Tin Việt Nam – 01/02/2017

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tin Việt Nam – 01/02/2017

Freedom House: Việt Nam vẫn chưa có tự do

Thanh Trúc, phóng viên RFA

Feedom House, một tổ chức giám sát độc lập ở Hoa Kỳ công bố phúc trình về tự do toàn cầu với 195 quốc gia trên thế giới, trong đó Việt Nam vẫn giữ nguyên vị trí một nước không có tự do và không có dấu hiệu cải thiện.

Trong số 195 quốc gia trên thế giới, 87 nước được công nhận là có tự do, 59 nước chỉ phần nào có tự do, 49 nước còn lại hoàn toàn không được tự do về nhiều mặt, trong đó Việt Nam là một.

Năm nay Việt Nam chẳng có thay đổi nào đáng kể so với năm ngoái, nhiều người đối lập vẫn bị bắt giữ, tiếng nói của các xã hội dân sự hay của những nhà hoạt động độc lập bị dập tắt.
– Bà Sarah Repucci

Đó là phần mở đầu phúc trình lần thứ 11 về tự do toàn cầu 2017 của  Freedom House, tổ chức chuyên theo dõi và đánh giá mức độ tự do dân chủ của người dân tại từng quốc gia thuộc từng khu vực trên thế giới.

Trong phúc trình về tự do toàn cầu 2017, Freedom House sử dụng sơ đồ màu xanh lá cho những nước thực sự có tự do, màu vàng dành cho những nước phần nào có tự do, màu tím là những nước không có tự do. Năm nay, Việt Nam vẫn nằm trong khung màu tím.

Bà Sarah Repucci, giám đốc chuyên trách xuất bản toàn cầu của Freedom House, nói rằng tổ chức tiếp tục đặt Việt Nam vào tư thế một quốc gia thiếu tự do:

Chúng tôi nhận thấy năm nay Việt Nam chẳng có thay đổi nào đáng kể so với năm ngoái, nhiều người đối lập vẫn bị bắt giữ, tiếng nói của các xã hội dân sự hay của những nhà hoạt động độc lập bị dập tắt.

Đã có lúc chúng tôi cảm thấy phần khởi thấy một vài cá nhân hoặc thành viên các tổ chức dân sự độc lập  ở Việt Nam gọi là được phép tự ra ứng cử vào quốc hội. Đáng tiếc là chưa đủ  để có thể tin rằng đó là sự thay đổi tích cực và đó là Việt Nam muốn chấp nhận có sự đối lập về chính trị.

Theo đánh giá của Freedom House trong phúc trình về tự do toàn cầu 2017, 3 lãnh vực quan trọng nhất mà Việt Nam thiếu hẳn là tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin, tự do mạng. Sơ đổ về tự do toàn cầu của Freedom House năm 2017  cho thấy trong số 39 quốc gia thuộc khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Việt Nam ở nhóm 20% những nước đang theo đuổi chính sách kiểm soát và chi phối mọi quyền tự do căn bản của công dân.  Bà Sarah Repucci:

Freedom House chưa bao giờ nhận được sự phản hồi từ phía Việt Nam, đối với những phúc trình thường niên mà tổ chức thực hiện hàng năm. 

– Bà Sarah Repucci

Freedom House chưa bao giờ nhận được sự phản hồi từ phía Việt Nam, đối với những phúc trình thường niên mà tổ chức thực hiện hàng năm. Có vẻ như chính phủ Việt Nam không thực sự quan tâm một cách nghiêm túc đến những báo cáo như thế này và cũng không muốn cải thiện để trở thành một thể chế thông thoáng hơn.

Những điểm chính cần nhấn mạnh là qua đại hội đảng lần thứ XII cho đến bầu cử quốc hội thì rõ ràng Việt Nam đã và vẫn muốn giữ nguyên trạng một nhà nước toàn trị, người dân không được thông báo trước điều gì và cũng không có cơ hội được tham gia vào những sinh hoạt chính trị vốn đã rất giới hạn.

Điểm thứ nhì là đã có những cuộc biểu tình lớn ở Việt Nam hồi năm ngoái, chứng tỏ người dân mong muốn nói ra những suy nghĩ của họ và mong muốn được quyền tự do bày tỏ những suy nghĩ đó.

