Tin Việt Nam – 01/01/2018
Phan Văn Anh Vũ ‘bị giữ’ ở Singapore
Phan Văn Anh Vũ ‘xin tỵ nạn ở châu Âu’
VN 2017: Từ ông Vũ Nhôm đến những ‘Bộ tứ quyền lực’
Đà Nẵng: ông Phan Văn Anh Vũ ‘bị khám nhà’
Phan Văn Anh Vũ, doanh nhân đang bị công an Việt Nam truy nã, đã bị tạm giữ ở Singapore.
Trước đó hôm 21/12, Bộ Công an Việt Nam phát lệnh truy nã ông Vũ, một doanh nhân ở Đà Nẵng, bị cho là “không biết đang ở đâu” sau khi có việc khởi tố ông về hành vi “cố ý làm lộ tài liệu bí mật nhà nước”.
Một luật sư được cho là đại diện cho ông Anh Vũ đã liên lạc với văn phòng BBC tại Singapore sau khi BBC liên lạc để kiểm chứng tin tức.
Luật sư Remy Choo nói Cục quản lý xuất nhập cảnh Singapore giữ thân chủ của ông vì hộ chiếu của ông [Anh Vũ] đã bị nhà chức trách Việt Nam hủy khi ông bỏ trốn.
Luật sư này cho biết gia đình của ông Anh Vũ ‘cũng đang ở Singapore và lo lắng về số phận của họ’.
Vào hôm 31/12/2017 BBC được cho hay một luật sư khác cũng là người Singapore đã yêu cầu giới chức cho tiếp xúc với ông Anh Vũ.
Tuy nhiên, khi BBC liên lạc, luật sư này xin từ chối bình luận, cũng không xác nhận tin đồn.
Bàn tròn thứ Năm: Điểm sự kiện toàn năm 2017
TBT Trọng và hai năm ‘chỉnh đốn Đảng’
Blogger Bùi Thanh Hiếu hôm 31/12/2017 đăng bài trên mạng nói rằng ông Phan Văn Anh Vũ đang bị giới chức Singapore tạm giữ.
Bùi Thanh Hiếu (còn được biết với bút danh Người Buôn Gió, hiện được cho cư trú tại Đức) nói với BBC rằng ông Vũ sang Singapore ngày 21/12, rồi định xuất cảnh sang Malaysia ngày 28/12, nhưng bị Singapore chặn và tạm giữ kể từ hôm đó.
Theo nguồn này, hộ chiếu Việt Nam của ông Vũ đã bị phía Việt Nam hủy, đồng nghĩa việc ông không thể dùng giấy tờ này để ra khỏi Singapore.
“Khi ra, Singapore người ta bảo hộ chiếu này bị hủy rồi, nên ông bị giữ lại, chờ họ làm việc với Việt Nam,” ông Hiếu nói.
Việc tạm giữ được cho là diễn ra khoảng lúc 11 giờ sáng ngày 28/12.
Ông Bùi Thanh Hiếu nói với BBC rằng ông có thông tin vì “được gia đình ông Vũ liên lạc” sau việc tạm giữ.
BBC không liên lạc được với gia đình ông Vũ để xác nhận.
Cục quản lý Xuất nhập cảnh Singapore (ICA), quản lý việc nhập cảnh và đăng ký giấy tờ ở Singapore, chưa hồi âm thư đề nghị bình luận của BBC.
Cho đến lúc này, không có tường thuật nào trên truyền thông chính thống tại Việt Nam về tin đồn ông Vũ bị tạm giữ ở Singapore.
Cơ quan An ninh điều tra (Bộ Công an) ra Quyết định truy nã ông Anh Vũ sau quyết định khởi tố bị can về hành vi “Cố ý làm lộ tài liệu bí mật nhà nước”.
Kể từ khi có lệnh truy nã, ông Anh Vũ, còn được biết với biệt danh Vũ ‘nhôm’, không đưa ra tuyên bố nào với công luận.
Hôm 29/12 trên trang Vietnam News, là tờ báo tiếng Anh quốc gia của Thông tấn xã Việt Nam, có bài nói “Chủ nghĩa tư bản thân hữu phá vỡ ước vọng xã hội chủ nghĩa”.
Bài này nhắc các cáo buộc nhắm vào ông Phan Văn Anh Vũ (sinh năm 1975), gọi vụ này là “lời cảnh tỉnh” cho vấn đề mà báo gọi là “chủ nghĩa tư bản thân hữu”.
Dẫn độ trong ASEAN
Truyền thông nhà nước Việt Nam đưa tin trong chuyến thăm Singapore tháng 11/2017, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam ‘đề nghị việc sớm đàm phán, tiến tới ký kết các Hiệp định dẫn độ song phương’.
Trang web Bộ Tư pháp Việt Nam hồi tháng 5/2017 nói các nước thành viên ASEAN đã phê chuẩn Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề hình sự và Việt Nam mong muốn có cơ sở pháp lý để thực hiện dẫn độ giữa các nước ASEAN với hình thức song phương hoặc đa phương.
Bài báo mô tả việc xây dựng Hiệp định mẫu song phương ASEAN về hợp tác trong lĩnh vực dẫn độ là vấn đề phức tạp nên mỗi nước sẽ có quy định pháp luật khác nhau và các phương thức áp dụng cũng khác nhau.
Việt Nam vào thời điểm đó nói đã ký Hiệp định dẫn độ với Campuchia và Indonesia; chuẩn bị đàm phán Hiệp định về dẫn độ với Lào và đang trao đổi với Thái Lan về chủ trương đàm phán Hiệp định song phương về dẫn độ.
Hiến chương ASEAN qui định về các nguyên tắc cơ bản bao gồm việc “không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”.
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-42531422
Phan Văn Anh Vũ ‘xin đi châu Âu tỵ nạn’
Luật sư Remy Choo nói với BBC đơn xin tỵ nạn của thân chủ của mình ‘đã được nộp cho một nước ở châu Âu’ và đang ‘trong quá trình xét duyệt’.
Trả lời BBC tiếng Việt qua điện thoại vào chiều hôm thứ Hai 01/01, luật sư Remy Choo từ Singapore cũng nói về khả năng cảnh sát phải đưa ông Anh Vũ trình diện thẩm phán nếu quá thời hạn tạm giam.
Phan Văn Anh Vũ ‘bị giữ’ ở Singapore?
Đà Nẵng: ông Phan Văn Anh Vũ ‘bị khám nhà’
BBC: Cuộc gặp của ông với gia đình ông Anh Vũ có nội dung gì? Gia đình ông Anh Vũ trông đợi gì?
Tôi chỉ có thể khẳng định tôi đã nói chuyện [gián tiếp] với gia đình ông Anh Vũ. Gia đình ông ấy có nguyện vọng rằng ông Anh Vũ được tự do đi lại. Gia đình ông ấy biết rằng trước đây ông ấy đã đi lại với các giấy tờ mà hiện thời ông ấy đang giữ mà không gặp phải vấn đề gì.
BBC: Ông Anh Vũ bị bắt giữ khi nào và việc tạm giữ này kéo dài tối đa bao lâu theo luật Singapore?
Tôi có thể khẳng định lại thông tin tôi đã cung cấp cho BBC và đã đăng tải trên BBC Tiếng Việt rằng Cục quản lý xuất nhập cảnh Singapore tạm giữ ông Vũ vào khoảng 11 giờ sáng ngày 28/12/2017. Ông ấy chỉ bị tạm giữ tối đa 48 tiếng. Nếu cảnh sát muốn giam giữ ông ấy lâu hơn 48 tiếng họ cần đưa ông ấy trình diện trước thẩm phán.
Cho đến thời điểm hiện tại, tôi chỉ có thể nói rằng đơn xin tỵ nạn của ông Vũ đã được nộp cho một nước ở châu Âu và đang trong quá trình xét duyệt. Cũng cần phải nói rằng tôi chưa thể tiếp cận được [trực tiếp] với ông Vũ cho đến thời điểm này.
BBC: Ông có biết những vụ việc tương tự nào trong quá khứ khi Singapore cho dẫn độ người về Việt Nam?
Cho đến thời điểm hiện tại tôi không thể nói có trường hợp nào như vậy. Tôi đang cố gắng tìm hiểu xem lý do tạm giữ ông Anh Vũ là gì? Hiện giờ tôi còn chưa rõ vì sao ông ấy bị tạm giữ và liệu ông ấy có khả năng bị dẫn độ về nước hay không.
BBC: Theo ông có khả năng một phiên tòa về trường hợp của ông Anh Vũ sẽ diễn ra tại Singapore hay không?
Tôi chỉ có thể biết được việc này chừng nào tôi được tiếp xúc với ông Vũ. Hiện nay quá sớm đối với tôi để bình luận về việc này.
Việc tiếp theo chúng tôi hy vọng có thể làm được là nói chuyện với ông Anh Vũ để tìm hiểu xem vì sao ông ấy bị tạm giam. Đến nay cái mà gia đình ông ấy hiểu là giấy tờ đi lại của ông ấy chẳng hề có vấn đề gì cả và do đó ông ấy cần được tự do đi tới bất cứ đâu ông ấy muốn.
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-42534475
Việt Nam: Luật sư nói gì về ‘quyền im lặng’ có hiệu lực
Đề cập về việc Việt Nam lần đầu tiên công nhận quyền im lặng, một luật sư nói với BBC: “Cơ quan điều tra trước nay vẫn quen “múa gậy vườn hoang” thì nay sẽ phải làm việc với cách thức tích cực hơn.”
Từ ngày 1/1/2018, Bộ luật Tố tụng Hình sự tu chính chính thức có hiệu lực pháp luật. Theo đó, “quyền im lặng” của người bị bắt giữ (tương tự như quyền Miranda của Hoa Kỳ) lần đầu tiên được công nhận tại Việt Nam.
Luật hình sự VN mới ‘có nhiều tiến bộ’
Luật sư và nền tư pháp cùng số phận hẩm hiu?
‘Bước lùi lớn trong lịch sử luật pháp VN?’
Phương Nga được tại ngoại sau hơn 2 năm ‘tạm giam’
Quyền im lặng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam không được quy định thành một điều khoản riêng biệt mà nằm rải rác ở nhiều điều khoản trong bộ luật, đồng thời, cũng không minh thị mà được điển chế với văn thức như sau : “Có quyền… Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Cụ thể định liệu ở các Điều 58, 59, 60 và 61 đối với người bị bắt giữ.
Hôm 1/1, trả lời BBC từ TP Hồ Chí Minh, Luật sư Đặng Đình Mạnh, Trưởng văn phòng luật mang tên ông, nhận định: “Theo các điều luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2018, sự khai trình được luật quy định là một quyền, nên người bị bắt giữ có thể quyết định thực hiện quyền của mình hay không. Nếu họ không khai trình thì tự thân điều đó có giá trị như quyền im lặng.”
Những người hoạt động đấu tranh đều đã nhận thức rất rõ về quyền im lặng và nhiều người trong số họ đã áp dụng quyền im lặng từ trước khi quyền này được chính thức công nhận theo Bộ luật Tố tụng Hình sự tu chính.luật sư Đặng Đình Mạnh
“Ngoài ra, Bộ Luật Tố tụng Hình sự tu chính cũng quy định người bị bắt giữ có quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ của họ, đương nhiên bao gồm quyền im lặng.”
“Nhưng rất tiếc, luật lại không quy định hậu quả pháp lý khi có sự vi phạm trách nhiệm thông báo cho người bị bắt giữ về quyền này, kể cả sự chế tài vi phạm.”
‘Múa gậy vườn hoang’
“Cho nên, về pháp lý thì quyền im lặng này đã không được bảo đảm để thi hành nếu người bị bắt giữ không tự biết mình có quyền.”
“Ở Hoa Kỳ, như đã biết, thì đã có các án lệ điển hình khi vi phạm sự thông báo quyền im lặng cho người bị bắt giữ, mà hậu quả sau đó là tất cả những lời khai trình của họ, kể cả sự nhận tội đều bị tuyên vô giá trị, không còn là chứng cứ đủ tín lực để buộc tội họ tại tòa án.”
