Tin Việt Nam – 13/10/2018
Thông tư 19 cho dùng Nhân dân tệ:
Mối nguy bắt đầu?
Bài viết của độc giả Vũ Thăng LongGửi BBC từ California
Các vấn đề lợi bất cập hại về nhiều mặt bắt đầu nhen nhóm kể từ khi chính phủ Việt Nam ban hành thông tư 19 cho phép dùng đồng Nhân dân tệ, theo một ý kiến từ Mỹ.
Lợi trước mắt
“Giúp thương nhân Việt Nam sản xuất, buôn bán dễ dàng hơn ở các tỉnh biên giới” và “giúp giới sản xuất và đầu tư Trung Quốc di chuyển một số hãng xưởng sản xuất và dự án đầu tư sang Việt Nam” là hai cái lợi trước mắt được truyền thông nhà nước dẫn chứng khi đưa tin về Thông tư 19 cho phép dùng đồng Nhân dân tệ (NDT) tại bảy tỉnh biên giới giáp Trung Quốc sau ngày 12/10/2018.
Chính phủ Việt Nam có lẽ đã có những tính toán trong việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành thông tư này.
VN cho dùng nhân dân tệ tại bảy tỉnh giáp TQ
TQ chạy ‘hết công suất’ in tiền nước ngoài
Họ cho rằng sẽ có thể kiểm soát, “tránh việc dùng tiền Trung Quốc tràn lan trên lãnh thổ Việt Nam” bằng “các văn bản pháp quy bảo đảm chặt chẽ cho Thông tư 19 về giới hạn phạm vi áp dụng và cơ chế giám sát thực hiện”.
Nhưng suy xét kỹ, có thể thấy việc “cố gắng giới hạn phạm vi áp dụng” và “cơ chế giám sát chính sách chặt chẽ để bảo đảm việc tuân thủ luật pháp” đều là các việc khó làm từ xưa đến nay ở xứ nhà!
Lợi bất cập hại
Phân tích kỹ hơn các yếu tố sâu xa cả trong ngắn hạn và dài hạn, bài thảo luận ngắn này trình bày các mối hại lớn hơn nhiều cho guồng máy sản xuất và cả nền kinh tế Việt Nam trong 2-3 năm tới. Dẫn tới nguy cơ Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc Trung Quốc về kinh tế và chính trị.
Trong ngắn hạn, Thông tư 19 sẽ tác động tai hại lên chính sách tiền tệ độc lập của Việt Nam, làm suy yếu tiền VND và sẽ gây ra các biến động tiền tệ và tâm lý khó lường trong vòng từ 3-6 tháng. Nhất là việc đầu cơ tiền tệ có thể làm tan biến khối dự trữ ngoại tệ 65-70 tỷ đô la của NHNN một cách nhanh chóng nếu muốn dùng dự trữ đó để bảo vệ tỷ giá sau này.
Sau khi phân tích các điểm này, thì kết luận rõ ràng là lợi bất cập hại như sau :
1. Vấn đề vi hiến và vi phạm luật NHNN hiện hữu:
Chủ quyền kinh tế, chủ quyền tiền tệ là những cấu thành đặc biệt của chủ quyền chính trị, chủ quyền quốc gia; mất chủ quyền tiền tệ này là mất chủ quyền quốc gia, như TS Lê Đăng Doanh ở Hà nội nêu ra.
Ngoài khía cạnh vi hiến, Thông tư 19 còn vi phạm trầm trọng Luật Quản lý Ngoại hối của chính NHNN (như sẽ bàn dưới đây).
Thông tư 19 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép đồng NDT được lưu hành tại bảy tỉnh biên giới Trung Quốc -Việt Nam, sẽ không có cơ chế nào hữu hiệu để ngăn chặn những đồng NDT được sử dụng ở những nơi khác ngoài bảy tỉnh đó, theo nguyên tắc Bình Thông nhau quen thuộc; và mặc nhiên NDT trở thành một loại tiền tệ chính thức (legal tender) ở Việt Nam.
2. Có sự hiểu nhầm hay cố ý không hiểu khác biệt giữa chấp nhận NDT trong giỏ tiền tệ của IMF và dùng NDT như một loại tiền tệ của quốc gia:
Một là, giỏ tiền tệ chỉ dùng làm mốc cho việc xác định tỷ giá của tiền trong nước và không có liên quan gì đến việc dùng tiền tệ của một quốc gia. Một số đông người có thể hiểu lầm rằng NDT có trong giỏ tiền SDR của IMF (một sự thực) coi NDT là đồng tiền chuyển đổi tự do, là có thể được các nước chấp nhận làm đồng tiền thanh toán trong giao dịch quốc tế.
Thí dụ dễ hiểu về khái niệm của đồng tiền chính thức (legal tender) và giỏ tiền tệ: Thái Lan dùng tiền Baht như là đồng tiền chính thức duy nhất trong nước họ nhưng lại dùng SDR (giỏ tiền tệ nổi tiếng của IMF với nhiều tiền “lớn” khác kể cả NDT) làm tiêu chuẩn ấn định tỷ giá của họ.