Việt Nam thường tuyên bố mình là một quốc gia tự do, dân chủ nhưng để trở thành một nước dân chủ đích thực thì  Việt Nam phải tôn trọng và thực thi quyền tự do bày tỏ chính kiến, tự do truy cập mạng để trao đổi tin tức, tự do báo chí để người dân biết những điều gì đang xảy ra trên đất nước của mìn. Đó là  kết luận của Freedom House.

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vn-remained-not-a-free-country-b-freedom-house-02012017115527.html

 

Thế giới và Việt Nam sau TPP

Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA

Sau khi nhậm chức hôm 20, trong ngày làm việc đầu tiên hôm 23 tháng 1, Tổng thống Donald Trump đã thi hành quyết định mà ông chủ trương từ khi còn tranh cử, đó là đơn phương triệt thoái khỏi khuôn khổ đàm phán của Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là TPP và chỉ thị cho các cơ quan hữu trách tiến hành đàm phán với từng đối tác thương mại theo thể thức song phương.

Mỹ rút khỏi TPP

Thanh Trúc: Ban Việt ngữ xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa trong chương trình phát thanh đầu tiên của Diễn đàn Kinh tế vào năm Đinh Dậu. Ngay sau khi nhậm chức thì Tổng thống Donald Trump quyết định ra khỏi Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương mà Hoa Kỳ đã ký kết với 11 quốc gia trên vành cung Thái Bình Dương, thường được gọi tắt là TPP. Quyết định ấy không gây ngạc nhiên cho các nước, nhưng thưa ông, hậu quả sẽ là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Như mọi khi, tôi xin được trình bày về bối cảnh gần xa dẫn đến biến cố này trước khi chúng ta tìm hiểu về hậu quả cho các nước. Tổng thống Hoa Kỳ có quyền lấy những quyết định cho bộ máy hành pháp qua các sắc lệnh gọi là “executive orders”; song song ông cũng cho các cơ quan hữu trách biết chiều hướng thi hành chính sách qua các chỉ thị, gọi là “bị vong lục” hay memorandum, trong ý nghĩa là “cho khỏi quên”.

Trong ngày làm việc đầu tiên, hôm 23, Tổng thống Donald Trump ban hành chỉ thị về chính sách đàm phán thương mại của chính quyền mới, là thứ nhất, vì quyền lợi trên hết của người dân Mỹ, thứ hai là sẽ đàm phán với từng nước theo thể thức song phương. Từ nguyên lý ấy, ông ra lệnh cho Đại sứ Thương mại Hoa Kỳ triệt thoái khỏi khuôn khổ thương nghị với các nước đã ký kết Hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương TPP và bắt đầu dàn xếp đàm phán song phương với từng nước để phát huy công nghiệp, bảo vệ công nhân và gia tăng lương bổng cho dân Mỹ.

Thanh Trúc: Đấy là bối cảnh gần của việc Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp ước TPP, nhưng qua những gì ông vừa trình bày thì dường như người ta còn thấy ra một điểm mới là việc đàm phán song phương, thưa ông có phải như vậy không?

Sau khi TPP được ký kết thì giới dân cử Hoa Kỳ trong Quốc hội mới thấy nội dung quá rắc rối nên đa số bên đảng Dân Chủ bác bỏ và không ít dân biểu nghị sĩ Cộng Hòa cũng không đồng ý.
– Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Vì những lý do sau đây, tôi sợ nhiều người hiểu sai quyết định này mà nói là vị Tổng thống thứ 45 của Mỹ đã “giết chết” một hiệp ước. Thứ nhất, TPP hoàn thành việc đàm phán sau bảy năm thương thuyết giữa 12 quốc gia vào ngày năm Tháng 10 năm 2015 rồi được đại diện các nước ký kết ngày bốn Tháng Hai năm 2016. Sau đó, theo quy định thì Quốc hội và các cơ quan hữu trách của từng nước phải nghiên cứu toàn bộ văn kiện phức tạp ấy để đề nghị thay đổi nếu thấy cần thiết, trước khi chuẩn bị cơ sở pháp lý cho việc áp dụng, và sau cùng mới phê chuẩn. Khi ngần ấy quốc gia đã thương nghị lại rồi phê chuẩn văn kiện có điều chỉnh thì TPP với thật sự thành hình.

