Tin Việt Nam – 12/11/2019
Bộ GTVT: không thu phí BOT
tại trạm T2 trên Quốc lộ 91
Thông tin kết luận không thu phí BOT tại trạm T2 trên quốc lộ 91 của thứ trưởng Nguyễn Nhật được Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) thông báo với truyền thông trong nước vào ngày 12/11.
Theo Infonet.vn, trước đó Bộ GTVT đã làm việc với đại diện UBND TP Cần Thơ và các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang cùng Tổng cục Đường bộ, Bộ tài chính, chủ đầu tư, ngân hàng để ghi nhận các ý kiến xử lý vấn đề liên quan trạm T2.
Tại cuộc họp, các bên thống nhất phương án không thu tiền dịch vụ sử dụng tại trạm T2 và vốn ngân sách hỗ trợ cho phần đầu tư Quốc lộ 91B (từ nguồn ngân sách của TP Cần Thơ hoặc Trung ương). Do quốc lộ 91B nằm ở nội đô cửa ngõ phía Tây TP Cần Thơ để phù hợp với nhu cầu phát triển đô thị, UBND TP Cần Thơ có thể tiếp nhận lại Quốc lộ 91B để quản lý vận hành khai thác và bảo trì để thành phố quản lý, vận hành cho đường đô thị.
Theo Bộ GTVT, phương án xả trạm T2 chờ tuyến tránh TP Long Xuyên (dự kiến hoàn thành vào năm 2020) là không khả thi, vì thời gian thu phí hoàn vốn cho toàn dự án BOT quốc lộ 91 sẽ kéo dài trên 30 năm, kế hoạch trả nợ sẽ bị phá vỡ, phía ngân hàng không đồng thuận.
Do đó, Đại diện UBND tỉnh An Giang, Tổng cục Đường bộ và chủ đầu tư đã thống nhất phương án không tiếp tục thu phí tại trạm T2 (đặt tại phường Thới Thuận, quận Thốt Nốt) và sẽ dùng vốn ngân sách của TP Cần Thơ hoặc Trung ương, hoặc cả 2 nguồn để mua lại dự án BOT quốc lộ 91B.
Đối với phương án không thu tiền dịch vụ sử dụng tại trạm T2, Bộ GTVT giao tổng cục Đường bộ phối hợp với chủ đầu tư rà soát giá trị quyết toán đầu tư tuyến Quốc lộ 91B, lên phương án hỗ trợ từ nguồn ngân sách cho tuyến Quốc lộ 91B.
Được biết, dự án BOT đầu tư xây dựng công trình cải tạo, nâng cấp QL91 có tổng mức đầu tư hơn 1.700 tỷ đồng, do Liên danh Công ty CP Đầu tư phát triển Cường Thuận IDICO và Tổng Công ty CP Phát triển khu công nghiệp là nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án là Công ty CP Đầu tư QL91 Cần Thơ – An Giang.
Dự án có hai trạm thu phí T1 và T2 trên QL91. Trong đó, trạm T1 (quận Ô Môn, Cần Thơ) bắt đầu thu phí từ 0 giờ ngày 2/4/2016 và trạm T2 (quận Thốt Nốt, Cần Thơ) bắt đầu thu phí từ đầu năm 2017.
Tuy nhiên, khi trạm T2 đi vào hoạt động đã gặp phải nhiều bất cập và bị các tài xế phản ứng mạnh do trạm đặt cách ngã ba Lộ Tẻ chừng 300m nhưng thu luôn phương tiện đi theo QL80 về phà Vàm Cống, Long Xuyên và ngược lại mặc dù các phương tiện này chỉ sử dụng vài trăm mét đường BOT. Các tài xế phản ứng dữ dội hơn sau khi cầu Vàm Cống được đưa vào sử dụng (ngày 19/5/2019), do đó chủ đầu tư phải dừng thu phí từ ngày 25/5/2019 đến nay.
Ở một diễn biến khác, Ngân hàng nhà nước cho biết tiếp tục tăng cường kiểm soát hoạt động cho vay đối với các dự án BOT, BT giao thông. Lý do siết tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cho biết vì việc cấp tín dụng đối với loại dự án này rất rủi ro trong dài hạn. Bên cạnh đó, tài sản đảm bảo chủ yếu trong các dự án này là quyền thu phí, trong khi chính sách phí chưa thực sự ổn định, nguy cơ chuyển nợ sang nhóm nợ xấu rất lớn.
50 người tử vong do sốt xuất huyết
Cục Y tế Dự phòng thuộc Bộ Y tế cho biết từ đầu năm đến nay có 50 người trong nước tử vong do sốt xuất huyết.
Theo thống kê của Cục Y tế Dự phòng được Vietnamplus dẫn lời thì từ đầu năm đến nay cả nước đã ghi nhận gần 250.000 trường hợp mắc sốt xuất huyết; trong đó có 50 trường hợp tử vong tại 18 tỉnh, thành phố.
So với cùng kỳ năm 2018 số trường hợp mắc bệnh tăng 2,9 lần, tỷ lệ tử vong giảm 0,02%. Nguyên do là thời tiết chuyển mùa và mưa nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho muỗi phát triển.
Báo cáo của bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10 đến nay, số trường hợp mắc sốt xuất huyết (SXH) trong tình trạng nặng phải nhập viện tại trung tâm Nhiệt đới trung bình từ 10-20ca/ngày và số ca khám điều trị từ 30-50 ca/ngày.
Thống kê của Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hà Nội cho biết từ đầu năm đến nay có hơn 9.000 ca mắc SXH, tuy nhiên chưa có trường hợp tử vong.
Tại khu vực miền Nam số trường hợp mắc SXH cao nhất cả nước với gần 160.000 trường hợp, miền Trung với hơn 61.000 trường hợp, Tây Nguyên gần 39.000 ca và khu vực miền Bắc với gần 20.000 trường hợp.
Theo Cục Y tế Dự phòng, SXH truyền nhiễm lưu hành thường xuyên ở hầu hết các tỉnh thành phố trên cả nước tuy mức độ tùy thuộc vào từng vùng địa lý, khí hậu thời tiết trong năm thích hợp cho muỗi phát triển, số mắc bệnh thường gia tăng mạnh từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm.
Theo Cục Y tế dự phòng, năm 2019, tình hình SXH diễn biến phức tạp và gia tăng tại rất nhiều quốc gia, trong đó tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á đều ghi nhận số mắc, tử vong vì SXH đều gia tăng.
Hàng chục công an huyện Đông Anh
biểu tình đòi đất ngày 11/11
Cư dân mạng tại Việt Nam tiếp tục có ý kiến về đoạn video clip cho thấy hàng chục công an huyện Đông Anh, Hà Nội, biểu tình đòi đất ngày 11/11.
Những hình ảnh trong video cho thấy chừng chục người mặc sắc phục ngành công an, căng nhiều băng rôn đỏ ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm,” “Nhà xây bất hợp pháp trên đất dự án của cán bộ chiến sĩ công an Đông Anh phải dỡ bỏ”, “Mỗi người chúng tôi phải đóng trên 100 triệu đồng 17 năm nay không có đất nhà vì kẻ sâu mọt đục khoét”…
Nhiều blogger bình luận rằng cuộc biểu tình hôm 11/11 cho thấy sau khái niệm “dân oan”, đến nay đã có “công an oan” phải xuống đường đòi đất.
Liên quan vụ việc vừa nêu, một bài trên báo Pháp Luật Việt Nam hồi năm 2016 ghi rõ “Công an huyện Đông Anh có chủ trương xây dựng nhà ở thì tất cả các cán bộ chiến sĩ đều ủng hộ và hết sức vui mừng. Với hy vọng có một nơi ở mới để “an cư lạc nghiệp”, nên họ sẵn sàng bán nhà ở quê, thế chấp tài sản ngân hàng, vay mượn khắp nơi để có tiền nộp. Nhưng rồi, 14 năm trôi qua, dự án vẫn “án binh bất động”, các cơ quan chức năng thì lại xử lý theo kiểu “ném đá ao bèo” khiến không ít cán bộ chiến sĩ rơi vào tình cảnh “sống dở, chết dở”.
Bài báo cũng cho hay hồi năm 2002 Công an huyện Đông Anh có đơn xin cấp 2,2 hec ta đất thuộc Trung tâm thương mại Đông Anh để tiến hành lập dự án xây dựng nhà ở (dự án) cho các chiến sĩ công an. Theo đó, Ban chỉ huy Công an Đông Anh đã lập ra “Hội đồng phân phối nhà đất ở” (Hội đồng) và chọn ra được 198 chiến sĩ công an đủ tiêu chuẩn được phân phối nhà đất ở.
Bài báo cho biết thêm: “Hội đồng ấn định thu của mỗi cán bộ chiến sĩ 125 triệu đồng. Tổng cộng số tiền thu được qua 6 đợt từ năm 2002 đến năm 2006 là hơn 24 tỷ đồng. Hiện tại, dự án vẫn “án binh bất động”, trong khi đó, nhiều cán bộ chiến sĩ phải bán nhà ở quê, thế chấp tài sản ngân hàng lấy tiền đóng góp với hi vọng sẽ có được nơi ở mới ổn định. Nhưng rồi, nhà và đất vẫn chẳng thấy đâu mà nợ nần thì chồng chất.”
Trách nhiệm trong vụ này được cho là thuộc về Công ty TNHH Đầu tư và Xây dựng An Thịnh mà bài báo nêu cáo buộc “vi phạm pháp luật, trốn thuế, có dấu hiệu lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tiền đóng góp của cán bộ chiến sĩ công an Đông Anh”.
Hôm 12/11, phóng viên RFA gọi vào số tổng đài của Công an huyện Đông Anh, nhưng người trực ban không xác nhận và cũng không phủ nhận cuộc biểu tình hôm 11/11.
Người này không cho biết danh tính và nói thêm:
“Anh có vấn đề gì thì trực tiếp đến huyện để có thể lấy thông tin. Chúng tôi không có trách nhiệm và không phải là cơ quan để trả lời vụ đó được. Cái đó thì anh phải đến tận nơi, chúng tôi không thể bảo có hay không vụ đó được. Tôi không phải là cơ quan phát ngôn để trả lời vấn đề đó. Đặc biệt với cơ quan báo chí phải có bộ phận riêng để trả lời vấn đề đó.”
Cùng ngày, ông Trịnh Bá Phương, một trong những dân oan Dương Nội nói với RFA:
“Sự việc của nhóm công an ở Đông Anh thì có chi tiết đặc biệt. Chính lực lượng công an trước đây luôn nói người dân oan biểu tình đòi đất là vi phạm pháp luật, gây rối trật tự công cộng. Rồi họ vin vào lý luận nhà nước cộng sản Việt Nam chưa ban hành luật biểu tình, Quốc hội, chính phủ vẫn đang nợ luật biểu tình với dân. Thì nay chính công an mặc sắc phục họ thừa biết luật như vậy nhưng họ không còn cách nào khác, ngoài việc lẽ ra họ phải gửi đơn kiến nghị lên cấp trên, qua trình tự thủ tục khiếu kiện khiếu nại theo đúng quy định pháp luật, nhưng mà chính họ phải chọn phương án cuối cùng là biểu tình.”
