thể hiện sự kiềm chế trước sự việc, bằng chứng là suốt hai tuần đầu tiên không có bất kỳ tuyên bố chính thức nào được đưa ra cho đến khi báo chí nước ngoài lên tiếng. Theo ông Lokshin, Việt Nam đã chính thức yêu cầu các tàu Trung Quốc rút khỏi vùng đặc quyền kinh tế, nhưng các tàu đó vẫn ngoan cố, gây ra tình hình căng thẳng.
Tiếp đó, tại các cuộc gặp bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 52 và các nước đối tác ở Bangkok, Thailand, Ngoại trưởng Nga S.Lavrov không nêu quan điểm cụ thể về tình hình căng thẳng ở Biển Đông, chỉ nhấn mạnh cần phải xây dựng cấu trúc an ninh tương đồng và không chia tách ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Ông Lavrov cho rằng, trong tình hình phức tạp hiện nay, mỗi quốc gia có triết lý ngoại giao riêng, nhưng sẽ tương đồng trong cách tiếp cận với việc giải quyết các vấn đề thời sự thông qua đàm phán và đối thoại. Trước đó, quan điểm chính thức của Nga về vấn đề Biển Đông đã được người phát ngôn Bộ Ngoại giao Maria Zakharova nêu rõ: “Lập trường của Nga là nhất quán và không thay đổi: Chúng tôi ủng hộ việc các quốc gia liên quan trong tranh chấp lãnh thổ ở vùng biển này cần tuân thủ triệt để việc không sử dụng vũ lực và tiếp tục tìm kiếm các giải pháp chính trị, ngoại giao để giải quyết vấn đề trên cơ sở luật pháp quốc tế, trước hết là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982). Chúng tôi ủng hộ ASEAN và Trung Quốc soạn thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nga cũng khẳng định, Moskva không phải là một bên tranh chấp ở Biển Đông và về nguyên tắc sẽ không đứng về bên nào trong vấn đề này.
Đáng lưu ý là, so với vụ PCA ra phán quyết và lần Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, thì đến lần này, cho dù giới chức ngoại giao Nga né tránh đề cập vấn đề Biển Đông, nhưng các diễn biến xung quanh việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 vào vùng biển thuộc bãi Tư Chính của Việt Nam đã được các hãng thông tấn, báo chí lớn của Nga đưa tin thường xuyên và mật độ nhiều hơn.
Theo đó, các hãng truyền thông Nga đã đưa tin theo hướng ưu tiên trích dẫn các phát biểu và tuyên bố chính thức không có lợi cho Trung Quốc từ phía các nước như Mỹ, Philippines… Thậm chí, hãng thông tấn chính thức của Nga là TASS đã giật tít đầy ẩn ý rằng “Trung Quốc cần kiềm chế các hành động khiêu khích tại Biển Đông” khi trích dẫn phát biểu của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ. Ngày 17/07/2019, TASS còn dẫn lời của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển ở Biển Đông được xác định theo đúng các quy định của UNCLOS 1982. Mọi hoạt động của nước ngoài tại các vùng biển Việt Nam nếu không được phép của Việt Nam đều vô giá trị, xâm phạm vùng biển Việt Nam, vi phạm
luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982. Theo TASS, Việt Nam kiên quyết đấu tranh trước bất cứ hành vi nào xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển được xác định phù hợp với UNCLOS 1982.