Sau khi TPP được ký kết thì giới dân cử Hoa Kỳ trong Quốc hội khóa 114 mới thấy nội dung quá toàn diện và rắc rối của TPP nên đa số bên đảng Dân Chủ bác bỏ và không ít dân biểu nghị sĩ Cộng Hòa cũng không đồng ý. Các ứng viên tranh cử Tổng thống là ông Donald Trump bên đảng Cộng Hòa và bà Hillary Clinton cũng ông Bernie Sanders bên đảng Dân Chủ cũng chống, dù bà Clinton đã từng cổ võ Hiệp ước này khi làm Ngoại trưởng cho Tổng thống Barack Obama. Chính là vì thiếu hậu thuẫn nên Quốc hội Mỹ không nghiên cứu và phê chuẩn như Tổng thống Obama khẩn khoản yêu cầu, và với Hoa Kỳ thì Hiệp ước TPP coi như đã chết trong trứng nước. Tổng thống Trump chỉ làm đúng chủ trương khi tranh cử, nhưng xác nhận thêm giải pháp thay thế là việc đàm phán song phương.

Hậu quả ra sao?

Thanh Trúc: Nhờ ông nhắc lại bối cảnh, thính giả của chúng ta hiểu ra những rắc rối của chính trường Hoa Kỳ liên quan đến một Hiệp ước giữa 12 nước, trong khi đó người ta cũng chú ý đến việc Quốc hội Nhật Bản đã phê chuẩn TPP mà phía Việt Nam thì vẫn chưa. Thưa ông Nghĩa, khi hiểu rõ sự thể, ta thấy được một yếu tố mới là chiều hướng đàm phán song phương của Chính quyền Trump như giải pháp thay thế. Từ đó, ta có thể kết luận thế nào về hậu quả?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu muốn nhìn ra hậu quả trong tương lai thì ta nên ngược về quá khứ và đây là bối cảnh xa mà chúng ta cần nhớ khi Tổng thống Hoa Kỳ nói đến ba mục tiêu của việc đàm phán thương mại theo khuôn khổ song phương là khuếch trương kỹ nghệ, bảo vệ công nhân và nâng cao lương bổng.

Nhìn trong bối cảnh xa thì người ta thấy được hai ba chuyện. Thứ nhất là sự thất bại của khuôn khổ hợp tác thương mại toàn cầu là Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, khi vòng đàm phán Doha do Chính quyền của Tổng thống George W. Bush đề nghị với WTO từ Tháng 10 năm 2001 mà vẫn bế tắc. Thứ hai là cùng với nỗ lực toàn cầu của một tổ chức có 164 hội viên là WTO thì các nước cũng tiến hành hợp tác cấp vùng, trong từng khu vực.

Thí dụ như Hiệp ước TPP Xuyên Thái Bình Dương và Hiệp ước Xuyên Đại Tây Dương gọi tắt là TTIP giữa Hoa Kỳ và 28 quốc gia thành viên của Liên hiệp Âu châu hay Hiệp ước CETA giữa Liên Âu và Canada.

Các hiệp ước cấp vùng ấy cũng thất bại, người ta chỉ nói đến TPP và Mỹ mà quên rằng TTIP hay CETA đều lâm vào bế tắc, lần này do sự chống đối của nhiều nước Âu Châu. Điển hình còn rõ hơn là Hiệp ước Tự do Thương mại Bắc Mỹ NAFTA giữa Hoa Kỳ, Canada và Mexico đã được ba nước áp dụng từ năm 1994 mà nay đang lâm khủng hoảng.

Theo hướng đa phương đó, sáng kiến thành lập một khu vực tự do mậu dịch giữa 21 quốc gia trên vành cung Thái Bình Dương gọi là FTAAP được Úc đề xướng từ năm 1989 nay vẫn chưa nhúc nhích. Thứ ba, ngoài nội dung trao đổi tự do về thương mại và đầu tư, ta còn thấy một tham vọng khác  đó là “hợp tác toàn diện”, với sự đồng thuận về tiêu chuẩn cao hơn trong các lĩnh vực môi sinh, xã hội, công đoàn, v.v….

Chính là yêu cầu toàn diện ấy mới khiến Hiệp ước TPP là văn kiện quá phức tạp với nhiều đòi hỏi thay đổi trong từng nước và vi phạm chủ quyền quốc gia nên mới gây phản ứng chống đối. Theo chiều hướng ấy, dự án hợp tác toàn diện do Trung Quốc cố thúc đẩy từ năm 2014 với 10 quốc gia của Hiệp hội ASEAN và năm nước Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Độ, Úc và New Zealand đã qua 15 vòng đàm phán mà chưa có kết quả. Nếu nhìn vào bối cảnh trường kỳ thì việc TPP thất bại không có nghĩa là Hiệp ước Toàn diện và Cấp vùng RCEP sẽ thành công, nhất là khi Bắc Kinh lại muốn đẩy Hoa Kỳ ra ngoài sáng kiến này.