VN “đừng nên coi bất đồng là thù địch”
Gia đình LS Đài ‘không chấp nhận luật sư chỉ định’
LS Võ An Đôn chỉ còn ‘làm nông để mưu sinh’
‘Chưa LS nào bào chữa thành công các vụ Điều 258’
Luật sư Mạnh nói thêm: “Quyền im lặng được quy định là một dịp nâng cao vai trò của luật sư tham gia trong quá trình tố tụng, nhất là ở ngay giai đoạn điều tra ban đầu khi người bị bắt giữ im lặng để nhờ luật sự tham gia, tư vấn, bảo vệ pháp lý cho mình. Nếu thực thi tốt, quyền im lặng sẽ giúp khắc phục tình trạng oan sai do sự ép cung, dùng nhục hình…”
Trả lời câu hỏi của Ben Ngô, BBC Tiếng Việt: “Quyền im lặng sẽ đem lại những sự thay đổi nào trong các vụ nhà hoạt động bị xử theo Điều 258 hoặc Điều, 79, 88?”, Luật sư Đặng Đình Mạnh nói: “Qua theo dõi, tôi thấy những người hoạt động đấu tranh đều đã nhận thức rất rõ về quyền im lặng và nhiều người trong số họ đã áp dụng quyền im lặng từ trước khi quyền này được chính thức công nhận theo Bộ luật Tố tụng Hình sự tu chính.”
“Tuy vậy, những tội danh truy cứu đối với họ như Điều 88 về “Tuyên truyền chống nhà nước” hoặc điều 258 về “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ” đều có nội hàm quá rộng, thiếu rõ ràng và nặng về định tính mơ hồ đủ để cho các cơ quan bảo vệ pháp luật vận dụng và truy tố, cho nên, sự im lặng của họ thường ít được cơ quan truy tố công nhận giá trị thiết thực trong việc phủ nhận tội danh, mà trong nhiều trường hợp lại là cơ sở để cơ quan tài phán đánh giá là ngoan cố, thiếu thành khẩn… để tuyên một hình phạt nặng.”
“Tuy vậy, với việc lần đầu tiên công nhận quyền im lặng là điều hết sức mới mẻ trong hoạt động tố tụng tại Việt Nam.”
“Cho nên, sự thực thi ban đầu chắc chắn còn nhiều hạn chế, nhất là trong bối cảnh cơ quan điều tra trước nay vẫn quen “múa gậy vườn hoang” thì nay sẽ phải làm việc với cách thức khác mang tính tích cực hơn.”
“Chúng ta cùng hy vọng rằng với quy định mới sẽ được các bên liên quan tôn trọng, giúp tạo ra một khung cảnh ứng xử pháp lý tích cực giữa cơ quan tiến hành tố tụng với người bị bắt giữ và các luật sự tham gia bảo vệ cho thân chủ.”
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-42526563
Chính phủ kiến nghị Bộ Công an xử lý TKV
Thanh tra Chính phủ kiến nghị Bộ Công an điều tra thất thoát và thua lỗ hàng ngàn tỉ đồng tại Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV).
Tổng số các dự án thua lỗ và quyết định kinh doanh sai phạm của TKV được cho là dẫn tới thua lỗ mức tổng cộng là 15.000 tỉ đồng.
Kết luận của Thanh tra Chính phủ mô tả phát hiện hàng loạt vi phạm của ban lãnh đạo TKV và các đơn vị thành viên trong việc quản lý tài chính, đầu tư góp vốn cũng như quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên.
Một số dự án đầu tư không có hiệu quả và có khả năng mất toàn bộ vốn đầu tư bao gồm việc TKV đầu tư vào Công ty Southern Mining Co., Ltd (Campuchia) 77,678 tỷ đồng.
Báo cáo thanh tra nói TKV đầu tư 112 tỷ vào Công ty Cổ phần Crommit Cổ Định, Thanh Hóa (VTCC) và công ty này phải dừng hoạt động từ năm 2013 đến nay.
Phan Văn Anh Vũ ‘xin tỵ nạn ở châu Âu’
Sabeco bán 5 tỷ đô cổ phiếu cho Thai Beverage
“Một dự án khác là Nhà máy sản xuất FeroCrom Cacbon, TKV cũng góp 314 tỷ nhưng phải dừng hoạt động từ 2014 đến nay, dẫn tới TKV thua lỗ khoảng 113 tỷ đồng trong 3 năm 2012 – 2015’, thời báo kinh tế Việt Nam đưa tin.
TKV được cho là nợ Công ty TNHH MTV KLM Thái Nguyên hơn 24,6 tỷ đồng và dẫn đến việc công ty này phải xử lý khoản nợ phải trả cho Ngân hàng EximBank Thái Lan cả gốc và lãi hơn 13,7 triệu USD.
“TKV cũng góp hơn 870 tỷ đồng tại Sắt Thạch Khê thiếu khảo sát, tính toán kỹ và các điều kiện cần thiết dẫn đến đọng vốn trong thời gian dài, lãng phí.
“Một số khoản đầu tư ra nước ngoài dẫn đến lỗ, mất vốn hơn 380 tỷ đồng, tại các dự án Công ty liên doanh Stung Trenng, Công ty liên doanh Alumia (Campuchia), Công ty TNHH Vinacomin, dự án mỏ sắt Phu Nhuon (Lào)…” truyền thông trong nước dẫn báo cáo Thanh tra Chính phủ.
“Bộ Công an cũng cần vào cuộc làm rõ vụ đầu tư ra nước ngoài không có sự điều tra, khảo sát kỹ,” báo cáo Thanh tra Chính phủ nêu.
http://www.bbc.com/vietnamese/business-42533236
Hơn 10.000 chiến sĩ chiến đấu với dân trên mạng
và bản chất “Quân đội Nhân dân”
J.B Nguyễn Hữu Vinh
Mạo danh hay cố tình lừa đảo?
Người dân Việt Nam truyền miệng rằng: Hễ bất cứ cơ quan nào mang tên Nhân Dân thì đều là của đảng. Không những thế, hầu hết đó là những cơ quan mang tính bạo lực và công cụ thực thi bạo lực của đảng. Còn những cơ quan nắm giữ hầu bao, tiền bạc, tài sản của người dân đều mang tên nhà nước – tức là công cụ của đảng cộng sản.
Điển hình để chứng minh điều này là các cơ quan như Quân đội, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, Hội đồng… Nhân dân. Thậm chí tờ báo ghi rõ: “Cơ quan của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” – một công cụ tuyên truyền, lừa mị nhân dân nhưng là nơi phát đi những mệnh lệnh chết người nhất, quyền lực nhất, bị lãnh đạo tuyệt đối nhất của đảng cũng mang tên Nhân Dân – một sự mạo danh hết sức trơ trẽn.
Ngoài ra, từ Ngân hàng, Kho bạc, Ủy ban Chứng khoán cho đến Dầu khí, Tài nguyên khoáng sản… đều mang tên Nhà nước hoặc Quốc gia – nghĩa là tất tần tật mọi thứ tài sản, tài nguyên đều là của Đảng.
Nhiều người cho rằng, đó chỉ là sự đánh tráo khái niệm, lừa đảo và mạo danh. Thậm chí nhiều người không cho rằng điều đó là quan trọng đến mức phải đề cập nghiêm túc mà chỉ dành câu chuyện trên cho sự hài hước và như một sự khinh bỉ.
Thế nhưng, thực tế không phải vậy. Việc mạo danh không chỉ là hình thức mà nó là một thực tế đáng báo động từ lâu. Bạn hãy tưởng tượng rằng nếu ai đó mạo danh cái sổ đỏ, cái giấy tờ tài sản của bạn nhưng mang tên của họ, thì mục đích đó là gì nếu không nói rằng đó là sự ăn cướp trắng trợn? Vấn đề là nhiều khi, thực tế bị che lấp bởi nhiều vấn đề nhỏ nhặt hoặc to lớn khác không làm người ta chú ý.
Nhưng, khi có những vấn đề cụ thể, người ta nhận chân ra những điều ẩn chứa đằng sau những ngôn từ đẹp đẽ, hào nhoáng kia có mục đích gì.
Quân đội Nhân dân?
Có hai lực lượng to lớn nhất, bí mật nhất, hùng hậu nhất ở Việt Nam là Quân đội và Công an. Cả hai lực lượng đó đều được nuôi bằng tiền của dân, bằng xương máu, mồ hôi của dân để mua sắm thiết bị, súng đạn, và hò nhau bòn xương rút tủy của người dân một cách tự do bởi “bí mật quân sự”.
Cả hai lực lượng đó đều được tung hô, ca tụng bằng mỹ từ “Nhân dân”. Nhưng, lực lượng Công an với vai trò chính là bảo vệ cho đảng Cộng sản giữ nguyên chiếc ghế cai trị, hà hiếp người dân, sống bằng máu xương nhân dân, đã lộ rõ với câu khẩu hiệu công khai rằng: “Công an Nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình“. Câu khẩu hiệu này đã bóc trần một điều: Chữ “Nhân dân” đi kèm trong danh xưng, chỉ là sự lừa đảo và bịp bợm.
Còn quân đội? Hẳn nhiên, những người có kiến thức đều biết rằng: Với một đội quân chính nghĩa, chân chính thì đội quân đó phải thật sự thuộc về nhân dân. Nghĩa là nó phải là một lực lượng chỉ để bảo vệ người dân từ cuộc sống bình yên đến lãnh thổ thiêng liêng, để người dân sống yên ổn, độc lập và tự do trên chính đất nước của mình.
Để làm được nhiệm vụ đó, quân đội phải phi chính trị hóa, nghĩa là không phụ thuộc hay bị điều khiển bởi bất cứ một thế lực, đảng phái, hội nhóm nào.
Quân đội sở dĩ không phụ thuộc bất cứ thế lực chính trị, đảng phái nào bởi vì trong bất cứ xã hội nào cũng đều phải có nhiều hội nhóm, đảng phái khác nhau dù chính thức hay trá hình, dù công khai hay bí mật. Vậy nếu không phi chính trị hóa quân đội thì thử hỏi quân đội sẽ trung thành với ai?
Nếu các phe nhóm – ngay cả trong đảng cộng sản hiện nay – liên tục đấu đá nhau và tranh quyền đoạt chỗ nhau thì quân đội làm sao thay đổi và chạy theo để phò các đảng phái phe nhóm cho kịp?
Trong chế độ Cộng sản, quân đội được điều hành bởi một Ủy viên Bộ chính trị – Một cái “Bộ” quái gở nhất, là của hiếm trên thế giới hiện nay còn sót lại của những nước đã và hiện là mồ ma của Chủ nghĩa cộng sản. Bởi theo cơ chế cộng sản thì đã vào một chân trong BCT, nghĩa là những nhân vật quan trọng nhất trong đảng, có thể được phân công làm bất cứ việc gì, từ việc “cầm quân đánh giặc” cho đến “cầm quần chị em cấm đẻ”… Tất tần tật đều “hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” – điều mà chỉ có thể xảy ra ở những nhân vật truyền thuyết siêu nhiên kiểu thần đèn. Đơn giản chỉ vì “đảng là trí tuệ, là văn minh, là đạo đức” và tất cả những ủy viên BCT kia đều là “học trò xuất sắc của Chủ tịch HCM” theo những lời tuyên bố của đảng và sự tán dương của hệ thống tuyên truyền.
Giả sử Ủy viên BCT Đinh La Thăng được điều động sang nắm giữ quân đội, và quân đội ấy “phục tùng tuyệt đối sự lãnh đạo của đảng” thông qua Đinh La Thăng. Rồi đến một lúc nào đó, họ Đinh củng cố được thế lực trong đảng và đưa đảng theo đường lối riêng của mình là đốt tiền dân không gớm tay như báo đảng đã đưa ra gần đây, thì “củi” đâu ra cho quân đội đốt cho kịp? Hoặc đơn giản là họ Đinh cho rằng chiến dịch “Nhóm lò, đốt củi” của Nguyễn Phú Trọng là tham nhũng quyền lực rồi đưa quân đội trung thành để tấn công thì quân đội có đi không?