Ông Trịnh Bá Phương lý giải thêm rằng có thể những công an huyện Đông Anh nhận ra rằng khiếu kiện thông thường “thì dễ bị đá bóng, bị cấp trên làm ngơ, để các vụ kiện kéo dài mấy chục năm nay như của dân oan Dương Nội”.
Bên cạnh đó, ông Trịnh Bá Phương nhận xét về những điểm giống và khác nhau giữa biểu tình của “dân oan” và “công an oan”:
“Tôi thấy một nhóm công an nhìn thấy biểu tình là họ đến xử lý tình huống đó. Một nhóm công an đứng bên ngoài đường, họ cũng lúng túng, không biết phải ứng xử sao, có thể bắt những người biểu tình mặc sắc phục kia về đồn vì tội gây rối trật tự công cộng hay là bắt bỏ tù họ hay không. Họ có phần bối rối, biểu hiện của họ là phải có ý kiến của cấp trên thì họ mới được phép hành động như bắt người hay đánh người như với dân oan chúng tôi, tùy tiện biểu tình thì họ có thể đánh đập, bắt lên xe buýt và đưa về đồn thẩm vấn, đến đêm mới thả ra cơ.”
Anh Trịnh Bá Phương nêu ra điểm khác biệt giữa biểu tình của công an đòi nhà, đất và biều tình của người dân như bản thân anh Phương nằm ở chỗ dân oan người dân không nằm trong hệ thống chính quyền, nên khi đi biểu tình họ gặp rất nhiều sự đàn áp khốc liệt, bị đánh đập tàn khốc. Đối với nhóm công an biểu tình vào ngày 11 tháng 11 thì anh Phương thấy chưa bị đánh đập gì. Tuy nhiên, xét về mặt chính trị, theo anh Trịnh Bá Phương thì trong suy nghĩ của 90 triệu dân Việt Nam, hay trong suy nghĩ quốc tế nhìn nhận đất nước đang đến hồi mạt vận. Chế độ cộng sản Việt Nam đang tạo ra bất công đến mọi tầng lớp trong xã hội, không phải chỉ là người công dân bình thường mà cả công chức cũng trở thành nạn nhân của chế độ cộng sản hiện nay. Chế độ không đảm bảo quyền con người, khiến họ có nguy cơ trở thành nạn nhân của chế độ.
Xem xét xếp hạng di tích Nhà thờ và Tu viện Thủ Thiêm
Thành phố Hồ Chí Minh đang lập hồ sơ xếp hạng di tích hai công trình Nhà thờ và Tu viện Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm ở Quận 2, dự kiến trình Ủy ban Nhân dân Thành phố trong tháng 12.
Truyền thông trong nước loan tin hôm 12/11 trích lời của ông Huỳnh Thanh Nhân, Giám đốc Sở Văn hóa – Thể thao TP.HCM, cho biết thông tin trên tại buổi giám sát của Hội đồng Nhân dân TP.HCM về công tác bảo tồn di sản và cảnh quan kiến trúc đô thị được tổ chức cùng ngày.
Theo lời của Giám đốc Sở Văn hóa – Thể thao TP.HCM, việc xếp hạng di tích kiến trúc, nghệ thuật cho hai công trình nhằm bảo tồn và phát huy giá trị.
Báo trong nước cho biết Nhà thờ và Tu viện Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm sẽ được bảo vệ theo Luật Di sản Văn hóa 2001 và các văn bản pháp luật liên quan. Quyết định xếp hạng di tích cho hai công trình này cũng sẽ có ảnh hưởng đến việc điều chỉnh quy hoạch Khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Nhà thờ và Tu viện Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm đã được xây dựng hơn 100 năm trước và được giới kiến trúc sư, các nhà nghiên cứu kiến trúc đánh giá có nghệ thuật đặc sắc và là một phần di sản của Sài Gòn.
Hai công trình này nằm trong khu chức năng 2A của Khu đô thị mới Thủ Thiêm, từng nằm trong kế hoạch của TP.HCM đề ra nhằm giải tỏa toàn bộ các công trình để xây mới. Đề xuất của chính quyền bị nhiều người trong giới kiến trúc sư, các nhà bảo vệ di sản lên án khiến TP.HCM phải ra quyết định giữ lại hai công trình này vào tháng 2/2019.
Việc bảo tồn các di sản kiến trúc tại Việt Nam là một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi. Hồi tháng 5/2019, nhà thờ Giáo phận Bùi Chu có tuổi thọ hơn 130 năm tại Nam Định được hoãn hạ giải vì sức ép từ cộng đồng.
Quy trình tuyển dụng cán bộ sai từ đâu?
Khi trả lời phiên chất vấn tại quốc hội chiều ngày 7/11/2019 liên quan những sai phạm trong công tác bổ nhiệm cán bộ, Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân nói: “Tôi biết có những đồng chí sai phạm trong tuyển dụng hiện là cán bộ cấp cao. Thế nên việc xử lý vấn đề này hết sức nhạy cảm và phải theo từng tình huống cho phù hợp, vừa đảm bảo nghiêm minh pháp luật, vừa đảm bảo sự ổn định chính trị và chuẩn bị cho Đại hội Đảng các cấp”.
Lỗi từ đầu vào
Trả lời RFA hôm 11/11 từ Thanh Hóa, ông Lê Văn Cuông nguyên phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa nhận định:
“Bây giờ chủ trương của nhà nước là sẽ rà soát lại các đối tượng, mà trước đây do lý do nào đó đã tuyển dụng không đúng tiêu chuẩn, hay có tiêu cực chạy chức chạy quyền, thân quen. Trên cơ sở xác minh chứng cứ, nhà nước sẽ xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Chứ không để tình trạng tồn tại, để cho dư luận phản ứng. Về vấn đề này, lâu nay ở Việt Nam cũng đã chấn chỉnh và xử lý rất nhiều trường hợp.”
Tuy nhiên, ông Lê Văn Cuông cũng đồng ý là những đối tượng cao cấp thì khó xử lý hơn, bởi vì họ có những mối quan hệ và điều kiện xử lý phức tạp hơn, nên bộ trưởng Bộ nội vụ cũng nêu lý do cần điều kiện xử lý phù hợp. Nhưng theo ông, dư luận rất mong muốn tất cả phải bình đẳng trước pháp luật.
Từ Hà Nội, Nhà báo Ngô Nhật Đăng khi trao đổi với RFA hôm 11/11 cho biết:
“Không riêng gì Việt Nam, hay các nước trên thế giới, từ truyền thống trong các triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, các quy định pháp luật đều theo nguyên tắc ‘quân pháp bất vị thân’, ông bà ta cũng có câu ‘quân tử phạm pháp thì như thứ dân’. Tức là không có một vùng cấm nào cho bất kỳ một người dân nào hoặc một địa vị nào trong xã hội, dù họ có quyền lực cao đến đâu, thì vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý. Điều đó cũng theo nguyên tắc, mọi người bình đẳng trước hiến pháp và pháp luật.”
Theo Nhà báo Ngô Nhật Đăng, sự thật đã không như câu nói mà nhà cầm quyền hay rao giảng ‘sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật’, qua lời ông Bộ trưởng Bộ Nội Vụ nói rằng ‘rất khó xử lý những cán bộ ở cấp cao’. Ông nói tiếp:
“Vấn đề hành pháp, lập pháp và tư pháp phải độc lập, những cái nhánh trong xương sống của một thể chế chính trị mà không độc lập thì sẽ dẫn đến một hệ lụy, kể cả trong việc tuyển dụng. Vì tư pháp không độc lập nên có những vùng không thể nhìn thấy sai sót trong tuyển dụng, vướng vào rào cản thân tình hay huyết thống. Nhưng chúng ta đã thấy, trong hệ thống chính trị của Việt Nam, thì đều con cháu của các vị đi trước tiếp tục vị trí của họ. Tất nhân chuyện như thế thì không phải là chuyện tài năng hay đạo đức đặt lên trên hết mà tiêu chuẩn huyết thống, phe nhóm. Do vậy, hệ thống tuyển dụng dần như bị mục ruỗng, bị thao túng.”
Cũng tại buổi chất vấn, một ĐBQH nêu vấn đề hiện nay quy trình tuyển dụng, đào tạo, đánh giá rồi quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ khá chặt chẽ, nhưng tại sao lại xảy ra hiện tượng nhiều cán bộ, công chức, viên chức vi phạm đạo đức công vụ, một bộ phận không đáp ứng yêu cầu? Như vậy nguyên nhân và giải pháp thế nào để khắc phục trong thời gian tới?
Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân cho biết đã có rất nhiều quy trình, rất nhiều thủ tục, rất nhiều tiêu chuẩn nhưng chọn không đúng người, không hiểu được người, không hiểu được cán bộ…
Ông cho rằng trên thực tế, nhiều sai phạm trong công tác cán bộ vừa qua có việc quản lý hồ sơ của cán bộ, công chức. Nhiều người khai không trung thực nhưng cán bộ quản lý không phát hiện được vấn đề. Ông nói: “Rất nhiều bộ hồ sơ đã được cơ quan có thẩm quyền chuyển đến thì cơ quan, tổ chức đút vào tủ luôn, không đi xác minh”.
Và, cả hệ thống
Dư luận quan tâm cho rằng đây là vấn đề không thể không xử lý vì càng là lãnh đạo cấp cao càng phải làm gương và phải bị xử lý sớm để tránh những tai họa khác xảy ra trong quá trình điều hành, lãnh đạo.
Để tìm hiểu thêm về mặt pháp luật khi xử lý cán bộ cấp cao nhưng đã sai phạm trong tuyển dụng, RFA hôm 11/11 liên lạc Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Luật gia Việt Nam, hiện sinh sống ở Sài Gòn, và được ông cho biết ý kiến của mình:
“Tôi nghĩ việc tuyển dụng ban đầu nếu có sai, nhưng sau đó người ta làm việc một cách đúng mực, ví dụ như họ luôn chấp hành đường lối chính sách nhà nước và họ không tham nhũng, họ có ý thức kỷ luật tốt, trung thực, không cơ hội, họ gắn bó mật thiết với người dân, đủ trình độ năng lực, sức khỏe, đáp ứng yêu cầu được giao… Thì tôi thấy mình không nên đánh người chạy lại mà chúng ta nên theo hướng phát triển họ, nhưng nếu sau đó mà họ vẫn sai sót thì chúng nên xử lý những cán bộ đó.”