Song phương hay đa phương?

Người dân biểu tình chống hiệp ước CETA và TTIP tại trung tâm Madrid vào ngày 21 tháng một năm 2017. AFP photo

Thanh Trúc: Thưa ông Nghĩa, khi nhìn sự kiện từ giác độ mở rộng như vậy, người ta thấy được vài yếu tố sau đây: từ khuôn khổ hợp tác toàn cầu như với tổ chức WTO, các nước cũng có nỗ lực hợp tác đa phương trong phạm vi địa dư của từng khu vực và từ quy chế tự do mậu dịch, các nước còn có tham vọng hợp tác toàn diện với những yêu cầu thay đổi lớn hơn. Nhưng nói chung thì dường như các nỗ lực ấy đều gặp trở ngại, thậm chí thất bại. Phải chăng vì vậy ta mới thấy một chiều hướng mới là tìm sự thỏa thuận song phương giữa hai nước với nhau?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ là vậy. Vì dư luận quá chú ý tới Chính quyền Donald Trump, người ta cứ cho là tất cả đều do Hoa Kỳ mà ra nên chẳng thấy thất bại ở nhiều nơi khác như  tại Âu Châu và điển hình không kém là việc Vương Quốc Anh quyết định ra khỏi Liên Âu nay đang chuẩn bị thương thuyết lại với Âu Châu và với Hoa Kỳ về khuôn khổ hợp tác kinh tế. Chúng ta chứng kiến một chuyển động lớn là trào lưu hợp tác toàn cầu đang bị đẩy lui và giải pháp tạm thay thế là các hiệp ước song phương.

Chuyện này xảy ra trong 80 năm liền, từ 1860 cho tới Thế chiến II. Sau Thế chiến II, ta mới có các định chế quốc tế trong một trật tự mới làm nền tảng của hợp tác kinh tế toàn cầu. Trật tự ấy đang rã và thế giới lui về giải pháp song phương mà Hiệp ước TPP và lập trường của Hoa Kỳ chỉ là hậu quả, không là nguyên nhân. Khi ấy, ta nên tự hỏi là các nước còn có lợi gì chăng, trong khuôn khổ song phương ấy?

Thanh Trúc: Đây mới là câu hỏi chính vì sẽ giúp chúng ta nhìn ra yếu tố quyền lợi sau thất bại của TPP. Thưa ông, tự do giao dịch buôn bán với nhau có lợi hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng câu trả lời thuộc phạm vi kinh tế chính trị lại là câu hỏi: “lợi cho ai”?

Nếu nhìn vào bối cảnh trường kỳ thì việc TPP thất bại không có nghĩa là Hiệp ước Toàn diện và Cấp vùng RCEP sẽ thành công, nhất là khi Bắc Kinh lại muốn đẩy Hoa Kỳ ra ngoài sáng kiến này.
– Nguyễn-Xuân Nghĩa

Thời hiện đại từ 500 năm trước, thế giới gọi là tiên tiến gồm các nước Âu Châu đều ra khỏi lý luận “trọng nông” của mấy ngàn năm mà theo trường phái kinh tế “trọng thương”.

Trọng thương là coi trọng thương mại và giao dịch để tranh thủ quyền lợi quốc gia, với hàm ý kinh tế bên dưới là bán thì lời hơn mua. Người ta lầm tưởng rằng trong mua bán thì người bán giữ ưu thế theo lối “hơn bù kém” và các nước Âu Châu chinh phục quyền lợi với chế độ thực dân để giành thêm đất đai hàng hóa từ các thuộc địa.

Triết lý trọng thương hay nôm na lý tài ấy lại dẫn tới chiến tranh giữa các nước nên từ giữa thế kỷ 19 thiên hạ mới tìm đến các thỏa ước hợp tác theo tinh thần nếu được quyền giao dịch tự do thì đôi bên đều có lợi, chứ chính sách ngăn sông cấm chợ để bảo vệ quyền lợi riêng chỉ dẫn tới thất bại.

