Tin Việt Nam – 03/02/2018
Tết Mậu Thân 1968 và văn chương
Năm mươi năm trôi qua, khoảng thời gian vừa đủ cho một đứa bé ra đời, lớn lên, tập tễnh vào đời, va đập cuộc sống và lần mò bước qua bên kia dốc cuộc đời để chiêm nghiệm về đời người, về nhân tình thế thái. Ấy cũng là khoảng thời gian mà vết đau lịch sử vẫn còn âm ỉ, đúng nửa thế kỉ trước, trong khoảnh khắc giao thừa Tết Mậu Thân, những tiếng súng khai cuộc tổng tiến công từ những người lính Cộng sản Bắc Việt khiến cho người dân miền Nam ngỡ đó là tiếng pháo nổ, để rồi vài mươi giờ sau, một biến cố tan thương khảm dấu vào lịch sử. Và suốt chiều dài nửa thế kỉ, những xác người vẫn còn lẩn khuất đâu đó giữa lòng đất mẹ oan khiên!
Cuộc chiến Mậu Thân 1968 đã đi vào văn chương như một vết đau khôn nguôi, những tác phẩm văn chương như Dải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, hồi ký Không Biên Giới của Nguyễn Thị Thanh Sung, Bài Ca Viết Cho Những Xác Người và hát Trên Những Xác Người của Trịnh Công Sơn, Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy của Trầm Tử Thiêng, Chuyện Một Đêm của Anh Bằng, Dáng Đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân…
Họ không lên án hay gì cả nhưng các tác phẩm này gây xúc động, bởi vì các tác phẩm này đánh đúng vào thời điểm đó, – Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca
Có thể nói số lượng tác phẩm văn chương cả hai phía Nam và Bắc vĩ tuyến 17 viết về chiến trận Mậu Thân 1968 không hề nhỏ, trong đó, có một số tác phẩm của các nghệ sĩ miền Nam Cộng Hòa đã thành bất hủ, sự hiện hữu của tác phẩm như một chứng tích tâm hồn về một cuộc binh biến đau thương. Và nỗi đau này đã vượt thời gian, thấm đẫm tâm hồn những thế hệ sau.
Nhắc về tác phẩm văn chương trong cuộc binh biến Mậu Thân 1968, nhạc sĩ Đynh Trầm Ca, người đoạt giải Kim Khánh những năm đầu thập niên 1960 với ca khúc Ru Con Tình Cũ, chia sẻ: “Mậu Thân, sau cái thảm họa đó thì những tác phẩm nó ra đời và gây sự xúc động lớn, như Dải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, như âm nhạc thì có Trầm Tử Thiêng – chuyện một chiếc cầu đã gãy… Họ không lên án hay gì cả nhưng các tác phẩm này gây xúc động, bởi vì các tác phẩm này đánh đúng vào thời điểm đó, cái thật của cuộc chiến đó. Sau Mậu Thân thì các tác phẩm văn học miền Nam xoay quanh cuộc chiến này như một sự tưởng niệm…”.
Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca chia sẻ thêm là hiện tại, trí nhớ của ông không còn được minh mẫn như trước đây vài năm bởi chứng tia biến não. Nhưng những cảm xúc, những nỗi đau mất mát trong chiến rtanh thì không bao giờ nguôi trong tâm hồn một nghệ sĩ. Nhắc về chiến tranh, giọng ông trở nên xúc động bồi hồi, ông nhắc tên những tác phẩm văn chương như đang gọi tên những người bạn thiết đã lâu ngày không gặp.
Có thể nói rằng tác phẩm viết về chiến cuộc Mậu Thân 1968 gồm nhiều thể loại, nhưng có hai góc nhìn riêng biệt, góc nhìn của các nghệ sĩ phiá Nam vĩ tuyến 17 thiên về nỗi đau, nỗi mất mát, xuyên suốt tác phẩm văn chương, thi ca của miền Nam Việt Nam là nỗi đau, cái nhìn nhân ái và những trăn trở nhân sinh về kiếp người, về chiến tranh cũng như những di họa của nó.
Ngược lại, các tác phẩm văn chương nghệ thuật của các nghệ sĩ Bắc vĩ tuyến 17 mang đậm tính chất anh hùng ca, mỗi ca từ, câu văn, cú pháp trong mỗi tác phẩm như những phát súng xung trận, nhuốm màu khói lửa, tiếng hô xung phong và hò reo chiến thắng.