Tuy nhiên từ Hà Nội Giáo sư Nguyễn Đình Cống, một đảng viên cộng sản cao niên đã từ bỏ đảng, nói với RFA hôm 11/11 rằng nguyên nhân sâu xa của vấn đề này là vì Chủ nghĩa cộng sản, Chủ nghĩa Mác Lê Nin không thích hợp nữa, thế nhưng đảng cộng sản Việt Nam vẫn dựa vô học thuyết này để vạch ra các đường lối, trong đó có đường lối tuyển dụng cán bộ. Ông nói tiếp:
“Họ độc quyền, độc đoán theo cách đảng cử dân bầu, đảng đưa ra cho dân, bắt dân phải bầu cho những con người ấy, chứ dân không có quyền tự do lựa chọn. Hơn nữa, đảng CSVN chỉ muốn dùng những cán bộ trung thành với họ, những cán bộ một lòng một dạ đi theo đường lối Mac Lê Nin, chứ những người có tài có đức, tinh hoa của dân tộc, thì đảng CS tìm cách loại bỏ, vì những người ấy không bao giờ chịu trung thành với đường lối Mác Lê Nin. Họ sẽ phản biện và người ta tìm đủ mọi cách loại bỏ họ, triệt hạ họ.”
Theo Giáo sư Nguyễn Đình Cống, những điều ông vừa nêu trong lịch sử đã có xảy ra rõ ràng và rất nhiều lần, như trường hợp Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Trần Độ… hay những nhà khoa học của Việt Nam Cộng Hòa ở lại như Nguyễn Duy Xuân thì không được đảng cộng sản Việt Nam tin dùng. Ông kết luận:
“Thành thử điều hạn chế của đảng CSVN là họ tự cho mình có quyền quyết định 100% công tác cán bộ, cái quy trình đào tạo các bộ, quy hoạch cán bộ của họ phạm phải 3 điều: phản dân chủ, phản khoa học và phản tiến bộ.”
Giáo sư Nguyễn Đình Cống là người cũng từng có nhiều bài góp ý cho đảng cộng sản Việt Nam. Ông kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lê Nin, mà theo ông là không còn phù hợp nữa.
Việt Nam vỡ quy hoạch điện mặt trời:
“Chính sách sai từ ban đầu”
Chuyên gia nước ngoài khuyến nghị
Cố vấn dài hạn Chương trình hợp tác Đối tác năng lượng Việt Nam-Đan Mạch, ông Jakob Stenby Lundsager khuyến nghị Việt Nam cần sớm dừng đầu tư vào những nhà máy nhiệt điện than mới và ưu tiên vào tiết kiệm năng lượng, tạo khung pháp lý minh bạch và ổn định cho năng lượng tái tạo phát triển.
Khuyến nghị của vị chuyên gia Đan Mạch được đưa ra tại Lễ công bố báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam 2019, do Bộ Công Thương tổ chức vào chiều ngày 5/11/19.
Chuyên gia Jakob Stenby Lundsager diễn giải khuyến nghị về dừng đầu tư vào nhà máy nhiệt điện than sẽ có thể giúp tiết giảm khoảng 30 tỷ đô la Mỹ (USD) vì nhu cầu nhập khẩu nhiên liệu than đến năm 2050 sẽ tăng gấp 8 lần so với hiện tại và số liệu này chiếm ¾ tiêu thụ năng lượng từ năng lượng nhập khẩu.
Vị chuyên gia Đan Mạch cũng nêu lên số liệu tính toán được trong trường hợp nếu Việt Nam không triển khai các nhà máy điện than mới thì sẽ giảm được 39% phát thải khí CO2 và giảm chi phí 20 tỷ USD.
Ông còn nhấn mạnh về tầm quan trọng của điện gió và điện mặt trời chiếm 10% tổng nguồn điện của Việt Nam trong năm 2030 và tăng lên 20% trong năm 2050. Do đó, ông khẳng định Việt Nam cần đưa ra khung pháp lý ổn định, đơn giản, minh bạch và tăng cường tính cạnh tranh đối với các dự án năng lượng tái tạo.
Giáo sư Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên-Môi trường, nhận định với RFA liên quan khuyến nghị của vị chuyên gia Đan Mạch:
Chắc chắn thời gian tới, theo như ý kiến của Bộ trưởng Bộ Công thương và ý kiến của các Đại biểu Quốc hội chất vấn đều cho rằng Việt Nam cần phải thay đổi gấp chủ trương này và cần phải có những kế hoạch rất cụ thể để sản xuất điện từ năng lượng tái tạo
-Giáo sư Đặng Hùng Võ
“Đây là một đề nghị rất chính xác trong hoàn cảnh hiện nay của thế giới cũng như của Việt Nam. Bởi vì chúng ta cũng biết rằng tất cả các loại sản xuất năng lượng điện truyền thống trước đây, kể cả nhiệt điện và thủy điện mà nhất là nhiệt điện sản xuất bằng than thì đều gây ra tác động xấu về mặt môi trường. Hơn nữa, nhiệt điện than thải ra khí CO2 và nhiều loại khí nhà kính khác và chắc chắn không phải là xu hướng khuyến khích của thế giới, cũng như của Việt Nam. Và đi theo con đường sản xuất năng lượng tái tạo, như năng lượng mặt trời, hoặc năng lượng từ gió chẳng hạn, thậm chí năng lượng từ thủy triều…là hướng rất đúng cho Việt Nam.”
Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên-Môi trường còn khẳng định với RFA:
“Chắc chắn thời gian tới, theo như ý kiến của Bộ trưởng Bộ Công thương và ý kiến của các Đại biểu Quốc hội chất vấn đều cho rằng Việt Nam cần phải thay đổi gấp chủ trương này và cần phải có những kế hoạch rất cụ thể để sản xuất điện từ năng lượng tái tạo.”
Thực tiễn điện mặt trời tại Việt Nam
Đó là những khuyến nghị của các chuyên gia, tuy nhiên Đài RFA ghi nhận trong một diễn biến khác, cụ thể tại buổi chất vấn trước Quốc hội vào chiều ngày 6 tháng 11 liên quan vấn đề phát triển điện mặt trời, năng lượng sạch, Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh xác nhận “Khi lập quy hoạch năm 2017 đã không lường được hết sự phát triển của năng lượng tái tạo, trong đó chủ yếu là điện mặt trời”.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết theo Quyết định 11 khi được ban hành thì Việt Nam đối mặt với nguy cơ lớn thiếu điện vào năm 2019-2020 nên điện mặt trời là nguồn năng lượng bổ sung đáng kể; tuy nhiên sự phát triển quá nhanh của điện mặt trời gây ra hệ lụy quá tải của hệ thống truyền tải điện.
Người đứng đầu Bộ Công thương cho biết thêm hiện công suất giải tỏa của các dự án điện mặt trời chỉ đạt 30-40% và sẽ cố gắng giải tỏa công suất dự án điện mặt trời đến năm 2020 đạt 60-70%.
Truyền thông quốc nội, trong cùng ngày cũng dẫn thông tin từ Bộ Công thương cho biết đã báo cáo xin Chinh phủ bổ sung 15 dự án đường dây, trạm biến áp và ủng hộ tư nhân làm các dự án truyền tải điện.
Bộ Công thương cũng vừa trình Thủ tướng Chính phủ một dự án truyền tải điện của doanh nghiệp tư nhân đầu tiên-Công ty Đầu tư xây dựng Trung Nam, trong phê duyệt bổ sung Dự án điện mặt trời Trung Nam-Thuận Nam kết hợp đường dây truyền tải vào quy hoạch điện quốc gia.
Nhà quan sát tình hình Việt Nam, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, ở Singapore nhận định về tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Công thương Việt Nam là không lường được việc vỡ quy hoạch điện mặt trời:
“Quy hoạch đấy là quy hoạch không phù hợp với bất kỳ một nền tảng làm chính sách nào cả. Ông Bộ trưởng thú nhận thì thực ra không đúng cái gì cả, do lỗi của tất cả những người làm quy hoạch đấy. Điều này cũng nói lên được rằng là cơ bản nhất là quá trình làm chính sách sai từ đầu.”
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhấn mạnh về việc hoạch định chính sách cho năng lượng tái tạo tại Việt Nam cần phải chú trọng vào các yếu tố như thế nào:
“Mọi quy hoạch về điện nói chung, đặc biệt về năng lượng tái tạo cũng thế, là họ phải tính trước đến nhu cầu năng lượng như thế nào, sau đó tính đến an ninh năng lượng và tính đến các yếu tố khác như về thực trạng của ngành điện lực Việt Nam như thế nào, hành vi tiêu thụ điện của các doanh nghiệp sản xuất hay hành vi tiêu thụ điện của người dân như thế nào…rồi từ đó mới tính toán dựng ra được một quy hoạch và cũng không được phép để quy hoạch đó nhắc, mà có thể phải xem xét lại để bổ sung quy hoạch rất nhanh trong vòng một vài tháng với nền tẳng là Bộ luật Quy hoạch mà Quốc hội Việt Nam đã thông qua.”
Ý kiến của giới chuyên gia
Trong bối cảnh Việt Nam được dự báo sẽ thiếu điện từ năm 2021, một trong những giải pháp hữu hiệu mà giới chuyên gia cho rằng Chính phủ Hà Nội cần phải cân nhắc, đó là tư nhân hóa ngành điện, không để cho Nhà nước độc quyền trong sản xuất và phân phối như hiện nay.
Tiến sĩ Kinh tế Nguyễn Huy Vũ, từng nêu lên quan điểm của ông với RFA rằng Việt Nam có thể học theo mô hình tư nhân hóa của nhiều nước trong lãnh vực năng lượng điện tái tạo:
“Mô hình Solar City ở Mỹ là họ có chính sách mua lại điện của người dân, công ty ký hợp đồng với người dân để lấp những tấm pin mặt trời lên mái nhà người dân, người dân dùng không hết thì bán lại điện đó. Cách thứ hai là bên Israel làm. Một công ty trong nước có thể kêu gọi một công ty nước ngoài đầu tư chung với mình. Rồi chính phủ cũng là một cổ đông. Tổ hợp đó có thể hoạt động trong vòng năm năm chẳng hạn, rồi hai công ty đó có thể mua lại cổ phần của chính phủ với giá ưu đãi. Đó là một cách gọi là Yozma bên Israel làm được mấy chục năm rồi.”
Thế nhưng, theo ghi nhận của Giáo sư Đặng Hùng Võ thì hiện nay xu hướng tư nhân hóa trong thủy điện đang gặp không ít những hậu quả nghiêm trọng và đối với năng lượng tái tạo thì Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) mua điện của các nhà sản xuất năng lượng tái tạo với mức giá cả chưa khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân trong lãnh vực này.
Giáo sư Đặng Hùng Võ khẳng định Việt Nam cần phải có giải pháp nhất định là vấn đề chính cho phát triển năng lượng tái tạo trong thời gian tới.
