Tin khắp nơi – 18/01/2019

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tin khắp nơi – 18/01/2019

Trump hủy chuyến công du của Nancy Pelosi

vì chính phủ đóng cửa

Ông Trump hoãn chuyến đi của bà Pelosi một ngày sau khi bà kêu gọi ông hoãn việc đọc diễn văn trước Quốc hội.

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump hoãn chuyến đi Brussels và Afghanistan sắp tới của Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi, yêu cầu bà ở lại để đàm phán việc chấm dứt chính phủ Mỹ đóng cửa một phần.

Tổng thống đã thể tạm dừng chuyến đi của bà bằng cách từ chối không cho bà và phái đoàn sử dụng máy bay quân sự.Hôm thứ Tư, bà Pelosi đã thúc giục ông Trump hoãn việc đọc diễn văn trước Quốc hội, trong bối cảnh chính trị bế tắc.

Động thái của ông Trump diễn ra vào ngày thứ 27 kể từ khi Mỹ đóng cửa chính phủ liên bang lâu nhất từ trước đến nay.

Tổng thống Cộng hòa muốn có 5,7 tỷ đôla (4,4 tỷ đồng) tiền tài trợ của quốc hội để xây dựng một bức tường ở biên giới Mỹ-Mexico, nhưng đảng Dân chủ đã từ chối.

Việc ông Trump hủy bỏ chuyến đi đã xuất hiện chưa đầy một giờ trước khi diễn giả Dân chủ của Hạ viện dự kiến ​​ra đi vào chiều thứ Năm, truyền thông Mỹ cho biết.

Đây là hành động ăn miếng trả miếng, đáp trả việc đảng Dân chủ yêu cầu Tổng thống Donald Trump hoãn bài diễn văn trước Quốc hội, lập luận rằng không thể đảm bảo được an ninh vì lý do chính phủ đóng cửa.

Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi nói trong một bức thư gửi ông Trump rằng thay vào đó ông nên gửi bài diễn văn qua bản, trừ khi các cơ quan của chính phủ liên bang mở cửa trở lại.

Ông Trump dự trù sẽ có bài diễn văn thường niên trước Quốc hội (còn gọi là bài Diễn văn Liên bang) vào ngày 29 tháng 1.

Chính phủ Hoa Kỳ đóng cửa một phần vì bất đồng quan điểm liên quan đến an ninh biên giới.

Tổng thống Cộng hòa yêu cầu quốc hội tài trợ 5,7 tỷ đôla để xây một bức tường tại biên giới Mỹ-Mexico, nhưng đảng Dân chủ mới chiếm được đa số ở Hạ viện đã từ chối.

Đóng cửa chính phủ Mỹ: Tiếp theo là gì?

Trump ‘bye bye’ đàm phán về đóng cửa chính phủ

Trump sẵn sàng đóng cửa chính phủ Mỹ ‘nhiều năm’

Phản hồi của Nhà Trắng đến từ Bộ trưởng Nội an Kirstjen Nielsen, người tweet rằng cơ quan của bà và Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ “đã chuẩn bị đầy đủ để hỗ trợ và bảo đảm an ninh cho ông Trump đọc bài diễn văn trước Quốc hội.”

Bà Pelosi nói gì?

Trong lá thư hôm thứ Tư, bà Pelosi trích dẫn “những yêu cầu đặc biệt” của việc tổng thống đọc bài diễn văn trước Quốc hội Liên bang.

Bà viết: “Cả Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ và Bộ An ninh Nội địa đều đã không được tài trợ trong vòng 26 ngày nay – với nhiều bộ phận quan trọng bị trói tay vì tình trạng nhân viên phải tạm thời nghỉ việc.”

“Đáng buồn thay, với những lo ngại về an ninh đang có và trừ khi chính phủ mở cửa trở lại trong tuần này, tôi đề nghị chúng ta nên cùng nhau làm việc để xác định một ngày phù hợp khác.”

Sáng thứ năm, bà Pelosi nói với giới phóng viên sau cuộc họp lãnh đạo đảng rằng ông Trump có thể đọc diễn văn từ Phòng Bầu dục tại Nhà Trắng “nếu ông muốn”.

Nhà Trắng đã không phản ứng ngay lập tức về đề nghị của Hạ viện.

Bài diễn văn trước Quốc hội có từng được gửi qua văn bản?

Theo tài liệu của cơ quan Lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ, Tổng thống thứ ba của Mỹ, Thomas Jefferson, thoạt đầu gửi bài phát biểu liên bang qua văn bản.

Truyền thống này được duy trì trong hơn một thế kỷ cho đến khi Tổng thống Woodrow Wilson phát biểu trực tiếp tại phiên họp chung của Quốc hội năm 1913.

Sau đó, trừ những trường hợp ngoại lệ hiếm hoi, tất cả các tổng thống Hoa Kỳ kế tiếp đã đọc bài diễn văn hàng năm trực tiếp trước Quốc hội.

Sự kiện chính trị nổi đình đám này có sự tham dự của mọi thành viên Quốc hội, cũng như các thẩm phán của Tối cao Pháp viện và lãnh đạo hàng đầu của quân đội.

Tăng áp lực

Phân tích của Anthony Zurcher, BBC Washington

Bài Diễn văn Liên bang đã trở nên đầy kịch tính trong kỷ nguyên truyền hình hiện đại. Đây là cơ hội để tổng thống đưa ra chương trình nghị sự cho năm tới, được bao quanh bởi các nghi lễ và trang hoàng lộng lẫy của văn phòng. Đối với Donald Trump, người thường xuyên phá vỡ các quy tắc và truyền thống của chính trị Hoa Kỳ, đây là dịp để ông theo bước chân của những người tiền nhiệm và kết nối với lịch sử của vai trò tổng thống.

Bà Nancy Pelosi muốn cướp đi điều đó – ít nhất là tạm thời. Đó là một nỗ lực táo bạo để tăng cường áp lực trong cuộc khủng hoảng đóng cửa chính phủ. Trong khi bà trình bày đây là vấn đề an ninh và “tổ chức”, đề nghị này rõ ràng có ý làm cho tổng thống khó chịu.

Giờ đây ông Trump phải trả lời. Nhiều người đã ăn mừng xác suất là cảnh tượng quá rình rang này của sân khấu chính trị có thể bị loại bỏ. Nhiều người khác ngược lại cho rằng thật ra đây có thể là một cơ hội được ngụy trang.

Còn cách nào tốt hơn để ngăn chặn giới cầm quyền hơn là đọc bài diễn văn hàng năm không phải tại Quốc hội, mà trước một đấu trường đầy những người ủng hộ ở trung tâm của nước Mỹ?

Đó sẽ là một động thái rất đúng tính cách của Trump – và các đài truyền hình Mỹ sẽ buộc phải tường trình sự kiện này từ đầu đến cuối.

Đây chắc chắn là lãnh thổ chưa được khám phá trong chính trường Mỹ hiện đại. Tuy nhiên, bây giờ, các biểu đồ cũ rõ ràng là không tốt.

Đóng cửa chính phủ ảnh hưởng kinh tế ra sao?

Việc đóng cửa, đã bước vào ngày thứ 26, đang gây ra nhiều thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ hơn dự đoán trước đây, một trong những cố vấn của ông Trump thừa nhận.

Hội đồng cố vấn kinh tế của Nhà Trắng hôm thứ ba đã tăng đôi dự đoán về mức tăng trưởng bị thất thoát hàng tuần trong thời gian chính phủ bị đóng cửa.

Chủ tịch hội đồng này, ông Kevin Hassett, nói rằng các ước tính ban đầu về tác động của việc đóng cửa chính phủ hoàn toàn tính đến các công ty tư nhân có hợp đồng của chính phủ liên bang.

Các nhà kinh tế nói rằng trong khi cú đánh vào tăng trưởng chung cho đến nay vẫn còn chưa đáng kể, nó có thể trở thành hao tổn nặng nếu bế tắc hiện thời không được giải quyết vào tháng tới.

Người đi làm không lương bị ảnh hưởng thế nào?

Nhiều người trong số 800.000 nhân viên liên bang đã không được trả lương kể từ ngày 22 tháng 12 đang ở trong tình trạng ngày càng nghiêm trọng.

Hơn 1.500 tài khoản đã được thiết lập trên trang web gây quỹ cộng đồng GoFundMe, để tìm cách kiếm một huyết mạch tài chính giúp trả tiền thuê nhà hoặc mua thức ăn và và quần áo cho con cái họ.

Hôm thứ Tư, tổng thống dự kiến sẽ ký quyết định trả lương thiếu nợ theo luật cho tất cả 800.000 nhân viên, ngay khi việc chính phủ đóng cửa kết thúc.

Trong tuyệt vọng, Bộ Nông nghiệp, Dịch vụ Doanh thu Nội bộ và Cục Hàng không Liên bang vừa yêu cầu hơn 50.000 nhân viên trở lại làm việc mà không được trả lương.

Dân chúng Mỹ nghĩ gì?

Theo một cuộc thăm dò ý kiến của Trung tâm nghiên cứu Pew, dân chúng Hoa Kỳ tiếp tục bất đồng ý kiến trong việc hỗ trợ việc xây tường tại biên giới Mexico.

Cuộc khảo sát, được công bố vào thứ Tư, cho thấy 58% người Mỹ phản đối việc xây dựng bất kỳ bức tường mới nào ở biên giới Mỹ-Mexico, trong khi 40% ủng hộ biện pháp này.

Gần 88% người phản đối nói rằng việc Quốc hội thông qua dự luật bao gồm bất kỳ khoản tài trợ nào cho bức tường biên giới sẽ là điều sai lầm, ngay cả khi đó là cách duy nhất để chấm dứt việc chính phủ đóng cửa.

Trong số những người ủng hộ bức tường, 72% nói rằng bất kỳ dự luật nào chấm dứt việc đóng cửa sẽ không được chấp nhận nếu không tài trợ việc xây tường của ông Trump.

https://www.bbc.com/vietnamese/world-46901406

 

Mỹ: Hoãn xử vụ kiện chính phủ đóng cửa

Vụ kiện của một công đoàn nhân viên chính phủ liên bang phản đối việc chính phủ Mỹ đóng cửa một phần hiện nay không thể tiến tới vì các luật sư của Bộ Tư pháp đại diện cho chính phủ đang phải nghỉ việc không lương do chính phủ đóng cửa, một thẩm phán cho biết.

Thẩm phán Patricia Campbell Smith nói tòa và các luật sư tại Bộ Tư pháp không có thẩm quyền thay đổi tình trạng này.

Liên đoàn nhân viên chính phủ Mỹ, công đoàn đại diện công chức liên bang lớn nhất Hoa Kỳ, kiện chính phủ hồi tháng 12 viện lý do nhân viên an ninh vận tải, biên phòng, kiểm soát không lưu và các công chức khác làm việc không lương trong thời gian chính phủ đóng cửa là vi phạm luật lương bổng liên bang.

Như trong những vụ kiện khác kể từ khi vụ đóng cửa chính phủ diễn ra hôm 22/12, Bộ Tư pháp yêu cầu ngưng thụ lý vụ này vì luật sư của Bộ không được phép đi làm trong thời gian đóng cửa chính phủ, dù là đi làm tự nguyện không lãnh lương, chỉ trừ một ít biệt lệ.

Khoảng 1/4 chinh1 phủ Hoa Kỳ đóng cửa vì yêu sách củaTổng thống Trump đòi cấp tiền xây tường biên giới vớiMexico không được phe Dân chủ đáp ứng.

Khoảng 800 ngàn nhân viên liên bang tại các cơ quan chínhphủ bị nghỉ việc không lương hoặc phải làm việc khônglương.

Trong các vụ chính phủ đóng cửa trước đây, công chức chínhphủ được hoàn tiền lươngsau khi chính phủ mở cửa hoạt độngtrở lại. Trong một số trường hợp nhất định, các thẩm phán cònyêu cầu chính phủ phải bồi thường thiệt hại

https://www.voatiengviet.com/a/my-hoan-xu-vu-kien-chinh-phu-dong-cua-/4747924.html

 

Quốc hội sẽ điều tra tin nói Trump

chỉ đạo cựu luật sư nói dối Quốc hội

Hai chủ tịch ủy ban Hạ viện Hoa Kỳ thuộc Đảng Dân chủ ngày thứ Sáu cam kết điều tra một bản tin cho hay Tổng thống Donald Trump đã chỉ đạo luật sư cá nhân của mình nói dối Quốc hội về các cuộc thương thuyết liên quan tới một dự án bất động sản ở Moscow trong cuộc bầu cử năm 2016.

Chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện Adam Schiff từ bang California nói “chúng tôi sẽ làm những gì cần thiết để tìm hiểu xem đó có phải là sự thật hay không.” Ông nói rằng cáo buộc ông Trump chỉ đạo Michael Cohen nói dối trong lời khai chứng năm 2017 của ông ta trước Quốc hội “trong một nỗ lực nhằm ngăn cản cuộc điều tra và che đậy những giao dịch kinh doanh của ông ta với Nga là một trong những cáo buộc nghiêm trọng nhất cho tới thời điểm này.”

Chủ tịch Ủy ban Tư pháp Hạ viện, Dân biểu Jerrold Nadler từ bang New York, nói chỉ đạo một thuộc cấp nói dối Quốc hội là một tội liên bang.

“Nhiệm vụ của Ủy ban Tư pháp Hạ viện là làm rõ ngọn ngành sự việc, và chúng tôi sẽ làm công việc đó,” ông Nadler viết trên Twitter.