Những điều trên cho thấy việc một quân đội chỉ phục tùng và phục vụ một đảng phái chính trị nào đó, một hội nhóm nào đó, chỉ là sự lộng hành và lạm quyền, lừa đảo không hơn không kém.
Khi quân đội trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam
Điều ai cũng biết và mặc nhiên thừa nhận, là quân đội nhân dân chỉ để phục vụ nhân dân. Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ Quốc, bảo vệ đất nước, dân tộc được yên bình, cuộc sống người dân không bị các thế lực bên ngoài bắt nạt hoặc biến người dân mình thành nô lệ.
Các quân đội hầu hết các nước từ lớn đến nhỏ đều như vậy và hiển nhiên là người dân Việt Nam cũng có quyền đòi hỏi một đội quân bảo vệ mình như thế. Bởi chính dân đẻ ra quân đội về mọi mặt từ con người cho đến mọi thứ để nuôi sống đội quân đó.
Thế nhưng, điều hiển nhiên đúng ấy đã trở thành chuyện viễn tưởng ở Việt Nam khi mà quân đội thề nguyền trung thành với Đảng Cộng sản – một tổ chức chính trị tự xưng đại diện cho dân tộc, nhưng lại là một bộ phận trung thành với cái gọi là “Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế”.
Cần phải nói rõ rằng: Cái gọi là “Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế” ấy bao gồm rất nhiều đảng cộng sản khác nhau ở nhiều quốc gia. Liên kết lại với nhau bởi cái lý thuyết “Chủ nghĩa Mác – Lenin” lấy bạo lực làm đầu và có nhiệm vụ đưa các đất nước, dân tộc khác nhau đi theo đường lối của cái nó, để rồi mai kia đưa cả thế giới lên chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa đại đồng.
Với cái lý thuyết, đường lối đó, các đảng cộng sản ra sức giành quyền lãnh đạo đất nước để dẫn dắt cả đất nước theo đường lối mà Chủ nghĩa cộng sản đã vạch ra.
Họ cướp chính quyền bằng bạo lực, dùng súng đạn, duy trì chế độ, dùng Tòa án Nhân dân và nhà tù nhằm khuất phục người dân.
Thế nhưng, cái lý thuyết đó đã nhanh chóng sụp đổ như một thứ tà giáo nguy hiểm và đã bị nhân loại vứt vào sọt rác ngay ở những nơi nó đã từng sinh ra và phát triển nhất.
Với sự hoang mang, hoảng hốt đến tột độ cho số phận của mình, đảng CSVN đã bám lấy cái hồn ma còn lại là đảng CS Trung Hoa – một đàn anh trong phong trào CSQT.
Khốn nỗi một điều, là cái ĐCSTQ cũng chẳng hề trung thành chút nào với cái mớ lý thuyết CSQT nói chung. Chúng đã bị chi phối bỏi Chủ nghĩa bành trướng, bá quyền, sô vanh nước lớn. Điều này thể hiện rõ ràng trong cách hành xử củ của ĐCSTQ. Chỉ trong mấy chục năm tồn tại của mình, hầu hết các nước xung quanh Trung Quốc đều là nạn nhân của những cuộc chiến tranh xâm lược biên giới, lãnh thổ và văn hóa bằng nhiều hình thức khác nhau, kể cả với đàn anh Liên Xô cũng không là ngoại lệ.
Còn Việt Nam, đã và đang là nạn nhân đau đớn nhất, khốc liệt nhất bị đàn anh Cộng sản Trung Quốc khuất phục bằng mọi biện pháp từ bạo lực cho đến các biện pháp mềm.
Người dân Việt Nam không thể quên những cuộc chiến tranh dai dẳng, đẫm máu trên biên cương phía Bắc năm 1979 với hàng chục vạn người dân Việt đã bỏ mình.
Người dân Việt Nam cũng không thể quên những động tác cướp đoạt cách trắng trợn khi môi miệng đang leo lẻo “Anh em môi hở răng lạnh” nồng ấm nhất giữa hai đảng CS trong sự kiện Hoàng Sa 1974.
Người dân Việt Nam cũng không thể quên những hòn đảo là lãnh hải thiêng liêng cha ông đã khai phá và xây dựng bao nghìn năm nay trên Biển Đông thuộc Trường Sa đang dần dần rơi vào tay giặc Trung Cộng.
Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam cố quên, cố ru ngủ người dân, đàn áp, dọa nạt và bỏ tù, trả thù người dân Việt Nam yêu nước khi họ cố gắng nhắc đến những việc đó hoặc thể hiện tình yêu nước của mình.
Bởi vì cái gọi là “phong trào Cộng sản quốc tế” đã chi phối và quy định trong Chủ nghĩa Cộng sản rằng: “Khi lợi ích của dân tộc, của đất nước đi ngược với lợi ích của Phong trào CSQT thì đảng CS lãnh đạo phải hy sinh lợi ích dân tộc, đất nước cho lợi ích của phong trào CSQT”.
Và với đất nước, với dân tộc có 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, thì đó là sự phản động, phản bội lại dân tộc, đất nước này.
Vua Lê Thánh Tông, một vị vua anh minh, quyết đoán, một nhà chính trị tài năng, một nhà văn hóa của dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng: “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện vứt bỏ?… Nếu người nào dám đem một tấc đất làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di” (Theo Đại Việt sử ký Toàn thư).
Dưới triều đại Cộng sản Việt Nam thì sao?
Lãnh thổ trên đất liền hao hụt đi 15.000 km vuông qua cái Hiệp định Biên giới của Đảng CSVN do Lê Khả Phiêu là TBT đảng ký với giặc, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị công nhận là lãnh thổ Trung Quốc qua Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng dưới thời Hồ Chí Minh và bị cướp đoạt bằng bạo lực năm 1974, một số hòn đảo ơ Trường Sa bị cướp đoạt năm 1988 đến nay… Tất cả đều dưới “sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng” và là “Người tổ chức, quyết định và lãnh đạo mọi hoạt động của đất nước”.
Không chỉ xâm lược trên thực thể lãnh thổ, ngày nay, thế lực bành trướng phương Bắc đã có thể vào Việt Nam như chỗ không người và đầu độc người dân, đất nước này bằng chất độc. Những chiến dịch thâm độc từ văn hóa, lịch sử cho đến con người Việt Nam với mục đích bành trướng của mình, biến người dân Việt thành nô lệ.
Vậy phải tru di bao nhiêu đời đảng CSVN mới đền được tội bán nước và đưa dân tộc này vào nô lệ, lầm than?
Quân đội nhân dân Việt Nam đang chống lại nhân dân?
Trong tất cả những vấn đề về lãnh thổ, về sự độc lập nói trên, người dân Việt Nam chưa bao giờ thấy cái gọi là “Quân đội Nhân dân Việt Nam” vốn được xưng tụng là “Anh hùng, bách chiến bách thắng”… có bất cứ động tác nào để tỏ ra có sự tồn tại của mình trong đời sống xã hội với nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc.
Trong khi họ vẫn hàng ngày, hàng giờ nhung nhúc một đống tướng lĩnh, xe pháo, thiết bị, quân hàm… và bòn xương, rút tủy người dân để sống và để “đi làm kinh tế” – thực chất là các chiến dịch đi cướp bóc của chính dân mình.
Ngược lại, nếu có ai nghe được những tướng lĩnh nói về việc bảo vệ lãnh thổ, thì ở đó người ta chỉ nghe và thấy được sự hèn mạt, khiếp nhược và vai trò tay sai của giặc hết sức rõ ràng.
Thử nhìn những bộ quân phục của quân đội Trung Cộng và quân đội Việt Nam rồi đặt câu hỏi: Nếu chiến tranh biên giới như năm 1979, người dân sẽ chào đón và che chở màu áo nào? Đó là sự đồng hóa một cách tự nguyện và hết sức thâm hiểm.
Thế nhưng, với nhân dân thì lực lượng “Quân đội Nhân dân, từ nhân dân mà ra” đã hành động ngược lại hẳn.
Mới đây, ngày 25/12/2017, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa – phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tuyên bố: “mới 20 năm kể từ khi nước ta bước vào thế giới của mạng internet, Việt Nam đã là một quốc gia phát triển nhanh, đến nay có 62,7% người dân sử dụng internet” nên “Quân đội “có hơn 10.000 người là hạt nhân đấu tranh trên không gian mạng, “vừa hồng vừa chuyên”.
Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là thay vì chiến đấu chống lại các lực lượng nước ngoài, quân đội Việt Nam đã chuyển hướng để chiến đấu với việc 62,7% người dân sử dụng Internet bằng hơn 10.000 hạt nhân.
Cũng có nghĩa là với hơn 10.000 hạt nhân, thì tính cả đám bậu xậu xung quanh các “hạt nhân” kia con số người đang ăng cơm dân, mặc áo dân để chống lại người dân phải là hàng triệu người trong cái gọi là “Quân đội nhân dân Việt Nam”?
Có lẽ không cần bình luận gì thêm về sự phản động này của lực lượng gọi là Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Nhưng, điều mà người dân Việt Nam, thậm chí là cả nhiều người đấu tranh kiên quyết để chống lại chế độ độc tài vẫn nghĩ và hy vọng rằng “Quân đội sẽ không bao giờ chống lại nhân dân” đã được chứng minh rằng đó là sự hy vọng hão huyền và thực tế đang ngược lại.
Có điều, tác dụng của đội quân kia đến đâu thì vẫn là câu hỏi khó cho nhà cầm quyền và tướng lĩnh quân đội Việt Nam khi đối đầu với người dân Việt Nam.
Hãy nghe Trần Quốc Vượng – ủy viên BCT, bí thư TƯ, chủ nhiệm UBKTTU, thành viên thường trực Ban Bí thư ĐCS nói: “Người ta đặt câu hỏi là một lực lượng làm công tác tuyên giáo hùng hậu như thế này, chúng ta có tới 800 tờ báo cách mạng, vậy mà chúng ta lại chịu thua trên mặt trận này? Đây thực sự là một thách thức”
Vâng, là sự thách thức không hề nhỏ.
Bởi, cho đến cuối cùng thì chẳng có điều gì chiến thắng nổi sự thật. Mà người dân thì đang nắm giữ sự thật trong mọi ngóc ngách xã hội.
Bởi không ai hiểu rõ cộng sản bằng Mikhail Gorbachev, nguyên là Tổng Bí thư Đảng CS Liên Xô, một đảng “vĩ đại nhất” là đàn anh, là thầy dạy của CSVN, đã nói: “Tôi bỏ ra nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng sản. Hôm nay, tôi đau buồn mà thú nhận rằng: Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.
Vậy nên con số hàng chục, hàng trăm ngàn người trong đội ngũ quân đội cùng với con số hùng hậu các Dư luận viên trong xã hội mà cách đây hơn 5 năm tại Hội nghị tổng kết công tác tuyên truyền viên cho biết đã có 80.000 người cũng chẳng là gì để bóp méo được “Sự Thật”.
Mà “Sự Thật” đó là quân đội, công an… tất cả đã đều được một đảng theo đường lối phản động lãnh đạo, chống lại chính nhân dân mình.
Hãy biết nhìn thẳng vào Sự thật. Bởi điều này đã khẳng định trong Kinh Thánh hơn 2.000 năm trước: “Chỉ có sự thật mới giải thoát anh em”. (Ga 8,32)
Thực tế khi nghe đến con số này, trên hầu khắp các mạng xã hội đều có sự bàn luận sôi nổi với những trận cười đến nghiêng ngả. Nhưng ẩn sâu trong đó là sự xót xa tiền bạc, của cải, xương máu người dân đang bị đem đổ vào đống Dư luận viên này hàng ngày, hàng giờ.