Nhà văn, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, người vừa từ bỏ chức danh Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, nhận xét: “Cuộc chiến Mậu Thân hình như chỉ có một cuộc chiến tiêu biểu của ông Xuân Thiều, đại tá quân đội. Ngay cả Đất Trắng của Nguyễn Trọng Oánh, viết những năm 1978, 1979 cuốn này nói về một cấp chỉ huy,cấp chính ủy của phía Bắc chịu không nổi gian khổ đã ra đầu hàng phía Nam…Có thể đây là lần đầu tiên văn học miền Bắc nói đến chuyện đầu hàng trong chiến tranh…”.
Nhưng có một thực tế là cho dù những tác phẩm của các nghệ sĩ phía Bắc vĩ tuyến 17 cho dù mang tính xung trận, mang hơi hướm tuyên truyền nhưng vẫn không giấu được giọt nước mắt trong sâu thẳm tâm hồn của người nghệ sĩ. Cuộc chiến tử sinh, một chiến cuộc đã lấy đi quá nhiều sinh mạng đồng đội của họ, cho dù đứng trên biên kiến nào thì nỗi đau, nỗi mất mát vẫn là điều không thể giấu được.
Nếu như nói về chiến tranh, nói về Mậu Thân thì mình đọc những tác phẩm văn học miền Nam. – Nhà thơ Đỗ Trung Quân
Điều này trở nên rõ ràng hơn trong tác phẩm Nỗi Buồn Chiến Tranh của nhà văn Bảo Ninh. Bảo Ninh không viết về cuộc chiến Mậu Thân 1968, ông viết về nỗi đau chung của chiến tranh, trong đó có cả bóng dáng của chiến dịch Mậu Thân và chiến dịch Tổng tiến công mùa Xuân 1975. Với ông, chiến tranh là một nỗi buồn, và nỗi buồn này đeo đăng suốt một thế hệ, nhiều thế hệ mà chiến tranh đã để lại vết tích trên thân thể lịch sử của nó.
Cuộc chiến trong mắt Bảo Ninh là một ván bài mà ở đó, tất cả đều thua, không hề có người thắng cuộc, kẻ thắng cuộc ẩn danh duy nhất mà ông tiết lộ có lẽ là hố chôn bộ bài cũng như nỗi ám thị thắng thua trên mặt quân bài. Và chiến tranh đã lấy đi cái đẹp, lấy đi tuổi xuân, lấy đi tính nhân văn của con người một cách không thương tiếc.
Với nhà văn từng sống, trải nghiệm tuổi thơ chiến tranh ở Sài Gòn như nhà thơ Đỗ Trung Quân, ông chia sẻ: “Cho mình xem thử tác phẩm văn chương về Mậu Thân 1968? Mình chưa thấy! Nếu như nói về chiến tranh, nói về Mậu Thân thì mình đọc những tác phẩm văn học miền Nam, đó là những tác phẩm mô tả nỗi bi thương, nỗi mất mát của chiến tranh chứ không phải là tụng ca hay nói về chiến thắng. Mình không thấy gì ngoài nỗi mất mát…”.
Một cuộc chiến đã đi qua 50 năm, đúng nửa thế kỉ, nhưng cái chết, nỗi đau vẫn như vừa sơ sinh, tiếng khóc và trận gió oan hồn trong cuộc chiến vẫn còn phảng phất đâu đó trong gió tháng Chạp.
Nói cho cùng, chiến tranh là một thứ gì đó làm người ta mất mát quá nhiều và nó chỉ xứng đáng để hồi tưởng, để nhớ, để tưởng niệm và kính cẩn nghiêng mình với sự mất mát, với cái chết, với vết thương dân tộc. Chiến tranh hoàn toàn không xứng đáng để ngợi ca cho dù đứng trên biên kiến nào. Những hành động ngợi ca chiến tranh, ngợi ca sự mất mát không thể ngồi chung với văn minh nhân loại.
Bài viết ngắn ngủi này xin được xem như một sự tưởng tiếc, nghiêng mình kính cẩn trước các oan hồn Việt Nam đã ngã xuống và vĩnh viễn im hơi lặng tiếng trong chiến cuộc Mậu Thân 1968. Bài viết như một nén tâm nhang của thế hệ hậu chiến tranh viết về mối cảm hoài trong một buổi chiều cuối năm, nghĩ về quê hương, đất nước!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
Những ca khúc về Mậu Thân 68:
Tính nhân bản của người miền Nam
Bên cạnh những nhân chứng còn sống, bên cạnh những lời ghi chép để lại trong lịch sử vẫn chưa đầy đủ, thì âm nhạc là nơi lưu giữ, là 1 thực thể hiển hiện rõ nhất sự thật về biến cố Mậu Thân 1968.