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, một chuyên gia về điện năng tại Pháp, qua trang web của Hội người Việt Nam tại Pháp (UGVF) và Forum Diễn Đàn: Việt Nam có thể đạt 100% Năng lượng tái tạo năm 2050, đã liệt kê một số đề xuất, mà Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn cho rằng “Sự thành công phụ thuộc phần lớn vào quyết tâm chính trị của Chính phủ Việt Nam”. Hồi đầu trung tuần tháng 10 năm 2018, Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn lên tiếng với RFA một số việc Chính phủ Việt Nam cần phải đặc biệt lưu tâm trong một loạt các đề xuất của ông:
“Thực hiện gấp các giải pháp: Đừng xây dựng các nhà máy điện than; Giảm tỉ lệ tăng trưởng hằng năm về tiêu thụ điện (mục tiêu ngắn hạn dưới 5 %); Quy hoạch đất đai một cách thông minh; Bỏ rào cản hành chính và pháp lý cứng rắn; Chính sách mua lại giá thấp, hỗ trợ thuế; Dừng xây dựng các đường dây truyền tải dài 500 kV; Phân tán, xây cất các nhà máy điện nhỏ, tự chủ năng lượng của các vùng; Phát triển điều hòa nhiệt độ sinh học (điều hòa nhiệt độ hiện nay tốn quá nhiều điện); Tìm cách bổ sung cho khí đốt và điện; Triển khai các dự án thăm dò về ‘năng lượng dương’ (energy positive)…”
Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên-Môi trường-Giáo sư Đặng Hùng Võ cho biết Việt Nam đang thực hiện giảm xây dựng các dự án nhiệt điện than mới, như đã dừng quy hoạch nhà máy nhiệt điện than ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long.
Thế nhưng, tại Hội thảo “Cần có cái nhìn đúng về nhiệt điện than”, diễn ra vào trung tuần tháng 12 năm 2018, ông Lê Văn Lực, Phó Cục trưởng Cục Điện lực & Năng lượng tái tạo (thuộc Bộ Công thương) cho biết nhu cầu nhiệt điện than ở Việt Nam sẽ chiếm hơn 50% sản lượng điện sau năm 2030 và theo quy hoạch điện 7 điều chỉnh, nguồn năng lượng từ nhiệt điện than sẽ chiếm khoảng 53% cho hệ thống điện.
Phải đảm bảo chính sách đấy phục vụ số đông, chứ không thể được làm ra để cho một số những đối tượng hay những doanh nghiệp hoặc những cá nhân có thể trục lợi trên chính sách ấy được
-Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp
Phó Cục trưởng Cục Điện lực & Năng lượng tái tạo tuyên bố “nhiệt điện than phát thải gây ô nhiễm môi trường là có, nhưng có thể khắc phục được và nằm trong phạm vi cho phép”.
Mặc dù vậy, Báo Tuổi Trẻ Online vào hạ tuần tháng 10 năm 2019, dẫn thông tin từ Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường công bố kết quả báo cáo vừa gửi lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy trong giai đoạn 3 năm, 2015-2018, tổng khối lượng tro xỉ thải ra từ 12 nhà máy nhiệt điện than là hơn 25 triệu tấn. Trong đó, chỉ có hơn 10 triệu tấn tro xỉ được tiêu thụ, còn 15 triệu tấn vẫn chưa biết đổ đi đâu.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp khẳng định rằng Chính phủ Việt Nam sẽ không gặp bế tắc trong vấn đề lập chính sách quy hoạch năng lượng điện một khi:
“Phải đảm bảo chính sách đấy phục vụ số đông, chứ không thể được làm ra để cho một số những đối tượng hay những doanh nghiệp hoặc những cá nhân có thể trục lợi trên chính sách ấy được.”
Chuyên gia nghiên cứu độc lập-Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho rằng nếu chính sách không đảm bảo minh bạch, không tránh được hành động tham nhũng chính sách hay tham nhũng kinh tế thì Việt Nam vẫn phải bị ràng buộc trong cái vòng lẩn quẩn là nhập khẩu điện từ nước ngoài, nhất là từ Lào và càng mua điện của Lào thì Trung Quốc càng đầu tư xây đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mê Kông và Việt Nam “lãnh đủ” hậu quả về môi trường ở vị trí hạ lưu của dòng Mê Kông này.
Hà Nội đứng trong những thủ đô ‘ô nhiễm nhất thế giới’
Hà Nội đứng thứ 12 trong số những thủ đô ô nhiễm nhất thế giới, trong khi đó Việt Nam đứng vị trí 17 trong những nước ô nhiễm nhất thế giới theo World Air Quality Report của AirVisual.Báo cáo trên được dựa trên dữ liệu của năm 2018 do AirVisual tổng hợp.
Các chỉ số cũng có thấy xu hướng ô nhiễm không khí lan rộng ở các nước châu Á, nghiêm trọng nhất là các nước Nam Á như Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh.
Tất cả các xếp hạng này dựa trên chất lượng không khí trung bình mỗi năm.
Ô nhiễm không khí: dân kiện được chính quyền?
Đất nước VN ‘tiến bộ’ sao dân vẫn quyết ra đi?
Vì có sự khác nhau giữa các quốc gia này về mật độ các trạm đo và tính minh bạch của dữ liệu, các số liệu thống kê phải được cân nhắc một cách thận trọng. Nhưng chúng chắc chắn chỉ ra xu hướng chung.
Các thủ đô ô nhiễm nhất thế giới
Đánh giá theo tỷ số trung bình PM2.5 hàng năm
https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-50387334
Ô nhiễm không khí tại Hà Nội trở lại mức ô nhiễm
Ô nhiễm không khí ở thủ đô Hà Nội vào ngày 12 tháng 11 theo kết quả quan trắc được cho biết lên tới ngưỡng nguy hại. Đây là mức cao nhất trong bậc thang ô nhiễm không khí và được truyền thông trong nước nhận định là ‘khủng khiếp’ hơn 4 đợt ô nhiễm từng xảy ra trong năm nay.
Mạng báo Tuổi Trẻ dẫn phát biểu của Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng, chủ tịch Mạng lưới Không khí sạch tại Việt Nam, rằng đây là hiện tượng ô nhiễm không khí chưa từng thấy khi mà màu tím ghi nhận được tại hầu hết các trạm quan trắc trên địa bàn thủ đô Hà Nội; thậm chí có nơi còn ghi nhận ở ngưỡng nâu là mức nguy hại.
Cụ thể vào lúc 6 giờ sáng ngày 12 tháng 11, điểm quan trắc của Tổng Cục Môi trường tại số 556 đường Nguyễn Văn Cừ ghi nhận chỉ số không khí AQI lên đến 341. Đây là ngưỡng cao nhất thể hiệm màu nâu và là ngưỡng nguy hại theo cách tính chất lượng không khí của Việt Nam.
Theo bản qui đổi giá trị AQI, chỉ số trên 300 có cảnh báo nguy hại, tương đương với mức cảnh báo khẩn cấp về sức khỏe; toàn bộ người dân sống trong khu vực đó bị ảnh hưởng sức khỏe đến mức nghiêm trọng.
Trong khi đó hệ thống quan trắc không khí PAMAir cũng ghi nhận ô nhiễm không khí đặc biệt nghiêm trọng vào sáng ngày 12 tháng 11 khi điểm đo ở Hàng Quạt lên ngưỡng nâu.
Không riêng Hà Nội, ô nhiễm không khí vào sáng ngày 12 tháng 11 cũng bị cho là nghiêm trọng tại nhiều tỉnh ở miền bắc như Việt Trì, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hải Phòng, Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình, Thái Bình.
Cảnh báo đưa ra là trong những ngày tới, chất lượng không khí có thể vẫn duy trì ở mức kém, đặc biệt vào ban đêm và đầu giờ sáng. Người dân được khuyến cáo không nên mở cửa sổ, hạn chế tập thể dục ngoài trời vào buổi sáng. Khi ra đường nên sử dụng khẩu trang chống bụi.
Lào “lấn tới” với thủy điện Luang Prabang
và ứng phó cho Việt Nam
Thanh Trúc
Hôm 29.10.2019 Lào bắt đầu cho vận hành đập thủy điện Xayaburi và tiếp theo sẽ là con đập Don Sahong. Đây là hai đập thủy điện nằm trên dòng chính sông Mekong, đã và đang gây rất nhiều tranh cãi giữa Lào, Thái Lan, Cambodia cũng như Việt Nam ở hạ nguồn Mekong. Nguồn tin đáng chú ý khác từ MRC Ủy Hội Sông Mekong cho thấy Lào đang chuẩn bị tham vấn dự án thủy điện Luang Prabang có công suất 1410 MW, nằm cách thị trấn Luang Prabang khoảng 30 cây số. Nếu không có gì đột biến, đập Luang Prabang được khởi công xây vào tháng 7/ 2020. Một chuyên gia sông Mekong, bác sĩ Ngô Thế Vinh, tác giả hai cuốn sách ‘Cửu Long Cạn Dòng – Biển Đông Dậy Sóng’ và ‘Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch’, từng có bài tham luận về dự án Luang Prabang liên quan đến Việt Nam, trình bày sự việc qua bài phỏng vấn bằng điện thư do Thanh Trúc thực hiện.
Thanh Trúc: Thưa ông, cách đây 12 năm, tức năm 2007, Việt Nam đã cho phép công ty quốc doanh PVPC / PetroVietnam Power Corporation ký Biên bản Ghi Nhớ MoU với chính phủ Vientiane để đầu tư xây con đập Luang Prabang lớn nhất của Lào. Như vậy có phải Việt Nam tự mâu thuẫn không khi lên tiếng phản đối kế hoạch 9 con đập của Lào trên dòng chính Mekong? Cũng xin ông giải thích về bài viết mà ông đặt tựa “Với Dự Án Luang Prabang Từ 2007 Việt Nam Đã Quy Hàng Chiến Lược Thủy Điện Lào”?
Ngô Thế Vinh: Bấy lâu Việt Nam cũng đã từng bày tỏ mối quan tâm đối với những con đập thủy điện dòng chính trên sông Mekong, từ Trung Quốc xuống tới hai quốc gia Lào và Cambodia do những tác động tiêu cực xuyên biên giới đối với Đồng Bằng Sông Cửu Long. Chính phủ Việt Nam đã từng kêu gọi Lào “hoãn lại 10 năm” dự án đập Xayaburi và các con đập dòng chính khác. Và gần đây nhất, chính Việt Nam kêu gọi sự quan tâm khai thác các nguồn năng lượng tái tạo để thay thế cho thủy điện trong lưu vực sông Mekong, điều ấy có thể giúp “bảo vệ và khai thác bền vững nguồn tài nguyên nước sông Mekong, đồng thời tránh được những ảnh hưởng tác hại tiêu cực trên đời sống các cộng đồng cư dân ven sông.”