Nếu có cả USD và NDT, ảnh hưởng chuyển động trái ngược của tỷ giá hai đồng tiền này trong giỏ chọn lựa sẽ có tác động trung hòa với tiền Baht nếu Ngân hàng trung ương Thái Lan không quyết định tăng hay giảm ảnh hưởng của một thứ tiền trong giỏ đó.
Hai là, Thông tư 19 mặc dù không công nhận NDT là đồng tiền chính thức của Việt Nam nhưng việc NHNN cho phép lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam tức là công nhận NDT là đồng tiền chính thức thứ hai (dual currency), lưu hành song song với VND.
3. Tác động quan trọng nhất là lên tỷ giá VND và chính sách tiền tệ độc lập của NHNN ở Việt Nam:
Thông tư 19 của NHNN cho phép 95 triệu dân ở Vân Nam và Quảng Tây cùng với vài triệu dân Việt Nam, hay gần 100 triệu người tức hơn toàn bộ dân số VN hiện nay, được dùng NDT cho chi thu thương mại và đầu cơ tiền tệ ở trên lãnh thổ VN.
Tuy gọi là biên mậu (mậu dịch ở biên giới), nhưng ở phía Trung Quốc cũng như ở Việt Nam liệu có quy định nào giới hạn phạm vi trao đổi chỉ của các tỉnh biên giới. Thực tế ở Việt Nam lâu nay các tỉnh miền Nam vẫn đưa hàng lên biên giới bán cho Trung Quốc và được coi là biên mậu! Điều này cho thấy nguy cơ NHNN không kiểm soát được chính sách tiền tệ, khả năng phụ thuộc vào đồng tiền Trung Quốc là rất lớn.
Tùy số tiền NDT của Trung Quốc được nới rộng hay thu hẹp ở Việt Nam, NHNN sẽ không kiểm soát được khối tiền tệ lưu hành ở Việt Nam. Thậm chí không có số đo chính xác về khối tiền đó trong nước, như từ trước đến nay. Quan trọng nhất, NHNN mất cả khả năng ấn định chính sách tín dụng rộng hay thắt chặt một cách độc lập.
Ngoài ra, tỷ giá VND sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi tỷ giá NDT. Đây là vấn đề rất quan trọng hiện nay, vì trong cuộc thương chiến Mỹ-Trung hiện tại, tiền NDT đã mất giá 9% từ tháng 4, trong khi VND chỉ mới mất giá 4-5 % so với USD.
Sự lan truyền mạnh của NDT ở Việt Nam sang hai trung tâm tiền tệ lớn là Hà Nội và Sài Gòn sẽ có thể làm VND mất giá thêm 4-5% trong thời gian ngắn do đầu cơ tiền tệ, ngay cả lúc chưa có tác động nào khác của các yếu tố thương mại giữa tay ba Mỹ-TQ-VN (như bàn dưới đây).
Tương lai cuộc thương chiến Mỹ-Trung đang có đà sẽ bộc phát mạnh mẽ hơn để “thị uy” nhằm mục đích chiến tranh tâm lý trước khi thương nghị chính thức trở lại giữa hai quốc gia Mỹ -Trung và với các đối tác khác (Hội nghị G20 vào tháng 11 này).
Sang tháng 12/18, Mỹ có thể sẽ tuyên bố áp thêm thuế 25%, tăng từ 10%, lên 200 tỷ đô hàng nhập từ Trung Quốc. Để trả đũa, Trung Quốc chỉ có thể áp lên cùng thuế này trên số hàng nhập còn lại từ Mỹ trị giá 80 tỷ đô (tổng số hàng nhập từ Mỹ là 130 tỷ năm 2017). Điểm yếu huyết mạch của Trung Quốc là chỗ này. Dân chúng và giới thương gia Trung Quốc nhất định sẽ phải “phòng thủ” bằng cách trốn khỏi tiền NDT qua dự trữ USD, tiền yen, Euro, và có thể là vàng (nơi ẩn trú tiền để dành quan trọng của dân Á đông).
Nếu tiền NDT xuống quá mức 7,0-7,2 ăn 1 USD (từ 6,9 hiện nay; hay ngay cả xuống thêm 10%), hệ thống tiền tệ Trung Quốc sẽ rối loạn toàn bộ. Và ảnh hưởng lên tỷ giá VND do một mình yếu tố đầu cơ tiền tệ này thôi sẽ có thể dễ dàng đẩy tỷ giá VND tới mức 24.000-25.000/ 1 USD.
Việt Nam sẽ mất nguồn thu ngân sách quan trọng trong kinh tế học gọi là “seignorage” khi không chủ động được chính sách tiền tệ của quốc gia.
4. Tác động gia tăng của thương chiến Mỹ-Trung lên kinh tế và tỷ giá VND:
Theo kinh nghiệm về tiền tệ thế giới, đồng tiền mạnh bao giờ cũng lấn át đồng tiền yếu. Nếu như đồng NDT với số lượng hàng hóa ở đằng sau và với việc họ phá giá tiền của họ, giá thành của hàng TQ rẻ đi, sẽ tạo ra một ưu thế rất lớn với hàng hóa của Việt Nam. Nhiều kỹ nghệ của Việt Nam sẽ bị bóp nghẹt.