Bản tin của BuzzFeed News, dẫn lời hai quan chức chấp pháp không nêu danh tính, cho biết ông Trump đã chỉ đạo ông Cohen nói dối Quốc hội và ông Cohen đã thường xuyên báo cáo với ông Trump và gia đình của ông về dự án xây tòa nhà Trump Tower ở Moscow —ngay cả khi ông Trump nói rằng ông không có giao dịch kinh doanh gì với Nga.

Luật sư của ông Cohen, Lanny Davis, từ chối bình luận về nội dung của bài báo, nói rằng ông và ông Cohen sẽ không trả lời các câu hỏi vì tôn trọng cuộc điều tra Nga của Công tố viên Đặc biệt Robert Mueller. Ông Mueller đang điều tra sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử và những liên lạc với ban vận động Trump.

Bài báo của BuzzFeed nói rằng ông Cohen đã nói với ông Mueller rằng đích thân ông Trump đã chỉ đạo ông ta nói dối về thời điểm của dự án để che giấu sự dính líu của ông Trump.

Ông Cohen vào tháng 11 đã nhận tội nói dối Quốc hội vào năm 2017 để che giấu việc ông đàm phán một thỏa thuận bất động sản tại Moscow thay mặt ông Trump trong khoảng thời gian ông đang vận động tranh cử tổng thống. Cáo buộc được đưa ra bởi ông Mueller và là kết quả của sự hợp tác của ông với cuộc điều tra đó.

Ông Cohen gần đây đã bị kết án ba năm tù sau khi tuyên có tội đối với những tội về thuế, gian lận ngân hàng và những vi phạm luật tài chính vận động tranh cử. Ông dự kiến sẽ ra khai chứng trước Ủy ban Giám sát và Cải cách Hạ viện vào ngày 7 tháng 2.

William Barr, người được ông Trump đề cử làm bộ trưởng tư pháp, phát biểu trong phiên điều trần chuẩn thuận ở Thượng viện hôm thứ Ba rằng việc một tổng thống hoặc bất cứ ai khác chỉ đạo một nhân chứng nói dối là hành vi cản trở bất hợp pháp một cuộc điều tra.

https://www.voatiengviet.com/a/quoc-hoi-se-dieu-tra-tin-noi-trump-chi-dao-cuu-luat-su-noi-doi-quoc-hoi/4749027.html

 

Các ứng cử viên đảng Dân chủ Mỹ

chuẩn bị cho tranh cử năm 2020

Một số đảng viên đảng Dân chủ Mỹ đã thực hiện các bước đi trong những ngày gần đây để sớm chuẩn bị cho cuộc đua đến chức tổng thống năm 2020.

Những người của đảng Dân chủ dự báo sẽ có nhiều ứng cử viên cạnh tranh với nhau để chọn ra người đối đầu với Tổng thống Donald Trump, khi ông tái tranh cử vào năm tới.

Nhưng nhiều nhà phân tích tin rằng cho đến nay chưa thấy ai là ứng của viên nổi bật bên đảng Dân chủ.

Đảng viên Dân chủ Elizabeth Warren là một trong những người đầu tiên khởi động với các chuyến đi đến hai bang có nhiều cạnh tranh là New Hampshire và Iowa. Trọng tâm vận động bầu cử của bà là tìm cách giúp đỡ người Mỹ thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp dưới.

Cùng bắt đầu đi vận động như bà Warren trong tháng này là cựu Bộ trưởng Nhà ở Julian Castro, ông đã tuyên bố ứng cử tại bang Texas quê nhà.

Bà Warren là một trong một số phụ nữ đảng Dân chủ đã tham gia cuộc đua hoặc sắp tham gia, bao gồm Thượng nghị sĩ bang New York Kirsten Gillibrand, Dân biểu bang Hawaii Tulsi Gabbard, Thượng nghị sĩ bang California Kamala Harris và Thượng nghị sĩ bang Minnesota Amy Klobuchar.

Nhưng còn nhiều ứng cử viên khác cũng có thể ra tranh cử, bao gồm cựu nghị sĩ bang Texas Beto O’Rourke, người đã thua trong cuộc đua đến Thượng viện trước đối thủ bên đảng Cộng hòa là Ted Cruz.

Thượng nghị sĩ bang New Jersey Cory Booker và cựu Phó Tổng thống Joe Biden cũng có thể sớm tham gia cuộc đua. Ông Biden đã khắc sâu vào tâm trí nhiều người trong chiến dịch tranh cử năm ngoái cho cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ. Khi đó, ông nhấn mạnh là đảng Dân chủ cần phải chống lại Tổng thống Trump.

Ông Biden có thể là người được biết đến nhiều nhất, nhưng tại thời điểm này, hầu hết các nhà phân tích tin rằng vẫn chưa có đảng viên Dân chủ nào có lợi thế rõ ràng.

“Ngay cả ông Biden cũng không phải là người đi đầu, bỏ xa những người khác”, nhà khoa học chính trị thuộc Đại học Virginia, ông Larry Sabato, nói với VOA qua Skype.

“Ông ấy đã đạt mức 30, 35, 40% trong các cuộc thăm dò ý kiến. Các mức đó gần như không tốt bằng một số người đi trước, chẳng hạn như mức của bà Hillary Clinton vào năm 2016 trong cuộc đua khi đó”, theo ông Sabato.

Nhưng dường như ông Biden có lợi thế về mặt tên ông được nhận biết và sự ủng hộ trong nội bộ đảng Dân chủ trong các cuộc thăm dò gần đây.

Một cuộc thăm dò của Đại học George Washington (GWU) mới đây cho thấy ông Biden đứng đầu danh sách các ứng cử viên Dân chủ tiềm năng cho năm 2020.

Ông Biden đã nhận được 51% ý kiến ủng hộ trong cuộc khảo sát của GWU, trong khi 42% có ý kiến không ủng hộ ông. Thượng nghị sĩ bang Vermont Bernie Sanders đứng thứ hai, với 48% ý kiến ủng hộ, 46% không ủng hộ. Bà Warren về thứ ba. Ý kiến đánh giá giành cho bà là 38% ủng hộ, nhưng 45% không ủng hộ. Tháng trước, một cuộc thăm dò của Đại học Quinnipiac cũng có kết quả tương tự.

https://www.voatiengviet.com/a/cac-ung-cu-vien-dang-dan-chu-my-chuan-bi-cho-tranh-cu-nam-2020/4748710.html

 

Mỹ: Chiến lược phòng thủ tên lửa mới

 nhắm vào Iran và Bắc Triều Tiên

Mai Vân

Tổng thống Donald Trump vào hôm 17/01/2019 đã giới thiệu chiến lược phòng thủ chống hỏa tiễn mới của Hoa Kỳ, với Iran và Bắc Triều Tiên trong tầm nhắm. Điểm bất ngờ được ghi nhận là Bắc Triều Tiên bị coi là « mối đe dọa đặc biệt », trong lúc mà cách đây 7 tháng, tổng thống Mỹ đã cho rằng mối đe dọa này đã được loại bỏ.

Thông tín viên RFI tại Hoa Kỳ, Eric de Salve, cho biết thêm :

« Trong một thời đại mà các mối đe dọa luôn chuyển biến, chúng ta phải đảm bảo sao cho khả năng đáp trả của chúng ta là không ai bì kịp. Tổng thống Mỹ đã giải thích như trên khi giới thiệu chiến lược mới chống hỏa tiễn ở Lầu Năm Góc.

Chiến lược trước đây, có từ năm 2010, tập trung trên hỏa tiễn xuyên lục địa mà một cường quốc như Nga hay Trung Quốc có thể bắn đi. Nhưng giờ đây, Hoa Kỳ tập trung trên những vũ khí kém tinh vi hơn, có thể được bắn đi từ Iran hay Bắc Triều Tiên, một đối thủ mà theo Lầu Năm Góc, tiếp tục là một mối đe dọa đặc biệt.

Theo chiến lược phòng thủ mới, các loại hỏa tiễn này cần được phá hủy ngay từ lúc vừa phóng đi chứ không phải là khi đến gần các hệ thống bắn chặn đặt ở Alaska và California. Có hai phương thức được dự kiến : Dùng một chiến đấu cơ F-35 hay dùng drone được trang bị bằng laser chống hỏa tiễn.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ hiện bị chậm hơn so với công nghệ mới mà Trung Quốc và Nga đã nắm trong tay : Hỏa tiễn siêu âm, có thể đạt tốc độ 5.000 km/giờ và do đó không thể chặn lại được.

Để tiêu diệt thứ vũ khí tối tân nhất này, Lầu Năm Góc nghĩ đến một hệ thống chặn hỏa tiễn từ không gian, có thể là bằng loại drone đưa lên quỹ đạo. Thế nhưng, những thử nghiệm đầu tiên chưa thể được thực hiện trước năm 2022 ».

http://vi.rfi.fr/quoc-te/20190118-my-chien-luoc-phong-thu-ten-lua-moi-nham-vao-iran-va-bac-trieu-tien

 

Hoa Kỳ và Triều Tiên sắp hội đàm

 về thượng đỉnh Trump-Kim

Ông Kim Yong Chol, đặc sứ của Triều Tiên chuyên đàm phán các vấn đề hạt nhân với Mỹ, dự kiến hôm 18/1 sẽ gặp Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo và có thể hội kiến Tổng thống Mỹ Donald Trump để mở đường cho cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-Triều lần thứ hai, theo Reuters.

Reuters dẫn một nguồn thạo tin cho biết ông Kim Jong Chol sẽ gặp ông Pompeo vào ngày 18/1 và sau đó có thể đến Tòa Bạch Ốc để gặp ông Trump.

Ông Kim Yong Chol đã tới thủ đô Washington vào tối hôm 17/1, đúng ngày ông Trump công bố một chiến lược phòng thủ tên lửa mới, trong đó nêu rõ rằng Triều Tiên là một “mối đe dọa thực sự.”

Cũng theo nguồn tin này, chuyến thăm của ông Chol là một dấu hiệu cho thấy tiến triển trong ngoại giao, có thể dẫn đến một tuyên bố về kế hoạch cho cuộc gặp thượng đỉnh lần thứ hai giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Lãnh tụ Kim Jong Un.

Hôm 17/1, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc trả lời phỏng vấn đài truyền hình Bloomberg nói rằng Việt Nam “sẵn sàng” hỗ trợ tốt nhất để đăng cai cuộc gặp thượng đỉnh Trump-Kim.

Ông Phúc nói: “Chúng tôi chưa biết quyết định cuối cùng. Nhưng nếu có diễn ra ở đây thì chúng tôi sẽ làm tốt nhất để hỗ trợ cho cuộc gặp.”

https://www.voatiengviet.com/a/hoa-ky-va-trieu-tien-sap-hoi-dam-ve-thuong-dinh-trump-kim/4748669.html

 

Phái đoàn Mỹ hủy dự hội nghị Davos

 vào lúc CP Mỹ đóng cửa đã 4 tuần

Nhà Trắng sẽ không cử phái đoàn đến Davos, Thụy Sĩ, dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới vào tuần tới, Thư ký Báo chí Nhà Trắng Sarah Sanders tuyên bố vào tối thứ Năm, 17/1.

“Xét đến thực tế là 800.000 nhân viên tuyệt vời của chính phủ Mỹ không được trả lương, và để đảm bảo là đội ngũ của ông có thể trợ giúp khi cần thiết, Tổng thống Trump đã hủy chuyến đi của phái đoàn tới Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos, Thụy Sĩ”, bà Sanders nói.

Thông báo được đưa ra vài giờ sau khi ông Trump tuyên bố hoãn chuyến đi của Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi và các đảng viên Dân chủ khác, dự kiến diễn ra vào chiều 17/1, đi tới Afghanistan và Brussels để thăm quân đội Hoa Kỳ.

Trước đó, tổng thống Mỹ đã hủy chuyến công cán của chính ông đến Davos do chính phủ đóng cửa.

Khi hủy chuyến bay quân sự, ông Trump nói rằng bà Pelosi không nên đi công cán trong thời gian chính phủ đóng cửa, và thay vào đó nên ở lại Mỹ.

Quyết định của ông Trump hủy chuyến bay của quân đội phục vụ bà Pelosi được đưa ra một ngày sau khi bà yêu cầu ông hoãn việc đọc Thông điệp Liên bang vì lý do chính phủ đang ngừng hoạt động, mặc dù một quan chức Nhà Trắng khẳng định việc làm của tổng thống không phải là động thái đáp trả bà Pelosi.

Đến ngày thứ Sáu, 18/1, việc chính phủ Hoa Kỳ đóng cửa một phần đã chạm mốc bốn tuần. Lúc này, căng thẳng gia tăng ở Washington ở cả hai bên xung quanh tranh cãi về việc Tổng thống Donald Trump yêu cầu cấp 5,7 tỷ đô la để xây bức tường biên giới Hoa Kỳ-Mexico.

Việc đóng cửa một phần, đến nay đã đạt kỷ lục lâu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, dường như chắc chắn sẽ kéo dài sang tuần tới, có nghĩa là 800.000 nhân viên liên bang trên toàn quốc sẽ tiếp tục không được trả lương và một số chức năng của chính phủ sẽ vẫn bị hạn chế.

Một phụ tá dân biểu đảng Cộng hòa nói với Reuters hôm 18/1 rằng không hề có cuộc đàm phán ở hậu trường nào đang diễn ra để giải quyết tình trạng chính phủ đóng cửa.

Trong một sự kiện tại Lầu Năm Góc hôm 18/1, ông Trump đã nhắc lại yêu cầu của ông rằng Quốc hội cần cung cấp kinh phí để giúp xây dựng bức tường biên giới, mà theo ông là cần thiết để ngăn chặn di dân bất hợp pháp và nạn buôn lậu ma túy.

Đảng Dân chủ đã chống lại bức tường, cho rằng nó thật lãng phí và không có tác dụng.