Các hãng thông tấn như TASS, RIA Novosti… trong ngày 20/07/2019 đã trích dẫn tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ bày tỏ quan ngại về những thông tin rằng, Trung Quốc đang cản trở hoạt động dầu khí của các nước khác ở Biển Đông, chỉ trích Bắc Kinh có hành động khiêu khích và gây bất ổn tại vùng biển này. TASS đã trích dẫn lời phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ, bà Morgan Ortagus, bày tỏ quan ngại việc Trung Quốc can thiệp vào các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tại Biển Đông mà Việt Nam đã thực hiện từ lâu. TASS cũng cho biết, bà Morgan Ortagus nhấn mạnh việc tiến hành cải tạo và “quân sự hóa” các tiền đồn ở Biển Đông, cùng với các hành động khác nhằm khẳng định những đòi hỏi bất hợp pháp của Bắc Kinh ở vùng biển này, bao gồm cả việc sử dụng quân sự trên biển để hăm dọa, cưỡng ép và đe dọa các quốc gia khác, là hành động làm xói mòn hòa bình và an ninh khu vực. Còn hãng Interfax, ngày 30/07/2019 đã dẫn phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana chỉ trích Trung Quốc vì những hành động mà ông cho là “hăm dọa” tại Biển Đông. Đồng thời cảnh báo những hành động tương tự của Trung Quốc tại vùng biển này sẽ ngày càng gia tăng.
Truyền thông Nga cũng công bố công khai thư khen ngợi của Tổng thống Nga V.Putin đối với Giám đốc Rosneft Vietnam BV (công ty con của liên doanh giữa PetroVN và tập đoàn Rosneft của Nga), đơn vị đang chịu trách nhiệm nghiên cứu thăm dò theo thỏa thuận đã ký trước đó giữa hai chính phủ Việt Nam và Nga. Động thái này được giới quan sát coi là biểu tượng cho sự ủng hộ khéo léo của Nga đối với Việt Nam. Điều này khác hẳn với những gì đã từng xảy ra hồi năm 2014.
Việc giới chức, học giả, các nhà nghiên cứu và báo chí Nga đưa tin nhiều hơn và có xu hướng ủng hộ Việt Nam cho thấy, phải chăng giới truyền thông, thậm chí là chính giới Nga giờ đây đã nhận thức rõ hơn chân lý và lẽ phải về các tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông? Và họ không có sự lựa chọn nào khác là ủng hộ lập trường và những giải pháp mà Việt Nam đã và đang lựa chọn trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông.
Ngoài việc đưa tin có xu hướng ủng hộ quan điểm, lập trường của Việt Nam trong giải quyết vấn đề Biển Đông, dư luận Nga cũng đưa ra nhiều phân tích về vị trí, vai trò của Biển Đông đối với thế giới, Nga và Việt Nam, từ đó đưa ra một số khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác Việt – Nga trên Biển Đông.
Theo dư luận Nga, với vị thế đặc biệt quan trọng, Biển Đông đã, đang và sẽ là tâm điểm của các chính sách, chiến lược của các cường quốc trong và ngoài khu vực. Tham vọng địa chính trị của các nước lớn như Nga, Trung Quốc, Mỹ ở khu vực nói chung và Đông Nam Á nói riêng chắc chắn sẽ tác động đến lợi ích của Việt Nam, đặc biệt trong vấn đề bảo vệ và khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
Đối với Nga, vấn đề Biển Đông từ lâu đã được cho là nhạy cảm khi nước này có quan hệ đối tác chiến lược với cả Việt Nam và Trung Quốc. Phần lớn các chuyên gia ở Nga đều có chung nhận định rằng, Moskva mong muốn duy trì quan hệ cân bằng với cả Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời kiên trì lập trường không đứng về bên nào trong các cuộc xung đột tiềm tàng. Tuy nhiên, Bắc Kinh một mặt tích cực lôi kéo Nga làm đối trọng với Mỹ, mặt khác, không sẵn sàng chia sẻ ảnh hưởng với Moskva ở khu vực. Trong khi đó, tham vọng của Trung Quốc đối với Biển Đông đã quá rõ ràng và nước này sẽ hành động ngày càng hung hăng hơn. Mỹ phản đối tham vọng này, nhưng cũng không từ bỏ mục tiêu biến các quốc gia Đông Nam Á thành tiền đồn chống Trung Quốc. Thực tế này đòi hỏi Moskva phải có các bước đi phù hợp với tình hình mới.