Việc ai cũng e ngại là Trung Quốc sẽ tuồn hàng sang Việt Nam để xuất khẩu sang Mỹ nhằm tránh áp thuế cao. Mỹ đã sẵn sàng với việc này và có thể sẽ áp thuế 25% lên hàng nhập từ Việt Nam và ngay cả ngăn chặn hàng Việt Nam có “gốc Trung Quốc” được nhận biết khá dễ dàng qua hệ thống tin tức thương mại của Mỹ.
Giải pháp cần tính đến
Một số chuyên gia lo ngại rằng Việt Nam, trong lúc tính toán để không bị lôi vào khủng hoảng tiền tệ, như đã và đang xảy ra ở các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Venezuela, Argentine, nếu định “dựa” vào đồng NDT để “tránh bão” thì đó là quan niệm hoàn toàn sai lầm lúc này.
NHNN cần xét lại Thông tư 19, tính toán lại kế hoạch cho NDT lưu hành trước hết ở bảy tỉnh biên giới, sau đó lan rộng đến Hà nội và Sài Gòn. Đây sẽ là việc rất khó kiểm soát, theo nguyên tắc Bình thông nhau.
Một nghịch lý trớ trêu là NHNN từng chống việc đô la hóa trong quá khứ với lý do Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam để NHNN có thể điều hành chính sách tiền tệ. Nay Thông tư 19 lại chính thức hóa và hỗ trợ việc NDT hóa tiền đồng Việt Nam.
Tuy kế thừa QĐ 689 ban hành từ trước (năm 2004) nhưng Thông tư 19 đi ngược lại chính sách quản lý ngoại hối nêu trong pháp lệnh QLNH (ban hành năm 2005, sửa đổi năm 2013 nhằm “thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam”).
Hơn nữa, Trung Quốc đang là nước quan hệ thương mại cao nhất với Việt Nam và đứng đầu trong danh sách nhập siêu của Việt Nam. Nay Thông tư 19 lại giúp cho việc nhập khẩu hàng Trung Quốc dễ dàng hơn nữa, gồm cả nhập khẩu “chính ngạch” và “tiểu ngạch” – lên đến 20-30 tỷ đô, liệu ai có thể giải thích rõ thêm về mục tiêu chính sách của NHNN?
Việc ban hành và áp dụng Thông tư 19 xảy đến cùng lúc với nhiều sự kiện quan trọng khác. Như việc xem xét thiết lập ba đặc khu kinh tế ở những vùng nhay cảm cho an ninh quốc gia. Hay việc cho phép xe du lịch Trung Quốc vào Lạng Sơn từ ngày 7/9/18 mà không cần thủ tục nhập cảnh và hải quan thông thường. Chuỗi sự kiện này khiến dư luận quan tâm và làm dấy lên lo ngại về các hiểm họa trước mắt cũng như lâu dài cho đất nước.
https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-45848295
Dự thảo Luật ANM có nhầm giữa thực với ảo?
Lê Nguyễn Duy HậuBài từ Facebook cá nhân
Tức là nếu một cá nhân có quyền và nghĩa vụ gì khi ở ngoài đời thật thì họ không được phép có nhiều hay ít quyền và nghĩa vụ hơn khi ở trên mạng. Mọi thứ phải như nhau.
LHQ bày tỏ quan ngại về Luật an ninh mạng
Việt Nam: ‘Luật An ninh mạng bảo vệ lợi ích quốc gia’
VN ép Facebook, Google chọn quyền riêng tư hoặc tăng trưởng
Điều này có nghĩa là anh không có quyền núp đằng sau một nick ảo để phỉ báng một ai khác, cũng như không được phép lợi dụng không gian mạng để tiến hành lừa đảo.
Phỉ báng trên mạng hay phỉ báng ngoài đời thì cũng đều là phỉ báng. Trộm cắp ngoài đời hay trộm cắp trên mạng thì cũng là trộm cắp.
Điều này áp dụng tương tự cho quyền lực của Nhà nước và nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước không có quyền đánh thuế người kinh doanh trên mạng internet cao hơn người kinh doanh ngoài đời thực.
Nhà nước cũng có nghĩa vụ phải đối xử với các chỉ trích trên mạng tương tự như họ đón nhận những phản biện ngoài đời. Đó là nguyên tắc.
Internet là một công cụ liên lạc, lưu trữ, thông tin. Đừng nhầm lẫn nó là một thế giới khác.
Phải hiểu được nguyên tắc đó thì mới thấy Dự thảo nghị định hướng dẫn Luật An ninh mạng đáng lo ngại thế nào.
Ở ngoài đời thật, không có một cơ chế nào cho phép Nhà nước thu thập thông tin (một cách hợp pháp và chính thức) liên quan đến những thứ được coi là tối riêng tư của công dân (sở thích, sở trường, thông tin sức khoẻ, thông tin tài chính, thói quen tìm kiếm, chat log), cũng như xâm phạm đến những tự do tuyệt đối của con người (quan điểm chính trị, niềm tin triết lý).
Ở ngoài đời thường, tất cả mọi tiếp cận hay hạn chế quyền công dân đều phải trải qua một tiến trình công bằng (due process) và nghiêm ngặt.
Chẳng hạn, công an muốn khám nhà thì bắt buộc phải có lệnh của toà án hoặc viện kiểm sát.
Cảnh sát muốn xâm phạm thư tín thì cần có trát tư pháp và do Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự quy định.