(Reuters, CBS News, FOX News)

https://www.voatiengviet.com/a/phai-doan-my-huy-du-hoi-nghi-davos-vao-luc-cp-my-dong-cua-da-4-tuan/4748641.html

 

Vụ Nga-Trump: Luật sư của Trump ‘đổi giọng’

Luật sư của Tổng thống Donald Trump, Rudy Giuliani, người cùng với Tổng thống đã nhiều lần phủ nhận bất kì sự thông đồng nào xảy ra giữa Nga với ban vận động tranh cử cho ông Trump, đã thay đổi giọng điệu và giờ nói rằng ông không biết liệu có phụ tá nào thông đồng với Moscow trong thời gian đó hay không.

Ông Trump và luật sư Giuliani từng nhiều lần công khai nói rằng không có sự thông đồng nào giữa ban vận động Trump và Nga. Nhưng trong một cuộc phỏng vấn chiếu trên CNN tối 16/1, ông Giuliani nói: “Tôi chưa bao giờ nói không có sự thông đồng giữa ban vận động hoặc giữa những người trong ban vận động. Tôi không biết,” ông Giuliani nói với đài truyền hình tin tức này.

“Không hề có một bằng chứng nào cho thấy Tổng thống Hoa Kỳ đã phạm một tội duy nhất có thể phạm phải ở đây, âm mưu với người Nga để tấn công tin tặc DNC,” ông nói, nhắc đến Ủy ban Đảng Dân chủ Toàn quốc, nơi mà những máy chủ bị xâm nhập trong chiến dịch vận động tranh cử năm 2016 và email bị rò rỉ.

“Tổng thống không thông đồng với người Nga,” ông Giuliani nói với CNN.

Một số nhà lập pháp Đảng Dân chủ gọi phát biểu của ông Giuliani là gây kinh ngạc và càng khơi lên thêm lo ngại về hành vi của ban vận động Trump.

“Ông ta dường như thừa nhận sự thông đồng giữa ban vận động và người Nga,” Thượng nghị sĩ cao cấp thứ hai của phe Dân chủ trong Thượng viện, Dick Durbin, nói với đài MSNBC trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 17/1. “Đó quả là lời thú nhận gây kinh ngạc từ chính luật sư của Tổng thống.”

Các cơ quan tình báo Mỹ đã kết luận Moscow can thiệp vào chiến dịch tranh cử năm 2016 để tiếp sức cho ông Trump và gây tổn hại cho đối thủ bên Đảng Dân chủ là bà Hillary Clinton. Các công tố viên liên bang điều tra cáo buộc can thiệp bầu cử đã buộc tội hơn 30 người, bao gồm hơn hai chục cá nhân và các thực thể ở Nga.

Một số thành viên trong ban vận động Trump, bao gồm cựu chủ tịch ban vận động Paul Manafort, cũng đã bị buộc tội hoặc nhận tội như một phần của cuộc điều tra do Công tố viên Đặc biệt Hoa Kỳ Robert Mueller dẫn đầu hoặc trong các cuộc điều tra liên quan.

Ông Trump thường xuyên phủ nhận, trong các dòng tweet và trong các phát biểu công khai, về bất kì sự thông đồng nào với Nga. Ông gọi cuộc điều tra của của ông Mueller là “săn phù thủy” với hàm ý ông bị bức hại chính trị. Nga cũng phủ nhận mọi sự can thiệp.

Ông Trump cũng đang bị điều tra về hành vi có thể là cản trở công lí.

https://www.voatiengviet.com/a/vu-nga-trump-luat-su-cua-trump-doi-giong/4747929.html

 

Từ kho báu ở châu Phi, Mỹ đã tìm ra cách

khắc chế sáng kiến Vành đai và con đường của TQ?

Vào năm 2006, bốn thập kỷ sau khi Anh chấm dứt sự cai trị, một kho báu ở Uganda được phát hiện. Nước châu Phi này là đối tác trong sáng kiến Vành đai và con đường của Bắc Kinh.

Doanh nghiệp Mỹ hành động

Rajakumari Jandhyala, người lớn lên ở vùng ngoại ô Ohio, không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ làm việc trong ngành dầu khí, bà càng không nghĩ rằng sẽ đứng ở tuyến đầu trong cuộc cạnh tranh toàn cầu giữa Mỹ và Trung Quốc.

Bà đảm nhiệm vai trò của một nhà tư vấn về các vấn đề chính sách châu Phi trong 20 năm, gần đây nhất bà là thành viên trong chính quyền cựu Tổng thống Barack Obama.

Nhưng vào năm 2016, bà đã tham gia đấu thầu sau khi biết đến đề xuất xây dựng một nhà máy lọc dầu ở Uganda, với quy mô có thể là lớn nhất ở Đông Phi.

Bà tìm thấy một nhà đầu tư ở Kenya và thuê giám đốc điều hành dầu khí từ tập đoàn General Electric (GE). Một nhà thầu Ý cũng tham gia vào dự án này của bà.

Tuy nhiên, vấn đề chính của bà là các đối thủ cạnh tranh đang được hưởng lợi thế rất lớn. Đối thủ là hai công ty năng lượng của Trung Quốc, một trong số đó là một tập đoàn dầu mỏ quốc doanh được chính phủ Trung Quốc hỗ trợ, The New York Times (Mỹ) cho biết.

Trung Quốc đang tích cực tìm kiếm các dự án đầu tư và công nghệ trên khắp thế giới, có thể thấy rõ nhất ở châu Phi. Nhiều công ty Trung Quốc đã giành được hợp đồng xây dựng đập, đường bộ, sân vận động, sân bay và đường sắt ở nước bản địa. Đồng thời, chính phủ nhiều quốc gia châu Phi đã vay một khoản tiền lớn từ Trung Quốc để trả cho các dự án quy mô lớn này.

Đầu tư của Trung Quốc vào Châu Phi được xem là vấn đề cốt lõi trong sáng kiến Vành đai và con đường của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Sáng kiến này ​​đã đầu tư hàng nghìn tỷ USD vào phát triển cơ sở hạ tầng nhằm mở rộng sức ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu của Bắc Kinh.

NYT cho biết, chính quyền Tổng thống Donald Trump hiện nay cáo buộc Trung Quốc đang tạo ra “bẫy nợ ngoại giao” đối với các nước bản địa và để đáp trả Bắc Kinh, Nhà Trắng đã công bố một kế hoạch giúp các công ty Mỹ cạnh tranh với các công ty Trung Quốc.

“Chúng ta đang hợp lý hóa các dự án tài chính và phát triển quốc tế, cung cấp cho các quốc gia khác một giải pháp công bằng và minh bạch, thay thế cho các bẫy nợ ngoại giao của Trung Quốc”, Phó Tổng thống Mike Pence phát biểu hồi tháng 10/2018.

Ý tưởng của Mỹ là thách thức các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc, đồng thời đẩy lùi các hoạt động thương mại, tấn công mạng và mở rộng các cơ sở quân sự và sự hiện diện quân sự ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương của Bắc Kinh.

“Ở châu Phi, các doanh nghiệp Mỹ hầu như vắng mặt trong khi các công ty Trung Quốc đã ăn sâu cắm rễ, xây dựng liên minh lớn mạnh thông qua các biện pháp hợp pháp và bất hợp pháp”, NYT cáo buộc, một số doanh nghiệp Trung Quốc đã dùng tiền mặt hoặc các giao dịch dịch vụ như đại diện pháp lý hoặc bảo hiểm để hối lộ các quan chức châu Phi và người nhà họ.

Vào đầu năm ngoái, đã có một cuộc tranh luận căng thẳng diễn ra giữa bà Jandhyala và các giám đốc điều hành cấp cao khác trong tập đoàn với các quan chức Uganda – những người ủng hộ công ty Trung Quốc.

Trong một nỗ lực để giải quyết tranh chấp gay gắt này, Tổng thống Uganda Yoweri Museveni đã buộc phải triệu tập cuộc họp.

NYT cho hay, trong một bài phát biểu vào tháng Tư, Tổng thống Museveni đã ca ngợi các công ty phương Tây vì “cuối cùng đã nhận thức được vai trò của châu Phi”. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra rằng, đây là điều mà người Trung Quốc đã sớm nhận thức được và – “họ thực sự, thực sự, thực sự rất năng động và nhanh nhẹn”.

Tranh chấp kho báu

Khu vực quanh những hồ lớn châu Phi từ lâu đã thu hút những người nước ngoài tới tìm kiếm sự giàu có và vào năm 2006, bốn thập kỷ sau khi chấm dứt sự cai trị của Vương quốc Anh ở Uganda, một kho báu đã được phát hiện: Mỏ dầu bên hồ Albert thuộc dạng lớn nhất Đông Phi, đủ để cải thiện kinh tế của Uganda.

Sau nhiều năm đàm phán với các công ty nước ngoài, chính phủ Tổng thống Museveni cuối cùng đã đồng ý khai thác mỏ dầu và xây dựng một đường ống dẫn đến bờ biển phía đông nam Tanzania, từ đó vận chuyển đi các nơi trên thế giới.

Tuy nhiên, ông Museveni cũng mong muốn xây dựng một nhà máy lọc dầu ở Uganda để giảm bớt sự phụ thuộc của khu vực vào nhiên liệu nhập khẩu. Hợp đồng ban đầu được trao cho người Nga nhưng họ đã rút lui.

Trong chuyến đi đến Uganda năm 2016, bà Jandhyala đã nghe về những kế hoạch này. Tại văn phòng ở Washington, bà đã kêu gọi các đối tác hợp tác nhằm đạt được dự án này.

“Với GE, đây là doạnh nghiệp Mỹ có tiềm năng rất lớn”, bà nói về công ty đối tác.

Tuy nhiên, cơ hội ở Uganda cũng đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trên khắp thế giới, khi Uganda đã nhận được hơn 40 đề xuất xây dựng nhà máy lọc dầu.

 

Một trong những nhà thầu là Dongsong, một công ty khai thác điện năng tư nhân ở phía nam thành phố Quảng Châu, Trung Quốc. Một doanh nghiệp khác là CNOOC – Công ty TNHH dầu khí hải dương Trung Quốc, là doanh nghiệp dầu khí lớn thứ ba tại nước này.

Cả hai công ty đều có văn phòng tại Kampala, thủ đô của Uganda và đã làm việc chặt chẽ trong nhiều năm với Bộ Phát triển Năng lượng và Khoáng sản Uganda. Dongsong đang xây dựng một nhà máy phân lân, phân bón hóa học trị giá 620 triệu USD ở miền đông Uganda, còn CNOOC là một trong ba công ty nước ngoài đã đạt được thỏa thuận khai thác dầu mỏ.

Tuy nhiên, NYT cho biết, theo đánh giá của chính phủ Uganda, doanh nghiệp Trung Quốc đã đưa ra nhiều điều khoản có lợi cho họ.

Trong khi, Dongsong muốn có khoản bảo lãnh cho vay chắc chắn, tức là nếu dự án thất bại, chính phủ Uganda phải chịu trách nhiệm về khoản nợ 60% cho lao động và nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc. CNOOC thì muốn mở rộng quyền khai thác dầu mỏ.

“Chúng tôi đang phát triển một số lượng lớn các dự án thâm dụng vốn”, ông Robert Kasande, quan chức cấp cao Bộ năng lượng Uganda nói, “Chúng tôi cần tài chính và người Trung Quốc có thể làm được điều đó”.

Hãy ghi nhớ tên tôi

Những binh sĩ Uganda với súng trường Kalashnikov đang đứng gác trước trụ sở của Dongsong ở Kampala. Trụ sở của Dongsong là một biệt thự trên đỉnh đồi với một bể bơi và có tầm nhìn bao quát thủ đô Kampala. Người sáng lập của Dongsong, Lữ Vĩ Đông thường đến đây nhiều lần trong năm.

“Tham vọng lớn nhất của tôi là khi tôi đi vào các ngôi làng ở Uganda, dân làng xếp hàng và chào đón tôi bằng những tràng pháo tay”, doanh nhân Trung Quốc nói tại văn phòng ở Bắc Kinh, “Tôi hy vọng sẽ thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp của Uganda, để lịch sử của Đông Phi và Uganda ghi nhớ tên tôi”.

NYT đánh giá, Lữ Vĩ Đông là điển hình của chiến lược vươn tầm thế giới của Bắc Kinh, chiến lược này khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc thiết lập chỗ đứng trên khắp thế giới.

Lữ Vĩ Đông, 50 tuổi, cựu giám đốc ngân hàng và là thành viên của cơ quan cố vấn chính trị thương mại của chính quyền Bắc Kinh. Ông này cho biết, ông đã mạo hiểm tới Uganda sau khi vô tình nhìn thấy Tổng lãnh sự quán của nước này ở Quảng Châu.

Rất nhanh, ông có được hợp đồng khai thác quặng. “Đây là ý trời”, Lữ nói.

NYT cho biết, theo báo cáo của Tổng chưởng lý Uganda, vào năm 2016, Văn phòng Tổng chưởng lý rút ra kết luận rằng, giấy phép khai thác của Dongsong có được do gian lận và đề nghị thu hồi cùng một loạt bê bối kéo theo sau đó.

Năm 2017, hai quan chức Bộ tài chính Uganda đã bị bắt giữ vì nghi ngờ đòi và nhận hối lộ từ Dongsong.

Công ty này cũng phải đối mặt với các vấn đề ở Trung Quốc. Một tòa án ở tỉnh Hồ Bắc năm ngoái cho rằng, ông Lữ đã thành lập một công ty vỏ bọc để hối lộ cho hai quan chức ngân hàng nhà nước bị kết án về tội tham nhũng.