Một nhà báo đã đúc kết ngắn về lực lượng này như sau: “Hèn chi, khắp nhiều nơi trên mạng xã hội đầy rẫy những kẻ thể hiện sự ngu xuẩn, thiếu hiểu biết, hỗn láo và tục tĩu đến rợn người như vậy”.
31/12/2017
Ngày cuối cùng trong một năm nhà cầm quyền Việt Nam trong cơn cuồng sát người dân dám mở miệng.
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
http://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/more-than-10000-web-troops-12312017230657.html
Nhìn lại năm 2017-những dấu hiệu lạc quan
Song Chi
Khép lại một năm 2017, cảm giác chung của đa số người dân bình thường cho tới những người có quan tâm về tình hình chính trị xã hội và thường xuyên sử dụng mạng xã hội, báo chí độc lập để chia sẻ thông tin, viết bài…về thực trạng và tương lai của VN, có lẽ vẫn là nhiều tiêu cực, bi quan hơn là tích cực, lạc quan.
Đúng là nhìn chung, tình hình chính trị xã hội ở VN vẫn cứ ảm đạm, không có gì sáng sủa hơn nếu không muốn nói là ngược lại. Ngoại trừ một thiểu số dư dả, đại gia, quan chức…, với phần lớn người dân bình thường, đời sống ngày càng khó khăn, xăng dầu vật giá liên tục leo thang mà đồng lương, thu nhập thì không thấy tăng cho, rồi thì đủ loại thuế, phí đổ lên đầu dân, lo sống đủ qua ngày cũng đã hết hơi. Rồi thì thiên tai liên tiếp, cơn bão này vừa đi qua đã có cơn bão khác tới, rồi đất lở, mưa lũ, thủy điện xả nước khiến lũ chồng lũ…cứ mỗi đận bão lũ là vài trăm người chết, mất tích, hàng ngàn căn nhà lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, bao nhiêu hecta đất, hoa màu mất trắng, gia cầm chết sạch…Người dân đã nghèo càng thêm khó khăn chồng chất.
Giới thanh niên, dù đã tốt nghiệp đại học, thậm chí có những người có bằng Thạc sĩ…vẫn thất nghiệp đầy rẫy, phải chạy xe ôm, lái taxi, hay trở về quê cất mảnh bằng, cất luôn ước mơ đổi đời để lại cắm mặt xuống ruộng vườn phụ giúp gia đình mưu sinh.
Trong toàn xã hội thì cái xấu cái ác ngày càng gia tăng, từ trong nhà ra tới ngoài đường: trẻ em bị bạo hành, bị đánh đập bởi cha mẹ cho tới người giúp việc, có những trường hợp chỉ mới 1 tháng, 4 tháng tuổi; trẻ bị lạm dụng tình dục, hiếp dâm bởi người thân cho tới người quen, người dưng…Những môi trường tưởng là an toàn nhất như nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường học, bệnh viện cho tới đồn cảnh sát…lại xảy ra đủ thứ bạo lực, ác tâm, khiến con người trở nên hung hăng, độc ác hơn: học sinh đánh nhau đổ máu, trò đánh thầy, thầy đánh trò, bác sĩ y tá xử tệ với bệnh nhân, bênh nhân hành hung lại bác sĩ, công an sử dụng bạo lực làm chết người v.v…Người ta chứng kiến một xã hội đang bị hủy hoại về mặt đạo đức và điều đó còn đáng sợ hơn những hậu quả tồi tệ khác mà một chế độ độc tài ngu dân có thể gây ra cho một quốc gia, một dân tộc.
Cuộc sống ngày càng trở nên bất an khi cái chết có thể đến từ bất từ đâu, từ bất kỳ lý do tào lao, vớ vẫn nào như tai nạn giao thông, chết do sập hố, cống, điện giựt…vào trời mưa, do tai nạn trong lao động vì sự bất cẩn, thiếu lương tâm của người khác, chết do bệnh tật, ung thư vì môi trường bị ô nhiễm, thức ăn nhiễm độc, chết do một kẻ tâm thần nhưng vẫn được phép sống bình thường giữa mọi người rồi một hôm nổi cơn điên xách dao ra chém người, chết do đang đi đường bị một nhóm giang hồ đang thanh toán nhau lỡ tay đâm trúng, do một tên cướp giựt túi, đạp ngã xe gây tai nạn, do sự vộ trách nhiệm, yếu kém về chuyên môn của một ông bác sĩ, bà y tá nào đó v.v…
Sự thiếu tinh thần trách nhiệm, thậm chí vô lương tâm, tràn lan trong mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề khiến sinh mạng con người trở nên mong manh hơn bao giờ hết!
Đúng là nhìn chung, bức tranh toàn cảnh của VN vẫn cứ xám xịt, những mảng xanh tích cực rất hiếm. Đó là chưa kể đến tình hình chính trị, dưới chế độ cai trị độc tài của đảng cộng sản, VN ngày càng đi ngược chiều với nhân loại tiến bộ, ngày càng thụt lùi về mặt tự do, dân chủ, văn minh. Trong năm qua hồ sơ nhân quyền của nhà cầm quyền VN càng trở nên tệ hại khi số người bất đồng chính kiến, nhà hoạt động xã hội dân sự bị bắt nhiều hơn hẳn so với các năm trước; những người lên tiếng tiếp tục bị nhà cầm quyền xách nhiễu, khủng bố cách này cách khác, kể cả những trò bẩn quen thuộc như đánh vào uy tín, danh dự, đánh vào con đường mưu sinh, hay xử dụng côn đồ hành hung, gây tai nạn xe cộ…
Đó là chưa kể về đối ngoại, VN ngày càng trở nên đơn độc trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi về chính trị, việc Anh rút khỏi khối EU làm khối này suy yếu hơn, Donald Trump lên làm Tổng thống Hoa Kỳ với chính sách “America first” và không hề quan tâm đến nhân quyền, kể cả bỏ lơ khu vực châu Á-Thái Bình Dương cho Trung Cộng; châu Âu rối ren với bao nhiêu chuyện và nạn khủng bố, chả ai còn quan tâm đến VN. Trong bối cảnh đó đảng cộng sản VN ngày càng bám chặt lấy Trung Cộng, hèn hạ bạc nhược hết mức trước Bắc Kinh để tồn tại khiến tương lai đất nước, dân tộc càng trở nên u ám hơn bao giờ hết.
Nhưng ngược lại, năm 2017 cũng là năm có những dấu hiệu tích cực, giống như đêm đã gần hết, chuẩn bị bình minh, hay những cơn sóng ngầm ngày càng cuồn cuộn bên dưới nay đã lộ hết lên bề mặt xã hội, chuẩn bị cho một cơn bão thay đổi phải đến.
1. Cuộc chiến “nhóm lò, đốt củi”, chống tham nhũng của ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngày càng trở nên căng thẳng, kịch tính.
Hàng loạt quan chức, đại gia “Đỏ” phải vào tù hoặc ra trước vòng móng ngựa, hoặc đang bị “sờ gáy”. Dù còn lâu mới bì được với chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi” của Tập Cận Bình bên Trung Quốc do tầm vóc, uy tín và thế lực của Nguyễn Phú Trọng thua xa Tập Cận Bình, nhưng đã chạm tới hàng loạt quan chức ngân hàng, Bộ Công thương, tới cả Cựu Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam như Đinh La Thăng hay Thượng tá Công an, đại gia có máu mặt như Phan Văn Anh Vũ tức Vũ nhôm, hàng loạt thái tử đảng như Nguyễn Xuân Anh, từng là Bí thư thành ủy Đà Nẵng v.v…
Người viết bài này chưa bao giờ đặt lòng tin vào bất kỳ một cuộc chiến chống tham nhũng của bất kỳ một cá nhân nào trong bộ máy đảng và nhà nước cộng sản VN. Bởi một điều đơn giản, không thể chống và diệt tham nhũng khi nào đảng và nhà nước cộng sản còn tồn tại, khi chính cơ chế này đã tạo điều kiện và dung dưỡng cho nạn tham nhũng, trở thành một “quốc nạn” như hiện nay. Nhưng một khi chiến dịch đánh tham nhũng (thực chất là triệt hạ các phe phái không đồng thuận để bảo vệ vị trí Tổng Bí thư và phe mình của ông Nguyễn Phú Trọng) ngày càng lan rộng sẽ có nhiều kịch tính, nhiều biến cố xảt ra mà ngay chính “người đốt lò” là ông Trọng nhiều khi cũng không lường trước và kiểm sóat được.
Ở VN hay Trung Quốc cũng vậy, không một cá nhân nào có thể tham nhũng một mình mà tồn tại, ngược lại phải có phe cánh, dây mơ rễ má chẳng chịt, bắt một người sẽ lòi ra hàng chục người khác…Liệu sức của Tổng Trọng đến đâu, có đủ đi đến cùng tham vọng tiêu diệt những cựu thù như Nguyễn Tiến Dũng hay những đối thủ chính trị tương lai như Trần Đại Quang v.v..? Hay là những con cá to một khi biết bị sa lưới, sẽ cao chạy xa bay và ôm theo những bằng chứng có thể làm sụp đổ cả chế độ, hoặc sẽ tung đòn trả đũa khiến Tổng Trọng phải rơi đài trước khi kịp diệt cho bằng hết?
Vì Nguyễn Phú Trọng như đã nói, không phải và không bao giờ có cái tầm, cái thế như Tập Cận Bình, nên chưa biết chiến dịch này liệu chính ông Trọng có cầm cương được đến cùng. Nhưng dù ai thắng ai thua thì nhân cuộc đấu đá này nhiều kẻ phải mất hết hay phải vào tù, và người dân VN thì cứ việc ngồi xem bọn họ diễn kịch, truy sát nhau. Có thể nói không ngoa rằng 97-99% quan chức, chính khách trong cái bộ máy đảng và nhà nước cộng sản đều là bọn ăn tàn phá hại, bọn cõng rắn cắn gà nhà, phạm đủ thứ tội với dân với nước, để bọn họ tự diệt nhau càng tốt. Mà nếu từ chiến dịch này mà nội tình đảng cộng sản nát bét dẫn đến tự sụp đổ thì càng là hồng phúc của dân tộc.
2. Những hành động phản kháng của người dân đã tiến thêm một bước.
Khép lại năm 2017, hai sự kiện làm nhà cầm quyền đau đầu nhất, lại đến từ những người dân bình thường trong xã hội: Sự kiện Đồng Tâm, khi người dân thôn Hoành (Đồng Tâm, Mỹ Đức) bắt giữ 38 cán bộ, công an, đòi đối thoại với lãnh đạo Hà Nội và chuyện thu phí BOT, trong đó nổi bật là BOT Cai Lậy, khi các tài xế phản ứng gay gắt vì cho rằng trạm thu phí đặt sai vị trí, yêu cầu di dời, dẫn đến căng thẳng, buộc trạm phải xả liên tục và cuối cùng là ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phải hạ lệnh cho tạm ngưng thu phí trong hai tháng để xem xét, tính toán lại. BOT Cai Lậy chỉ là một ví dụ cho hàng loạt BOT giao thông từ Nam ra Bắc với tình trạng bóp cổ dân để thu thuế cho bằng được.
Hai sự kiện này thật sự có ý nghĩa ở chỗ đó là những hành động phản kháng ôn hòa, và bất tuân dân sự của người dân, những người thực hiện cho thấy họ biết dừng lại ở phạm vi nào để không bị khép vào tội “bạo lực, chống phá chế độ”, biết sử dụng luật pháp của chính VN để chống lại nhà nước VN bằng cả lý lẽ, lập luận và hành động, họ có lẽ phải và sự ủng hộ rộng rãi của người dân cho tới báo chí “lề đảng”, “lể dân”. Quan trọng nhất người dân đã bước qua sự sợ hãi, dám khôn ngoan đối đầu với nhà nước. Sự tráo trở của chính quyền Hà Nội trong vụ Đồng Tâm và sắp tới, có thể của chính quyền tỉnh Bình Dương trong vụ Cai Lậy hay tại những trạm thu thuế giao thông khác, sẽ chỉ càng làm cho người dân nhận ta ai đúng ai sai mà thôi.