Những thông tin mà cảnh sát thu thập mà bất hợp pháp thì cũng không dùng làm gì được (nguyên tắc quả trên cây sâu).
Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại đòi hỏi quy trình khắt khe như vậy và có lẽ chỉ có thời chiến với tình trạng khẩn cấp thì người ta mới cho phép lược bỏ những thủ tục đó vì sự sống còn của quốc gia.
Đọc vào những gì mà dự thảo nghị định đưa ra và soi chiếu với những nguyên tắc trên không khỏi khiến chúng ta phẫn nộ.
Cơ sở nào khiến Nhà nước nghĩ rằng họ có quyền tiếp cận những thông tin đó của người dân?
Quan điểm chính trị hay niềm tin cá nhân thì phục vụ gì cho việc bảo vệ Tổ quốc?
Vai trò của toà án và viện kiểm sát ở đâu để ngăn cản cảnh sát tiếp cận thông tin của người dân (mà còn hơn cả thông tin, đó có thể là đức tin và triết lý của họ)? Không một quy trình, không một trát lệnh.
Những mật mã âm thầm trong trang giấy in
Luật An ninh mạng: Vì sao và sẽ ra sao?
Bàn khả năng hoãn hoặc sửa Luật An ninh mạng
Tất cả vỏn vẹn trong năm từ “phục vụ cho việc điều tra” rất mơ hồ và mông lung.
Nó khiến cho ta chỉ có thể đi đến một trong hai kết luận: hoặc chính quyền đã thực sự tuyên chiến chống một kẻ thù nào đó trên mạng internet, hoặc con người trên internet của ta không bằng con người ngoài đời thật của ta.
Dù là cách hiểu nào thì nó cũng đáng bị lên án.
Nó sẽ mở đường cho sự lạm quyền, theo dõi quần chúng, giám sát tư tưởng, hay tệ hơn là sự kiểm soát cá nhân mang tính thù ghét.
Và đã là con người thì không một ai muốn sống trong một đất nước như vậy.
Người dân có thể không tin vào lá phiếu bầu của mình nhưng đôi lúc họ có thể chọn bầu bằng đôi chân ra đi của mình, để đến với một thế giới tự do hơn.
Và khi không còn ai ở lại, đất nước tất nhiên cũng không còn ý nghĩa gì nữa.
Bài đã đăng trên trang Facebook cá nhân của tác giả, hiện sống tại TPHCM. Tựa đề do ban biên tập BBC đặt.
https://www.bbc.com/vietnamese/forum-45834935
Nhân quyền Việt Nam
lại được đề cập tại Nghị viện Châu Âu
Tường An
Ngày 10/10 vừa qua, tại số 100 place Luxembourg , Bruxelles, Nghị Viện Âu Châu đã tổ chức cuộc điều trần về đề tài Những Lợi Ích và Giá Trị của Hiệp Định Thương Mại Tư Do giữa Việt Nam và Liên Âu (gọi tắt là EV FTA). Nội dung buổi điều trần được nhắm đến 3 vần đề chính: Lao động, Nhân quyền và Môi trường.
Buổi điều trần có sự tham gia của đại diện Ủy ban Thương Mại Âu Châu là bà Helena Konig và ông Trần Quốc Khánh, Thứ trưởng Bộ Công Thương. Các chuyện gia được mời gồm có ông Nicolas Audier, đại diện Phòng Thương Mại Âu châu tại Việt Nam, bà Karen Curtis, đại diện cho Tổ chức Lao Động Quốc Tế (ILO), đại diện Liên Hiệp quốc về môi trường, bà Anja von Moltke, cố vấn kinh doanh của Âu châu, bà Eleonora Catella và đặc biệc, từ Việt Nam có ông Nguyễn Quang A, nhà hoạt động Nhân quyền.
Được mời với tư cách một nhà chuyên môn trong lãnh vực Nhân quyền, dù gặp nhiều trở ngại về mặt hành chánh trước khi rời khỏi Việt Nam. Cuối cùng, ông Nguyễn Quang A cũng đã có mặt tại buổi điều trần để nêu lên 3 điểm ; 2 dữ kiện, 5 nhận xét và 3 khuyến nghị.
Hai dữ kiện mà ông Nguyễn Quang A đưa ra là :
– Văn bản EV FTA : đã được bàn thảo trong nhiều năm qua
– Tình hình Nhân quyền Việt Nam là xấu và ngày càng xấu đi
Sau đó là 5 nhận xét của ông về khoa học, chính trị, các nghiện cứu về xã hội, các hoạt động của phong trào xã hội dân sự và vấn đề dân chủ hóa Việt nam. Theo ông, Việt nam sẽ thoát được ảnh hưởng của Trung cộng nếu có Hiệp định Thương mại với EU. Từ đó, ông đưa ra 3 khuyến nghị để giám sát việc thực hiện các điều khoản trong EV FTA, ông cho biết :
« Khuyến nghị thứ nhất là EU phải cố thúc VN phê chuẩn ba hiệp ước của ILO, đó là điều mà tôi thấy hết sức quan trọng. Điều thứ hai : trong cơ chế kiểm tra của EU thì phải mở ra cơ chế để kéo các tổ chức xã hội dân sự, kể cả các xã hội dân sự độc lập, không có đăng ký để tham gia vào quá trình giám sát việc thực hiện Hiệp định Thương mại Tự do này. Và điểm kiến nghị cuối là EU phải dẫn chiếu đến điều khoản hợp tác BCA ký giữa EU và Việt Nam năm 2012, trong đó có những điều khoản nếu Việt Nam vi phạm thì Eu có thể chế tài, chúng tôi kiến nghị rằng các ông phải dùng những công cụ như thế để ép Việt Nam thực hiện tốt Hiệp định Thương mại giữ EU và Việt Nam này »
EVFTA khi có hiệu lực sẽ giúp loại bỏ 99% dòng thuế xuất khẩu giữa Việt Nam và 28 nước thành viên Liên minh Châu Âu và ngược lại. Việt Nam là nước thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, sau Singapore, có Hiệp định Thương mại tự do với EU.
EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai và là một trong hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Theo đánh giá, sau khi ký kết FTA, Việt Nam sẽ là quốc gia hưởng lợi lớn nhất trong các nước ASEAN với mức tăng 35% về xuất khẩu, 15% về GDP và 13% về lương bổng cho người lao động
Sau 6 năm khởi động đàm phán, Bà Maria Arena thuộc đảng Xã Hội của Vương quốc Bỉ, là thành viên của Nghị Viện Liên Âu cho biết không thấy nhiều tiến triển về phía Việt nam, bà nói :
« Năm nay là năm 2018, từ năm 2012-2018 chúng tôi nhận thấy các tiêu chí về quyền Nghiệp đoàn và nhân Quyền của Việt Nam vẫn chưa tiến bộ một cách đầy đủ. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể chờ thêm 6 tháng nữa để Việt Nam thực hiện lời hứa. Nhưng không chỉ là lời hứa mà là sự đảm bảo, ngay cả trước khi Nghị Viện Liên Âu phê chuẩn hiệp định này. Nghị viện Liên Âu cần Việt Nam có những chỉ dấu tích cực chứ không chỉ là lời hứa. Chúng tôi có thể cho thêm thời gian, nhưng thời gian đó phải được Việt Nam sử dụng để có những hành động cho thấy được sự nổ lực của họ »
Việc phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy cho những điều kiện cấu trức xã hội, và những điều kiện ấy tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc cải thiện Nhân quyền và Dân chủ hóa. – TS. Nguyễn Quang A
Theo góc nhìn của một người hoạt động Nhân quyền, ông Nguyễn Quang A cho rằng hiệp định EVFTA sẽ đem lại nhiều cơ hội cho việc cải thiện nhân quyền và phát triển của phong trào xã hội dân sự hiện đang bị đàn áp mạnh tại Việt nam,
« Việc phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy cho những điều kiện cấu trức xã hội, và những điều kiện ấy tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc cải thiện Nhân quyền và Dân chủ hóa. Những kinh nghiệm lịch sử của thế giới cho thấy rằng một đất nước hội nhập càng sâu vào với thế giới thì áp lực của quốc tế càng có hiệu quả »
Trong khi đó, luật sư Nguyễn văn Đài cho rằng Việt Nam phải cải thiện Nhân quyền trước khi được phê chuẩn hiệp định thương mại này :
« Về bối cảnh Nhân quyền thì cần phải cải thiện tình trạng nhân quyền trước khi Quốc hội EU thông qua Hiệp định Thương mại giữa hai nước, còn sau khi Việt Nam đã gia nhập vào, hiệp định đó đã được ký kết thì rất là khó khăn để ép buộc nhà nước Việt Nam phải cải thiện Nhân quyền »
Ông Nguyễn Quang A cho biết có nhiều ý kiến trái chiều trong phong trào xã hội dân sự trong nước về việc Việt Nam vào FTA, một số ý kiến ủng hộ cũng như nhiều ý kiến phản đối, theo ông Nguyễn Quang A, cần có một sự thảo luận đúng đắn để nêu lên những cái lợi và hại của vấn đề này, ông nói :
« Cần có một sự thảo luận rất là đường hoàng giữa tất cả những tổ chức xã hội dân sự để chúng ta hiểu kỷ hơn về hiệp định này như thế nào ? nó tác động ra sao về dài hạn, trung hạn và kể cả ngắn hạn, và nếu chúng ta hiểu kỷ thì tôi nghĩ rằng số người ủng hộ sẽ nhiều hơn »
Việt Nam tái gia nhập Tổ Chức Lao Động Quốc Tế (ILO) năm 1993, tuy nhiên, cho tới hôm nay, Việt Nam chỉ mới phê chuẩn 21/187 công ước của ILO, trong đó chỉ có 5/8 công ước cơ bản. Còn 3 công ước như công ước số 87 về quyền Tư do Hiệp hội và bảo vệ quyền được tự do thi hành quyền tổ chức, nói cách khác là quyền tự do thành lập nghiệp đoàn, điều 98 về thương lượng tập thể và điều 105 về cưỡng bức lao động vẫn chưa ký.