Tất nhiên, Lữ Vĩ Đông đã phủ nhận mọi cáo buộc và gói đấu thầu của Dongsong vẫn được đánh giá cao ở Uganda.

Dongsong cũng giành được cam kết tài chính của một trong những ngân hàng quốc doanh lớn nhất của Trung Quốc – miễn là Uganda đảm bảo cho khoản vay.

Theo NYT, mô hình này phổ biến trên khắp châu Phi. Những khoản vay này thường có các điều khoản nghiêm ngặt hơn các gói viện trợ của Ngân hàng Thế giới.

Theo AidData – Trung tâm nghiên cứu tài chính thuộc Đại học William & Mary (Mỹ), người vay phải trả nợ nhanh hơn mặc dù lãi suất có thể thấp hơn.

Các nhà phân tích cho rằng, điều này đã khiến một số quốc gia có nguy cơ bị khủng hoảng nợ cao. Ví dụ, ở Kenya, nếu Nairobi không trả được khoản vay 3,2 tỷ USD cho một dự án đường sắt thì một ngân hàng Trung Quốc có thể tiếp quản một cảng ở quốc gia này.

Gánh nặng nợ của Uganda được cho vẫn đang nằm trong tầm kiểm soát mặc dù nước này đã tăng các khoản vay. Từ năm 2000 đến 2014, Uganda đã nhận được ít nhất 1,24 tỷ USD từ các khoản vay của Trung Quốc, theo AidData. Vào năm 2015, họ đã đồng ý vay thêm 1,9

tỷ USD cho hai con đập được xây dựng bởi các công ty Trung Quốc, và hiện tại họ đang tìm kiếm khoản vay 2,2 tỷ USD cho một tuyến đường sắt.

Tuy nhiên, Tổng thống Museveni và các quan chức khác dường như đang cân nhắc lại về sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Vào năm 2016, một vụ bê bối lớn liên quan đến 2 con đập kém chất lượng đang thi công dang dở tại Uganda đã nhắc tên doanh nghiệp Trung Quốc.

Mặc dù vậy, Dongsong vẫn tận hưởng một lợi thế độc nhất trong cuộc cạnh tranh xây dựng nhà máy lọc dầu.

Theo các tài liệu của công ty, kể từ năm 2013, công ty luật Abmak Associates được thuê làm cố vấn pháp lý ở Uganda cho Dongsong.

Giám đốc điều hành của công ty luật, Henry A. Kaliisa, con trai của Fred Kabagambe Kaliisa, người từng là quan chức năng lượng quyền lực nhất ở Uganda. Ông này đã từ chức sau vụ bê bối đập nhưng vẫn có ảnh hưởng rất lớn.

Cuộc cạnh tranh của người Mỹ

Uganda cũng đưa tập đoàn Mỹ vào danh sách nhà thầu và các quan chức Uganda cũng đã tới Washington khảo sát. Bà Jandhyala và đối tác tài chính, Ronald Mincy, đã tổ chức đón tiếp họ ở Washington. Tuy nhiên, theo NYT, vấn đề tài chính trở thành chủ đề nóng của cuộc họp.

Trong một báo cáo nội bộ sau đó, nhóm nghiên cứu của chính phủ Uganda đã đánh giá Dongsong cao hơn nhưng vẫn đề nghị mời doanh nghiệp hai nước đến Uganda để đàm phán song song.

Tuy nhiên, Dongsong đã từ chối và cuối cùng, chính phủ Uganda quyết định đàm phán vòng cuối với doanh nghiệp Mỹ.

NYT cho biết, cùng lúc đó, một nhà thầu Trung Quốc khác, CNOOC, lặng lẽ xuất hiện vào phút cuối, cạnh tranh dự án xây dựng nhà máy lọc dầu và hy vọng sẽ mở rộng quyền kiểm soát với các mỏ dầu.

Điều này buộc bà Jandhyala phải tìm kiếm sự giúp đỡ từ Washington và đó là tổ chức cung cấp tài chính của chính phủ Mỹ OPIC.

OPIC không cam kết sẽ cung cấp khoản đầu tư 1 tỷ USD như các ngân hàng Trung Quốc cung cấp nhưng họ đã gửi một lá thư cho biết, họ sẽ xem xét khoản vay 250 triệu USD và cung cấp bảo hiểm vay vốn.

“Điều này mang lại niềm tin cho người khác”, bà Jandhyala nói.

Trong khi đó, Bộ Thương mại Mỹ xác định rằng dự án này phù hợp với lợi ích của Washington và cho phép Đại sứ Mỹ tại Uganda vận động hàng lang cho doanh nghiệp nước này.

Đại sứ Mỹ Deborah Malac cho biết bà đã thảo luận vấn đề này với Bộ trưởng Năng lượng Uganda cũng như Tổng thống Uganda. Bộ trưởng Thương mại Mỹ Wilbur Ross đã gửi hai bức thư và gọi điện trao đổi với chính phủ Uganda.

Do đó, vào tháng 1/2018, Tổng thống Uganda đã triệu tập một cuộc họp bên hồ Victoria, yêu cầu các quan chức năng lượng ngồi lại và thảo luận với bà Jandhyala và các đối tác. Sau đó, một thỏa thuận được ký vào tháng 4 cùng năm.

“Tôi nghĩ rằng, bài học quan trọng nhất là chúng ta phải chủ động”, Đại sứ Malac nói, “Với tư cách là chính phủ Mỹ, chúng ta phải chủ động tìm cơ hội để hỗ trợ các doanh nghiệp Mỹ”.

Abigail Grace, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Xã hội mới của Mỹ, từng làm việc trong Hội đồng an ninh Quốc gia Nhà Trắng, cho rằng các nhà ngoại giao Mỹ trên toàn cầu nên được đào tạo để đối phó với các vấn đề Trung Quốc.

Bà nói: “Ví dụ lần này cho thấy rằng, mặc dù mọi người đều nghĩ rằng Trung Quốc có thể đạt được lợi thế nhưng nếu chúng ta đồng tâm hiệp lực, chúng ta có thể giành chiến thắng.”

Vào tháng 10 năm ngoái, Tổng thống Trump đã ký một dự luật thành lập một cơ quan mới để thay thế tổ chức OPIC và cung cấp 60 tỷ USD – gấp đôi so với trước đây nhưng đây vẫn là một phần nhỏ so với những gì Bắc Kinh đầu tư.

Trong khi đó, GE đã bắt đầu bán cổ phần của mình trong công ty dịch vụ mỏ dầu thuộc tập đoàn của bà Jandhyala. Sự rút lui của GE có thể làm suy yếu niềm tin của Uganda vào thỏa thuận này khả năng đảm bảo tài chính của doanh nghiệp Mỹ cũng chưa được chắc chắn.

 

Trái lại, người Trung Quốc đã tiếp tục di chuyển. Ông Lữ Vĩ Đông nói, ông dự định đầu tư vào một mỏ quặng ở Mozambique. Vào tháng 9 vừa qua, CNOOC cũng đã đạt được thứ mà họ muốn: Uganda đồng ý cho phép doanh nghiệp này tiến hành thăm dò một khu vực mới ở hồ Albert.

http://biendong.net/doc-bao-viet/25920-tu-kho-bau-o-chau-phi-my-da-tim-ra-cach-khac-che-sang-kien-vanh-dai-va-con-duong-cua-tq.html

 

Mỹ không loại trừ khả năng đưa hàng không mẫu hạm

 qua eo biển Đài Loan

Hải quân Hoa Kỳ không loại trừ khả năng đưa một hàng không mẫu hạm đi qua eo biển Đài Loan, bất chấp những tiến bộ về công nghệ quân sự của Trung Quốc đang đề ra mối đe dọa lớn hơn bao giờ hết cho các tàu chiến của Hoa Kỳ, Reuters dẫn lời người đứng đầu về các hoạt động hải quân của Hoa Kỳ cho biết hôm 18/1.

Washington từng đưa tàu đi qua tuyến thủy lộ chiến lược này 3 lần vào năm ngoái, trong quá trình thực hiện việc thường xuyên đi qua eo biển ngăn cách Đài Loan với Trung Quốc đại lục. Tuy nhiên, trong hơn 10 năm qua, Hoa Kỳ chưa từng phái một hàng không mẫu hạm tới đây.

Trong thời gian đó, Trung Quốc đã hiện đại hóa các lực lượng của mình bằng tên lửa được thiết kế để tấn công tàu địch.

“Chúng tôi thực sự không thấy có bất kỳ giới hạn nào đối với bất kỳ loại tàu nào có thể đi qua vùng biển đó”, Reuters dẫn lời Đô đốc John Richardson nói với các phóng viên ở thủ đô Nhật Bản, khi được hỏi liệu vũ khí tiên tiến hơn của Trung Quốc có đề ra rủi ro quá lớn hay không.

“Chúng tôi xem eo biển Đài Loan như những vùng biển quốc tế khác, đó là lý do tại sao chúng tôi lại đi qua đây”.

Hàng không mẫu hạm, thường được trang bị khoảng 80 máy bay và khoảng 5.000 nhân lực, là chìa khóa cho khả năng hoạt động trên toàn cầu của quân đội Hoa Kỳ.

Hôm thứ Ba, một giới chức Hoa Kỳ nói với Reuters rằng Hoa Kỳ đang theo dõi chặt chẽ ý định của Trung Quốc đối với Đài Loan vì những tiến bộ trong công nghệ quân sự mang lại cho các lực lượng của Bắc Kinh nhiều khả năng hơn để chiếm hòn đảo mà họ luô coi là một tỉnh ly khai.

Trong một báo cáo, Cơ quan Tình báo Quốc phòng Hoa Kỳ gọi Đài Loan là “động cơ chính” cho việc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc.

Ông Richardson, người đã đến thăm Trung Quốc trước khi tới Nhật Bản, cho biết ông đã nói với các đối tác Trung Quốc rằng Hoa Kỳ phản đối bất kỳ hành động đơn phương nào của Bắc Kinh hoặc Đài Bắc.

Ông cũng kêu gọi Trung Quốc tuân thủ các quy tắc quốc tế trong các cuộc chạm trán ngoài dự kiến trên biển.

Yêu cầu này được đưa ra sau khi một khu trục hạm của Trung Quốc đã áp sát khu trục hạm của Mỹ USS Decatur hồi tháng 10 và buộc nó phải thay đổi hướng đi khi con tàu dám thách thức yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông bằng quyền tự do hoạt động hàng hải (FONOP).

“Chúng ta không nên xem nhau như một sự hiện diện đầy đe dọa trong những vùng biển này”, Reuters dẫn lời ông Richardson nói.

Hải quân Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đi qua khu vực Biển Đông mà Bắc Kinh xem là lãnh thổ của mình.

Hôm 7/1, một khu trục hạm tên lửa dẫn đường của Mỹ đã đi vào khu vực 12 hải lý của quần đảo Hoàng Sa, nơi Trung Quốc chiếm đóng, khiến Bắc Kinh lên tiếng phản đối mạnh mẽ rằng con tàu đã “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc”.

https://www.voatiengviet.com/a/my-khong-loai-tru-kha-nang-dua-hang-khong-mau-ham-qua-eo-bien-dai-loan/4748855.html

 

TT Maduro: Venezuela nhận

2.000 bác sĩ Cuba đến từ Brazil

Venezuela sẽ nhận 2.000 bác sĩ Cuba, những người rời khỏi Brazil sau bất đồng giữa đảo quốc thuộc chính quyền Cộng sản và chính phủ của Tổng thống Brazil Jair Bolsonaro ngả về phía cực hữu.

Ông Bolsonaro đã ra lệnh chấm dứt hoạt động của các bác sĩ Cuba sau khi ông nhậm chức đầu năm nay.

Ông Bolsonaro cho biết khoảng 11.000 bác sĩ Cuba đang bị sử dụng như các “nô lệ lao động”. Ông yêu cầu rằng chính phủ Cuba thay vì lấy tới 75% tiền lương của các bác sĩ, họ cần phải cho phép các bác sĩ được nhận 100% lương, cũng như cho gia đình được đến ở cùng với họ.

Cuba đã từ chối và rút các bác sĩ ra.

“Tuần tới, chúng ta sẽ có một sự kiện đặc biệt để đón 2.000 bác sĩ cộng đồng mới mà Cuba sẽ đưa đến với chúng ta. Họ sẽ đến từ Brazil”, Tổng thống Nicolas Maduro của Venezuela cho biết trong một chương trình truyền hình.

“Chủ nghĩa phát xít Brazil đã kết liễu chương trình sức khỏe, và 2.000 bác sĩ đang đến Venezuela”, ông nói.

Các phòng khám do các bác sĩ Cuba điều hành là một chương trình đặc trưng của cố lãnh đạo theo đường lối xã hội chủ nghĩa Hugo Chavez, người đã hưởng lợi từ ngành dầu mỏ trong suốt 14 năm cầm quyền, kết thúc cầm quyền khi ông qua đời năm 2013 vì ung thư. Venezuela chi trả cho các dịch vụ y tế bằng các đợt xuất khẩu dầu.

Ông Maduro, vị lãnh đạo phải chứng kiến sự sụp đổ của nền kinh tế từng có thời phát triển mạnh mẽ, cũng đối mặt với ngày càng nhiều lời kêu than về hệ thống y tế xuống cấp hoặc các cơ sở dần dần bị bỏ hoang, những nơi từng do các bác sĩ Cuba điều hành. Ông Maduro không cho biết chi tiết về việc Venezuela sẽ trả tiền cho các dịch vụ của bác sĩ Cuba như thế nào.

https://www.voatiengviet.com/a/4748943.html

 

Venezuela : Bắt cóc chủ tịch Quốc Hội,

12 nhân viên an ninh vào tù

Thụy My

Tại Venezuela, 12 nhân viên an ninh bắt cóc chủ tịch Quốc Hội Juan Guaido, nhà đối lập với tổng thống Maduro hôm qua 17/01/2019 đã bị tòa án Caracas ra lệnh bắt giam.