Nói thì như vậy, nhưng ngay từ năm 2007, có thể là sớm hơn, Việt Nam đã lập kế hoạch xây nhiều đập thủy điện trên lãnh thổ Lào; trong đó có cả dự án đập Luang Prabang lớn nhất trong số 9 con đập dòng chính trên sông Mekong của Lào với kinh phí lên đến trên 2 tỷ USD, ước tính theo thời giá lúc bấy giờ. Và một Biên bản Ghi nhớ / Memorandum of Understanding (MoU) về Dự án thủy điện Luang Prabang đã được ký kết từ 2007 giữa công ty quốc doanh PVPC / PetroVietnam Power Corporation và chính phủ Lào.
Tưởng cũng nên ghi lại đây là PVPC đã không có một hồ sơ theo dõi tốt/good track record, đã từng bị tai tiếng về các dự án thủy điện trước đó ở Lào, với các con đập Xekaman 1 và 3 ở Nam Lào, sau khi hoàn tất đã không vận hành tốt và dẫn tới hậu quả tác hại trên các cộng đồng cư dân trong vùng bị ảnh hưởng. (7)
Và hơn ai hết, Hà Nội biết rất rõ ĐBSCL, một vựa lúa của cả nước và Việt Nam lại là một quốc gia cuối nguồn, sẽ gánh chịu tất cả hậu quả tác hại tích lũy xuyên biên giới từ những con đập thượng nguồn đối với nguồn nước, nguồn phù sa, nguồn cá, và thêm thảm họa nước biển dâng do biến đổi khí hậu càng trầm trọng hơn nữa khi thiếu nguồn nước ngọt đổ xuống từ khúc sông Mekong thượng nguồn. Xa hơn nữa, khi không còn nguồn phù sa, ĐBSCL sẽ theo một tiến trình đảo ngược thay vì được bồi đắp thì đang dần dần bị sụp lở và tan rã. Điều ấy khiến nhà báo Anh Tom Fawthrop không khỏi kinh ngạc khi nghe tin chính phủ Lào vừa thông báo cho MRC ý định tiến hành xây cất đập Luang Prabang mà Hà Nội là nhà đầu tư chính, qua công ty quốc doanh PetroVietnam Power Corporation, một quyết định sẽ làm cho cuộc sống của 20 triệu cư dân nơi ĐBSCL thê thảm hơn.
TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu về Biến đổi Khí hậu (Dragon Institute – Mekong), Đại học Cần Thơ, người có nhiều năm sống gắn bó với vận mệnh của ĐBSCL đã bày tỏ quan điểm phản đối mạnh mẽ dự án Luang Prabang, TS Lê Anh Tuấn phát biểu:“Điều rất tệ hại nếu một Công ty Quốc doanh Việt Nam tham gia đầu tư bất kỳ dự án thủy điện nào ở dòng chính sông Mekong. Sự kiện này phải được xem là một hành động cực kỳ nghiêm trọng, dẫn nhanh đến sự hủy hoại hệ sinh thái và cuộc sống ở Hạ lưu Đồng bằng Sông Cửu Long. Các quan chức Việt Nam đồng lõa với quyết định hợp tác xây dựng dự án thủy điện Luang Prabang phải chịu trách nhiệm lịch sử và chính trị với nhân dân Việt Nam”.
Nhưng với giới quan sát am hiểu tình hình Việt Nam thì kể từ khi Hà Nội ký với Lào một Biên bản Ghi nhớ – Memorandum of Understanding 2007 về dự án thủy điện Luang Prabang, mặc nhiên Việt Nam đã bật tín hiệu đèn xanh đối với toàn chuỗi 9 dự án đập thủy điện dòng chính trên sông Mekong của Lào. Chính phủ Lào đã rất khôn ngoan hiểu rõ rằng từ năm 2007, trên thực tế – de facto, mọi phản đối của Việt Nam nếu có cũng chỉ là chiếu lệ, nếu không muốn nói là rất trơ trẽn. Và ai cũng thấy rõ bấy lâu một nhà nước Hà Nội luôn luôn bị chi phối bởi các nhóm lợi ích như thứ băng đảng Mafia mai phục trong khắp các công ty quốc doanh, điển hình là PetroVietnam Power Corporation vốn là một công ty của nhà nước với một lịch sử dài tai tiếng về tham nhũng đưa tới nhiều vụ bắt bớ tù tội của các viên chức cao cấp của công ty. Mọi kế hoạch, mọi dự án lớn hàng bao nhiêu ngàn tỷ từ trong nước hay đầu tư ra tới nước ngoài, đều bị dẫn dắt bởi các nhóm lợi ích, phá nát nền kinh tế, bất chấp quyền lợi lâu dài và sống còn của dân tộc và đất nước… nên có thể nói vì lợi nhuận – không phải cho người dân Việt Nam, mà là giới cầm quyền bị lũng đoạn do tham nhũng đã khiến Việt Nam bị khuất phục và quy hàng trước chiến lược thủy điện của Lào.
Thanh Trúc: Từ tháng 7/2019 Lào đã chính thức gởi hồ sơ tới MRC Ủy Hội Sông Mekong liên quan đến dự án xây đập dòng chính Luang Prabang, khi đó, ông đã gọi đây là “Con Domino Thứ 5”. Xin ông giải thích tác hại ‘liên hoàn’ của đập thủy điện Luang Prabang?
Ngô Thế Vinh: Từ 2010, tôi đã nhận định rằng nếu không trì hoãn được ít nhất một thập niên, dự án Xayaburi như con cờ Domino đầu tiên đổ xuống, sẽ kéo theo những bước khai thác ồ ạt các con đập dòng chính hạ lưu khác và hậu quả tác hại trước mắt và lâu dài ra sao trên toàn hệ sinh thái Sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long là không lường được. Xayaburi là con đập dòng chính đầu tiên vùng hạ lưu sông Mekong, cách thủ đô Vientiane 350 km về phía bắc và cách con đập Cảnh Hồng / Jinhong cực nam trong chuỗi đập bậc thềm Vân Nam của Trung Quốc 770 km và cách cố đô Luang Prabang 150 km về phía nam. Xayaburi được coi là một trong số 300 con đập lớn của toàn cầu.
(1) Tháng 05/2007 chánh phủ Lào ký kết với công ty Ch. Karnchang Thái Lan để thực hiện dự án đập Xayaburi. (2) Tháng 11/2008 công ty AF Colenco Thụy Sĩ kết hợp với toán tham vấn Thái khảo sát tính khả thi của con đập. (3) Tháng 07/2010 Chánh phủ Lào chính thức ký kết hợp đồng bán điện từ đập Xayaburi cho Thái Lan qua công ty EGAT / Electricity Generating Authority of Thailand. (4) Tháng 04/2011 Ủy Ban Liên Hợp Ủy Hội Sông Mekong / MRC Joint Committee ra thông cáo báo chí là các thành viên chưa đạt được một thỏa thuận để tiến hành dự án Xayaburi. (5) Tháng 06/2011 cho dù chưa có được một đồng thuận thích đáng giữa các quốc gia thành viên, chính phủ Lào vẫn đơn phương “bật đèn xanh” cho công ty Thái Lan CH. Karnchang triển khai dự án Xayaburi.
Khởi đầu một khủng hoảng tin cậy trong nỗ lực hợp tác vùng giữa các thành viên để bảo vệ hệ sinh thái của con sông Mekong. Cũng là khởi đầu một vi phạm trắng trợn của Lào đối với Hiệp Định Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong 1995, đó là: “Các quốc gia thành viên ký kết đồng ý là bằng mọi cố gắng phòng tránh, làm nhẹ hay giảm thiểu những hậu quả tác hại trên môi trường… do phát triển và sử dụng Lưu vực Sông Mekong.” Theo Điều 6 và 7 Hiệp Định Mekong 1995.
Đập Xayaburi đã gây nên hiệu ứng Domino. Tượng hình là một chuỗi những con cờ Domino được xếp thẳng đứng và khi quân cờ đầu tiên bị đổ xuống sẽ xô ngã con cờ tiếp theo và cứ tiếp tục một chuỗi phản ứng dây chuyền như vậy cho tới con cờ Domino cuối cùng. Xayaburi chính là con cờ Domino đầu tiên ấy, do không trì hoãn được ít nhất một thập niên tới năm 2020, theo như khuyến cáo của Ủy Hội Sông Mekong / MRC, đã kéo theo những bước triển khai ồ ạt của chuỗi những con đập hạ lưu khác như: Don Sahong, Pak Beng, Pak Lay và sắp tới đây là Luang Prabang. Và hậu quả trên hệ sinh thái sông Mekong và nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ rất trầm trọng nếu không muốn nói là bi thảm.
Thanh Trúc: Thưa ông, Gs Ts Vũ Trọng Hồng, nguyên thứ trưởng Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam, cho rằng yêu cầu dừng xây thủy điện đối với một quốc gia ‘chỉ có rừng và nước’ như Lào là không thể được. Điều có thể làm là những đề xuất nhằm giảm thiểu rủi ro cho Việt Nam, cụ thể cho Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ông nghĩ sao về quan điểm này?
Ngô Thế Vinh: Có lẽ trước cả TS Vũ Trọng Hồng, cũng đã có một thành viên Việt Nam lâu năm trong MRC và nay vẫn là một tiếng nói có ảnh hưởng trong Vietnam River Network đã từng phát biểu như vậy, và còn cho rằng Lào là quốc gia nghèo nhất Đông Nam Á, trong khi Việt Nam bấy lâu hưởng lợi từ nguồn phù sa con sông Mekong với 2 triệu tấn lúa gạo/ năm, cùng với tôm cá xuất cảng, trong khi Lào chỉ có ‘núi rừng và nước’ từ các con sông, do đó không thể ngăn Lào khai thác thủy điện trên dòng Mekong chảy qua nước họ…
TS Vũ Trọng Hồng đã khá thiển cận khi giản lược hóa cho rằng Lào là “một quốc gia chỉ có rừng và nước” [sic] trong khi Lào có một nền kinh tế và một hệ sinh thái với tài nguyên đa dạng hơn nhiều.
Chỉ riêng với con sông Mekong vốn là mạch sống với nguồn cá phong phú nhất nhì thế giới, cũng là nguồn protein chính của người dân Lào. Con sông cũng đem tới nguồn phù sa cho một nền canh tác ven sông. Lào có một nền nông nghiệp tự cấp chủ yếu là trồng lúa, với sản lượng tăng nhờ các giống lúa mới, với nguồn nước bơm tưới từ con sông Mekong và một phần được cơ giới hóa. Lào còn có cả một di sản lịch sử và văn hóa, một hệ sinh thái phong phú với những cảnh quan tuyệt đẹp, đây cũng chính là động lực cho ngành Du lịch tăng trưởng nhanh chóng nhất. Chỉ riêng năm 2015 đã có 4,7 triệu du khách tới Lào, đóng góp nguồn ngoại tệ rất đáng kể, với dự trù vào năm 2020, chỉ riêng ngành du lịch cũng đem tới 1,5 tỷ USD cho ngân sách Lào, chưa kể số công ăn việc làm để phục vụ lãnh vực du lịch. Xây thêm những con đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong, nhất là với con đập Luang Prabang sẽ hủy hoại bao nhiêu những sinh cảnh tuyệt đẹp chỉ có trên đất nước Lào, cũng sẽ hủy hoại luôn cả khu Di sản Thế giới Luang Prabang đang hấp dẫn hàng triệu du khách – điều ấy có nghĩa là Lào đang giết đi “những con gà đẻ trứng vàng”.