Việt Nam và các quốc gia thành viên của Liên Âu đều là thành viên của ILO, vì vậy EV FTA trao quyền phán quyết việc tuân thủ các tiêu chí đã phê chuẩn cho các cơ quan giám sát của ILO. Để thông qua cửa ngỏ vào EVFTA, Việt nam sẽ phải phê chuẩn điều khoản 87, 98 và 105. Trong đó, điều 87 về việc thành lập các Nghiệp đoàn độc lập là quan trọng nhất. Tuy nhiên, nhiều ý kiến quan ngại là Việt Nam sẽ thành lập những nghiệp đoàn độc lập trá hình, về việc này, ông Nguyễn Quang A cho ý kiến :
« Cái đó rất có thể, về việc này, nếu chúng ta biết trước thì chúng ta phải có cách để đối phó bằng cách vạch mặt đây không phải là tổ chức nghiệp đoàn thật mà đây là tổ chức nghiệp đoàn trá hình. Nhưng cái quan trọng là nếu người ta phê chuẩn công ước ILO thì có nghĩa là công nhân Việt Nam nghiễm nhiên là có quyền đó và tôi phải nói thực thực sự ngay bây gờ công nhân Việt nam cũng có cái quyền đó, chỉ có cái là nó chưa được luật hóa một cách chi tiết ra và lúc bấy giờ là hoàn toàn phụ thuộc vào chính người Việt Nam chúng ta có thực thi cái quyền đó của mình hay không ? »
Mặc dù người bảo vệ của Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho biết Thứ trưởng không trả lời phỏng vấn, nhưng sau buổi điều trần, chúng tôi cũng đặt được vài câu hỏi chớp nhoáng với người đại diện cho Việt Nam trong buổi điều trần. Ông Khánh đánh giá buổi điều trần diễn ra tốt đẹp. Khi được hỏi về vấn đề nhân quyền như một trong các điều kiện để đạt được EVFTA, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh nói :
« Việt Nam và EU đã có một lịch sử đối thoại rất là dài với nhau về Nhân quyền, tôi tin rằng hai bên sẽ càng ngày càng hiểu nhau hơn và nếu có vấn đề gì thì sẽ cùng giải quyết.»
Trong khi đó thứ trưởng Công an, Thượng Tướng Lê Quý Vượng đã có lần cho rằng EU không hiểu rõ cơ chế Việt Nam khi gắn chặt các đòi hòi về nhân quyền với Hiệp Định Thương Mại Tự do.
Buổi điều trần có rất đông đại diện các dân biểu, nghị sĩ cũng như những tổ chức NGO chứng tỏ sự quan tâm của họ về Hiệp định này, về phía Việt nam cũng có một phái đoàn hơn 10 người tham dự. Nhận xét về buổi điều trần vừa qua, ông Nguyễn Quang A chia sẻ :
« Tôi tham dự lần đầu tiên nhưng tôi thấy rât là hay, người ta xới lên rất là nhiều vấn đề và những ý kiến về vấn đề Nhân quyền, về vấn đề môi trường, về vấn đề Pháp trị của VN là những vấn đề mà được giới Âu châu nêu lên. Nếu những người trong phái đoàn chính phủ VN tham dự cuộc điều trần này truyền đạt lại một cách trung thành cho những người có trách nhiệm tại VN thì tôi nghĩ những người có trách nhiệm tại VN họ cũng phải để ý đến những ý kiến của Châu âu này và lúc đó họ phải ứng xử một cách phù hợp »
EVFTA được khởi động đàm phán từ tháng 6-2012. Cho đến nay, hai bên đã có 14 vòng đàm phán chính thức và nhiều vòng đàm phán giữa kỳ. EVFTA chính thức kết thúc đàm phán tháng 12 năm 2015 và dự định ký kết trong tháng 12/2017 nhưng sau đó được hoãn lại tới đến giữa năm 2018, nhưng sau đó lại được hoãn lại đến tháng 3 năm 2019. Cuộc điều trần ngày 10/10 vừa qua rất có thể sẽ là yếu tố quyết định con thuyền EV FTA sẽ ghé bến vào tháng 3 năm tới hay lại phải tiếp tục cuộc hành trình đầy chông gai của nó.
Hòa thượng Thích Không Tánh:
“Mọi diễn biến đều là duyên”
Tuấn Khanh
Tuấn Khanh: Thưa hòa thượng Thích Không Tánh, xin ngài cho biết về tình hình của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, mà nghe đâu là đã trở về Thái Bình vào ngày 5/10 vừa rồi.
HT. Thích Không Tánh: Xin được tóm tắt như vậy, Những gì diễn ra không phải là bất ngờ mà đã nằm trong những “xếp đặt” từ lâu rồi đối với ngài. Thực tế lúc này thì hòa thượng Thích Quảng Độ đã về ở Chùa Long Khánh, thôn Đông Đoài, xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, Thái Bình. Ngài đã lớn tuổi và cũng mỏi mệt nên muốn được nghỉ ngơi, và nói chỉ còn chờ lúc vãn sanh. Ngài cũng nói khi ngài mất rồi thì Hội Đồng Lưỡng Viện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nên chọn thời điểm thích hợp để cùng họp bàn và bầu chọn vị trí Đệ lục Tăng Thống. Nói vậy bởi lúc này thì ngài chọn nghỉ ngơi mà không từ nhiệm.
Tuấn Khanh: Tuy nhiên, việc ngài về quê và tạm thời không quản lý việc Phật sự trong một thời gian, cũng khiến cho nhiều người lo ngại và nghĩ rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có thể không còn nữa.