Nhìn ở 1 góc độ nào đó, 5 ca khúc: “Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy”; “Những con đường trắng” của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng; “Hát Trên Những Xác Người” hay còn gọi “Bài Ca Cho Những Xác Người” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn; Cơn Mê Chiều của nhạc sĩ Minh Khôi là 5 trang sử nhạc ghi lại một cuộc thảm sát dân tộc chưa bao giờ nguôi ngoai trong lòng người dân Việt Nam.
Thế nhưng, phải đến gần 10 năm sau, những ca khúc ấy mới có cơ hội thực hiện vai trò lịch sử của nó. Vì sao?
Không có oán hận
Trong những tư liệu nói về Mậu Thân, người ta hay dùng những danh từ như thảm sát, biến cố, thảm kịch, tang tóc…để chuyển tải tính chất của 1 cuộc chiến.
Thậm chí, người ta còn hình tượng hoá sự kiện này như 1 cuộc tương tàn giữa anh em trong 1 nhà. Có người đã viết về Mậu Thân thế này:
“Trong vụ thảm sát Mậu Thân, ngoài nỗi đau đớn cho dân tộc trong một cuộc nồi da xáo thịt tàn độc, còn có một nỗi đau lớn hơn, là vai trò một số trí thức VN trong cuộc thảm sát này.”
Nhưng âm nhạc thì không.
“Chiều nay không có em, mưa non cao về dưới ngàn
Đàn con nay lớn khôn mang gươm đao vào xóm làng
Chiều nay không có em, xác phơi trên mái lầu
Một mình nghe buốt đau, xuôi Nam Giao tìm bóng mình
Đường nội thành đền xưa ai tàn phá ?
Cầu Tràng Tiền bạc màu loang giòng máu
Hương Giang ơi thuyền neo bến không người qua đò
Một lần thôi nhưng còn mãi …
Và chiều nay không có em, đường phố cũ chân mềm”
Trong vụ thảm sát Mậu Thân, ngoài nỗi đau đớn cho dân tộc trong một cuộc nồi da xáo thịt tàn độc, còn có một nỗi đau lớn hơn, là vai trò một số trí thức VN trong cuộc thảm sát này. – Một độc giả
Cơn mê chiều của nhạc sĩ Nguyễn Minh Khôi có lẽ là chứng cứ trọn vẹn nhất về sự mất mát của Huế. Thêm vào đó là tiếng hát ma mị của danh ca Thái Thanh, thì Cơn mê chiều chính là oan hồn của hàng trăm xác người sau cuộc thảm sát ở Khe Đá Mài, thuộc xã Dương Hòa, quận Hương Thủy.
Tất cả những gì đẹp nhất, thơ mộng nhất của Huế được tác giả mang hết vào ca khúc. Không có tiếng súng. Không có tiếng thét. Không có lời ai oán. Chỉ có “Một mình nghe buốt đau, xuôi Nam Giao tìm bóng mình”
Hoặc là lời trách buồn bã của người mẹ đất thần kinh đối với đứa con của mình “nay lớn khôn mang gươm đao vào xóm làng”
Trong 1 tư liệu phân tích về ca khúc này, bút danh Hoàng Hạc có viết rằng:
“Giống như những đứa con lớn lên trong một gia đình nghèo, có bà mẹ bịnh tật, có người cha say rượu hay đánh đập con cái và một bầy em còn nhỏ dại. Thay vì khuyên răn người cha, săn sóc người mẹ, che chở cho đám em khờ, các anh lại bỏ đi, và chẳng những đã bỏ đi mà còn dắt kẻ gian về đốt phá nhà mình.”
Và đâu đó, vẫn là tính nhân bản của tầng lớp văn sĩ xưa, lấy ngọn đuốc soi sáng mong làm tan đi tội ác.