Kết luận, chỉ mới là những chuyện “nhỏ”, nhưng nếu cứ tiếp tục xử sự theo cái kiểu không coi dân ra gì, chỉ chăm chăm đè đầu cưỡi cổ bóc lột dân, thậm chí cướp trắng đất của dân, thì rồi “tức nước vỡ bờ” thôi. Từ xưa đến nay, mọi chế độ coi dân như giẻ rách hoặc coi dân như kẻ thù, luôn tìm cách thắng dân, bao giờ cũng thảm bại.
3. “Thành tích” chà đạp nhân quyền của nhà cầm quyền trong năm 2017 cũng tăng thêm một bước.
Với con số trên dưới 30 người bị bắt và khép vào các tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam’ theo điều 88 Bộ luật Hình sự và tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo điều 79 BLHS. Đây là con số cao hơn hẳn so với các năm trước, và những bản án cũng nặng nề, nghiêm khắc hơn.
Chẳng hạn, bản án 7 năm tù, 3 năm quản chế, về tội “tuyên truyền chống Nhà nước xã hội chủ nghĩa” dành cho phóng viên tự do, blogger Nguyễn Văn Hóa chỉ vì dám quay phim, chụp hình và viết bài về thảm họa môi trường Formosa và lũ lụt miền Trung; blogger Mẹ Nấm tức Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một người mẹ đơn thân có hai con nhỏ, bị bắt từ năm 2016 nhưng năm 2017 mới đem ra xử sơ thẩm và phúc thẩm, cả hai lần đều bị kết án 10 năm tù giam với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” theo điều 88; hay nhà hoạt động Trần Thị Nga, một người mẹ cũng có hai con nhỏ khác, cũng bị kết án 9 năm tù về tội “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”.
Nhưng điều đáng nói là không ai sợ hãi, không ai nhận tội cả, trước tòa họ bình thản ung dung dù khi bị bắt hay đơn độc giữa phiên tòa. Người đi vào tù, trong lúc người khác hết hạn trở về, như blogger Nguyễn Ngọc Già, người khác thì lại chuẩn bị tâm thế có ngày đến lượt mình, không ai tỏ ra sợ hãi, khuất phục. Những bản án không đe dọa được họ.
4. Bộ mặt phản dân hại nước của nhà cầm quyền ngày càng lộ rõ. Và nỗi sợ hãi của nhà cầm quyền cũng ngày càng lớn.
Nếu có ai đó đặt câu hỏi với những lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản VN rằng điều gì làm cho họ sợ hãi nhất? Chưa chắc họ đã dám thú nhận công khai, nhưng câu trả lời thực sự của họ sẽ là: sợ chế độ này bị sụp đổ, sợ mất chế độ. Đó là nỗi sợ lớn nhất, trải qua bao nhiêu đời lãnh đạo, quan chức VN cho tới ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và dàn lãnh đạo hiện nay.
Nguyễn Phú Trọng và dàn lãnh đạo hiện nay tối ngày nói đến nguy cơ tự “diễn biến hòa bình” trong xã hội, rồi nào “giặc nội xâm”, “Tham nhũng, lãng phí đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”, rồi nào “nguy cơ “khô Đoàn, nhạt Đảng, ra rời chính trị” trong thanh niên v.v…Nghĩa là chỉ chăm chăm nghĩ đến sự tồn vong của chế độ.
So sánh hai câu nói của cố tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, tổng thống của một chế độ bị gọi là “tay sai bán nước”: “Đất nước còn, còn tất cả, đất nước mất, mất tất cả” và tổng bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng“mất Đảng, mất chế độ là mất tất cả.”
Đám lãnh đạo đảng cộng sản chỉ lo mất đảng, mất chế độ. Bởi vì đúng là với họ, mất đảng, mất chế độ là mất cái quyền được đè đầu cưỡi cổ nhân dân, được đứng trên cả luật pháp, muốn làm gì thì làm, mất bao nhiêu bổng lộc ăn đến đời con đời cháu không hết. Nỗi nguy mất nước, đất nước bị tụt hậu cách nước khác hàng chục, hàng trăm năm hay nỗi lo nhân dân bị đói khổ, bần cùng, chưa bao giờ là mối bận tâm của họ. Họ sẵn sàng quỵ lụy, bạc nhược trước Trung Cộng, thậm chí bây giờ nếu có phải giao cả nước này cho Tàu mà được Tàu “bảo kê” để tiếp tục tồn tại thì họ cũng làm.
Nhưng dù đã kiểm soát tư tưởng cho tới từng hành động của người dân bằng một chế độ cực kỳ hà khắc, đảng và nhà nước cộng sản vẫn không an tâm, vẫn lo sợ. Sự thật, thông tin đa chiều là nỗi ám ảnh của họ. Và internet là kẻ thù của họ.
Trong năm qua nhà nước VN đã đánh tiếng tìm cách gây khó dễ cho Google, Facebook, Youtube, Twitter, Viber… Một dự thảo về Luật An ninh mạng vô cùng phản động của VN được đưa ra vào tháng 11, mà theo dư luận là rất giống với Luật An ninh mạng của Trung Quốc, nếu được thông qua, sẽ là một bước lùi rất lớn của nhà cầm quyền về mặt nhân quyền, không chỉ tước đoạt quyền tự do ngôn luận của nhân dân, ngăn cản người Việt giao tiếp, học hỏi với thế giới, đồng thời tạo điều kiện cho các tập đoàn truyền thông của Trung Cộng như Baidu, Weido, Alibaba…nhảy vào thế chỗ, mở ra những cuộc xâm lăng mới về mặt văn hóa, truyền thông lẫn an ninh quốc gia. Đó thực sự là một sự thiệt thòi và là một nguy cơ lớn cho đất nước, dân tộc, xuất phát từ sự sợ hãi mất đảng, mất chế độ của nhà cầm quyền.
Mới đây, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa – Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, tại hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tuyên giáo năm 2017 và triển khai nhiệm vụ năm 2018 đã đưa ra thông tin “Quân đội có lực lượng 10.000 người tác chiến trên mạng” (Pháp Luật TP.HCM), “Hơn 10.000 người trong ‘Lực lượng 47’ đấu tranh trên mạng” (Tuổi Trẻ)
Việc VN bắt chước Trung Cộng, sử dụng đội ngũ Dư Luận Viên tối ngày theo dõi, ngăn chặn, đánh phá lại mọi luồng thông tin đa chiều, sự thật trên mạng là điều ai cũng biết. Nhưng con số đưa ra làm nhiều người bất ngờ!
Không ai khảo mà khai, hóa ra quân đội VN có tới 10000 người tác chiến trên mạng kia đấy. Mà tác chiến trên mạng nói cho chính xác là đánh ai, đánh lại chính những người VN đang sử dụng internet để chia sẻ thông tin đa chiều, chia sẻ những sự thật về hiện tình đất nước, góp phần khai mở dân trí cho người khác, có nghĩa là đánh lại dân. Mà tiền đâu để nuôi đội ngũ 10000 người này, thì cũng từ tiền thuế của dân chứ ở đâu ra. Lấy tiền thuế của dân để “tác chiến” chống lại dân. Còn kẻ thù thật sự đang ngày đêm ngang nhiên hoành hành trên biển Đông, rượt đuổi đánh chìm tàu ngư dân VN, đang ngày đêm ra sức xây đắp các căn cứ quân sự trên đảo, ngoài khơi để phong tỏa con đường tiến ra biển của VN, còn trên bờ thì lũng đoạn chính trị, lũng đoạn kinh tế, dủng đủ mọi âm mưu để kìm hãm, khống chế VN, làm cho VN ngày càng phụ thuộc, lụn bại, và tiến dần đến con đường mất nước không còn xa. Với kẻ thù như vậy thì quân đội anh hùng ở đâu không hề thấy, chỉ tối ngày lo đấu với dân theo đúng chủ trương thà mất nước chứ không mất đảng, mất chế độ?
Trích: “ông Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thành viên Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nhận định cuộc đấu tranh trên không gian mạng là vấn đề khó khăn phức tạp không chỉ riêng ở Việt Nam.
“Người ta đặt câu hỏi là một lực lượng làm công tác tuyên giáo hùng hậu như này, chúng ta có tới 800 tờ báo cách mạng, vậy mà chúng ta lại chịu thua trên mặt trận này? Đây thực sự là một thách thức” – ông Vượng nói.”
800 tờ báo, 10000 “dư luận viên” chứ hơn nữa thì cũng thua, đơn giản ông Vượng có biết tại sao không? Vì con đường các ông sai, mô hình thể chế chính trị của các ông sai, tính chính danh của các ông không có, lý tưởng không còn, lý luận (Mác Lê) thì đã bị bị gãy đổ từ lâu, chế độ của các ông tồn tại dựa trên sự dối trá, đàn áp và bạo lực thì làm sao mà các ông thắng nổi nhân dân và thắng nổi tương lai?
Sự thật từ người dân bình thường cho tới các nhà hoạt động dân sự, bất đồng chính kiến ngày càng tỏ ra không sợ hãi trong lúc nhà cầm quyền có đủ mọi thứ trong tay nhưng vẫn không yên, vẫn lo sợ mất đảng, mất chế độ, là thêm một chỉ dấu tích cực cho năm 2017, trong cái nhìn của người viết bài này.
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do
http://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/2017-signs-of-hope-12312017232532.html
50 Năm Máu Vẫn Chưa Khô
Trên Thành Phố Huế (1968-2018)
Phạm Trần
Nhằm kỷ niệm 50 năm cái gọi là “cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968”, đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam đã đồng loạt tổ chức Hội thảo khoa học cấp quốc gia với đề tài “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 – Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”, và tung ra 2 bài viết ca tụng cái gọi là “chiến thắng” trong chiến dịch Mậu Thân 1968 của Chủ tịch nước Trần Đại Quang và của Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch.
Tại cuộc Hội thảo do Bộ Quốc phòng, Ban Tuyên giáo Trung ương và Thành ủy TP Hồ Chí Minh đã phối hợp tổ chức ngày 29-12-2017 tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi có các mục tiêu quan trọng bị tấn công như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ Mỹ và Đài Phát thanh Sàì Gòn, các diễn gỉa đã tận lực khoe khoang cho điều gọi là “giá trị của cuộc tổng tiến công và nổi dậy ; khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ; tái hiện diễn biến và những nét độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc tổng tiến công, trình độ chỉ huy, khả năng cơ động và phối hợp chiến đấu giữa các lực lượng trên chiến trường miền Nam…”.
Nhưng mục đích Hội thảo để làm gì, ngoài mớ lý thuyết phô trương như thế ? Các báo Việt Nam trích lời Thượng tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, cho biết mụch đích: “Hội thảo lần này là một trong những hoạt động quan trọng góp phần tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang (LLVT) và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ phát huy truyền thống cách mạng, hun đúc tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội (CNXH), lòng tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống đại đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
À thì ra thế ! Nhưng có ai biết từ nội dung Hội thảo đến 2 bài viết của Quang và Lịch đã chứa đựng những dối trá để che đậy tội ác chiến tranh của Quân đội Nhân dân (miền Bắc) và của lực lượng tay sai được gọi là “lực lượng võ trang giải phóng” (của Mặt trận Giải phóng miền Nam do đảng CSVN dựng lên) đã gây ra cho đồng bào miền Nam nói chung, và đặc biệt đồng bào ở Cố đô Huế trong 25 ngày đềm Cộng sản chiếm đóng chỉ để thảm sát dân lành ?
Do đó, Tướng Ngô Xuân Lịch đã không ngần ngại khoe đạt chiến thắng ở Huế bằng máu người dân vô tội. Lịch viết:”Đặc biệt, với 25 ngày đêm làm chủ thành phố Huế đã khẳng định sức mạnh của lực lượng vũ trang (LLVT) ba thứ quân, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam anh hùng.”