Việc Mỹ công bố và triển khai chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở”, đồng thời tăng cường các cuộc tuần tra hải quân, không quân ở khu vực sẽ kéo theo phản ứng mạnh mẽ của Trung Quốc cả về lời nói lẫn hành động. Các diễn biến gần đây cho thấy, Trung Quốc ngày càng thiếu kiềm chế và sẽ không ngần ngại gây ra va chạm, đụng độ với các lực lượng tuần tra của Mỹ khi đi qua Biển Đông. Truyền thông Trung Quốc sẽ tăng cường công kích hành động của Mỹ, đồng thời tạo dư luận cho việc nước này tiếp tục “quân sự hóa” các đảo họ đang chiếm đóng trái phép ở Biển Đông, triển khai các vũ khí hiện đại nhằm tạo ưu thế về quân sự. Ngày 01/08/2019, phát biểu tại lễ kỷ niệm ngày thành lập Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã kêu gọi tiếp tục cải cách để tăng cường sức mạnh quân đội nước này. Đây sẽ là một trong những thách thức lớn đối với quốc phòng – an ninh của các nước trong khu vực, nhất là những nước có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông.
Cũng theo dư luận Nga, Nga vừa là đối tác chiến lược của Việt Nam, vừa là đối tác quan trọng của Trung Quốc. Về phương diện ngoại giao, việc phát triển quan hệ hài hòa giữa Việt Nam – Nga – Trung Quốc sẽ đáp ứng lợi ích của tất cả các bên. Trong vấn đề Biển Đông, Trung Quốc một mặt tích cực lôi kéo Nga bằng mọi cách, mặt khác luôn sẵn sàng thử thách phản ứng, thậm chí lợi dụng lập trường không đứng về bên nào của Nga cho mục đích tuyên truyền gây hiểu nhầm và chia rẽ quan hệ Nga – Việt, đồng thời tùy theo tình hình sẽ có các hành động liều lĩnh ở Biển Đông, bất chấp phản ứng của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trong quan hệ Nga – Trung hiện nay, Bắc Kinh cũng cần quan hệ gần gũi hơn với Moskva nên phải cân nhắc các bước đi mang tính khiêu khích, đụng chạm tới lợi ích của Nga tại khu vực. Do đó, Việt Nam trên cơ sở quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nga, cần chủ động lôi kéo Nga về phía mình thông qua việc thường xuyên trao đổi các cuộc tiếp xúc cấp cao của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực; đẩy mạnh ngoại giao nhân dân giữa hai nước; mở rộng các dự án kinh tế cùng có lợi tại Biển Đông với sự tham gia của Nga và các đối tác gần gũi như Ấn Độ, Nhật Bản; mời các tổ chức khoa học uy tín ở Nga tham gia các dự án chung quy mô lớn nghiên cứu hải dương học ở Biển Đông, hỗ trợ các nhà nghiên cứu Nga có đề tài, dự án nghiên cứu khoa học về Biển Đông; phối hợp với các đối tác truyền thông Nga tích cực thông tin tuyên truyền về Biển Đông trên các phương tiện truyền thông đại chúng Nga để các tầng lớp nhân dân Nga hiểu rõ hơn về tính chất chính nghĩa của Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông.
Việc dư luận Nga năm nay chuyển hướng, bày tỏ thái độ ủng hộ ngày càng nhiều hơn các hoạt động của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc, nhất là tại bãi Tư Chính hiện nay cho thấy, tuyên bố và cách ứng xử của Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế, phù hợp với xu thế trong giải quyết các vấn đề tranh chấp hiện nay trên thế giới, do đó ngày càng nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều nước trong và ngoài khu vực. Trong khi đó, với hành động sai trái của mình, Bắc Kinh đang bị các nước lên án, chỉ trích quyết liệt, không chỉ từ các nước trong khu vực, từ phía các nước lớn ngoài khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức… mà hiện còn có cả chính giới và dư luận Nga. Cách tốt nhất để giữ uy tín của mình và tránh một lần nữa bị “cô đơn” trước thế giới, Trung Quốc nên hành xử theo đúng những gì đã từng tuyên bố và cam kết, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam và các nước trong khu vực, góp phần duy trì bảo đảm an ninh, hòa bình, ổn định đối với Biển Đông.