“Tôi là người trong đêm, mang ngon đuốc về nội thành
Xin là người soi đường đi xóa hết đau thương…”
“Từ tiếng trách nghẹn người anh em miền Bắc, sao nỡ cắt đứt nhịp cầu tình nghĩa, qua “Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy”; Đến đau đớn tột cùng để phải cười điên, hát dại, qua “Hát Trên Những Xác Người”, “Bài Ca Cho Những Xác Người”; Từ sự chua xót khi một thành phố thanh bình bỗng chốc hóa thành một thành phố của sự tang tóc, qua “Những Con Đường Trắng”; Đến những bước chân lê thẩn thờ mê dại, nghẹn ngào trước thảm cảnh người thân về giết người thân, qua “Cơn Mê Chiều”.
Tất cả 5 bài hát đã nói lên mọi khía cạnh của sự đau đớn mà người dân xứ Huế đã phải gánh chịu. Nhưng, hoàn toàn không có bất cứ một lời lên án, nguyền rủa hay đòi trả thù rửa hận nào.
Ngạc nhiên thay!
Ngạc nhiên để phải suy gẫm, mới thấy tính nhân bản của người dân miền Nam, của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Cao đẹp quá!”
Đó là chia sẻ của một độc giả tên Hoàng Trọng Thắng khi nói về 5 ca khúc chứng nhân lịch sử của Mậu Thân 1968.
Ngọn đồi cao mênh mông lồng lộng những xác người. Con đường thênh thang phủ đầy những đoàn người dắt díu nhau chạy trốn. Bãi Dâu lởm chởm những hố hầm chôn vùi người đã chết…
“Chiều đi lên đồi cao, hát trên những xác người. Tôi đã thấy, tôi đã thấy, trên con đường, người ta bồng bế nhau chạy trốn…”
Đứng trước khung cảnh đó, người ta có thể khóc đến điên dại mà cũng có thể cười đến hoá rồ.
Thế nhưng, bức tranh về thảm kịch của một miền đất nước và của cả một dân tộc được cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẽ lên năm 1968, ngay khi ông từ Huế về lại Sài Gòn, hoàn toàn không có sự kêu gào căm phẫn.
Có chăng, là tiếng vỗ tay, vỗ tay trong thù hận, vỗ tay cho ăn năn.
“Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người
Tôi đã thấy, tôi đã thấy,
Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em.
Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị vỗ tay hoan hô hòa bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Người vỗ tay xa dần ăn năn.”
Cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng khi khóc cho nỗi đau thương của Huế, cũng chỉ là nhắc nhớ sự ngọt ngào muôn thưở của Huế.
“Ngày xưa Huế có con đường trắng
Ơi con đường trắng
Áo trắng đơn sơ,
Áo trắng ngây thơ,
Áo trắng như mơ,
Áo trắng học trò”
Hay mượn hình ảnh sụp đổ của cây cầu Tràng Tiền 12 nhịp để nói lên nỗi đau đớn của ông.
“Tình người về giữa đêm xuân chưa dứt cuộc vui
Giặc đã qua đây gây cảnh nổi trôi.
Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài”
Không nghĩ nhiều về chiến tranh
Một vị bác sĩ hiện sinh sống ở Sài Gòn, (xin được dấu tên) nhớ lại thời gian ấy, khi ông còn là 1 cậu bé, những ca khúc đó chưa được phổ biến nhiều, đặc biệt là với người dân miền Nam.
“Cái tâm thế hồi đó rất lạ. Người ta không than khóc về chiến tranh nhiều. Xã hội đủ thanh bình, đô thị Việt Nam đủ thanh bình để người ta không nhắc đến chiến tranh.
Khoảng năm 70, 72, người ta vẫn không hát những ca khúc đó nhiều, trừ những sinh hoạt của những sinh siên tranh đấu, nhưng cũng không nhiều. Đa số là những ca khúc Du ca, Nhi đồng ca, Bình ca của Phạm Duy, người ta hát về mơ ước 1 quê hương thanh bình, thanh niên đi xây dựng quê hương.”
Khi người ta ý thức, căm hận đến tận xương tuỷ đó là tội ác. Người ta nghe lại với lòng căm phẫn. Trước đó, dân miền Nam không được giáo dục với lòng căm phẫn. Xã hội hồi xưa rất lạ. Gần như chiến tranh ít chạm đến đô thị. Dân miền Nam ít nói về chiến tranh. Người ta không bị ám ảnh lắm. – Một bác sĩ ẩn danh
Theo vị bác sĩ này, mãi cho đến sau năm 1975, thì những đau thương mất mát của Huế nói riêng và của cả dân tộc nói chung trong những ca khúc về Mậu Thân mới thực sự được trưng bày.