Về rừng, các khu rừng nguyên sinh phong phú của Lào với bao nhiêu gỗ quý vẫn tiếp tục bị tàn phá, từ 70% diện tích lãnh thổ Lào nay xuống chỉ còn dưới 40%, và theo ghi nhận của WWF: phá rừng khai thác gỗ bất hợp pháp, có bàn tay đồng thủ phạm của giới tướng lãnh tham nhũng Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân đội Nhân dân Lào và sau đó gỗ được vận chuyển xuyên biên giới xuống cảng Quy Nhơn Việt Nam để xuất khẩu, lợi nhuận lên tới bạc tỷ USD nhưng không phải cho người dân Lào.
Về nguồn nước từ con sông Mekong và các phụ lưu cùng với địa hình núi non giúp Lào sản xuất thủy điện với số lượng lớn. Thủy điện là nguồn tài nguyên quan trọng ở Lào, với công suất tiềm năng ước tính là 18000 MW. Rất sớm từ 1971 Lào đã có con đập thủy điện Nam Ngum đầu tiên trên phụ lưu sông Mekong, hoàn thành năm 1971 với công suất ban đầu 30 MW sau tăng lên 155 MW, vừa cung cấp điện cho Lào vừa xuất cảng sang Thái Lan.
Từ tháng 10/2014, các nhà máy thủy điện của Lào đã tạo ra gần 15,5 tỷ kWh. Trong số này, gần 12,5 tỷ kWh được xuất khẩu, thu về hơn 610 triệu USD. Thị trường chủ yếu của Lào là Thái Lan, Việt Nam. Hầu hết các đập đang hoạt động và đang xây dựng của Lào nằm trên các phụ lưu của sông Mekong. Nay thì Lào đã hoàn tất thêm hai con đập trên dòng chính sông Mekong là Xayaburi và Don Sahong.
Theo trang web của Bộ Năng lượng và Mỏ Lào, hiện đã có 22 đập thủy điện đang hoạt động, 22 đập đang xây và hàng chục dự án được đề xuất. Thủy điện cung cấp những lợi ích kinh tế đáng kể cho Lào thông qua việc bán điện cho Thái Lan, Việt Nam.
Kinh tế Lào còn nhận được nhiều nguồn viện trợ phát triển từ IMF, ADB và các nguồn tài trợ quốc tế khác. Không những thế, Lào rất giàu tài nguyên thiên nhiên, với các mỏ than, vàng, bô xít, thiếc, đồng và kim loại có giá trị khác.
Một nước Lào nhỏ bé, với tổng diện tích 236.800 km2 , khí hậu nhiệt đới gió mùa, dân số ước tính năm 2019 là 7,1 triệu (chỉ khoảng ngót 1/3 dân số ĐBSCL), mật độ 29,5 người/ km2.
Theo TS Phạm Đỗ Chí, chuyên gia kinh tế, từng nhiều năm sống ở Lào, đại diện cho IMF / International Monetary Fund rồi cố vấn cho ADB / Asian Development Bank của chính phủ Lào thì, lợi tức bình quân đầu người của Lào 2017-2018 theo thống kê IMF & WB [3/2019] nay đã cao hơn 3 bậc so với Việt Nam [trên cả Bolivia, Ấn Độ rồi mới tới Việt Nam]. Một điều cần lưu ý, IMF & WB khi làm bảng thống kê đã không bao gồm các đặc khu.
Cứ bảo rằng Lào nghèo nhất Đông Nam Á chỉ là một huyền thoại / một stigma cũ kỹ gán cho Lào nay không còn đúng nữa. Kết quả thống kê kinh tế này chắc khiến nhiều vị khoa bảng Hà Nội ngạc nhiên và giới lãnh đạo Việt Nam phải tỉnh ngủ.
[Cần mở thêm một dấu ngoặc, nhìn về toàn cảnh địa dư chính trị, Trung Quốc đang dùng Lào như một hành lang cho kế hoạch bành trướng Một Vành Đai Một Con Đường mở sang Việt Nam, qua sự tràn ngập FDI / Foreign Direct Investment và các đặc khu kinh tế ở xứ láng giềng này. Người Hoa hiện là thế lực chính chi phối nền kinh tế Lào, với 13 đặc khu kinh tế của Trung Quốc, trong đó có Đặc khu Kinh tế Tam Giác Vàng (GTSEZ / Golden Triangle Special Economic Zone) rộng 10.000 hecta, khiến Paul Chambers Giám đốc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Bangkok đã đưa ra nhận định: “Bắc Lào giờ đây bị biến thành một đất nước Trung Quốc mới.” Một đất nước Lào đang bị Trung Quốc từng bước Tây Tạng Hóa.]
Thanh Trúc: Gs Ts Vũ Trọng Hồng bên VN còn khẳng định dù không thể yêu cầu các nước ngưng xây đập thủy điện thì quan trọng là Việt Nam phải chuyển chiến lược sản xuất nông nghiệp cũng như lo tích nước cho mùa khô kiệt. Ông có nghĩ hai phương án đó khả thi đối với Việt Nam không? Ngoài ra Việt Nam còn cần phải có chiến lược ra sao nữa để giảm thiểu tác hại?
Ngô Thế Vinh: TS Vũ Trọng Hồng đã từng là Thứ trưởng bộ NN & PTNT, khi khẳng định không thể yêu cầu các nước ngưng xây đập thủy điện, không có nghĩa là thả nổi cho Lào muốn làm gì thì làm, Lào phải tuân thủ những điều khoản cam kết trong Hiệp Định Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong 1995. Việt Nam có nghĩa vụ bảo vệ Hiệp Định Mekong 1995 ấy vì sự sống còn của ĐBSCL với 20 triệu cư dân và cũng là bảo vệ an ninh lương thực cho toàn vùng. Qua 4 dự án: Xayaburi, Don Sahong, rồi Pak Beng, Pak Lay, sắp tới đây là Luang Prabang, Lào đã có những hành xử đơn phương và độc đoán, bất chấp mọi mối quan tâm của các quốc gia thành viên MRC khác.
Với thái độ rõ ràng quy hàng Lào của Việt Nam, TS Vũ Trọng Hồng nay lại đổ hết gánh nặng lên đầu ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL, rằng: “phải chuyển chiến lược sản xuất nông nghiệp cũng như lo tích nước trong mùa khô kiệt” [sic], cũng vẫn mấy khẩu hiệu ấy từ giới lãnh đạo Bộ NN & PTNT lặp lại từ bao năm nay rồi, trong đó có ông Vũ Trọng Hồng từng giữ chức vụ Thứ trưởng.
Nhưng câu hỏi đặt ra là: chuyển đổi chiến lược sản xuất ra sao, thì vẫn là người dân ĐBSCL phải tự thích nghi xoay xở. Còn bảo người dân phải lo tích nước cho mùa khô kiệt; nhưng lấy nguồn nước ở đâu? Khi mà nguồn nước ngầm đã bị tận cùng khai thác, đã sắp cạn kiệt gây nên thảm trạng đất lún; khi mà hai vùng trũng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười như hai túi nước thiên nhiên không còn nữa, khi mà Biển Hồ như trái tim của Cambodia và ĐBSCL cũng đang thiếu nước do vào mùa Mưa không còn nhịp đập lũ – flood pulse từ thượng nguồn để con sông Tonle Sap có thể đổi chiều tiếp nước cho Biển Hồ…
Rồi cũng phải kể bao nhiêu dự án gây hại của Bộ NN & PTNT như: công trình Quản Lộ-Phụng Hiệp, Ngọt hóa bán đảo Cà Mau và công trình cống đập Ba Lai đều là những thất bại hối tiếc. Điều đáng nói là sau những thất bại ấy, chẳng có ai nhận trách nhiệm và cũng không có bài học nào được rút ra. Và cho dù đã có bao nhiêu tiếng nói trí tuệ của các chuyên gia độc lập và uy tín từ ĐBSCL lên tiếng can gián, sắp tới đây thêm một công trình mệnh danh thế kỷ: cống đập Cái Lớn-Cái Bé tốn phí hàng bao nhiêu ngàn tỷ cũng sẽ vẫn tiến hành. Khi mà tiếng nói của các nhóm lợi ích và giới chủ đầu tư quá mạnh khiến nghị quyết nào của chính phủ cũng chỉ là trên giấy và đều rơi vào thế thất thủ chiến lược.
Thanh Trúc: Trở lại Xayaburi, bất chấp mọi tranh cãi thì thủy điện Xayaburi đã hoàn tất và bắt đầu hoạt động từ hôm 29 tháng 10 này. Câu hỏi ở đây là trong bối cảnh mùa kiệt chuyển sang mùa mưa, vào khi những đập thủy điện Trung Quốc trên thượng nguồn lo tích một lượng nước lớn của Mekong, thì Xayaburi làm sao có đủ nước để vận hành?
Ngô Thế Vinh: Đối với toàn thể cư dân trong lưu vực sông Mekong thì ngày 29.10.2019 khi con đập thủy điện dòng chính đầu tiên Xayaburi của Lào bắt đầu khởi động quả là một tin chấn động, giữa lúc khúc sông Mekong gần như cạn kiệt, và câu hỏi đặt ra sẽ lấy đâu ra đủ nguồn nước để Xayaburi có thể vận hành chạy các turbines và đạt toàn công suất?
Với các con đập dòng chính phía cực bắc của Lào như: Pak Beng, Luang Prabang, Xayaburi, Pak Lay… gần như hoàn toàn phụ thuộc vào dòng chảy của con sông Lancang-Mekong từ Vân Nam đổ xuống, và do khúc sông Mekong phía bắc của Lào chưa được tiếp thêm nước từ các nhánh phụ lưu lớn, nên khi Trung Quốc trữ nước cho các con đập của họ – trực tiếp nhất là con đập Cảnh Hồng / Jinhong, chắc chắn Xayaburi sẽ không đủ nước để vận hành và đạt toàn công suất thì rõ ràng đây là một đầu tư bất trắc của Lào.
Tình trạng thiếu nước cũng xảy ra với con đập Don Sahong khi bước vào hoạt động cũng trong cuối năm nay. Phải nói đây là một bài học nhãn tiền cho Lào trước khi manh động lao vào thêm những dự án đập tiếp theo, trong đó có con đập Luang Prabang lớn nhất mà chủ đầu tư lại là Việt Nam, một quốc gia cuối nguồn.
Thanh Trúc: Có ý kiến cho rằng Trung Quốc đang ‘bắt chẹt’ được các nước hạ nguồn bằng ‘lá bài’ nguồn nước? Ông nhận thấy việc phối hợp giữa các quốc gia đến nay có hiệu quả gì không?