Việt – Trung: Chiến tranh hay chiến tranh chính trị?
Một học giả Úc theo dõi tình hình Trung – Việt nói với VOA rằng Trung Quốc đã xây dựng các căn cứ quân sự, bao gồm các doanh trại, nhà kho, và cả bệ phóng phi đạn gần biên giới với Việt Nam; điều mà ông cho là Trung Quốc chuẩn bị cho một cuộc xâm lược. Tuy nhiên, các chuyên gia khác bác bỏ nhận định ấy, nói rằng nếu có xung đột thì có lẽ là “bờ vực chiến tranh chính trị”, hoặc đối đầu trên biển.
Nhà khoa học Úc, David Archibald, thuộc Viện Chính trị Thế giới (The Institute of World Politics), dựa vào hình ảnh vệ tinh Planet Labs ở tỉnh Quảng Tây ở 24° 24 vĩ độ Bắc; 106° 42’ kinh độ Đông mà ông quan sát được, nói rằng:
“Bởi vì khá rõ từ những gì mà họ đã xây dựng ở phía bên kia biên giới. Một cơ sở rộng 50 hecta này cách biên giới Việt Nam chỉ có 10 km mà dường như không có chức năng nào khác ngoài ngoài mục đích là căn cứ quân sự nơi binh sĩ có thể được huy động vào ban đêm và đồn trú ở đó vài ngày trước cuộc tấn công mà không có bất cứ ai có thể phát hiện ra họ.”
“Và chỉ cách đó 1,5km, có một số tòa nhà có mái màu xanh trông giống như chúng được thiết kế để chứa tên lửa đạn đạo tầm trung mà những tên lửa này có thể được di chuyển ra bên ngoài và sử dụng để bắn vào Việt Nam khi họ mở cuộc tấn công,” ông Archibald cho biết thêm.
Tuy nhiên, đây chỉ là “tập quán phổ biến đối với các quốc gia có khu vực biên giới đang tranh chấp,” theo nhận định của Derek Grossman, nhà phân tích chính sách thuộc tập đoàn Rand Corporation của Mỹ. Hay theo nhận định tương tự của Bill Hayton, chuyên gia Anh, tác giả cuốn Biển Đông: Cuộc đấu tranh quyền lực ở châu Á (2014): “Tất cả các quốc gia đều xây dựng cơ sở hạ tầng để bảo vệ biên giới của họ.”
Được hỏi vì sao giới lãnh đạo Bắc Kinh muốn mở một cuộc xâm lược như thế, ông Archibald lý giải, là để “dùng lãnh thổ đổi biển đảo.”
“Bởi vì Trung Quốc muốn chiếm toàn bộ Biển Đông. Và hiện tại Việt Nam có 17 căn cứ ở Biển Đông mà Việt Nam không tự nguyện từ bỏ.”
Dùng lãnh thổ đổi biển đào, Archibald nhận định, là một “dàn xếp ôn hòa”, theo cách nhìn của Bắc Kinh.
Các quan điểm của Archibald, theo nhận định của chuyên gia Úc, Greg Polling, Giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) có trụ sở ở thủ đô Washington: “Không được các chuyên gia về Trung Quốc hay Việt Nam đồng tình.”
Một lý do khác, vẫn theo Archibald, là để tạo cơ hội cho Trung Quốc “luyện tập sử dụng bộ binh và sử dụng các cơ sở quân sự vì họ không có kinh nghiệm chiến trường kể từ khi tấn công Việt Nam lần cuối vào những năm của thập niên 80.”
Bài phân tích của David Archibald, được dịch giả Phạm Nguyên Tường dịch sang tiếng Việt, mô tả những gì ông quan sát Bắc Kinh đang chuẩn bị tại khu vực giáp biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng Tây.
Các chuyên gia trong nước và quốc tế quan sát tình hình khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và Biển Đông đưa ra những ý kiến khác nhau về nhận định của ông David Archibald; phần lớn không cùng nhận định “chiến tranh” như Archibald.