Lịch viết bố láo như thế là bôi nhọ lịch sử và chà đạp lên những vong hồn của các nạn nhân bị Quân đội Cộng sản thảm sát, chôn sống và hành quyết rồi đẩy xuống các hố mồ tập thể khắp nơi trong Thành phố Huế. Bởi vì trong suốt thời gian của biến cố Mậu Thân và ngay tại Thành phố Huế khi bị chiếm đóng, không nơi nào có “nổi dậy” của nhân dân như Cộng sản tuyên truyền từ trước khi tiềng súng nổ đêm Giao Thừa Mậu Thân (31 tháng 1 năm 1968). Và cũng chẳng có nơi nào dân bỏ vùng Quốc gia chạy vào rừng với Quân Cộng sản.
Như vậy rõ ràng Lịch và guồng máy tuyên truyền của CSVN đã “bịa đặt một” chưa dủ còn tranh thủ “ nói dối hai” mà mặt vẫn cứ trơ ra như đá !
Nhưng không chỉ có thế, Lịch còn bịa thêm rằng:”Nhận thức rõ vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang trong chiến tranh cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng xây dựng LLVT ba thứ quân, nhất là xây dựng bộ đội chủ lực từng bước phát triển lớn mạnh. Theo đó, đến cuối năm 1967, lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam đã phát triển lên 278.000 người , được tổ chức thành 190 tiểu đoàn chiến đấu, bố trí bí mật trên khắp các chiến trường. Đây là một trong những nhân tố tạo sức mạnh trực tiếp, quyết định thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; đồng thời, thể hiện tầm nhìn và sự chỉ đạo chiến lược sắc sảo của Đảng ta về xây dựng LLVT nhân dân trong chiến tranh giải phóng dân tộc.”
Làm gì có cái gọi là “lực lượng bộ đội chủ lực toàn miền Nam” do chính người miền Nam lập ra ? Có chăng là đa số trong đội ngũ này là của miền Bắc được đào tạo đưa vào Nam rồi nhập chung vào với du kích miền Nam để cùng đội mũ tai mèo, mặc quần xà lỏn, đi chân đất trông rất tồi tệ. Đi đâu cũng khoe là “quân giải phóng” ! Trong khi bộ đội chính quy từ miền Bắc được đi dép râu bằng vỏ xe hơi và mặc quần áo do Tầu Cộng cung cấp để cầm súng của Nga, các nước Cộng sản Đông Âu và Trung Cộng cung cấp.
Sự thể bộ đội miến Bắc vào Nam xâm lược Việt Nam Cộng hoà và gây ra chiến tranh máu đổ thịt rơi từ 1955 đến 1975 thì ai không biết. Ngoài số quân “vượt Trường Sơn theo đường mòn Hồ Chí Minh’’ xuyên qua Lào và Cao Miên xâm nhập miền Nam từ 1960 thì trước đó, khỏang từ 30 ngàn đền 40 ngàn Bộ đội Cộng sản được giữ lại trong Nam mà không tập kết ra Bắc theo điều kiện của Hiệp định Geneve 1954.
Chính đạo quân “nằm vùng” này là lực lượng nồng cốt để đảng CSVN thành lập cái gọi là Quân đội Giải phóng và Mặt trận Giải phóng miền Nam tay sai do đảng CSVN thành lập ra đời ngày 10 tháng 12 năm 1960.
Nhưng đến khi xe tăng và bộ đội kéo vào các thành phố và Thủ đô Sài Gòn trước và trong ngày 30/04/1975 thì đâu đâu cũng mang cờ của Mặt Trận Giài Phóng miền Nam : Hình chữ nhật, mầu đỏ trên và mầu xanh dưới. Ở giữa có ngôi sao Vàng, thay vì “cờ Đỏ Sao Vàng” của Đảng CSVN.
Vì vậy, ngay sau khi vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975, quân CS miền Bắc đã hạ lá Cờ Vàng 3 Sọc đỏ của VNCH xuống và thay vào lá Cờ của MTGPMN, ngụy trang là cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (!)
Nhưng sau ngày chính thức thống nhất đất nước tháng 7/1976, lá cờ của MTGPMN đã bị dẹp bỏ không kèn không trống để chỉ còn lại lá cờ Đỏ Sao Vàng của miền Bắc CS chiếm ngự trên cả nước !
Bài Trần Đại Quang
Về phần mình. Chủ tịch nước Trần Đại Quang góp phần tuyên truyền gỉa dối trong bài “Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Quang ba hoa rằng:”Cách đây tròn 50 năm, đúng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân ta đã đồng loạt mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, tạo ra bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, viết thêm trang sử hào hùng trong lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của dân tộc ta…..
“…. Đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã bất ngờ đồng loạt tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, đánh vào các cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế, các căn cứ quân sự của Mỹ – ngụy, các thành phố, thị xã, đồng thời đánh địch khắp các vùng nông thôn bị tạm chiếm…”
Sự thật khó xóa đi
Như vậy, tất cả nội dung dành tung hô cho biến cố Mậu Thân đã không có một chữ hay con số nào nói lên sự thật tổn thất lớn lao của Bộ đội miền Bắc và Quân Việt Cộng trong Nam.
Vì vậy, mãi đến năm 2013, cuốn phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 1968” của Nhà Đạo diễn (Bà) Lê Phong Lan, chủ Hãng phim Bản sắc Việt, mới bắt đầu chiếu trên đài Truyền hình Việt Nam từ ngày 25 tháng 01 năm 2013.
Lý do làm phim trễ vì Chính quyền Cộng sản và Bộ Quốc Phòng coi vụ Mậu Thân là “vấn đề nhậy cảm” không ai muốn nói đến.
Nhưng tại sao lại cho là “nhạy cảm”, Lê Phong Lan nói : “Vì sao mọi người phía ta tránh nhắc đến Mậu Thân, đó là vì sự tổn thất của quân đội nhân dân Việt Nam ở sự kiện này quá nhiều. Tâm sự với tôi khi trả lời phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn dạn dày chiến trận còn khóc nức lên vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”.
Qủa nhiên về phương diện quân sự thì cả quân miền Bắc và du kích trong Nam đã thiệt hại rất nặng. Theo các ước tính quân sự thì trong cuộc tấn công Mậu Thân, CSVN đã vận động từ 323,000 đến 595,000 quân chính quy và địa phương trong Nam để thực hiện kế họach chống lại khỏang 1 triệu 200 quân VNCH và Hoa Kỳ với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh thổ của VNCH.
Tuy nhiên kế họach hồ hởi của Hà Nội đã bị quân và dân VNCH được sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khỏang từ 85,000 đến 100,000 quân Cộng sản bị loai khỏi vòng chiến, so với thiệt hại của đồng minh có trên 6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân bị mất tích.
Thương vong thường dân, tính riêng tại Huế cũng đã có từ 5,000 đến 6,000 người chết và mất tích, đa số bị quân Cộng sản thảm sát bằng nhiều hình thức, kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để chiến đấu.
Nhưng phiá Cộng sản đã liên tiếp phủ nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho bom đạn của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hoà gây ra.
Vì vậy, theo tường thuật của báo chí Việt Nam thì bà Lê Phong Lan cho rằng: “Thấy trên mạng có quá nhiều thông tin sai lệch về sự kiện lịch sử này, tới nỗi các thế hệ sinh sau 1975 không còn biết đâu là thông tin sai, đâu là thông tin đúng vì vậy lại càng quyết tâm để làm phim.”
Nhà văn Hòang Phủ Ngọc Tường, thành viên của Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế đi theo Cộng sản trong vụ Mậu Thân, còn đối đáp vớ Nhà báo Thụy Khuê của Đài Phát thanh Quốc tế Pháp (Radio France International, RFI) trong cuộc phỏng vấn gần 30 năm sau Mậu Thân như sau :
“Thụy Khuê: Nhìn từ phía những dữ kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xẩy ra trong một trình tự như thế nào?
HPNT: Huế Mậu Thân đã xẩy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.
Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xẩy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy.
Thụy Khuê: Vậy, theo anh, ai trách nhiệm những thảm sát ở Huế?
HPNT: “Tôi không đủ thẩm quyền để phán xét bất cứ cá nhân nào. Xin trích dẫn theo trí nhớ một ý tưởng trong hồi ký của chính ông Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân: Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi. Qua bài hồi ký tâm huyết này, đã được công bố trên tạp chí Sông Hương, Huế, và sau đó, nếu tôi không nhớ lầm, đã được dịch và in toàn bộ trên báo Mỹ Newsweek, tác giả, Lê Minh (lúc đó đã nghỉ hưu), còn nhắc nhở rằng, điều quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ.”
Những tiếng nói khác
Ông Đinh Lâm Thanh, trong Bài thuyết trình trong dịp tưởng Niệm 40 năm biến cố Mậu Thân tổ chức tại Paris ngày 02.03.2008, nói : “Tại Huế, CS lùng bắt thành phần quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức đấu tố, bắn giết, chôn sống tại chỗ một số và dẫn những người còn lại theo làm tù dân – tôi nói tù dân, vì tù là những người dân vô tội – trước rút lui tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt của QLVNCH và Đồng Minh.
Nếu tính nạn nhân tại Huế, ngoài số quân nhân, cảnh sát, nhân viên cán bộ hành chánh về nghỉ Tết cũng như những người sống tại địa phương làm việc cho chính quyền Sài Gòn bị Cộng sản bắn ngay tại chỗ là 1.892 người. Ngoài ra người ta còn tìm được 2326 tử thi thường dân trong 22 hố chôn tập thể tại những địa điểm như Trường Gia Hội, Chùa Theravada, Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An, Ninh Hạ, Trường Vân Chí, Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Chùa Từ Đàm, Lăng Gia Long, Đồng Di, Vịnh Thái, Phú Lương, Phú Xuân, Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Đá Mài.
Mỗi hố chôn tập thể từ 5, 7 người đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách dã man như : Cột chùm nạn nhân lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống. Nạn nhân là thường dân vô tội tuổi từ 15 trở lên, gồm có sinh viên học sinh, 6 linh mục là các cha Bửu Đồng, Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, cha Guy và cha Urbain (dòng Thiên An), và cha Cressonnier (Hội Thừa sai Paris), 5 thầy dòng gồm 3 sư huynh dòng Thánh Tâm là thầy Hec-Man, thầy Mai Thịnh và thầy Bá Long, 2 sư huynh dòng Lasan là thầy Agribert và thầy Sylvestre. Hai thầy dòng Lasan bị bắt và bị chôn sống chung một hố với linh mục Bửu Đồng tại Sư Lỗ, quận Phú Thứ. Ngoài ra Cộng sản còn giết các giáo sư đại học người nước ngoài trong lúc họ đang dạy ở đại học Y khoa Huế và thân nhân họ hàng của những người phục vụ dưới chế độ VNCH. Người ta ước lượng tại thành phố Huế có gần 5.000 người bị Cộng sản giết trong vòng mấy tuần lễ.