Ngô Thế Vinh: Cách đây hơn một thập niên, khi viết về chuỗi đập Bậc thềm Vân Nam trên nửa chiều dài sông Mekong nằm trong lãnh thổ Trung Quốc gây ảnh hưởng dây chuyền xuống tới các quốc gia Hạ nguồn, tôi có nói tới khả năng về một cuộc chiến môi sinh / ecological warfare, trong đó có cuộc tranh
chấp vì nước, và hiểm họa đó là có thật. Và nay với 11 con đập dòng chính trên sông Lancang-Mekong đã hoàn tất, trong đó có 2 con đập lớn nhất là Nọa Trác Độ / Nuozhadu 5850 MW và Tiểu Loan / Xiaowan 4200 MW đã hoạt động phát điện toàn công suất, có thể nói về tổng thể Trung Quốc đã hoàn tất kế hoạch thủy điện với 40 tỷ mét khối nước dự trữ trong các hồ chứa, ngăn chặn hơn 50% lượng phù sa từ thượng nguồn, cộng thêm với các con đập thủy điện Hạ lưu Made in China trên lãnh thổ Lào và Cambodia, đủ cho Bắc Kinh nắm quyền sinh sát toàn lưu vực sông Mekong.
Đã thế, ngay giữa 4 quốc gia Hạ lưu: Lào, Thái, Cambodia và Việt Nam trong mỗi kế hoạch khai thác sông Mekong đều tiềm ẩn những mâu thuẫn sâu xa về quyền lợi, nếu chỉ đứng trên quan điểm quốc gia hạn hẹp. Không dễ gì vượt qua được trở ngại ấy nếu không có được một mẫu số chung – với quyết tâm bảo vệ dòng sông như mạch sống cho toàn lưu vực – đó là một tinh thần sông Mekong, với không khí đối thoại cởi mở dẫn tới sự tin cậy, để cùng nhau toan tính từng bước thận trọng hướng tới phát triển bền vững cho toàn vùng. Sông Mekong phải là sợi chỉ đỏ nối kết chứ không phải để hủy hoại xâu xé. Điều mà Trung Quốc rất muốn là sự phân hóa chia rẽ giữa các quốc gia Mekong, Bắc Kinh không thể bẻ gẫy cả một bó đũa nhưng lại dễ dàng bẻ gẫy từng chiếc, và hiện trạng 3 nước anh em Đông Dương thì đã có 2 là Cambodia và Lào đang tách ra khỏi Việt Nam để rơi vào quỹ đạo Trung Quốc.
Thanh Trúc: Thưa, theo như ông biết, các chương trình hỗ trợ từ Hoa Kỳ và Nhật cho hạ lưu sông Mekong phát huy được đến đâu?
Ngô Thế Vinh: Chương trình viện trợ của Nhật Bản cho vùng hạ lưu sông Mekong khá liên tục trong mấy thập niên qua phải nói là rất đáng kể qua ODA / Official Development Assistance, qua JICA / Japan International Cooperation Agency, với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng / infrastructures: hệ thống đường sá giao thông, bệnh viện, trường học và cả những cây cầu lớn bắc qua sông Mekong như cây cầu Lào-Nippon-Champasak (2000), cây cầu Kampong Cham (2001) – Cambodia, cây cầu Cần Thơ ĐBSCL (2008), là những công trình lớn của Nhật từ Lào, qua Cambodia xuống tới Việt Nam.
Về phía Hoa Kỳ, từ sau Chiến tranh Việt Nam 1975, Đông Nam Á không còn là mối quan tâm của Washington; mãi cho tới 2009 mới đánh dấu sự trở lại của Hoa Kỳ qua Sáng kiến Hạ lưu Mekong / Lower Mekong Initiative 2020 của nguyên ngoại trưởng Hillary Rodham Clinton, trong đó có cả một kế hoạch rất hay: kết nghĩa giữa hai dòng sông Mississippi và Mekong, nhằm trao đổi kinh nghiệm về kỹ thuật và phương cách thích nghi với biến đổi khí hậu ảnh hưởng trên hệ sinh thái của cả hai con sông. Hai Ủy Hội Sông Mississippi và Mekong hứa hẹn sẽ cùng hợp tác để thăng tiến những bước phát triển bền vững về thủy điện, đương đầu với lũ lụt và khô hạn, điều hợp sử dụng nước và an toàn thực phẩm, cải thiện thủy lộ và cả gia tăng trao đổi thương mại đường sông… Nhưng rồi cho đến nay đã qua 10 năm, LMI 2020 đã không đạt được những bước tiến cụ thể, vẫn còn mang tính cách rất tượng trưng với một ngân khoản đầu tư không tương xứng với tầm vóc của chính sách và nhu cầu của các quốc gia trong lưu vực.
Mới đây, ngoại trưởng Pompeo, trong Hội nghị cấp Bộ trưởng ở Bangkok tháng 8/2019 cũng nói đến cam kết của Hoa Kỳ và Nhật Bản trong việc hợp tác với các nước thuộc lưu vực sông Mekong để đối phó với những khó khăn. Dự trù sẽ xây dựng mạng lưới dẫn điện trong khu vực qua chương trình Đối tác năng lượng Mekong Nhật Bản – Hoa Kỳ [JUMP/ Japan-U.S. Mekong Power Partnership], và phía Hoa Kỳ sẽ đóng góp 29,5 triệu USD. Chính phủ Mỹ cũng sẽ vận động với Quốc hội để cung cấp thêm một khoản trợ giúp trị giá 14 triệu USD cho các quốc gia sông Mekong đối phó với tội phạm buôn người, ngăn chặn việc buôn bán động vật hoang dã, và việc buôn lậu thuốc phiện xuống từ khu Tam Giác Vàng. Đó là những chương trình trợ giúp mang tính nhân đạo nhưng xét về giá trị chiến lược thì rất manh mún.
Nếu so với nguồn tiền khổng lồ đổ vào từ Trung Quốc, có thể nói Hoa Kỳ chưa có khả năng “đối trọng” với áp lực bành trướng ngày càng gia tăng của Bắc Kinh. Trung Quốc đang ở thế thượng phong trong lưu vực sông Mekong so với Hoa Kỳ trong nhiều lãnh vực. Và rồi người ta không thể không tự hỏi: vị trí chiến lược của Hoa Kỳ hiện nay là ở đâu trên Bàn cờ Sông Mekong và xa hơn nữa là trên Biển Đông? Thiếu thực chất chiến lược, thiếu một chính sách liên tục và nhất quán từ phía Hoa Kỳ: đó là thực trạng từ nhiều năm nay của Sáng Kiến Hạ Lưu Mekong.
Thanh Trúc: Là người nghiên cứu lâu nay về dòng sông Mekong và từng đưa ra cảnh báo, ông thấy đâu là giải pháp để khơi dòng Mekong trước những tắc nghẽn hiện nay?
Ngô Thế Vinh: Một ví dụ trước mắt cho nhà nước Lào, thủy điện Columbia (1) hiện đang rơi vào bế tắc, dù trước đó đã trải qua mấy thập niên huy hoàng, nhưng nay không thể ngờ lại sắp bị tê liệt vì những hệ quả hủy hoại trên hệ sinh thái, và những chi phí ngày càng tăng, thu nhập giảm vì công nghệ cổ điển, lỗi thời.
Và cũng để trực tiếp trả lời phần câu hỏi đâu là giải pháp để giải thoát dòng Mekong trước những đe dọa sắp đến và tắc nghẽn thủy điện hiện nay? Đó chính là nguồn năng lượng sạch từ gió và mặt trời, đang như một khuynh hướng toàn cầu, phải kể cả “Vua Thủy Điện Trung Quốc” cũng đang mạnh mẽ chuyển hướng từ nhiệt điện sang năng lượng tái tạo sạch gần như vô tận này, mà giá thành lại rẻ khiến cho cả thủy điện bị thách thức, với cái giá bảo trì chủ đầu tư phải trả quá đắt chưa kể thiệt hại về xã hội và môi sinh dân cư lưu vực phải trả.
Và theo ước tính của KS Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation, thì dự án điện mặt trời nổi trên mặt các hồ chứa như đập Nam Ngum của Lào, Biển Hồ thiên nhiên Tonle Sap của Cambodia sẽ là giải pháp rất khả thi để thay thế các dự án thủy điện dòng chính như Pak Lay, Pak Beng, Luang Prabang – Lào và Sambor, Stung Treng —Cambodia, và đây sẽ là một chuỗi các dự án lớn mà KS Phạm Phan Long đề xuất, với nghiên cứu mở đầu mới được đăng trên PV Magazine: “Can Nam Ngum solar replace Mekong hydro in Laos? (4) Ngay sau đó được phổ biến trên Mekong Eye ngày 5.11.2019 như một diễn đàn lưu vực. Đây là tia sáng mới, có khả năng tạo bước đột phá cứu dòng Mekong thoát thủy điện để con Sông Mẹ sẽ mãi là mạch sống / lifeline của bao nhiêu triệu cư dân Lào, Thái, Cambodia, Việt Nam trong vùng Hạ lưu trong đó có Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Thanh Trúc: Thêm một câu hỏi cuối cùng có tính giả định, theo ông liệu Việt Nam có dám mạnh mẽ hủy đầu tư và ngăn cản Lào xây đập Luang Prabang không?
Ngô Thế Vinh: Hủy dự án Luang Prabang và hoãn thêm 10 năm tới 2030, tất cả các con đập dòng chính trên sông Mekong của Lào, đó là một thách đố cũng là cơ hội có tính cách lịch sử, là tiếng nói của lương tri và là điều mà Hà Nội cần làm ngay và phải làm.
Nhưng với hiện trạng, không chỉ bị thao túng của các nhóm lợi ích, nhà nước Việt Nam còn đang bị vây quanh bởi một đám cố vấn khoa bảng, nếu không bị mua chuộc thủ lợi thì do không có tầm nhìn chiến lược. Như một điệp khúc họ cho rằng: khi không thể ngăn được Lào xây các đập thủy điện thì Việt Nam buộc phải đầu tư xây dựng đập Luang Prabang, bởi nếu không thì Trung Quốc sẵn sàng nhảy vào. Và khi Việt Nam xây đập Luang Prabang sẽ chủ động được phần thiết kế, quy trình vận hành, kể cả khả năng mua điện của Lào [sic] thay vì tiếp tục boycott / tẩy chay cuối cùng để Trung Quốc hoàn toàn thao túng thủy điện Lào.