Derek Grossman, từ Rand Corporation của Mỹ, cho VOA biết ông ghi nhận “sự cải tiến cơ sở hạ tầng quân sự rõ rệt” ở khu vực mà ông Archibald đề cập; nhưng cũng nói đó là việc thường xảy ra ở khu vực biên giới tranh chấp; và “tập quán này, tự bản thân nó, không cấu thành nên điều gì cả nếu không có bằng chứng thực tế về ý định của Trung Quốc nhằm tiến hành một cuộc xâm lược trên bộ.”
Ông Grossman kết luận: “Theo như tôi biết, không có dấu hiệu nào cho thấy Trung Quốc có kế hoạch xâm chiếm Việt Nam tại biên giới trên đất liền.”
Từ Anh, chuyên gia Bill Hayton nói với VOA: “Việt Nam và Trung Quốc có khả năng đi tới bờ vực chiến tranh về chính trị (political brinkmanship) trong những năm tới và cả hai bên đều phải chứng tỏ cho bên kia thấy rằng họ có khả năng leo thang và giành chiến thắng trong một cuộc xung đột.”
“Bất kỳ công trình xây dựng căn cứ quân sự mới nào cũng có khả năng là một phần của chiến lược răn đe chính trị-quân sự hơn là một phần của kế hoạch xâm lược cụ thể,” ông Hayton nhấn mạnh.
Chuyên gia Hoàng Việt ở Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc Qũy Nghiên cứu Biển Đông, nói rằng ông “không tin Trung Quốc có thể tấn công xâm lược Việt Nam trong thời gian này.”
Ông Hoàng Việt nêu ba lý do: “Thứ Nhất, nếu tấn công trên bộ thì Việt Nam có nhiều lợi thế và kinh nghiệm để phòng thủ và bảo vệ trên đất nước của mình, nên Trung Quốc chưa chắc đã đạt được ý đồ. Trận chiến năm 1979 đã cho thấy điều đó. Thứ Hai, Tấn công Việt Nam lúc này bất lợi cho Trung Quốc cả trên chiến trường lẫn uy tín trên trường quốc tế. Coi như thành quả ngoại giao của Trung Quốc sẽ bị phá hủy. Thứ Ba, Trung Quốc chỉ muốn đe dọa để đạt được mục đích mà không cần phải sử dụng chiến tranh, tam chủng chiến pháp.”
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore, nhận định với VOA Việt Ngữ: “Giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã kế thừa quyền bá chủ của người Hán và đã biến nó thành một mô hình bá quyền rất phức tạp. Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ ý định và kế hoạch xâm lược Việt Nam.”
“Tuy nhiên, bài báo [của ông Archibald] mà quý vị gửi cho tôi không chứa đựng bất kỳ sự lo lắng nào đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam tại Hà Nội, bởi vì chiến lược Chống tiếp cận/Chống xâm nhập khu vực (AA/AD) của Hà Nội có thể ngăn chặn các cuộc tấn công tiềm tàng từ Trung Quốc và vô hiệu hóa tất cả các cuộc tấn công bằng cách răn đe,” Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho biết.
https://www.voatiengviet.com/a/viet-trung-chien-tranh-hay-chien-tranh-chinh-tri/5167266.html
Xin tị nạn ở Mỹ bằng cách vượt biên ‘sẽ rủi ro’
Những ai muốn xin tị nạn vào Mỹ bằng cách vượt biên bất hợp pháp từ biên giới Mexico nên cân nhắc kỹ vì con đường này nhiều rủi ro, nhất là với ý định của chính quyền Donald Trump muốn chặn con đường làm việc của họ ở Mỹ, một luật sư di trú nói với VOA.
Chính quyền của Tổng thống Donald Trump hôm 13/11 đề xuất quy định hạn chế giấy phép làm việc cho hầu hết những người xin tị nạn, một động thái nhằm làm nản lòng các di dân tìm đường đến Mỹ mà các quan chức nước này tin rằng họ đến chỉ vì lý do kinh tế.