Theo tòa án, các nhân viên thuộc cơ quan An ninh quốc nội (SEBIN) đã « vi phạm quyền tự do, lạm dụng quyền lực, liên kết với các tổ chức tội phạm ». Họ bị tống giam vào Hélicoide, nổi tiếng là một trong những nhà tù tệ hại nhất Venezuela.

Ông Juan Guaido, chủ tịch Quốc Hội – định chế duy nhất nằm trong tay đối lập – hôm 13/01 đã bị những người bịt mặt bắt cóc trên đường ra sân bay đi dự một cuộc mít-tinh.

Chính quyền Caracas sau đó rũ bỏ mọi trách nhiệm, cho rằng các nhân viên này hành động một cách đơn phương và bất hợp pháp. Chính quyền cũng cáo buộc ông Rodriguez Mucura, lãnh đạo SEBIN từ 18 năm qua đã bị phe đối lập cực hữu mua chuộc để làm mất ổn định đất nước.

Ông Guaido, kỹ sư 35 tuổi, lên làm chủ tịch Quốc Hội từ ngày 05/01, cho biết sẵn sàng lãnh đạo đối lập. Ông nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OEA), và đang kêu gọi dân chúng biểu tình quy mô vào ngày 23/01 tới.

http://vi.rfi.fr/quoc-te/20190118-venezuela-bat-coc-chu-tich-quoc-hoi-12-nhan-vien-an-ninh-vao-tu

 

Colombia : Ba ngày quốc tang

sau vụ khủng bố khiến hơn 20 người chết

Mai Vân

Một vụ khủng bố bằng xe gài chất nổ đã xảy ra vào sáng 17/01/2019, nhắm vào một trường cảnh sát ở thủ đô Bogota. Hậu quả là đã có 21 người thiệt mạng và hơn 70 người bị thương. Thủ phạm, một người Colombia, đã chết tại chỗ. Tổng thống Ivan Duque tuyên bố 3 ngày quốc tang.

Đây là vụ khủng bố nghiêm trọng nhất từ năm 2003 đến nay tại Bogota và từ lúc chính phủ ký hiệp ước hòa bình với quân du kích FARC.

Tối 17/01, tổng thống Colombia đã loan báo ba ngày quốc tang và hứa trừng trị những kẻ khủng bố. Ông đồng thời kêu gọi đoàn kết quốc gia để hợp sức chống bạo lực, hỗ trợ lực lượng an ninh để truy bắt và trừng trị thủ phạm của “hành động dã man” đó.

Hiện nay, phiến quân thuộc lực lượng Quân Đội Giải Phóng Quốc Gia ELN bị nghi ngờ là chủ mưu vụ khủng bố hôm 17/01.

Thủ phạm lái chiếc xe gài chất nổ đã được nhận diện : Aldemar Rojas Rodriguez, 56 tuổi, người vùng Arauca, cứ địa truyền thống của ELN, cho nên mối nghi ngờ tập trung trên lực lượng du kích này.

Tuy nhiên, giới chuyên gia vẫn thận trọng : Chưa ai lên tiếng thừa nhận là tác giả vụ khủng bố và có thể sẽ không ai lên tiếng. Ngoài ra cũng không thể gạt bỏ khả năng thủ phạm là một nhóm khác.

Trong những nhóm đáng nghi có Nhóm Vùng Vịnh, tổ chức mafia lớn nhất ở Colombia, hoặc những thành viên ly khai của lực lượng FARC chưa bỏ vũ khí, hay lực lượng dân quân cực hữu chống lại hiệp ước hòa bình với FARC.

http://vi.rfi.fr/quoc-te/20190118-colombia-3-ngay-quoc-tang-sau-vu-khung-bo-khien-hon-20-nguoi-chet

 

Những hậu quả Anh chưa lường hết

khi tuyên bố đặt căn cứ quân sự ở Đông Nam Á

Căn cứ quân sự của Anh ở Đông Nam Á có thể bày tỏ sự đồng lòng với Mỹ trong việc kiềm chế Trung Quốc, xa hơn là thể hiện tham vọng gia tăng ảnh hưởng toàn cầu của Anh hậu Brexit.

Vừa qua, cả hai quan chức của Anh là Ngoại trưởng Jeffrey Hunt và Bộ trưởng Quốc phòng Gavin Williamson đều tuyên bố rằng Anh sẽ thành lập một căn cứ hải quân lâu dài ở Đông Nam Á – có thể ở Singapore hoặc Brunei. Đây sẽ là căn cứ quân sự mới đầu tiên của Anh trong khu vực sau hơn nửa thế kỷ.

Theo Mark J. Valencia, học giả người Mỹ tại Viện nghiên cứu quốc gia về Biển Đông tại Trung Quốc, ý tưởng của London được cho là phần nào đến từ kế hoạch Brexit.

Vương quốc Anh chắc chắn sẽ suy yếu khi rút khỏi Liên minh châu Âu (EU), ít nhất là trong khoảng thời gian đầu. Một số thành viên trong chính quyền Thủ tướng Theresa May cho rằng, để phát triển, sau khi chia tách, quốc gia phải thúc đẩy quan hệ kinh tế với châu Á. Để đảm bảo điều này, Anh phải bảo vệ các tuyến đường biển và đầu tư tại đó. Và vì Anh không thể làm điều này một mình nên London cần tăng cường quan hệ quân sự với Mỹ – quốc gia đang cần sự giúp đỡ để hạn chế Bắc Kinh ở Biển Đông.

Bắc Kinh vốn cũng đã coi chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương của Mỹ và sự hồi sinh của “Bộ tứ kim cương” gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Australia và Mỹ – là bằng chứng cho nỗ lực tìm kiếm sự hợp tác nhằm kiềm chế Bắc Kinh của Washington thời gian qua.

Bởi vậy Trung Quốc rất có thể coi động thái của Anh là minh chứng cho một liên minh của phương Tây đang âm mưu chống lại nước này.

Ngoài ra, sự hiện diện của một căn cứ và tần suất tuần tra lớn của Anh sẽ đồng nghĩa với việc nhiều tàu thăm dò tình báo có thể phát hiện ra các bí mật của Trung Quốc.

Do vậy, Trung Quốc chắc chắn sẽ phản đối quyết liệt kế hoạch này.

Ngoài ra, theo ông Valencia, những người theo chủ nghĩa dân tộc ở các quốc gia sở tại hay trong khu vực chắc chắn sẽ thể hiện sự phản đối mạnh mẽ, giữa những nghi ngại của các nước láng giềng đối với quốc gia có sự hiện diện của căn cứ quân sự Anh quốc.

Căn cứ này sẽ ngay lập tức trở thành mục tiêu của Bắc Kinh trong bất kỳ cuộc xung đột nào và nước chủ nhà khó tránh khỏi các mối quan hệ chính trị và kinh tế khó khăn với Trung Quốc trong tương lai gần.

Tất nhiên, Singapore có thể coi căn cứ quân sự của Anh là một phương án dự phòng trong trường hợp Mỹ rút lui khỏi khu vực. Tuy nhiên Singapore sau đó sẽ phải sống với những hậu quả lâu dài khi sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc đang ngày một tăng lên. Còn đối với Brunei, thật khó để tưởng tượng làm cách nào để một xã hội Hồi giáo nghiêm ngặt có thể chấp thuận chào đón một lực lượng quân đội nước ngoài.

Nguy hiểm hơn, một căn cứ mới trong khu vực cho một đồng minh của Mỹ còn đẩy nhanh cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, khi Bắc Kinh liên tục bành trướng và Washington thì vội vã nâng cấp khả năng quân sự của đồng minh.

http://biendong.net/doc-bao-viet/25919-nhung-hau-qua-anh-chua-luong-het-khi-tuyen-bo-dat-can-cu-quan-su-o-dong-nam-a.html

 

Pháp khởi động kế hoạch khẩn cấp

 “Brexit không hiệp định”

Tú Anh

Sau khi Quốc Hội Anh bác bỏ dự thảo hiệp định Brexit, Pháp thông báo kế hoạch khẩn cấp để bảo vệ quyền lợi quốc gia và kiều dân ở hai nước cũng như tăng cường các biện pháp hải quan theo hướng giới hạn thiệt hại cho ngoại thương.

Nhận thấy xác suất ly thân Anh Quốc-Liên Hiệp Châu Âu trong tình hữu hảo gần như quá thấp, chính phủ Pháp khẩn cấp ban hành « kế hoạch Brexit không hiệp định ».

Chiều 17/01/2019, tức 24 giờ sau khi đại đa số dân biểu Anh bác bỏ dự án thỏa thuận của thủ tướng Theresa May, tại Paris, thủ tướng Edouard Philippe thông báo : Pháp phải sẵn sàng, quyền lợi công dân phải được bảo đảm với các biện pháp luật pháp và tư pháp được chuẩn bị từ tháng Tư năm 2018.

Bảo vệ quyền lợi kiều dân hai nước

Cụ thể, để có thể giới hạn thiệt hại kinh tế quốc gia sau khi Anh ra đi không thỏa thuận, không những quyền lợi kiều dân Pháp tại Anh, 300 ngàn người, mà quy chế kiều dân Anh sống tại Pháp, 200 ngàn, phải được bảo vệ, không ai phải hồi hương hay bị kỳ thị. Một cách rộng lượng, chính phủ Pháp muốn duy trì thụ đắc xã hội, trợ cấp hồi hưu, thất nghiệp cho kiều dân Anh, cấp giấy định cư một năm sau khi họ bị mất quy chế công dân Liên Hiệp Châu Âu.

Paris cũng hy vọng Luân Đôn đối xử công bằng với kiều dân Pháp

Bảo vệ quyền lợi doanh nhân

Trước mối lo ngại xuất nhập khẩu bị tác động tiêu cực làm chậm hoặc giảm tiến độ trao đổi thương mại, thủ tướng Pháp nhấn mạnh đến kế hoạch yểm trợ cho 3.000 công ty đầu tư làm ăn tại Anh và 30.000 công ty xuất khẩu hàng hóa qua biển Manche.

Ác mộng của doanh nhân và của hải quan đôi bên là làm sao lượng hàng hóa hai nước tiếp tục lưu thông như 40 năm qua một khi hàng rào biên giới thiết lập lại. Cảng Boulogne-Calais sẽ nâng cấp một bãi đậu xe có sức tiếp đón cùng lúc 200 xe tải chờ khám xét thủ tục và một khu mới để kiểm dịch thú y.

Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng có thể tiếp tục thời vàng son tự do đi lại cho dù Pháp đã tính đến phương án làm thủ tục hải quan trên mạng. Biện pháp càng mới thì càng có phí tổn cao. Trong bước đầu, chính phủ Pháp dự chi 50 triệu euro để canh tân cơ sở và tuyển mộ 600 nhân viên hải quan, y tế để lưu thông hàng hóa không bị đình trệ.

Đánh cá : Hồ sơ nát óc cho Pháp

Tuy nhiên, nếu Anh Quốc ly thân không thỏa thuận, thì lãnh vực ngư nghiệp giữa Anh và Pháp, trong biển Manche sẽ là một vấn nạn. Bởi vì trong 40 năm qua, ngư dân hai bờ eo biển Manche có quyền qua lại đánh bắt, đôi bên cùng có lợi nhưng ngư dân Pháp được ưu đãi hơn vì biển bên Anh nhiều cá.

Không có thỏa thuận, Anh Quốc sẽ tái lập vùng đặc quyền kinh tế và tùy nghi phân chia định mức. Thủ tướng Pháp cam kết sẽ bảo vệ quyền lợi ngư dân nhưng không thông báo một biện pháp cụ thể nào.

Liệu « kế hoạch khẩn cấp » của Pháp có thể là một lá bài thấu cáy thúc giục Luân Đôn và Bruxelles tìm một thỏa hiệp mới, một phương án B mà báo chí suy đoán. Hy vọng mong manh.

http://vi.rfi.fr/phap/20190118-brexit-phap-khoi-dong-ke-hoach-khan-cap

 

Pháp: TT Macron tái khẳng định

vai trò quân đội Pháp ở Sahel và Syria

Mai Vân

Đến chúc năm mới quân đội Pháp vào ngày 17/01/2019, tại một căn cứ quân sự gần Toulouse, thành phố miền nam, tổng thống Pháp Emmanuel Macron khẳng định nước Pháp vẫn tiếp tục hỗ trợ cuộc chiến chống khủng bố ở vùng Sahel (Châu Phi) và việc ổn định tình hình ở Trung Đông, bao gồm Syria.

Phần đầu bài diễn văn của tổng thống Pháp dành cho đại gia đình quân đội, những lính trẻ mới nhập ngũ, thương binh, và cả những người đã giải ngũ về hưu. Ông nói lên niềm tự hào của những người phục vụ « nước Pháp, những giá trị Pháp », nhưng cũng tỏ ý quan tâm đến tinh thần và cả trang thiết bị của quân đội.

Trong bài chúc mừng đầu năm này, tổng thống Pháp cũng nhắc lại cam kết của Pháp đối với bên ngoài. Theo ông, Pháp sẽ dẫn đầu chiến dịch ở Sahel « trong thời hạn dài », sẽ « không giảm lực lượng », qua đó trấn an các đối tác châu Phi của Paris.

Một số đông binh sĩ đến nghe ông Macron sẽ tham gia chiến dịch Barkhane tại châu Phi. Tổng thống Pháp xác định rằng mong muốn đầu tiên của ông là nâng cao trình độ của quân đội châu Phi đến mức mà họ có thể đẩy lùi lực lượng thánh chiến, và ông không quên nhấn mạnh đến lực lượng hỗn hợp của nhóm G5 Sahel.