Những người lớn tuổi còn sống tại Huế là những nhân chứng sống. Trong đó có hai thanh niên nguyên là học sinh trung học, nay đã 56 tuổi, trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngoại quốc. Người thứ nhất tên Tuấn cùng với những học sinh khác đã bị CSBV bắt đào lỗ chôn sống 5 người tại Gia Hội ngay trong ngày đầu tiên khi CS vừa chiếm Huế. Học sinh thứ hai, xin giấu tên, ở Phủ Cam bị bắt đi theo đoàn tù dân đưa chôn sống ở Khe Đá Mài. Cả hai học sinh nầy nhờ một phép nhiệm mầu nào đó họ đã thoát được và sống sót đến ngày hôm nay.” (Khối 8406Tự do Dân chủ cho Việt Nam, 01-2009)
Hai Linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải hiện còn sống ở Việt Nam kể lại như sau:
“…tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính quyền cộng sản phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời…
“Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả, có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết”. (Đối Thọai online, 17-01-2008)
Hai linh mục Lợi và Giải cho biết họ họ gặp một nhân chứng sống lúc bấy giờ ông ta mới 17 tuổi cũng bị bắt theo đoàn người bị đưa đi giết ở Khe Đá Mài nhưng may mắn lợi dụng lúc đêm tối nên ông đã trốn thoát và hiện còn sống ở trong nước đã kể lại :
“Hồi ấy, tôi mới 17 tuổi, đang là học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước… Khuya mùng Một rạng mùng Hai Tết, tôi nghe tiếng súng nổ khắp nơi và được tin Việt Cộng đã chiếm nhiều nơi trong thành phố Huế… Cả gia đình tôi cũng như nhiều giáo dân ở Phủ Cam đều chạy đến ẩn núp trong nhà thờ để tránh bom đạn. Lính Nghĩa quân của xã và một số quân nhân về phép chiến đấu bên ngoài để bảo vệ đồng bào. Sau mấy ngày, không có tiếp viện nên chiều mùng 5 Tết (3 tháng 2/1968) phải rút chạy… Khuya mùng 5 Tết, Việt Cộng tràn vào nhà thờ bắt những người từ 15 tuổi đến ngoài 50 tuổi bất kể là học sinh hay thường dân … và tuyên bố cho đi học tập trong vòng 3 ngày sẽ trở về trong đó có tôi…
Sáng hôm sau, chúng tôi bị dẫn đi theo đường xe lửa từ Phủ Cam ra Bến Ngự và đến chùa Từ Đàm… Tại đây tôi thấy Việt Cộng rất đông vừa du kích địa phương vừa bộ đội miền Bắc… Ngôi nhà 5 gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt từ mấy ngày trước, còn một gian để giam giữ những người mới bị bắt… Tôi gặp những người quen như ông Tín (thợ chụp ảnh), ông Hồ (thợ hớt tóc), anh Trị (con ông Ngọc người đánh đàn trong nhà thờ), ông Hoàng (Đông y sĩ ở Chợ Xép), hai người con trai ông Thắng (làm nghề nấu rượu nuôi heo), hai người con trai ông Vang (nhạc sĩ thổi kèn đồng), anh Thịnh (con ông Năm), hai anh em Bình và Minh (con ông Thục), anh Minh 16 tuổi, con ông Danh nhân viên Công Ty Thủy Điện Huế) đều là học sinh… Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả một ngày từ sáng tới tối không được ăn uống gì cả… Họ đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ giấy để viết bản khai lý lịch tên, nghề nghiệp, tên cha mẹ, sinh quán ở đâu… Ai khai gian sẽ bị đem ra bắn… Tôi thấy một số người bị trói vào gốc cây bồ đề và bị đem ra bắn chôn ngay trong sân chùa, trong đó có anh Hoàng Sự (Cảnh Sát) mà tôi biết tên. Họ cho một vài người về nhắn với gia đình tiếp thế lương thực và quần áo, thuốc men cho những người đang bị giam giữ… Khi trời sẩm tối, họ bắt chúng tôi ra ngồi xếp hàng giữa sân chùa. Một anh cán bộ tuyên bố:
– Anh em yên tâm, Cách Mạng sẽ đưa anh em đi học tập trong 3 ngày rồi sẽ cho về với gia đình! Bây giờ chúng ta lên đường!.
Rồi họ dùng dây điện thoại trói tay chúng tôi ra phía sau lưng từng người một, rồi dùng dây kẽm gai nối 20 người làm một toán. Tôi đếm được trên 25 toán như thế (tất cả 500 người). Một người địa phương đi nhìn mặt anh em chúng tôi và nói với nhau:
– Không thấy Trọng Hê và Phú Rỗ trong số giáo dân Phủ Cam ở đây.
(Anh Trọng con ông Hê và anh Phú là hai thanh niên ở Phủ Cam có võ nghệ mà giới du đãng ở Huế biết tiếng. Hai anh đã chạy theo lính Nghĩa Quân xã rút lui khi Việt Cộng vào nhà thờ! Những người bị bắt đến đây đều là dân lành vô tội).
Họ dẫn chúng tôi đi vào đường bên trái Đàn Nam Giao, vòng qua Dòng Thiên An, đến lăng Khải Định, vòng phía sau trụ sở Quận Nam Hòa, ra đến bờ sông Tả Trạch (Thượng nguồn sông Hương)… Đến bờ sông, Việt Cộng cho chặt cây lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua sông (khu vực lăng Gia Long), thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc (vùng núi tranh). Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, ban đêm, trời lạnh lắm, khi lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội qua khe… Khoảng 30 bộ đội miền Bắc dẫn chúng tôi đi, họ dùng đèn pin hay đuốc để soi đường, chúng tôi đi trong rừng tre nứa và cây cổ thụ dày đặc… Khoảng nửa đêm, chúng tôi được dừng lại để nghỉ và mỗi người nhận được một vắt cơm. Chúng tôi đoán đã đi được trên 10 cây số rồi! Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng ngủ một chút để lấy sức còn phải đi tiếp… Bỗng như có linh tính báo trước, người tôi run lên bần bật… Tôi nghe hai tên bộ đội nói nhỏ với nhau:
– Trong vòng 15-20 phút nữa sẽ thủ tiêu hết bọn nầy!
Tôi liền ghé miệng vào tai thằng bạn bị trói ngay trước mặt:
– Tụi mình ráng mở dây trốn đi! Mười lăm phút nữa là bị bắn chết hết đó!
Trời mưa, dây điện trơn trợt, lát sau, chúng tôi mở được giây nhưng vẫn ngồi yên sợ chúng biết. Tôi nói nhỏ:
– Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi mình chạy nghe!
Bọn Việt Cộng đánh thức chúng tôi dậy, một tên nói lớn cho mọi người nghe:
– Chúng ta sắp đến trại học tập rồi. Ai có vàng, tiền, đồng hồ, bật lửa… thì đem nộp, không được giữ trong người… Học tập xong sẽ được trả lại…”
Thế là bọn chúng lột sạch và cho tất cả vào mấy cái ba lô vải. Tên bộ đội đứng gần chúng tôi còn mang trên vai cả chục cái radio mà chúng đã cướp được của dân ở thành phố… Một tay mang súng, một tay mang các thứ vừa cướp được, hắn đi chậm lại cách xa mấy tên kia một quãng… Chúng tôi bắt đầu xuống dốc, nghe tiếng nước chảy róc rách… Tôi vỗ nhẹ vai thằng bạn và cả hai chúng tôi vung tay và nhanh nhẹn phóng ra khỏi hàng. Tôi đá mạnh và tên bộ đội mang nhiều radio… Hắn ngã nhào! Hai chúng tôi lao vào rừng…
Trời tối, rừng già chúng không giám đuổi theo… Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi chỗ ẩn núp và đi ngược trở lại… Chừng 15-20 phút sau, chúng tôi bỗng nghe từ phía dưới vọng lên tiếng súng AK, rồi lựu đạn nổ vang rền… Một góc rừng rực sáng! Chen vào đó tiếng khóc la khủng khiếp… không hiểu sao lúc đó, tai tôi nghe rất rõ ràng… Lúc đó khoảng 12-12 giờ 30 khuya… đầu ngày 8 Tết(6/2/1968). Về sau tôi mới biết chỗ đó là Khe Đá Mài…” (Bài thuyết trình của cựu Dân biểu VNCH Nguyễn Lý Tưởng tại cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008).
Nhân chứng của sự thật
Ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Cải táng Nạn nhân Cộng sản Tết Mậu Thân nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008 : ““Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạc trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…”
Vẫn theio RFA thì Nhà báo Vũ Ánh (đã qúa cố), nguyên phóng viên mặt trận hệ thống Truyền thanh quốc gia VNCH, đã có mặt tại Huế từ ngày 5 đến 29 Mậu Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn tập thể kể lại cảm giác của ông: “Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm giác của tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó…
“Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1.000 người. Khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống”. (RFA online ngày 1-2-2008)
Trong bài nói chuyện tại buổi 40 năm Tưởng niệm Tết Mậu Thân, Việt Báo Gallery, thứ Bảy 29-3-2008, Nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải Khăn Sô Cho Huế” nói:
“Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, cộng sản khai diễn cuộc tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân-không hề có người lính Cộng Hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình, thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Ròi bọ…
“Và cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống. Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn…Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống..”
“Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế”. (Việt Báo ngày 31-3-2008)
Cư sĩ Trí Lực, người đã chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân kể lại với RFA về nỗi kinh hoàng của ông:
“Hai mươi sáu ngày sau, sau khi Cố đô Huế bình định trở lại thì tôi tận mắt chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Bãi Dâu Gia Hội, những người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những mảnh xương sọ bị vỡ nát.Cảnh kinh hoàng là cộng sản đã chon sống bao nhiêu người dân vô tội.”
“Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu Thân kể:
“Gia đình của tôi vùng Phủ Cam là một, vùng An Vân Thượng là hai, Gia Hội là ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi gồm cả thảy 12 người. Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại chỗ, có người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”. (RFA online ngày 7-2-2012)
Ông Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại trong“cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock, Texas) từ ngày 13 đến 15/3/2008”: “Mồ chôn tập thể: Các nạn nhân bị thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại trường tiểu học Gia Hội, chùa Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng Viện, khu vực phía Tây Huế gần lăng Tự Đức và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa Đông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng Gia Long, gần chùa Tường Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Đá Mài… tất cả 23 địa điểm tại tổng cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn khoảng trên 3,000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị bắt đi thủ tiêu, mất tích… không biết họ đã bị giết chết và chôn xác ở đâu?!
Dã man nhất là tại Khe Đá Mài (thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa, tỉnh Thừa Thiên) Việt Cộng đã dùng súng trung liên, đại liên, lựu đạn và mìn giết tập thể các nạn nhân, vất xác xuống dưới khe, lâu ngày thịt thối rữa bị nước cuốn đi, chỉ còn 428 sọ người, xương người dồn lại một đống. Người ta đã dựa vào các dấu vết còn lại của nạn nhân như áo len, tượng ảnh, giấy căn cước bọc nhựa(ID)… để biết được thân nhân của mình đã chết ở trong đống sọ và xương lẫn lộn đó. Đa số những nạn nhân nầy là giáo dân bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam vào đêm mùng 5 Tết (3 tháng 2/1968) Người ta cũng tìm thấy vết tích của hai ông Lê Hữu Bôi (chủ tịch sinh viên Phật tử năm 1963) và Lê Hữu Bá (sĩ quan Quân Cảnh) tại Khe Đá Mài. Các em học sinh như Bùi Kha (16 tuổi), Phan Minh (16 đây…”
Lê Phong Lan có nói thật ?
Trái với những lời kể này, nhà làm phim tuyên truyền cho đảng, Bà Lê Phong Lan cho biết bà đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư đảng khoá VIII – người từng là chỉ huy một trung đội trong sự kiện Mậu Thân 1968 tại Huế; lãnh đạo Thanh niên phật tử tranh đấu ở Huế theo Cộng sản nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân; nhà báo Mỹ Stanley Karnow, cựu phóng viên tờ Washington Post Don Lux; GS sử học Larry Berman, và cả những người lính từ hai phía.
Bà nói: “Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam Cộng hòa đưa ra. Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã làm sáng rõ: cái gọi là “cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ.”
Nhưng, theo ông Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam Việt Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp), thì:” Trong cuộc chiếm đóng Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì thuộc thành phần phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, cảnh sát, sĩ quan, chính trị gia, địa phương quân…) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không tham gia chiến trận.” Ông dẫn lời một người bạn rằng:” Do kỷ luật kém ở một số đơn vị, một số thường dân cũng nhân dịp hỗn loạn để trả thù nhau nên đã có những vụ giết hại vô cớ. Một bản báo cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi nhận, họ đã “diệt 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu đại uý, 1 trung uý, 20 thiếu uý và nhiều sĩ quan trừ bị…” trong cuộc chiếm đóng Huế.” (Tài liệu trích theo Hồi ký của ông Trương Như Tảng trên Internet)
Ngòai ra, báo cáo chính thức sau Mậu Thân ở Huế còn cho biết : “Một vụ thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema, kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Discher cùng Alterkoster đã bị giết trong tháng Hai năm 1968 tại chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa dặm, nơi người ta tìm thấy thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp, có tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn xuyên qua đầu và ót.”