Không thể làm việc
Theo đề xuất này, Cơ quan Nhập tịch và Di trú Hoa Kỳ (USCIS) sẽ từ chối cấp giấy phép làm việc cho hầu hết di dân xin tị nạn và vượt biên giới Mỹ-Mexico mà không có giấy tờ. Điều này dựng nên rào cản kinh tế đối với nhóm người xin tị nạn đông đảo nhất ở Mỹ. Chính sách được đề xuất này cũng yêu cầu những người xin tị nạn phải đợi một năm kể từ khi họ nộp đơn xin tị nạn mới được xin giấy phép làm việc.
Với các quy định mới, giới chức Mỹ sẽ có nhiều quyền hành hơn trong việc hủy giấy phép làm việc của những di dân bị phán quyết bất lợi từ các quan chức về tị nạn hoặc các thẩm phán di trú. Trường hợp bị kết án hoặc bắt giữ với một số tội cụ thể sẽ khiến ứng viên tị nạn không được cấp giấy phép làm việc.
Những thay đổi được đề xuất này cũng mang tính hồi tố, tức là có khả năng cho phép giới chức Mỹ từ chối gia hạn giấy phép làm việc cho những người xin tị nạn đã ở Mỹ mà theo quy định mới không còn đủ điều kiện để được cho phép làm việc nữa.
“Tác động của việc này sẽ rất lớn,” ông Aaron Reichlin-Melnick, cố vấn chính sách tại Hội đồng Di trú Hoa Kỳ, nói với CBS News. “Chúng ta đang nói về hàng chục ngàn người có khả năng mất việc và hàng trăm nghìn người không còn đủ điều kiện để xin giấy phép làm việc.”
Ông Reichlin-Melnick nhấn mạnh rằng việc làm là cần thiết đối với nhiều người xin tị nạn mà hồ sơ của họ kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm vì số hồ sơ dồn lại ở cả sở di trú và tòa án di trú. “Do sự chờ đợi lâu trong quy trình xử lý hồ sơ tị nạn, quy định này có nghĩa là một số người sẽ phải chờ đến 5 hoặc 6 năm mà không được phép làm việc hợp pháp,” ông cho biết.
Ngăn ngừa lợi dụng?
Quyền Giám đốc Ken Cuccinelli, một người cứng rắn về vấn đề di trú vốn lên lãnh đạo USCIS kể từ tháng 6, nói rằng đề xuất này nhắm đến những người tìm cách ‘lợi dụng’ hệ thống tị nạn của Mỹ.
“Những di dân trái phép đang lợi dụng hệ thống tị nạn của chúng ta để tìm kiếm cơ hội kinh tế. Điều này gây tổn hại sự toàn vẹn hệ thống nhập cư của chúng ta và trì hoãn cứu trợ cho những người xin tị nạn hợp pháp vốn cần được bảo vệ nhân đạo,’ ông Cuccinelli nói trong một tuyên bố hôm thứ 13/11.
Đề xuất này nỗ lực công khai mới nhất của chính quyền Trump nhằm ngăn chặn dòng người xin tị nạn ở biên giới Mỹ-Mexico. Hồi tháng 9, USCIS đã công bố dự thảo quy định nhằm bãi bỏ yêu cầu phải xử lý giấy phép làm việc cho người xin tị nạn trong vòng 60 ngày kể từ khi họ nộp đơn. Cơ quan này cũng sắp công bố một đề xuất yêu cầu ứng viên phải đóng phí cho hồ sơ xin tị nạn. Chỉ có ba quốc gia khác trên thế giới hiện nay có mức phí này.
“Chúng ta đang thấy ở đây các chính sách sẽ làm giảm khả năng được chấp thuận cho tị nạn của tất cả những người nộp hồ sơ – bất kể hồ sơ của họ vững đến mức nào,” ông Reichlin-Melnick nhận định.
Người Việt cũng bị ảnh hưởng?