Chiều hướng ấy phát triển mạnh sau Thế chiến II với hy vọng là khi tự do giao dịch về kinh tế thì mọi người đều giàu có và các nước sẽ ít gây chiến với nhau, kết quả tiêu biểu là tổ chức WTO và Liên Âu. Nhưng ngày nay, tham vọng ấy lại dẫn đến phản ứng dội ngược là điều chúng ta vửa phân tích vì trong trao đổi, một thiểu số lại làm giàu nhanh hơn đa số còn lại. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và tổ chức sản xuất càng khiến một số thành phần xã hội không theo kịp đà tiến hóa và thấy bị thiệt thòi, như thiếu tay nghề cho lọai công việc mới, bị mất việc hay đành nhận lương thấp.

Thanh Trúc: Chúng ta đi tới phần kết luận về hậu quả của TPP là Việt Nam nên làm những gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thứ nhất, TPP vắng mặt nền kinh tế có sức tiêu thụ và nhập khẩu cao nhất là Hoa Kỳ nhưng vẫn còn 11 thành viên kia, kể cả Nhật Bản hay Úc. Đấy vẫn là cơ hội cho Việt Nam cải cách và hội nhập vào một thị trường lớn hơn, có trình độ tổ chức cao hơn. Là một nước nghèo, Việt Nam sẽ có lợi nhiều hơn các nước kia trong sân chơi mới.

Thứ hai, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ từ năm 1995, có hiệp ước thương mại song phương từ năm 2000, được quy chế tối huệ quốc một cách thường trực từ 10 năm trước và vẫn có thể khai triển nền móng thảo luận song phương với Mỹ. Nếu xúc tiến cải cách theo yêu cầu của TPP với 11 nước kia thì càng có lợi hơn khi đàm phán với Mỹ.

Trong khi ấy, nếu ngả theo hiệp ước RCEP có nội dung lý tài của Bắc Kinh thì càng khó ra khỏi tình trạng lệ thuộc quá tai hại vào kinh tế Trung Quốc. Và sau cùng, bài học từ Hoa Kỳ về hiện tượng Donald Trump là điều rất đáng cho Hà Nội và Bắc Kinh suy ngẫm: đó là sự nổi dậy của quần chúng lao động lầm than chống lại những kẻ có quyền và có tiền. Nên nghĩ đến sự lầm than còn khốc liệt hơn của đa số người dân Việt Nam trước những chuyển động khá mạnh của thế giới chung quanh.

Thanh Trúc: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tách này.

http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/post-tpp-vietnam-nxn-02012017102824.html

 

Việt Nam đứng ngoài

nhóm 50 nền kinh tế sáng tạo hàng đầu thế giới

Mặc dù ở trong cùng một khu vực Đông Nam Á với 3 quốc gia trong nhóm 50 nền kinh tế sáng tạo toàn cầu năm 2016 do hãng thông tấn tài chính Bloomberg bình chọn, Việt Nam không có mặt trong danh sách này.

Giới chuyên gia giải thích nguyên do là Việt Nam chưa thực sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng, và có dấu hiệu đi thụt lùi so với thế giới, và ngay cả so với khu vực. Các đại diện của Đông Nam Á trong 50 nền kinh tế sáng tạo toàn cầu gồm Singapore đứng thứ 6, Malaysia đứng thứ 25 và Thái Lan đứng thứ 47.

Đứng đầu danh sách của Bloomberg là Nam Hàn. Tiếp theo sau, Đức, Thụy Điển, Nhật Bản và Thụy Sỹ làm thành 5 nền kinh tế sáng tạo hàng đầu thế giới. Được biết các chỉ số đánh giá nền kinh tế sáng tạo bao gồm: nghiên cứu và phát triển, giá trị sản xuất gia tăng, sản phẩm sáng tạo, năng suất lao động, mật độ ứng dụng công nghệ, hiệu quả giáo dục, đào tạo, số lượng các bằng sáng chế, v.v.

Theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh từ Hà Nội, Việt Nam chưa thành công trong việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Nền kinh tế Việt Nam vẫn dựa vào khai thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ. Theo chuyên gia này, các yếu tố như khoa học, công nghệ, năng suất vẫn chậm cải tiến, thậm chí còn đang thụt lùi so với đà phát triển của thế giới và khu vực.

Huy Lam / SBTN

http://www.sbtn.tv/viet-nam-dung-ngoai-nhom-50-nen-kinh-te-sang-tao-hang-dau-the-gioi/

 

Giới siêu giàu ngày càng đông

– nợ công Việt Nam ngày càng lớn

Tạp chí VietNamNet Bridge- ấn bản tiếng Anh của báo mạng VietNamNet trong nước- hôm 1 tháng 2 ghi nhận hiện tượng tăng vọt về số người thuộc giới siêu giàu ở Việt Nam.