HT. Thích Không Tánh: Hiện nay chúng tôi đã nhận được nhiều hình ảnh và thông tin báo rằng ngài hiện cũng an nhàn và không gặp khó khăn gì. Về phần tuổi già của ngài, thì tôi cũng có mừng việc ngài được thảnh thơi vì lâu nay đã quá mệt mỏi rồi. Nhưng về mặt thế sự thì rõ rằng Nhà nước Việt Nam đang đắc lợi vì không còn phải mang tiếng là giam lỏng ngài, hết sức thuận lợi trong các việc đối thoại quốc tế.
Còn về phía Giáo hội (Thống Nhất) thì cũng có ý kiến hụt hẫng, buồn lo là việc Đức Tăng Thống quy ẩn như vậy có thể ảnh hưởng đến tồn vong của giáo hội, vốn đã gặp nhiều khó khăn từ 1975 đến nay. – HT. Thích Không Tánh
Còn về phía Giáo hội (Thống Nhất) thì cũng có ý kiến hụt hẫng, buồn lo là việc Đức Tăng Thống quy ẩn như vậy có thể ảnh hưởng đến tồn vong của giáo hội, vốn đã gặp nhiều khó khăn từ 1975 đến nay. Bởi lúc này hình ảnh của ngài thi quá lớn, khó mà thay thế được.
Tuấn Khanh: Tin tức nói là Đức Tăng Thống bị “đẩy” ra khỏi Thanh Minh Thiền Viện từ 15/9 trong tình cảnh rất o ép, nhưng đến tuần đầu tháng 10 thì ngài mới rời khỏi Sài Gòn. Như vậy là có hay không chuyện ngài đã cố tìm cách ở lại nhưng không còn được nữa?
HT. Thích Không Tánh: Theo tôi, mọi thứ diễn ra thế nào, thì cũng thuộc về quyết định cuối cùng của ngài, chứ không ai có thể ép được ngài. Mọi lời bình luận như “áp lực chính trị” hay “trục xuất” chỉ có ý nghĩa một phần, vì Đức Tăng thống đã chọn một phương thức theo ý ngài. Bên cạnh đó, mọi thứ như một kịch bản do “ai đó” dàn dựng, đã được sắp xếp, như một cách hờm sẳn từ trước. Có thể Đức Tăng Thống biết, nhưng một thân một mình, sức yếu nên việc ứng phó cho thế nào để phù hợp là điều chỉ có ngài mới rõ. Đây là điều xin quý anh chị cứ tự suy luận đơn giản thì cũng sẽ biết. Được biết, ngay cả ngôi từ đường ở Thái Bình mà hiện nay ngài trở về đã được chính quyền âm thầm xây cất, chỉnh tu từ 2 năm trước. Mọi thứ rất khang trang. Chung quanh các tin tức rối và nhiều, nhưng sự thật thì như tôi vừa trình bày.
Tuấn Khanh: Việc Đức Tăng Thống bãi nhiệm 2 người của Giáo hội và viết thư tay kêu gọi tín đồ, tăng ni… hãy đoàn kết với nhau cho thấy điều gì đang xảy ra trong nội bộ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất?
HT. Thích Không Tánh: Trước giờ, Đức Tăng Thống từng ra nhiều giáo chỉ liên quan đến việc bổ nhiệm. bãi nhiệm, từ chối… nhân sự trong Giáo hội nhưng nói cho đúng, bối cảnh lúc trước ngài bị cô lập, thiếu thông tin rồi nóng lòng vì an nguy của Giao hội nên chịu nhiều tác động của những người có điều kiện kề cận hay liên lạc với ngài. Có giáo chỉ của ngài đưa ra thì hợp lý nhưng cũng có giáo chỉ ký xuống thì lại bất thường… Những việc như vậy cho thấy sự bất cập của Giáo hội và cũng không đúng với hiến chương của Giáo hội. Chẳng hạn như việc ngưng chức của HT Thích Chánh Lạc hay HT Thích Viên Lý đều là chuyện ai nấy bắt ngờ và lo ngại vì biết rằng ngài chịu nhiều tác động không đúng. Mà những điều đó đã kéo dài nhiều năm chứ không phải đến bây giờ mới có.
Nhưng cốt lõi là ngài bị cô lập quá lâu và không được tiếp xúc và thảo luận với chư tôn trong và ngoài nước nên ít kiểm soát đúng được tình hình. – HT. Thích Không Tánh
Lúc này, trước khi thuận theo việc phải an trí, ngài như muốn làm một vài điều cuối nhằm tạo lại cân bằng cho sinh hoạt Giáo Hội (như trường hợp bãi nhiệm cư sĩ Lê Công Cầu – chú thích của người phỏng vấn). Nếu theo dõi những khó khăn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất lâu nay, ắt quý vị sẽ hiểu.
Nhưng cốt lõi là ngài bị cô lập quá lâu và không được tiếp xúc và thảo luận với chư tôn trong và ngoài nước nên ít kiểm soát đúng được tình hình.
Tuấn Khanh: Rất nhiều Phật tử hoang mang trước sự kiện mới mẻ này. Vốn là một người từng nhiều năm sát cánh bên Đức Tăng Thống và am hiểu tình hình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ngài có thể cho một lời khuyên như thế nào về tình hình lúc này?