Trao đổi với VOA, luật sư di trú Khanh Phạm ở Texas, tiểu bang có biên giới giáp ranh với Mexico, nói rằng quy định được đề xuất này nếu chính thức có hiệu lực sẽ ‘áp dụng cho tất cả những di dân qua biên giới Mỹ-Mexico mà không có giấy tờ bất kể quốc tịch, trong đó có di dân đến từ Việt Nam’.
Do đó, luật sư Khanh nói, đối với những người Việt Nam có ý định xin tị nạn ở Mỹ bằng con đường qua biên giới Mexico ‘vì bị đàn áp nhiều quá mà không thể đợi xin với Cao ủy Liên hiệp Quốc về tị nạn (UNHCR) ở Thái Lan’ là ‘nếu bị bắt ở biên giới mà sau này có xin tị nạn thì sẽ không được bảo vệ gì nhiều’.
Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng quy định này chỉ nhằm vào biên giới Mỹ-Mexico, tức là những người xin tị nạn qua các con đường còn lại đều không bị ảnh hưởng.
Theo lời ông Khanh thì những người Việt xin tị nạn ở Mỹ hiện nay có một số con đường chủ yếu như: nếu xin visa được vào Mỹ thì họ sẽ đến Mỹ rồi xin tị nạn, nếu không họ sẽ tìm cách vào Mỹ qua đường biên giới, hoặc là Canada (khó hơn vì phải xin thị thực vào) hoặc là Mexico (dễ hơn). Còn nếu họ chịu chờ đợi lâu hơn thì họ có thể xin quy chế tị nạn ở văn phòng UNHCR ở Thái Lan.
“Nếu người Việt Nam đi vào Mỹ bằng visa du lịch và trong vòng 1 năm họ khai đơn xin tị nạn thì họ vẫn có thể xin cấp giấy phép làm việc,” ông giải thích.
Ông cũng cho rằng nếu xin qua con đường UNHCR hiện nay là ‘an toàn nhất’ vì con đường này chưa bị chính quyền Trump nhắm đến. Nếu đến Mỹ trong diện này, tức là sau khi được UNHCR xác nhận là đủ điều kiện tị nạn và được Mỹ chấp nhận, thì họ sẽ không bị bắt đóng phí và không bị từ chối cấp giấy phép làm việc.
Ngoài ra, những người tị nạn trong diện này còn được chính phủ Mỹ hỗ trợ tiền bạc để thuê nhà, được đào tạo, dạy ngôn ngữ, được hỗ trợ tìm công ăn việc làm. Còn những người đến Mỹ xin tị nạn trực tiếp thì không được những hỗ trợ này, ông Khanh cho biết.
‘Đi làm lậu’
Luật sư Khanh Phạm cũng lưu ý rằng thời gian để được cấp giấy phép làm việc, nếu quy định này thành hiện thực, cũng sẽ bị kéo dài hơn rất nhiều, từ 150 thành 365 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ xin tị nạn. Điều này có nghĩa là các ứng viên tị nạn phải mất một năm không thể nào đi làm kiếm sống ở Mỹ.
Việc ứng viên đi làm ‘lậu’ kiếm kế sinh nhai trong lúc đợi hồ sơ được xét duyệt có ảnh hưởng đến khả năng hồ sơ tị nạn của họ được chấp thuận hay không? Luật sư Khanh nói “Không biết sau này nếu ông Trump biết những việc xảy ra (người xin tị nạn đi làm lậu trong khi chờ đợi) thì ông ấy có đưa ra những quy định mới hay không chứ hiện nay đi làm lậu không được coi là tội nặng (felony).”
Về thời gian chờ đợi để được duyệt hồ sơ tị nạn, ông Khanh cho biết các văn phòng di trú khác nhau ở Mỹ có thời gian chờ đợi khác nhau, tùy vào số lượng hồ sơ mà họ thụ lý. Ở thành phố Houston, bang Texas, ông cho biết thời gian chờ đợi trung bình của một trường hợp là từ 4 đến 5 năm.