Theo ông Macron, những tuần lễ sắp tới mang tính quyết định. Ông cũng khẳng định rằng chiến lược mới của Pháp không chỉ dựa trên quốc phòng, sức mạnh quân sự, mà còn kết hợp với phát triển và ngoại giao.

Về cuộc chiến chống Daech ở Syria, ông Macron cảnh báo : « Rút lui vội vã sẽ là một sai lầm », cuộc chiến vẫn chưa chấm dứt. Do vậy, năm 2019, Pháp vẫn tiếp tục ở lại Syria nhưng cách bố trí lực lượng sẽ tùy thuộc vào tình hình tại chỗ.

http://vi.rfi.fr/phap/20190118-phap-tt-macron-tai-khang-dinh-vai-tro-quan-doi-phap-o-sahel-va-syria

 

Đài Loan: Ý kiến nói về

‘nỗi sợ bị thống nhất’ với Trung Quốc

Nguyễn Trung ChínhGửi đến BBC từ Đài Bắc

Từ phát biểu kỷ niệm 40 năm “Thư gửi đồng bào Đài Loan” cho đến tuyên bố của bà Thái Anh Văn, các sự kiện đầu năm 2019 làm dấy lại nỗi sợ bị ‘thống nhất’ với Trung Quốc ở Đài Loan.

Ngày 2/1/2019, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đọc bài phát biểu về quan hệ giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan – còn gọi là quan hệ Lưỡng ngạn – hai bên eo biển – nhân dịp kỷ niệm 40 năm “Thư gửi đồng bào Đài Loan” được đưa ra vào năm 1979 sau khi Bắc Kinh và Washington chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tập Cận Bình: Đài Loan ‘phải và sẽ’ hợp nhất với TQ

Chỉ 3% người Đài Loan muốn ‘về với Trung Quốc’

Thái Anh Văn thua nặng, xu hướng thân Bắc Kinh thắng thế?

Bài phát biểu của Tập Cận Bình có ý nghĩa hết sức quan trọng khi đưa ra năm phương châm chính trong quan hệ hai bờ trong thời gian tới, trong đó nổi bật nhất phải kể đến đề xuất “một quốc gia hai chế độ và phương án Đài Loan” lần đầu tiên được đưa ra.

Phát biểu của Tập Cận Bình có lời lẽ dứt khoát, răn đe các hoạt động “Đài Loan độc lập” (Đài độc – 台獨) khi ông tuyên bố:

“Người Trung Quốc không đánh người Trung Quốc, nhưng chúng tôi không loại trừ dùng mọi biện pháp cần thiết để chống lại các thế lực bên ngoài hòng can thiệp vào quá trình thống nhất hòa bình cũng như các hoạt động thúc đẩy độc lập của Đài Loan.”

Đáp lại tuyên bố “đe dọa dùng vũ lực” của Tập Cận Bình, ngay trong chiều ngày 2/1/2019, Tổng thống Đài Loan, bà Thái Anh Văn đã mở họp báo tại Phủ tổng thống Đài Loan và có bài phát biểu dài 6 phút về quan hệ xuyên eo biển.

Trong bài phát biểu, bà Thái nói:

“Chúng tôi chưa bao giờ chấp nhận ‘Nhận thức chung năm 1992′, thực chất cái gọi là Nhận thức chung năm 1992 chính là “một nước Trung Quốc’, ‘một quốc gia hai chế độ’.

Tôi phải nhấn mạnh rằng Đài Loan tuyệt đối không chấp nhận ‘một quốc gia hai chế độ’ và đại đa số người Đài Loan đều kiên quyết phản đối một quốc gia hai chế độ. Đây cũng chính là ‘Nhận thức chung Đài Loan’ (Taiwan Concensus).”

Nỗi sợ bị thống nhất

Phát biểu của bà Thái ngay lập tức đã tạo ra hiệu ứng mạnh mẽ trong xã hội Đài Loan, đa phần các ý kiến trên mạng xã hội lớn đều đồng tình với phản ứng kịp thời, nhanh chóng của chính phủ trước những đe dọa từ Trung Quốc đại lục.

Dân mạng Đài Loan tán dương thái độ “dứt khoát, không hề khuất phục” của Tổng thống Thái Anh Văn trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Đài Loan.

Ngay sau đó, tỷ lệ ủng hộ của bà Thái đã tăng lên nhanh chóng kể từ sau khi thất bại của Đảng Dân Tiến trong bầu cử địa phương ngày 24/11/2018 trước đó.

Đối với đại bộ phận dân Đài, Trung Quốc đại lục và Đài Loan có lời qua tiếng lại với nhau hay như việc Trung Quốc đe dọa dùng vũ lực thống nhất Đài Loan là chuyện ‘như cơm bữa’.

Chính vì vậy, khi ông Tập tuyên bố không loại trừ biện pháp dùng vũ lực thống nhất Đài Loan cũng không khiến cho dân chúng Đài Loan quá hoang mang hay lo sợ.

Nhiều người Đài Loan nói rằng, không việc gì phải sợ hãi cả, vì nếu mà “Cộng Phỉ” (共匪, từ miệt thị gọi Trung Quốc đại lục) có đánh đến thì Mỹ và Nhật Bản sẽ điều quân giúp đỡ Đài Loan.

Theo một điều tra ngẫu nhiên đối với 175 sinh viên của GS Alexander Huang, ĐH Đạm Giang thực hiện hôm 15/1/2019, có hơn 51,43% sinh viên lựa chọn “thân Mỹ” khi xảy ra xung đột với Trung Quốc đại lục.

Điều khiến họ bất bình nhất là Tập Cận Bình định nghĩa lại “Nhận thức chung năm 1992”, ám chỉ rằng “cả Trung Quốc đại lục và Đài Loan đều thuộc về nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa”.

Tôi bỏ thời gian ra hỏi hai người Đài Loan. Cả hai xin phép chỉ nêu họ mà không nêu tên vì cẩn thận nhưng nói rõ quan điểm của họ về tình hình đầu năm nay.

Cô Lee (Lý), đang làm ở một công ty phân tích ngôn ngữ tại Đài Bắc cho biết:

“Tôi rất lo lắng nếu một ngày nào đó Đài Loan trở thành một phần của Trung Quốc. Người Trung Quốc ngày nay có quyền, có thế, thủ đoạn mờ ám, còn các nhân vật chính trị tại Đài Loan thì chỉ biết lo cho lợi ích của bản thân mình. Tôi và một vài người bạn của tôi đều không thể chấp nhận bản thân mình sẽ trở thành người Trung Quốc, chỉ mong rằng chính phủ và tổng thống có thể giữ vững lập trường, bảo vệ chủ quyền quốc gia.”

Còn theo Giáo sư Zhang (Trương), giảng viên tại Đại học Quốc lập Đài Bắc thì cho rằng:

“Tôi không đặc biệt thích hoặc ghét Thái Anh Văn. Từ trước đến nay tôi luôn có cảm giác rằng bà Thái là một vị tổng thống không được dư luận chú ý đến nhiều. Tuy nhiên, trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hiện nay, tôi rất tán thành cách làm của bà Thái. Chỉ mong rằng Trung Quốc và Đài Loan có thể đàm phán một cách bình đẳng và công bằng.”

Sự bá đạo của Bắc Kinh

Trên thực tế, đại bộ phận dân chúng Đài Loan từ xưa đến nay đều cho rằng “Nhận thức chung năm 1992” có nghĩa là “Trung Quốc đại lục là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa, còn Đài Loan là Trung Hoa Dân Quốc”.

Do vậy có thể thấy, phát biểu của Tập đã gạt đi sự tồn tại của nước “Trung Hoa Dân Quốc”.

Chính vì vậy, dân chúng Đài Loan cho rằng đây chính là sự ngang ngược, bá đạo của Trung Quốc đại lục, không hề cân nhắc đến cảm nhận của 23 triệu người dân Đài Loan.

Trong bối cảnh sức mạnh kinh tế, quân sự của Trung Quốc ngày càng lớn mạnh, tương quan lực lượng giữa Trung Quốc đại lục và Đài Loan cũng ngày càng mở rộng, người Đài Loan trong những năm qua đã ý thức sâu sắc được thực tế này.

Qua tiếp xúc với nhiều người Đài Loan, họ thường nói đùa rằng, “không biết bao giờ sẽ BỊ THỐNG NHẤT đây?” Từ “bị” ở đây được mang nghĩa “tiêu cực”, cho thấy đối với người Đài Loan mà nói việc thống nhất với Trung Quốc đại lục là điều gì rất đáng sợ.

Và tuyên bố dùng vũ lực của Tập Cận Bình cũng như các quan chức quân đội Trung Quốc thời gian gần đây dường như càng làm gia tăng sự ác cảm của dân chúng Đài Loan đối với Trung Quốc đại lục.

Nhiều người còn nói rằng, câu trước và câu sau trong phát biểu của Tập Cận Bình tự mâu thuẫn với nhau khi câu trước nói “người Trung Quốc sẽ không đánh người Trung Quốc”, nhưng ngay câu sau lại đe dọa “không từ bỏ biện pháp nào” để thống nhất Đài Loan.

Tuyên bố mạnh mẽ của Tập dường như đang phản tác dụng khi đã không thể thu phục được “nhân tâm” của dân chúng Đài Loan, trái lại nó càng tạo ra sự gắn kết xã hội Đài Loan, và gia tăng sự ủng hộ của dân chúng Đài Loan đối với chính phủ của Tổng thống Thái Anh Văn.

Người dân Đài Loan kỳ vọng điều gì?

Bức thư pháp 1.200 tuổi làm Trung Quốc tức giận

Đài Loan, hòn đảo ‘xin lỗi’ của thế giới

Đài Bắc muốn tăng trao đổi quân sự với Mỹ

Rất nhiều người Việt khi nhắc về Đài Loan đều cho rằng dân chúng Đài Loan “rất ghét Trung Quốc” hoặc “đại đa phần dân chúng Đài Loan đều muốn độc lập”.

Thực ra, theo quan sát của tôi, đây là những quan điểm chủ quan, chưa có luận cứ khoa học rõ ràng và chưa phản ánh đúng thực chất tâm lý của người dân Đài Loan.

Theo kết quả điều tra năm 2018 của Trung tâm Nghiên cứu Bầu cử, Đại học Chính trị quốc gia Đài Loan, có đến 85% số người được hỏi mong muốn giữ nguyên hiện trạng trong quan hệ với Trung Quốc đại lục (có nghĩa là không thống nhất mà cũng không tuyên bố độc lập).

Cùng lúc 4,5% dân chúng ủng hộ giải pháp “thống nhất với Trung Quốc”, và chỉ 4,1% dân chúng cho rằng “Đài Loan phải tuyên bố độc lập ngay lập tức”.

Kết quả trên phản ánh tâm lý chủ đạo trong xã hội Đài Loan là tiếp tục duy trì một mối quan hệ “có ranh giới mơ hồ” như hiện nay với Trung Quốc đại lục.

Hiện trạng quan hệ là một mặt Đài Loan vẫn có thể trao đổi giao lưu kinh tế, văn hóa với đại lục, mặt khác không bị phụ thuộc về chính trị với Trung Quốc, qua đó người dân Đài Loan có thể tiếp tục được hưởng tự do, dân chủ như đang có.

Cả giải pháp “thống nhất với Trung Quốc đại lục” và “tuyên bố độc lập” đều không thể mang lại những lợi ích như việc duy trì hiện trạng, nên không được đa số người dân Đài Loan đều ủng hộ.

Một điều thú vị là, cũng theo điều tra năm 2018, có 55.3% người được hỏi cho rằng mình là người Đài Loan, trong khi chỉ có 4% người được hỏi tự nhận mình là người Trung Quốc.

Kết quả này dường như mâu thuẫn với tỷ lệ “ủng hộ độc lập hay thống nhất” được đề cập ở trên nhưng lại phản ánh một thực tế rằng nhận thức mình là người Đài Loan và ủng hộ, trân trọng các giá trị tự do, dân chủ càng tăng lên theo thời gian.

Đài Loan có một thế hệ “độc lập tự nhiên” (天然獨), chỉ ai sinh ra sau 1980, có ý thức mạnh về khác biệt Trung Quốc và Đài Loan và có khuynh hướng độc lập với Trung Quốc đại lục về văn hóa, ý thức hệ, không muốn thống nhất với Trung Quốc đại lục trên thực tế.

Do vậy, dù Trung Quốc trong tương lai có thể thống nhất Đài Loan, nhưng rất khó có thể thu phục nhân tâm của thế hệ “độc lập tự nhiên” này.

Hố ngăn chia rẽ, khác biệt trong giá trị, văn hóa giữa hai bên hình thành qua nhiều thế hệ sẽ rất khó có thể lấp đầy được.

Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả Nguyễn Trung Chính hiện làm việc tại Đài Bắc.

https://www.bbc.com/vietnamese/forum-46910065

 

Đài Loan gia tăng theo dõi báo chí thân Trung Quốc

Tú Anh

Đài Bắc sẽ gia tăng điều tra các tờ báo thân Bắc Kinh đe dọa an ninh hải đảo và tung tin thất thiệt chống các nhà hoạt động chính trị có tinh thần độc lập với Trung Quốc. Một viên chức thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra Đài Loan cho biết như trên.

Theo bản tin Reuters ngày 18/01/2019, phó giám đốc một đơn vị an ninh tại Đài Bắc cho biết ưu tiên số một của an ninh hải đảo là theo dõi các hoạt động của « thế lực nước ngoài »thù địch với Đài Loan và kêu gọi dân chúng, truyền thông hợp tác giúp phát hiện các hành vi này.