“Khi người ta ý thức, căm hận đến tận xương tuỷ đó là tội ác. Người ta nghe lại với lòng căm phẫn. Trước đó, dân miền Nam không được giáo dục với lòng căm phẫn. Xã hội hồi xưa rất lạ. Gần như chiến tranh ít chạm đến đô thị. Dân miền Nam ít nói về chiến tranh. Người ta không bị ám ảnh lắm.”
Cho dù chủ nghĩa hiện thực có hiện diện trong 5 ca khúc tiêu biểu về Mậu Thân, nhưng bàng bạc trong đó vẫn là sự lãng mạn, hào hoa, mưu cầu cái đẹp thanh bình của 1 tầng lớp văn sĩ xưa.
Vị bác sĩ không nêu tên trong này có nói rằng “sẽ không có ca khúc nào có thể diễn tả hết được sự kinh hoàng của nó”
“Chỉ là 1 mô tả phơn phớt thôi. Hàng ngàn hài cốt bới lên, cột chùm với nhau bằng dây thép, dây kẽm gai cột vô xương cánh tay, không có ca khúc nào tả được.”
Sứ mệnh của âm nhạc là thế. Cho dù các nhạc sĩ không chọn chủ nghĩa hiện thực để đưa vào tác phẩm thì 5 ca khúc tiêu biểu này sẽ mãi mãi là chứng nhân của lịch sử. Và thảm sát Mậu Thân 1968, dù có thêm bao nhiêu lần 50 năm nữa thì nỗi đau của người dân đất thần kinh và của cả dân tộc Việt Nam vẫn mãi còn đó mỗi khi nhắc lại.
https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/The-songs-about-mauthan-1968-02022018120947.html
Ả Rập Saudi
đình chỉ nhập cảng hải sản Việt Nam do dịch bệnh
Cơ Quan Quản Trị Thực Và Dược Phẩm Ảrập Saudi SFDA vừa tạm thời đình chỉ nhập cảng mọi sản phẩm cá, tôm và động vật dưới nước khác từ Việt Nam, do sự xuất hiện của hai chứng bệnh tại quốc gia Đông Nam Á này.
Báo mạng SeafoodSource đưa tin hôm Thứ Sáu 2 tháng 2, SFDA đã đưa ra một thông báo về những biện pháp khẩn cấp vào cuối tháng 1. Theo đó, lệnh cấm của Saudi đã có hiệu lực từ ngày 23 tháng 1, dựa trên Báo cáo về bệnh của động vật dưới nước khu vực Á Châu – Thái Bình Dương, giai đoạn tháng 4 đến tháng 6 năm 2017, của Tổ Chức Y Tế Động Vật Thế Giới.
Báo cáo này cho biết bệnh đốm trắng, và bệnh hoại tử gan tụy cấp tính đang tồn tại ở Việt Nam. SFDA đã cử một nhóm chuyên gia sang Việt Nam để quan sát các biện pháp kiểm soát do chính phủ Việt Nam áp dụng đối với các cơ sở xuất cảng cá, tôm và hải sản khác và đưa ra những đề nghị.
Theo một thông cáo hôm 1 tháng 2, Hiệp Hội Chế Biến Và Xuất Khẩu Thuỷ Sản Việt Nam VASEP cho biết, Văn phòng SPS Việt Nam thuộc Bộ Nông Nghiệp đã yêu cầu các bên liên quan trong nước hợp tác để ứng phó với vấn đề này, hầu giảm thiểu những tác động xấu từ lệnh cấm của Saudi.
Năm 2017, Việt Nam xuất cảng gần 65 triệu Mỹ kim hải sản sang thị trường Saudi, tăng 5.5% so với năm 2016. Saudi là thị trường xuất cảng cá tra lớn thứ 8 của Việt Nam.
Huy Lam / SBTN
http://www.sbtn.tv/a-rap-saudi-dinh-chi-nhap-cang-hai-san-viet-nam-do-dich-benh/
Đinh La Thăng xin giảm án,
Trịnh Xuân Thanh và Phùng Đình Thực kêu oan
Tòa án ở Hà Nội cho hay đã nhận được đơn kháng cáo của ông Đinh La Thăng, ông Trịnh Xuân Thanh cùng 10 bị cáo khác trong vụ án tại Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam PVN và Tổng Công Ty Xây Lắp Dầu Khí Việt Nam PVC.