Đây cũng là quan điểm của Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên và Môi Trường Lê Công Thành và là Phó Chủ tịch Thường trực Ủy Ban Sông Mekong Việt Nam phát biểu trong cuộc Hội thảo Tham vấn quốc gia về Dự án thủy điện dòng chính Luang Prabang của Lào [4/11/2019] ở Sài Gòn. Ông Thành cho rằng: “Quyết định đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam vào công trình thủy điện Luang Prabang của Lào sẽ giúp chúng ta có thể chủ động hơn trong việc tham gia ngay từ đầu vào quá trình lựa chọn phương án thiết kế, thi công và vận hành công trình trên cơ sở điều tiết đa mục tiêu. Qua đó, góp phần giảm thiểu được tác động của không chỉ công trình thủy điện này mà còn của tổ hợp các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mekong.” (6)
Đây là một hình thức ngụy biện nguy hiểm và cả sai lầm chiến lược vì đi ngược với quyền lợi sống còn 20 triệu cư dân ĐBSCL và cả hơn 10 triệu dân Cambodia sống quanh Biển Hồ. Rất sai về nguyên tắc, và cả mâu thuẫn về đường lối chính sách. Bởi vì, với các điều khoản trong Hiệp Định Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong 1995, tuy Việt Nam và các quốc gia thành viên không còn quyền phủ quyết nhưng Lào vẫn phải tuân thủ tiến trình PNPCA ba giai đoạn: (1) Thủ tục Thông báo / Procedures for Notification, (2) Tham vấn trước / Prior Consultation, (3) Chuẩn thuận / Agreement đã cùng ký kết, để bảo vệ con sông Mekong như một mạch sống cho toàn lưu vực. Cho tới nay, ai cũng thấy các quy trình tham vấn chỉ mang tính hình thức, thiếu minh bạch và không hiệu quả, không quan tâm gì tới tiếng nói của các tổ chức xã hội dân sự và các cộng đồng cư dân ven sông bị ảnh hướng. Tiếng nói cuối cùng vẫn là các nhà đầu tư xây đập. Phải nói rằng vai trò của Ủy Ban Mekong Việt Nam đã rất thụ động và mờ nhạt trong tiến trình tham vấn này.
Điều đáng ngạc nhiên là trong chiến tranh, không điều gì mà nhà nước CSVN không dám làm, như đã dùng lãnh thổ hai nước Lào, Cambodia như một hành lang chiến tranh, xâm phạm chủ quyền của các quốc gia láng giềng. Vậy mà trong hòa bình, họ lại là một nhà nước nhu nhược, không có quyết tâm chính trị để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của dân tộc. Để cho đất nước bị bán đứng bởi các nhóm lợi ích.
Việt Nam có dám rút ra khỏi dự án Luang Prabang không? Đúng, đây là một câu hỏi giả định, nhưng không phải là “không thể được,” khi đã có giải pháp Năng Lượng Tái Tạo / NLTT, từ gió và mặt trời là thứ năng lượng sạch có khả năng từng bước thay thế thủy điện.
Với một định chế chính trị như hiện nay, thì sẽ không phải là Ủy Ban Sông Mekong Việt Nam, cũng không phải là một Bộ trong chính phủ, mà phải là quyết tâm của Bộ Chính Trị Hà Nội, không phải chỉ để cứu ĐBSCL mà là với tầm nhìn chiến lược vùng, buộc MRC thể hiện nghĩa vụ quốc tế đúng theo tinh thần Hiệp Định Phát Triển Bền Vững Lưu Vực Sông Mekong 1995 và bảo vệ con sông Mekong như mạch sống cho 70 triệu cư dân trong toàn lưu vực, và cả bảo vệ an ninh lương thực của thế giới.
Tham khảo:
(1) Bàn về Dự án Thủy điện Luang Prabang. PetroTimes 30.09.2016
https://petrotimes.vn/stores/newspaper_data/administrator/122016/30/09/1510_So_531_final.pdf
(2) Hydropower giant Bonneville Power is going broke
https://www.eenews.net/stories/1061110823
(3) List of Countries by GDP (PPP) per capita, IMF & World Bank
http://m.statisticstimes.com/economy/countries-by-gdp-capita-ppp.php
(4) Can Nam Ngum solar replace Mekong hydro in Laos? Phạm Phan Long
https://www.pv-magazine.com/2019/11/01/can-nam-ngum-solar-replace-mekong-hydro-in-laos/
(4) Laos’s Controversial Xayaburi Dam on Mekong River Begins Operations
https://www.rfa.org/english/news/laos/xayaburi-dam-begins-operations-10292019175158.html
(5) Tham vấn quốc gia về Dự án thủy điện dòng chính Luông Prabang của Lào 04/11/2019
(6) Save the Mekong Coalition Calls for the Cancellation of the Luang Prabang Dam.
https://www.rfa.org/english/news/laos/save-mekong-coalition-luang-prabang-10082019144557.html
Có 90,000 “người nước lạ”
đang ở việt nam làm sếp lớn, hưởng lương cao
Tin Vietnam.- Báo Vietnamnet ngày 12 tháng 11 năm 2019 loan tin, báo cáo của uỷ ban đối ngoại quốc hội CSVN cho biết, tính đến năm 2018, Việt Nam có 88,845 “người ngoại quốc” đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam.
Những người này chủ yếu là những chuyên gia, nhà cai quản, giám đốc điều hành và lao động kỹ thuật. Những người ngoại quốc này nhập cảnh vào làm việc tại các công ty được các cơ quan xuất nhập cảng cấp visa ký hiệu “DN” có thời hạn 3 tháng và chưa có giấy phép lao động. Phía Uỷ ban Đối ngoại không nói rõ người ngoại quốc ở đây cụ thể là người nước nào. Cơ quan này chỉ nói rằng, người lao động ngoại quốc sử dụng visa DN hoặc vào Việt Nam với danh nghĩa tham quan du lịch nhưng ở lại làm việc tại Việt Nam. Điều này đã khiến dư luận Việt Nam cho rằng, người ngoại quốc ở đây chủ yếu là người Trung Cộng. Vì đã có nhiều người Trung Cộng vào Việt Nam theo kiểu du lịch nhưng lại ở lại cư trú bất hợp pháp.
Trong một bối cảnh khác, báo Trithucvn cho biết, báo cáo của Uỷ ban Đối ngoại thống kê, trong vòng 4 năm từ 2015 đến 2018, có 14,8 triệu người Trung Cộng nhập cảnh vào Việt Nam, chiếm hơn 30% trong tổng số người ngoại quốc đến Việt Nam. Người Trung Cộng đứng đầu danh sách các công dân ngoại quốc nhập cảnh vào Việt Nam.
https://www.sbtn.tv/co-90000-nguoi-nuoc-la-dang-o-viet-nam-lam-sep-lon-huong-luong-cao/
Nhà thầu Nga kiện PVN, làm bế tắc dự án nhiệt điện
Một nhà thầu của Nga khởi kiện Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) ra tòa ở Singapore, làm dự án nhiệt điện Long Phú 1 thêm bế tắc.
Cá Voi Xanh: Trung Quốc hay giá điện mới là lý do thật?
Đinh La Thăng bị tuyên thêm 18 năm tù
Truyền thông Việt Nam xác nhận công ty Nga Power Machines (PM) đang kiện PVN ở Trọng tài quốc tế Singapore.
Các khiếu kiện chính của PM bao gồm: PM coi lệnh cấm vận của Mỹ là sự kiện bất khả kháng; PM khiếu nại PVN không thực hiện thanh toán cho PM; PM cho rằng PVN không có cơ sở khi rút Bảo đảm thực hiện hợp đồng của PM.
PM của Nga đã bị Mỹ cấm vận trực tiếp từ ngày 26/1/2018, dẫn tới việc công ty này không tiếp tục thực hiện hợp đồng tổng thầu (EPC) tại nhiệt điện Long Phú 1 đặt ở tỉnh Sóc Trăng.
Có chủ đầu tư là PVN, nhà máy Nhiệt điện Long Phú 1 nằm tại xã Long Đức, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng.
Dự án được Bộ Công Thương phê duyệt với quy mô công suất khoảng 4.400MW (lớn gấp hơn 2 lần công suất của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình).
Tuy nhiên, mới nhất, Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực đã cho hay tiến độ dự án hiện ước tính đạt 77,56% so với kế hoạch.
Đến nay dự án vẫn chưa biết khi nào hoàn thành do nhà thầu Power Machines (PM – Nga) không tiếp tục thực hiện hợp đồng EPC.
Còn chính PM thì lại ra Trọng tài quốc tế tại Singapore để kiện PVN.
PVN nói họ đã trả lời tòa hồi tháng 9, trong đó cho rằng lệnh cấm vận của Mỹ không phải là sự kiện bất khả kháng.
Bên cạnh đó, tổng mức đầu tư dự án được lập từ năm 2010. PVN đã trình tổng mức đầu tư điều chỉnh của dự án nhưng chưa được cấp thẩm quyền ở Việt Nam phê duyệt.
Các ngân hàng nước ngoài và Việt Nam cũng từ chối thực hiện các giao dịch tài chính liên quan đến nhà thầu PM.
Hiện nay, PVN đang đầu tư vào ít nhất 5 dự án nhiệt điện tại Sóc Trăng, Sông Hậu 1 (Hậu Giang), Quảng Trạch 1 (Quảng Bình), Thái Bình 2 và Vũng Áng 1 (Hà Tĩnh).
Vào tháng Chín, chính phủ Việt Nam hé lộ các dự án Long Phú 1, Sông Hậu 1, Thái Bình 2… đều đang gặp khó khăn.
Chính phủ khi đó ra quyết tâm đối với Dự án Nhà máy Nhiệt điện Sông Hậu 1, bảo đảm tiến độ đưa Tổ máy 1 vào vận hành quý II năm 2021 và Tổ máy 2 vào quý III năm 2021.
Đối với Nhiệt điện Thái Bình 2, Bộ Công Thương sẽ báo cáo trình Ban Cán sự đảng Chính phủ trước khi báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến.
Khó khăn của PVN
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) đang gặp rất nhiều khó khăn, mặc dù đã nhiều lần lên tiếng đề nghị giải pháp từ cấp cao hơn.
Tin cho hay mới đây PVN gửi văn bản cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trình bày các dự án đang vướng mắc.
Ví dụ, chuỗi dự án khí điện Lô B – Ô Môn đang bị chậm tiến độ hai năm so với kế hoạch.
Dự án Cá Voi Xanh cũng gặp khó khăn. Trong đó có việc 5 nhà máy điện tiêu thụ khí Cá Voi Xanh chưa được phê duyệt bao tiêu. Vì thế, các cam kết về bao tiêu trong hợp đồng mua bán điện và hợp đồng mua bán khí chưa rõ ràng.
Còn tại dự án nhiệt điện Thái Bình 2, tổng mức đầu tư gần 42.000 tỷ đồng, đến nay vẫn chưa hoàn thành đầu tư xây dựng.
Dự án nhiệt điện Long Phú 1 vẫn chưa xác định được tiến độ khả thi.
Dự án nhiệt điện Sông Hậu 1 gặp khó khăn về vốn, về thanh toán cho các hạng mục xây dựng, lắp đặt…