Phản ứng trên đây của an ninh Đài Bắc phát xuất từ một số bài viết trên báo Hồng Kông có lập trường thân Trung Quốc. Cụ thể là Văn Hội báo, trong một bài phóng sự tiết lộ một số sinh hoạt của nhiều nhà hoạt động chống Trung Quốc trong tuần qua đã đến Đài Loan. Bên cạnh đó là Tạ Công báo, một tờ báo bình dân phản ảnh lập trường của Bắc Kinh, thường phê phán gay gắt các nhà hoạt động dân chủ Hồng Kông và chính khách Đài Loan, tung tin thất thiệt, xâm phạm luật lệ Đài Loan, theo tố cáo của phát ngôn viên văn phòng tổng thống.

Trong số báo ngày 14/01, Tạ Công báo và Văn Hội báo đồng loạt đăng bài với hình ảnh đính kèm, tường thuật chi tiết các cuộc họp và sách mà hai thành viên nhóm sinh viên dân chủ Hồng Kông đứng đọc trong một nhà sách. Điều này là « chuyện khủng khiếp », theo nhận xét của một học sinh, là ngay Đài Loan mà dân chúng bị Bắc Kinh theo dõi 7 ngày trên 7.

Theo Reuters, tổng thống Thái Anh Văn cảnh báo công luận đề phòng chiến dịch tung tin giả của Trung Quốc khi Đài Loan bầu lại tổng thống trong hơn một năm nữa.

Một dân biểu của đảng Dân Tiến bài tỏ lo ngại : « Báo chí Hoa lục theo dõi, giám sát hoạt động tại Đài Loan, đây là một vấn đề cho an ninh quốc gia ».

http://vi.rfi.fr/chau-a/20190118-dai-loan-gia-tang-theo-doi-bao-chi-than-trung-quoc

 

Cựu bí thư thôn

“bố già ma túy” Trung Quốc bị xử tử

Cựu bí thư Đảng ủy thôn Bác Xã được mệnh danh là “bố già” của sào huyệt ma túy lớn nhất Trung Quốc vừa bị xử tử.

Thái Đông Gia là quan chức cao cấp nhất của thôn Bác Xã, phía nam tỉnh Quảng Đông và đã bảo kê cho các hoạt động sản xuất, vận chuyển và buôn bán ma túy tại thôn, nơi từng cung cấp hơn 1/3 lượng ma túy trên cả nước.

Khoảng 20% hộ gia đình trong làng đã tham gia hoạt động phi pháp này. Tức cứ 5 người dân Bác Xã thì có một người tham gia vào hoạt động sản xuất, vận chuyển và buôn bán ma túy, bao gồm cả người già về hưu, bà nội trợ và trẻ nhỏ.

Trung Quốc tuyên án tử hình công dân Canada

Khi công an đánh bạc và bảo kê

TQ là nguồn chính cung cấp ma túy vào Mỹ?

Cuối tháng 12/2013, hơn 3000 cảnh sát Trung Quốc đã có một cuộc đột kích quy mô, tiến vào làng vào sáng sớm, thu giữ ba tấn tinh thể meth và hơn nửa tấn ketamine.

Theo Xinhua, cảnh sát đã đập tan 77 xưởng sản xuất ma túy và một điểm chế tạo thuốc nổ. 182 người liên quan thuộc 18 nhóm buôn bán ma túy tại thôn này bị bắt, và 13 quan chức địa phương, gồm cả ông Thái.

Sau một phiên tòa năm 2016, ông Thái đã bị kết án tử hình vì buôn lậu và sản xuất ma túy và bao che cho tội phạm.

Ông ta bị phát hiện đã thông đồng với những người khác để sản xuất 180kg tinh thể meth và đưa hối lộ để giải cứu các đồng phạm đã bị cảnh sát giam giữ, theo truyền thông Trung Quốc.

Cuộc đột kích ma túy lớn nhất lịch sử TQ

Cuộc đột kích cuối 2013 là một trong những cuộc tấn công ma túy lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Nó đã mất sáu năm để lên kế hoạch và 14 giờ để thực hiện. Và mục tiêu chính là thôn Bác Xã.

Bác Xã được mệnh danh là một thiên đường ma túy được người dân địa phương gọi là “Pháo đài”.

Trước cuộc đột kích, họ nghĩ Bác Xã không thể xuyên thủng.

Mọi người ở đó đều có chung họ, Thái, và một số người nói rằng có đến một nửa ngôi làng có liên quan đến việc sản xuất ma túy.

Bên trong các ngôi đền tại Bác Xã, người dân từng đốt những bao tiền thật để cúng tổ tiên.

Và Bác Xã cũng là một trong những nơi đầu tiên ở đất nước Trung Quốc cộng sản có những chiếc siêu xe thể thao đắt tiền.

Trong nhiều năm, cảnh sát tỉnh Quảng Đông, đã liên tục cố gắng đột kích ngôi làng. Và cũng chừng đó năm họ thất bại.

Mỗi lần họ cố gắng vào Bác Xã và đóng cửa các phòng sản xuất ma túy, dân làng đều biết trước sự hiện diện của họ.

Tất cả người dân Bác Xã, từ trẻ nhỏ và người già, đều hợp sức ngăn chặn lối vào của làng.

Đôi khi, họ còn dùng xe máy để bao vây cảnh sát, đe dọa bằng AK47 và lựu đạn.

Và nếu họ có vượt qua được, và đến được địa điểm sản xuất ma túy, thì mọi bằng chứng đã bị xóa sạch.

“Pháo đài” sống đúng theo tên của nó.

Người Bác Xã đều có tai mắt trong chính quyền Đảng Cộng sản địa phương và cảnh sát khu vực.

Vì vậy, để vượt qua các băng đảng, các cấp cao nhất của chính quyền Trung Quốc đã dành nhiều năm lặng lẽ cử người về cuộc sống làng quê.

Từng người một, các quan chức địa phương bị nghi ngờ rò rỉ thông tin đã được thay thế bằng những người được cho “trong sạch”.

Cuối cùng, cảnh sát bán quân sự ưu tú của Trung Quốc ra tay. Họ không thể tin tưởng vào lực lượng địa phương.

3000 cảnh sát bán quan sự ưu tú ập vào làng lúc 4 giờ sáng 29/12/2013. Họ được thả từ máy bay trực thăng và đi bộ.

Một số người đến trên tàu cano cao tốc ở cảng gần nhất cách đó 8km.

Cảnh sát phá sóng điện thoại khiến người dân Bác Xã không thể loan tin cho nhau. Rồi từng nhóm cảnh sát đã càn quét hàng loạt những con đường đá cuội nhỏ hẹp bên trong ngôi làng cổ từ thế kỷ 13.

Ngay lập tức, bí thư Đảng Cộng sản Thái Đông Gia bị còng tay.

Tiếp theo trong danh sách là những tên trùm ma túy sống trong lâu đài cạnh những con đường đất của Bác Xã.

Trong các tầng hầm của những ngôi nhà đồ sộ, và những tòa nhà đổ nát gần đó, họ đã tìm thấy những gì họ đã tìm kiếm – gần ba tấn methamphetamine và 400 tấn thành phần meth đáng kinh ngạc.

Nhiều ngôi nhà chứa hàng đống tiền mặt và vàng miếng.

Lấp ló đằng sau những cánh cổng an ninh phức tạp, cảnh sát buộc phải bẻ khóa để lao vào trong, rội đèn pin vào khuôn mặt của những cư dân đang hoang mang trong biệt thự.

https://www.bbc.com/vietnamese/world-46915429

 

TQ bất ngờ rơi vào

TOP 10 không quân tệ nhất thế giới 2018

 Sở hữu lực lượng không quân có quy mô chỉ thua kém Mỹ và Nga, thế nhưng Trung Quốc vẫn nằm trong TOP 10 không quân tệ nhất thế giới năm 2018 do tạp chí We Are The Mighty bình chọn.

Nói đến chiếm ưu thế trên không người ta thường nghĩ ngay đến Không quân Mỹ, tuy nhiên trên thế giới còn tồn tại hàng trăm quốc gia khác sở hữu lực lượng không quân và không phải ai trong số đó cũng sở hữu sức mạnh áp đảo trên không như của Mỹ.

Và dưới đây là danh sách top 10 không quân tệ nhất năm 2018 do tạp chí We Are The Mighty bình chọn:

10. Không quân Canada: Nghe có vẻ khó tin thế nhưng đồng minh thân cận nhất của Mỹ – Không quân Hoàng gia Canada (RCAF) lại đứng vị trí thứ 10 trong danh sách này. Và dĩ nhiên sự xuất hiện của RCAF trong bảng xếp hạng của We Are The Mighty không dựa trên quy mô của lực lượng không quân này mà cách họ hoạt động trong suốt năm 2018.

Về quy mô RCAF có quân số hơn 400 máy bay quân sự các loại trong đó có tới 120 máy bay chiến đấu, tuy nhiên hầu hết trong số đó đều có niên hạn phục vụ đã khá dài trên 20 năm, bên cạnh đó giờ bay hàng năm của phi công quân sự Canada thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của các nước thành viên NATO.

Ở thời điểm hiện tại thật sự không quá khó để Canada tái xây dựng lại lực lượng không quân già nua của mình, tuy nhiên họ đã không làm như vậy và điều này đã bị trì hoãn suốt nhiều thập kỷ qua.

Lý giải cho điều này là vì Ottawa hầu như ít phải đối mặt với các thách thức an ninh đến từ bên ngoài và bên cạnh đó, họ có sự bảo trợ của Mỹ về mặt quân sự kể từ sau Thế chiến thứ 2 cho tới nay.

9. Không quân Trung Quốc: Sở hữu lực lượng không quân có quy mô chỉ thua kém Mỹ và Nga, thế nhưng Trung Quốc vẫn nằm trong top 10 không quân tệ nhất thế giới năm 2018 do tạp chí We Are The Mighty bình chọn và đứng ở vị trí thứ 9.

Theo phân tích của We Are The Mighty, dù có số lượng chiến đấu cơ đông đảo và tự sản xuất được cả chiến đấu cơ tàng hình, thế nhưng điểm yếu của Không quân Trung Quốc là họ không thể duy trì được sự áp đảo trên không ở các khu vực chiến sự cách xa nước này.

Việc thiếu hụt các căn cứ quân sự ở nước ngoài cùng các máy bay tiếp nhiên liệu và cảnh báo sớm trên không còn quá ít đang kiềm chân Không quân Trung Quốc không thể vươn xa hơn về phía Thái Bình Dương hoặc ngay trên các vùng biển tranh chấp.

Trong khi đó, thành tựu lớn nhất của Không quân Trung Quốc là chiến đấu cơ tàng hình J-20 lại chưa thực sự sẵn sàng.

Nhìn chung Không quân Trung Quốc còn cả một chặng đường dài nữa để đi khi muốn duy trì vị thế lực lượng không quân của mình hiện tại và vượt mặt Nga trong tương lai.

8. Không quân Hy Lạp: Sự xuất hiện của Hy Lạp trong danh sách của We Are The Mighty được xem là chuyện tất yếu khi trong suốt 10 năm qua Athens luôn chìm trong khủng hoảng nợ công, dẫn tới Quân đội nước này – trong đó có lực lượng không quân bị bỏ mặc.

Ở thời điểm hiện tại Không quân Hy Lạp gần như phải vật lộn để có thể duy trì được sức mạnh của mình, thậm chí chiến đấu cơ của họ còn không thể đánh chặn được máy bay Thổ Nhĩ Kỳ xâm nhập không phận của nước này vốn diễn ra như cơm bữa.

Theo thống kê kể từ năm 1990 cho đến nay, Không quân Hy Lạp đã để xảy ra 81 vụ tai nạn làm chết 125 người, điều này càng khiến lực lượng không quân Athens trở nên khó khăn.

Trong tương lai gần nếu Hy Lạp không đưa ra được giải pháp toàn diện cho các vấn đề của mình thì lực lượng không quân từng hùng mạnh một thời của nước này sẽ sớm bị “xóa sổ”.

7. Không quân Iran: Nếu được hỏi lực lượng không quân nào có “sức sống” mạnh liệt nhất trên thế giới thì chắc chắn vị trí đó sẽ thuộc Không quân Cộng hòa Hồi giáo Iran, khi mà họ không ngừng phát triển bất chấp gần 40 năm bị Mỹ bao vây, cấm vận kể từ khi Cách mạng Hồi giáo 1979 diễn ra.

Tuy nhiên, điều này cũng không giúp Iran thoát khỏi danh sách top 10 không quân tệ nhất của We Are The Mighty.

Hiện tại, Không quân Iran đang sở hữu phi đội hơn 500 máy bay các loại trong đó chiến đấu cơ rơi vào khoảng 300 chiếc, và vấn đề của Iran nằm ở 300 máy bay này khi chúng đã có niên hạn phục vụ ít nhất cũng 30 năm và hầu hết đều do Mỹ chế tạo.

Chính điều này đã khiến Iran không thể nâng cấp được lực lượng không quân của mình trong suốt nhiều thập kỷ qua vì thế, họ đang là lực lượng duy nhất trên thế giới còn sử dụng chiến đấu cơ F-14 Tomcat với số lượng lên đến 24 chiếc.

Theo nhiều chuyên gia quân sự, dù Iran có cố gắng níu kéo phi đội chiến đấu cơ già nua trên thì chúng cũng không thể hoạt động quá 10 năm nữa. Và từ đây cho tới thời điểm đó, nếu Iran không chịu nâng cấp lực lượng không quân của mình thì họ sẽ sớm mất đi hơn một nửa số máy bay hiện có.