Vụ án này có tất cả là 22 bị cáo. Hầu hết đều kháng cáo để xin giảm nhẹ hình phạt và mức bồi thường so với bản án sơ thẩm mà tòa Hà Nội đã tuyên án ngày 22 tháng 1 vừa qua.
Đơn kháng cáo của ông Đinh La Thăng cho rằng kết quả giám định thiệt hại của vụ án chưa bảo đảm căn cứ pháp lý, dẫn đến việc hội đồng xét xử đánh giá không công bằng về vai trò và trách nhiệm của ông, và đưa ra mức phạt quá nghiêm khắc.
Ông Trịnh Xuân Thanh thì kêu oan và yêu cầu xem xét lại về cả trách nhiệm hình sự lẫn dân sự của ông. Ông Thanh cho rằng, ông không tham gia vào những hành vi “cố ý làm trái quy định” hay “tham ô tài sản” như bản án sơ thẩm đã tuyên.
Ngoài ông Thanh còn có ông Phùng Đình Thực, cựu tổng giám đốc PVN, kháng cáo để kêu oan. Ông Thực cho rằng, trong quá trình xét xử vừa qua, tòa chưa hề xét riêng hành vi và trách nhiệm của từng bị cáo trong ban giám đốc PVN. Thiếu sót này dẫn đến việc đánh giá không đúng vai trò và trách nhiệm của ông trong dự án nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2. Ông Thực, một tiến sĩ khoa học về công nghệ dầu khí biển, cho rằng ông bị hàm oan.
Huy Lam / SBTN
http://www.sbtn.tv/dinh-la-thang-xin-giam-an-trinh-xuan-thanh-va-phung-dinh-thuc-keu-oan/
RSF phản đối án tù của blogger Hồ Hải
Tổ chức Phóng viên Không Biên giới (RSF) kêu gọi cộng đồng quốc tế gia tăng áp lực buộc Việt Nam chấm dứt “những vi phạm liên tục về quyền tự do thông tin,” sau khi có thêm một blogger nữa bị tuyên án tù hôm 1/2 tại thành phố Hồ Chí Minh.
Blogger Hồ Hải, tức bác sĩ Hồ Văn Hải, 54 tuổi, bị cáo buộc tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự.
Trong thông cáo ngày 2/2, RSF nói sau hơn 1 năm bị câu lưu, blogger Hồ Hải bị tuyên án bốn năm tù và hai năm quản chế trong một phiên tòa xử kín không có luật sư đại diện.
Ông Hải bị bắt vào ngày 2 tháng 11 năm 2016 vì đăng những bài bình luận về nhiều vấn đề ở Việt Nam, bao gồm những bài viết kêu gọi sự chú ý tới thảm họa ô nhiễm môi trường biển do hãng Formosa của Đài Loan gây ra.
Báo chí nhà nước nói điều tra của công an cho thấy ông Hải có 36 bài “vi phạm” một nghị định của chính phủ về quản lý, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
“Một lần nữa, một công dân đã bị trừng phạt nặng nề chỉ vì cố gắng cung cấp thông tin cho một xã hội dân sự ở một quốc gia mà tất cả các phương tiện truyền thông đều bị kiểm soát chặt chẽ,” Daniel Bastard, người đứng đầu văn phòng khu vực Châu Á-Thái Bình Dương của RSF, nói.
“Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế nhắc nhở Việt Nam, một thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, về các nghĩa vụ của họ. Chúng tôi cũng kêu gọi các đối tác thương mại của Việt Nam mở mắt chứng kiến Việt Nam đang ngăn chặn tự do thông tin ra sao, và đưa ra những kết luận thích đáng.”
Nghị viện Châu Âu đã thông qua một nghị quyết khẩn cấp vào tháng 12 năm 2017 kêu gọi chính quyền Việt Nam chấm dứt truy bức các nhà báo công dân và phóng thích tất cả các blogger bị cầm tù.
Theo thống kê của RSF, hơn 25 blogger đã bị nhà chức trách Việt Nam bỏ tù, kết tội hoặc trục xuất trong năm 2017.
Việt Nam xếp gần chót bảng xếp hạng Chỉ số Tự do Báo chí Thế giới năm 2017 của RSF, đứng thứ 175 trong số 180 quốc gia.
https://www.voatiengviet.com/a/rsf-phan-doi-an-tu-cua-blogger-ho-hai/4237066.html