Tuy nhiên, bài báo chỉ ra rằng nhiều đại gia trong số này đã không làm giàu nhờ sản xuất và kinh doanh hợp pháp, mà dựa trên tham nhũng, trốn thuế và những hoạt động bất hợp pháp. Và trên hết, họ không làm lợi gì cho quốc gia.

VietNamNet Bridge trích dẫn các con số của tổ chức Oxfam cho hay, thu nhập của nhóm 210 người siêu giàu ở Việt Nam đủ để giúp 3.2 triệu người nghèo. Báo cáo Wealth Report 2016 cho thấy trong năm 2015, Việt Nam có 168 người siêu giàu có tài sản từ 30 triệu Mỹ kim trở lên. Giới siêu giàu ở Việt Nam được dự báo là sẽ tăng 140%, lên tới hơn 400 người trong thập niên tới.

Ông Phạm Tất Thắng, một nhà nghiên cứu cao cấp tại Bộ Công Thương Cộng Sản Việt Nam, nói rằng ở Việt Nam có ba nhóm siêu giàu. Nhóm đầu tiên làm giàu nhờ khối tài sản trên thị trường chứng khoán. Nhóm thứ hai làm giàu nhờ địa ốc. Và nhóm thứ ba trục lợi từ tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam và những nước khác. Ông Thắng ghi nhận không có nhiều người giàu lên nhờ sản xuất hàng hóa có phẩm chất cao, qua đó tạo thêm việc làm, đóng góp vào GDP hoặc tham gia vào phát triển bền vững. Nhà nghiên cứu này cũng ghi nhận mối quan hệ giữa sự tăng vọt về số người siêu giàu của Việt Nam, với sự tăng trưởng GDP chậm lại và sự gia tăng nợ công. Điều này chứng tỏ sự giàu lên của đa số “đại gia” lại làm nghèo đi đất nước. Do đó, không có chuyện “dân giàu thì nước mạnh” như tại các quốc gia phát triển khác.

Huy Lam / SBTN

http://www.sbtn.tv/gioi-sieu-giau-ngay-cang-dong-no-cong-viet-nam-ngay-cang-lon/

 

Phóng Viên Không Biên giới lên án

CSVN bắt giữ các blogger và nhà báo công dân

Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF) vừa lên án những vụ bắt bớ kiểu “phòng ngừa” đối với ba blogger và nhà báo công dân ở Việt Nam. Các vụ bắt bớ này diễn ra trước thềm năm mới âm lịch, và sau những vụ sách nhiễu kéo dài của nhà cầm quyền cộng sản đối với các blogger và gia đình họ.

Trong một thông cáo đưa ra hôm 31 tháng 1, tổ chức có trụ sở tại Paris, Pháp, kêu gọi nhà cầm quyền CSVN trả tự do ngay lập tức và hủy bỏ mọi cáo buộc đối với họ. Thông cáo của Phóng Viên Không Biên Giới nêu trường hợp của nhà tranh đấu Trần Thị Nga, tức blogger Thúy Nga, cũng như hai nhà báo công dân Nguyễn Văn Oai và Nguyễn Văn Hóa.

Ông Benjamin Ismael, người đứng đầu văn phòng Châu Á – Thái Bình Dương của Phóng Viên Không Biên Giới, nêu rõ rằng các blogger và nhà báo công dân này đã không làm gì hơn là tường thuật các cuộc biểu tình, và bày tỏ quan điểm của mình trước những vụ vi phạm quyền của các công dân khác. Ông Ismael cho rằng thật kinh khủng khi thấy việc bảo vệ quyền lợi chung và nhân quyền bị đóng dấu ấn “tuyên truyền chống nhà nước” ở Việt Nam. Phóng Viên Không Biên Giới yêu cầu cộng đồng quốc tế cùng lên tiếng đòi trả tự do lập tức cho những người bị bắt.

Việt Nam hiện đứng thứ 175 trong 180 quốc gia, tức gần chót bảng sắp hạng Chỉ Số Tự Do Báo Chí Thế Giới năm 2016 của tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới.

Huy Lam / SBT

http://www.sbtn.tv/phong-vien-khong-bien-gioi-len-an-csvn-bat-giu-cac-blogger-va-nha-bao-cong-dan/