HT. Thích Không Tánh: Nhà nước Việt Nam đã hết sức khôn ngoan trong việc giải thoát cho chính họ việc luôn bị lên án là cô lập hòa thượng Thích Quảng Độ. Họ tạo nên các tình huống và đưa đến cung đường hẹp cuối cùng là ngài phải về quê, nơi được tạo dựng rất khang trang đón sẳn. Đức Tăng Thống đã quá già yếu và cô đơn nên không đủ tự chủ trong những việc như vậy. Sự chuẩn bị công phu của phía Nhà nước Việt Nam hoàn toàn đem lại một bộ mặt khác cho họ về vấn đề đàn áp tôn giáo, thuận lợi với Châu Âu trong việc ký kết hiệp ước thương mại chẳng hạn.
Về mặt con người thì chúng ta mừng cho ngài tuổi già sức yếu, nay được yên ổn. Nhưng về mặt Giáo hội thì lại có nhiều nỗi lo.
Tuy vậy, tôi nghĩ rằng mọi thứ trên đời này đều có những huyền cơ, con người, Giáo hội hay đất nước đều vậy. Tôi mong rằng tất cả các tăng ni, tín đồ có một lòng hoài bão với đất nước, dân tộc và đạo pháp nên nuôi một niềm tin rằng mọi diễn biến đều có cơ duyên của nó, còn trước mặt hiện ra chỉ là thời sự của giai đoạn.
Xin mọi người vững lòng, tâm an nhiên, cùng quyết đồng hành với đạo pháp, dân tộc. Khi mọi thứ thuận duyên từ trong ra ngoài, từ quốc nội đến hải ngoại thì những điều tốt đẹp nhất chắc chắn sẽ đến.
Lúc này là lúc ý thức cần phải được gieo và bừng lên trong mỗi con người, biết lo lắng và nghĩ suy cho tiền đồ của quê hương, điều đó quan trọng hơn một diễn biến nhất thời trước mắt.
Ba phụ nữ Việt dùng hộ chiếu giả bị bắt ở Đài Loan
Ba phụ nữ Việt Nam bị bắt tại Sân Bay Đài Nam hôm 10 tháng 10 vì sử dụng hộ chiếu giả hay hộ chiếu ăn cắp để nhập cảnh vào đảo quốc Đài Loan.
Mạng Asia Times dẫn lại nguồn của Liberty Times loan tin vào ngày 12 tháng 10 cho biết rõ ba người phụ nữ từ thành phố Hồ Chí Minh khai họ đến Đài Loan với mục đích du lịch.
Tin cho biết sau khi phát hiện nhóm ba người vừa nêu không có giấy tờ hợp lệ như thế, nhân viên chức năng đưa họ đến Văn Phòng Cơ Quan Xuất Nhập Cảnh Quốc Gia ở Phi trường Quốc Tế Cao Hùng nhằm trục xuất họ.
Một trong nhóm ba người đã lẻn trà trộn vào đám đông khách đi máy bay ở phi trường Cao Hùng trốn thoát và đón ngay taxi đi Đài Bắc. Hành động của người phụ nữ 40 tuổi này được cho biết diễn ra trong khi các nhân viên đưa họ đi và lo chuyện hồi hương.
Lực lượng chức năng phát hiện việc biến mất của người phụ nữ và khoảng 12 tiếng sau, bà này bị bắt lại tại quận Nội Hồ thuộc thành phố Đài Bắc; dù lúc đó người phụ nữ cải trang bằng cách thay đổi tóc tai và trang phục.
Một cuộc điều tra sơ bộ cho thấy người phụ nữ này từng đến thăm Đài Loan hồi đầu năm nay và không hề có tiền sử vi phạm gì. Văn phòng Công tố viên quận Cao Hùng sẽ tiến hành một cuộc điều tra về nhóm ba phụ nữ vừa nêu.
Cũng liên quan đến phụ nữ Việt Nam, nhưng là vấn nạn mua bán phụ nữ.
Tin từ Asia Times vào ngày 12 tháng 10 cho biết một người đàn ông Việt Nam 26 tuổi đã bị bắt với cáo buộc lừa gạt và bán một phụ nữ 27 tuổi cho một người đàn ông Trung Quốc ở tỉnh Vân Nam.
Theo cảnh sát, người bị bắt có tên Chang Mi Ly quen với một người Trung Quốc và biết được có người thân của người Trung Quốc đang tìm vợ và sẵn sàng trả với giá 435 USD.
Ông Ly được cho là đã lừa một phụ nữ 27 tuổi bằng cách hứa hẹn đưa sang Trung Quốc làm việc. Người phụ nữ này sau đó đã được giải cứu và khi trở về Việt Nam đã tố cáo ông Ly với công an.
Trong năm 2017, khoảng 670 trường hợp buôn bán người được phát hiện ở Việt Nam, bằng một nửa so với năm trước đó là 1.128 trường hợp. Nhiều phụ nữ ít học và trẻ em nghèo là những đối tượng bị nhắm đến để đem bán làm vợ hoặc làm gái mãi dâm ở Hàn Quốc, Malaysia và Trung Quốc.