Giết người giữa đêm giao thừa
Hồi tưởng lại biến cố Mậu Thân đẫm máu do người Cộng sản gây ta cho nhân dân miền Nam 50 năm trước, không một người Việt Nam nào có thể quên ngày ấy. Giữa đêm Giao thừa thiêng liêng của dân tộc Tết Mậu Thân (1968), Quân đội Cộng sàn miền Bắc và lực lượng võ tranh tay sai Việt Cộng (của MTGPMN) đã tung quân tấn công 41 thành phố, thị xã và 72 Quận lỵ , kể cả Thủ đô Sài Gòn và cố đô Huế của Việt Nam Cộng hòa.
Ít người Việt nào muốn gợi lại những đau thương, đổ vỡ của chiến tranh, nhất là cuộc thảm sát trên 3,000 trong số gần 6000 thường dân bị thiệt mạng trong 25 ngày Cộng sản chiếm đóng thành phố Huế của binh lính Cộng sản. (có tài liệu nói 26 ngày)
Nhưng đảng và nhà nước CSVN lại coi biến cố đau thương này là một “chiến công” phải ăn mừng và tổ chức lễ hội như đã diễn ra trừ dạo kỷ niệm 40 năm.
Bằng chứng như ta thấy báo Công an Thành phố Sài Gòn loan tin ngày 13-11-2007: “Ban Bí thư TW Đảng có thông báo về việc tổ chức kỷ niệm trọng thể 40 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân – 1968. Bộ Quốc phòng được giao nhiệm vụ phối hợp với Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế tổ chức hội thảo khoa học cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân-1968. Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Bộ Quốc phòng tổ chức mít tinh trọng thể cấp Nhà nước tại thành phố. Các tỉnh từ Quảng Trị trở vào tổ chức gặp mặt truyền thống, tọa đàm về chiến thắng này. Tổ chức các hoạt động văn hóa, du lịch, giúp đỡ cá nhân có thành tích trong cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân hiện còn khó khăn.”
Nguyễn Đình Ước, Trung tướng Cộng sản viết trên báo Nhân Dân ngày 8-1- (2008): “Cuộc tiến công Tết Mậu Thân đi vào lịch sử là một sáng tạo độc đáo của cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam thể hiện một đỉnh cao ý chí và trí tuệ của Việt Nam trong cuộc chiến tranh nhỏ thắng lớn. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quân và dân ta đã đánh thắng oanh liệt một cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất của một tên đế quốc lớn nhất trong thế kỷ thứ 20.”
Có “độc đáo”, “oanh liệt” hay không thì Ước cần đọc lại những lời tuyên bố nhìn nhận Bộ chỉ huy Cộng sản đã tính tóan sai lầm trong vụ tấn công quâns ự Mậu Thân của Trần Văn Trà, Trung tướng.
Ước cũng nên tự vấn lương tâm tại sao đảng CSVN đã lên án, tuyền truyền rùm beng vụ Quân đội Mỹ can tội thảm sát người dân vô tội tại ấp Mỹ Lai mà không dám nhìn nhận cuộc tàn sát đẫm máu dân thường và các viên chức VNCH của lính Cộng sản ở Huế.
Ông Douglas Pike, một chuyên viên về Cộng sản Việt Nam nổi tiếng của Mỹ viết: “Một cách tự nhiên, những điều xảy ra ở Huế là vài sự thống kê mau lẹ và nhạy cảm. Cuối cùng, lực lượng quân sự Cộng sản lên tới 12 ngàn người đã tấn công Huế ngay đêm mồng một tết (30 tháng 1 năm 1968), chiếm thành phố 25 ngày và cuối cùng bằng hành động quân sự họ bị đánh bật ra khỏi nơi họ chiếm đóng.”
“Trong trận tấn công nầy, 5 ngàn 8 trăm người dân thường bị giết và mất tích. Đến bây giờ tất cả họ coi như đã chết. Từ đó, thi hài họ được tìm thấy lẻ tẻ hay trong những ngôi mộ tập thể ở những vùng chung quanh Huế – Trung tâm văn hóa Việt Nam – thuộc tỉnh Thừa Thiên.”
“Đó chỉ là những dữ kiện chính yếu, những thống kê quan trọng, chẳng vui gì khi nói về Huế, là điều được viết xuống bằng thứ ngôn ngữ bình thường của báo chí, rõ ràng chẳng gây được ấn tượng gì cho tinh thần và lương tâm của nhân loại. Chẳng có tiếng thét đầy uất hận nào! Và các tòa đại sứ của Cộng sản Bắc Việt Nam trên thế giới đều im hơi lặng tiếng.” (Tuệ Chương dịch)
Như vậy, dù muốn che cho bằng được để lãng quên, nhưng lịch sử và sự thật của máu đổ thịt rơi ở Thành phố Huế 50 năm trước vẫn còn tươi rói. Lời kể của các nhân chứng đã nói lên sự thật không thể chối cãi.
Vì vậy, dù có mồm loa mép giải đến đâu thì 50 năm sau thảm họa Mậu Thân, người Cộng sản vẫn không thể xóa đi tội ác họ đã gây ra cho nhân dân miền Nam, vì những dòng máu oan khiên của hàng ngàn đồng bào vẫn chưa khô trên thành phố Huế. -/-
Phạm Trần (đầu năm 2018)
https://vietbao.com/p122a275978/50-nam-mau-van-chua-kho-tren-thanh-pho-hue-1968-2018-
Hồng Kông thuê phi cơ charter
trục xuất 68 người Việt nhập cư lậu
Người nhập cư Việt Nam bất hợp pháp vào Hồng Kông bị áp tải lên máy bay về nước.Ảnh chụp màn hình tờ SCMP
Cơ quan di trú Hồng Kông mới đây đã thuê bao một chiếc máy bay charter để trục xuất 68 người Việt Nam về nước. Vụ việc xẩy ra hôm 28/12/2017, nhưng hai ngày sau mới được nhật báo Hồng Kông The South China Morning Post tiết lộ.
Theo nhật báo, chiếc máy bay thuê bao của Vietnam Airlines đã chở 68 người, trong đó có 38 phụ nữ, về Hà Nội. Trong số này, ngoại trừ ba em bé dưới 2 tuổi, những người còn lại ở độ tuổi từ 18 đến 64. Tờ báo cho biết là những người này đã không chứng minh được lý do xin tị nạn và đã đến Hồng Kông một cách bất hợp pháp.
Họ đã ở Hồng Kông khoảng 10 tháng, một nửa trong số này đã nộp đơn xin quy chế tị nạn, nhưng không được chấp thuận. Sở Di Trú Hồng Kông khẳng định rằng tất cả những người này đều tình nguyện hồi hương.
Vẫn theo SCMP, ông William Fung Pak-ho, phụ tá giám đốc Sở Di Trú Hồng Kông, cho biết là chính quyền đặc khu sắp tới đây sẽ xem xét việc thuê bao máy bay để chở di dân bất hợp pháp không tình nguyện rời lãnh thổ này trong tương lai.
Trước đây, Hồng Kông đã từng trục xuất nhiều người, nhưng một cách lẻ tẻ, thường vài người một lần, dùng các chuyến bay thương mại, và trong một số trường hợp có nhân viên di trú đi theo. Phương cách trục xuất dùng phi cơ thuê bao, tức là charter, được coi là sẽ giúp Hồng Kông giải quyết nhanh chóng các trường hợp tồn đọng.
Từ năm 2015, số di dân xin quy chế tị nạn ngày càng nhiều. Vào lúc cao điểm, không kể các sự kiện bên Trung Quốc, mỗi tháng, có 480 người xin quy chế tị nạn, trong nửa đầu năm 2015, so với 120 trường hợp mỗi tháng trong thời gian từ 2010 đến 2013. Trong số này, đông nhất là người Việt Nam.
Từ năm 2014 đến tháng 11/2017, theo số liệu chính thức, trong số 15268 người xin quy chế tị nạn, có 3913 trường hợp là người Việt Nam – tương đương 26%. Cũng trong thời điểm này, trong số 8 861 người vào Hồng Kông bất hợp pháp, có 5104 trường hợp là người Việt Nam – tương đương 57.6%.
Theo nhân vật này, không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận việc bị trực xuất : « Trong năm nay (2017), chúng tôi thực hiện bảy vụ trục xuất. Có một số người cũng chống đối, và phải mất hai hoặc ba lần thực hiện chúng tôi mới trục xuất được họ… Một số người la hét, phản đối dữ dội, làm cho hãng hàng không phải đưa họ ra khỏi máy bay. »
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20180101-hong-kong-truc-xuat-viet-nhap-cu-lau
Nhân vật Việt nào được tìm kiếm nhiều nhất?
Một lãnh đạo Việt Nam đã “vượt mặt” các ngôi sao giải trí để trở thành nhân vật được người Việt tìm kiếm nhiều nhất trên mạng năm 2017.
Trong danh sách các từ khóa tìm kiếm nhiều nhất mới được Google công bố, ở hạng mục “Nhân vật”, Chủ tịch Việt Nam Trần Đại Quang đứng ở vị trí số một.
Theo công cụ tìm kiếm được nhiều người dùng nhất thế giới, nhiều người sử dụng mạng, nhất là ở tỉnh Ninh Bình, nơi sinh quán của nhà lãnh đạo này, đã tìm kiếm nhiều về ông khi xuất hiện thông tin ông “lâm bệnh và phải đi nước ngoài chữa trị”.
Google đã công bố các từ khóa tìm kiếm về ông Quang như “sức khỏe [ông] Trần Đại Quang” hay “[ông] Trần Đại Quang mất tích”.
Trang Trần Đại Quang nổi lên giữa ‘bão’ tin đồn
Hồi tháng Tám năm ngoái, rộ lên tin đồn ông Quang “đi nước ngoài chữa bệnh”, nhưng sau đó chính quyền cũng như báo chí nhà nước không xác nhận hay phủ nhận thông tin này.
Đứng ở vị trí thứ hai là ông Trịnh Xuân Thanh, nhân vật gây sóng gió trong quan hệ Đức – Việt năm 2017, sau khi Berlin cáo buộc Hà Nội “bắt cóc” ông tại thủ đô nước này, dù Việt Nam nói ông “đầu thú”.
Người sử dụng mạng Việt Nam dùng các từ khóa tìm kiếm như “bắt cóc [ông] Trịnh Xuân Thanh” hay “[ông] Trịnh Xuân Thanh bị bắt như thế nào”.
Việt Nam rơi vào ‘thế kẹt’ với Đức
Năm trước, nhân vật được người Việt tìm kiếm nhiều nhất trên Google là Minh “Béo”, diễn viên dính vào vụ scandal “lạm dụng tình dục trẻ em” ở Mỹ.
Ngoài “Nhân vật”, các hạng mục khác trong danh sách người Việt tìm kiếm nhiều nhất của Google còn bao gồm “Tìm kiếm nổi bật”, “Tin trong nước”, “Tin quốc tế”, “Ứng dụng”, “Bài hát”, “Phim truyện”, “Chương trình truyền hình”…
Một trong những chủ đề xã hội thu hút sự chú ý của dư luận năm qua đó là vấn đề trạm thu phí BOT Cai Lậy cũng đứng đầu hạng mục “Tin trong nước”.
Người tìm kiếm dùng các cụm từ như “BOT Cai Lậy là gì” hay “BOT Cai Lậy của ai”.
https://www.voatiengviet.com/a/nhan-vat-nguoi-viet-nao-duoc-tim-kiem-nhieu-nhat/4187662.html