6. Không quân Ukraine: Trong các quốc gia từng thuộc Liên Xô cũ trước đây có lẽ Không quân Ukraine là lực lượng tụt dốc nhanh nhất và đang dần bị xóa sổ sau khủng hoảng năm 2014, nay chỉ còn khoảng 240 máy bay các loại.

Chưa dừng lại đó, ngành công nghiệp hàng không của Ukraine cũng chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng này. Việc từ bỏ mối quan hệ hợp tác với Nga đang làm cho công ty hàng không của Ukraine điêu đứng, tác động không nhỏ đến năng lực sửa chữa máy bay quân sự của nước này.

Có lẽ chính vì thế mà trong các chiến dịch quân sự chống lại lực lượng ly khai ở miền Đông Ukraine, Không quân của Kiev gần như không thể hiện được gì nhiều, đó là còn chưa kể tới các vụ tai nạn máy bay liên tiếp, kể cả đối với tiêm kích Su-27 hiện đại nhất của lực lượng này trong năm 2018.

5. Không quân Pakistan: Đứng ở vị trí thứ 5 trong danh sách này là Không quân Pakistan một trong những lực lượng không quân đứng hàng top ở Nam Á, thế nhưng về mặt tổng thể không quân của Pakistan chỉ có thể duy trì ở mức phòng vệ, trong khi đó “kẻ thù truyền kiếp” của họ là Không quân Ấn Độ từ lâu đã vươn lên tầm thế giới.

Vấn đề của Không quân Pakistan không chỉ nằm ở số lượng máy bay chiến đấu lạc hậu mà còn ở công tác hỗ trợ hậu cần kém, không có khả năng tác chiến tầm xa, và không sở hữu các loại vũ khí răn đe chiến lược, trái ngược hoàn toàn so với Ấn Độ.

Dù vậy Không quân Pakistan vẫn được đánh giá cao trên các bảng xếp hạng sức mạnh không quân khi họ sở hữu tới hơn 1.200 máy bay các loại trong đó có tới 730 máy bay chiến đấu.

4. Không quân Mexico: Giống như Canada, Mexico từ lâu đã nằm dưới sự bảo trợ về mặt quân sự của Mỹ do đó họ cũng không xây dựng một lực lượng vũ trang quá mạnh, bản thân quân đội Mexico cũng không có nhu cầu xây dựng lực lượng không quân và không sở hữu máy bay chiến đấu.

Ở thời điểm hiện tại, nhiệm vụ chính của Không quân Mexico là chống lại các băng đảng tội phạm hơn là các mối đe dọa quân đến từ bên ngoài. Vai trò của lực lượng này đơn thuần là tuần tra biên giới và kiểm soát không phận trước các máy bay lạ (hầu hết là của các băng đảng buôn ma túy).

Nhiều đánh giá hiện tại cho rằng, không chỉ riêng không quân mà cả lực lượng vũ trang Mexico sẽ không đủ năng lực bảo vệ quốc gia này trước các mối đe dọa xâm lược từ bên ngoài nếu xảy ra tình huống xấu.

3. Không quân Ả Rập Saudi: là một trong những quốc gia có ngân sách quốc phòng lớn nhất thế giới thế nhưng Không quân Ả Rập Saudi vẫn nằm trong danh sách các không quân tệ hại nhất năm 2018.

Một trong những minh chứng rõ nét nhất cho nhận định này là thành tích chiến đấu bết bát của họ tại chiến trường Yemen khi gần như không hỗ trợ được gì nhiều cho các đồng minh của mình trước các cuộc tấn công của phiến quân Houthi, kể cả khi họ nắm quyền kiểm soát bầu trời.

Hiện tại Không quân Ả Rập Saudi có trong biên chế 844 máy bay quân sự các loại, trong đó hầu hết đều là các máy bay mới trang bị, chiếm hơn hơn một nửa là chiến đấu cơ F-15 mua của Mỹ và số còn lại là của châu Âu.

2. Không quân Triều Tiên: Giống như trường hợp của Iran, Không quân Triều Tiên vẫn sống sót thần kỳ trong nhiều thập kỷ bị Mỹ và phương Tây cấm vận. Hầu hết trang bị của lực lượng đều có nguồn từ Liên Xô và Trung Quốc.

Trên thực tế Triều Tiên không xem trọng lắm lực lượng không quân của mình vì họ hiểu rằng rất khó để có thể đối đầu với không quân hàng đầu thế giới của Mỹ và nhất nhì châu Á của Hàn Quốc. Do đó Bình Nhưỡng hầu hết chỉ tập trung nguồn lực cho lực lượng tên lửa chiến lược, pháo binh và vũ khí hạt nhân.

Không quân Triều Tiên hiện tại sở hữu lực lượng khoảng 944 máy bay quân sự các loại, trong đó có tới 900 máy bay chiến đấu hầu hết là MiG-21 và các biến thể của nó, ngoài ra họ còn có MiG-29 và Su-25, nhưng với số lượng rất hạn chế.

1. Không quân Syria: Cái tên đứng đầu trong danh sách lực lượng không quân tệ nhất thế giới 2018 là Không quân Syria, ở đây công bằng mà nói không quân Syria đã làm rất tốt vai trò của mình trong suốt hơn 7 năm nội chiến. Tuy nhiên, đây cũng là lý do lực lượng này gần như bị xóa sổ trước khi người Nga can thiệp.

Về cơ bản Không quân Syria không có đủ năng lực để bảo vệ không phận của mình trước các chiến đấu cơ hay máy bay quân sự nước ngoài đang ngày đêm hoạt động ở nước này.

Ví dụ điển hình nhất là việc chiến đấu cơ Israel thường xuyên không kích thủ đô Damascus trong khi Không quân Syria chỉ biết đứng nhìn trong bất lực.

Việc mất quá nhiều phi công lẫn chiến đấu cơ đang khiến Không quân Syria rơi vào cảnh kiệt quệ khi chỉ còn hơn 400 chiếc, trong số đó chỉ có trên dưới 200 máy bay chiến đấu nhưng số lượng còn bay được có lẽ là khá ít ỏi.

Trong nhiều năm tới, Syria vẫn phải dựa vào không quân Nga để bảo vệ bầu trời của mình để lực lượng không quân nước này có thể phục hồi ít nhất là khả năng tự phòng vệ trước các mối đe dọa từ bên ngoài.

http://biendong.net/diem-tin/25918-tq-bat-ngo-roi-vao-top-10-khong-quan-te-nhat-the-gioi-2018.html

 

Đón khách Mỹ, Tướng TQ đe dọa “ớn lạnh”:

Người ngoài động đến Đài Loan, TQ sẽ không dung thứ!

“Vấn đề Đài Loan là chuyện nội bộ của Trung Quốc”, Tướng Trung Quốc khẳng định đanh thép trong cuộc gặp với Tư lệnh Hải quân Mỹ.

Trung Quốc quyết không để người ngoài can thiệp vào vấn đề Đài Loan

Báo Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (SCMP – Hồng Kông) đưa tin ngày 15/1 cho biết, vừa qua một tướng quân đội Trung Quốc đã kêu gọi hai nước Mỹ-Trung củng cố niềm tin vào đối phương, tuy nhiên cũng đanh thép cảnh báo rằng Bắc Kinh sẽ không dung thứ cho “bất cứ hành động can thiệp nào từ người ngoài” trong vấn đề Đài Loan.

Thượng tướng Lý Tác Thành, Tổng tham mưu trưởng của lực lượng Giải phóng Quân Nhân dân Trung Quốc (PLA), ủy viên Quân ủy Trung ương Trung Quốc, đã đưa ra phát biểu trên trong cuộc gặp Đô đốc John Richardson, Tư lệnh Hải quân Mỹ, tại Bắc Kinh.

Đô đốc Richardson hiện đang thực hiện chuyến thăm 3 ngày tại Trung Quốc. Ngoài thủ đô Bắc Kinh, dự kiến vị đô đốc Mỹ sẽ đến thăm trụ sở của Bộ Tư lệnh Chiến khu miền Đông của quân đội Trung Quốc, tọa lạc ở phía Đông thành phố Nam Kinh.

SCMP trích dẫn thông cáo của Bộ Quốc phòng Trung Quốc cho biết, trong cuộc gặp trên, các nhà lãnh đạo quân đội đã có những “trao đổi sâu sắc” về lập trường và quan điểm của hai bên về vấn đề Đài Loan và Biển Đông.

Trong đó, đại diện của Trung Quốc – Thượng tướng Lý đã đanh thép tuyên bố trước đại diện của Mỹ rằng Trung Quốc sẽ bảo vệ phần lãnh thổ mà nước này tuyên bố chủ quyền (trong đó bao gồm quần đảo Đài Loan) bằng mọi giá.

“Vấn đề Đài Loan là chuyện nội bộ của Trung Quốc, liên quan đến những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc… Do đó Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất cứ hành động can thiệp nào từ người ngoài [trong vấn đề này].

Nếu ai đó muốn chia tách Đài Loan khỏi Trung Quốc, thì quân đội Trung Quốc sẽ bảo vệ sự thống nhất quốc gia bằng mọi giá, để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước”, vị tướng Trung Quốc đưa ra lời cảnh báo sắc lạnh đối với Mỹ.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, ông Lý cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng của lĩnh vực quốc phòng-quân sự trong quan hệ của hai nước Trung-Mỹ, và kêu gọi hai bên tăng cường trao đổi trong lĩnh vực này:

“Những thăng trầm trong 40 năm quan hệ Mỹ-Trung đã chứng tỏ rằng những lợi ích chung của hai nước lớn hơn nhiều so với những khác biệt và bất đồng, do đó hợp tác chính là lựa chọn đúng đắn nhất đối với cả hai bên.

Quân đội hai nước cần tôn trọng lẫn nhau, củng cố niềm tin và trao đổi với đối phương, kiểm soát các rủi ro và hợp tác trao đổi quân sự…”

Động lực của Trung Quốc

Dưới thời Tổng thống Mỹ Donald Trump, Washington đã tăng cường hỗ trợ cho đảo tự trị Đài Loan bằng việc khôi phục các thương vụ bán khí tài và thông qua Đạo luật Lữ hành Đài Loan – cho phép hai bên trao đổi ở cấp cao hơn. Các động thái của Mỹ đã khiến Bắc Kinh giận dữ và liên tục phản ứng mạnh mẽ.

Về phía Bắc Kinh, trong bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 40 năm Thư gửi Đồng bào Đài Loan hồi đầu tháng này, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã tái khẳng định nhiệm vụ “thống nhất Tổ quốc” là một phần quan trọng trong chiến lược phục hưng đất nước của ông, đồng thời tuyên bố không loại trừ khả năng sử dụng vũ lực để thống nhất Đài Loan.

Theo thông cáo của Bộ Quốc phòng Trung Quốc, trước những phát biểu của tướng Lý, Đô đốc Richardson đã cho biết Mỹ sẵn sàng tăng cường thực hiện các cuộc trao đổi quân đội cấp cao với Trung Quốc, củng cố sự hiểu biết lẫn nhau, đồng thời giảm thiểu những bất hòa và tính toán sai có nguy cơ dẫn tới những hậu quả khôn lường.

Đây là lần thứ hai Đô đốc Richardson có chuyến thăm Trung Quốc kể từ khi ông nhận chức Tư lệnh Hải quân Mỹ vào năm 2015. Trước đó, chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên vào năm 2016 của ông đã tập trung vào các nội dung liên quan đến những bất đồng và xung đột của hai nước về vấn đề Biển Đông.

Được biết, sau khi truyền thông Trung Quốc đưa tin về phát biểu trên của tướng Lý trong cuộc gặp với Đô đốc Richardson, Cơ quan tình báo Quốc phòng Mỹ ngày 15/1 đã công bố một báo cáo mang tên “Sức mạnh quân sự của Trung Quốc”, vạch trần ý đồ quân sự của Bắc Kinh đối với đảo Đài Loan, trong đó có nêu rõ:

“Mối quan tâm lâu dài của Bắc Kinh đối với mục đích thống nhất đảo Đài Loan và ngăn chặn bất cứ nỗ lực tuyên bố độc lập nào của đảo này đã trở thành động lực chính thúc đẩy Trung Quốc tăng cường hiện đại hóa quân đội”.

Theo báo cáo trên, hiện nay phần lớn các tên lửa của Trung Quốc đều có khả năng vươn tới Đài Loan, và Bắc Kinh cũng đã phát triển được các hệ thống vũ khí mới, ví dụ như oanh tạc cơ H-6 được trang bị tên lửa hành trình CJ-20, được cho là có thể nhắm đến các vùng lãnh thổ ở xa hơn, như căn cứ quân sự của Mỹ trên đảo Guam.

Trung Quốc “sắp có được những hệ thống vũ khí tối tân nhất trên thế giới. Và hiện nay họ đã dẫn đầu trong một số lĩnh vực”, Trung tướng Robert Ashley, Giám đốc cơ quan tình báo Mỹ nhận định.

http://biendong.net/doc-bao-viet/25921-don-khach-my-tuong-tq-de-doa-on-lanh-nguoi-ngoai-dong-den-dai-loan-tq-se-khong-dung-thu.html

 

Lập trường phi pháp của TQ

đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam

Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế.

Quần đảo Hoàng Sa ở vào khoảng giữa vĩ tuyến 16° – 17° và kinh tuyến 111° – 113° Đông, cách Tam Á, Hải Nam khoảng 350 km. Toàn thể quần đảo Hoàng Sa có diện tích khoảng 15.000 km², gồm trên 30 đảo nhỏ và những hòn đá nhô khỏi mặt nước, chia ra làm hai nhóm chính: Nhóm Đông (Amphitrite) mà đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm (Woody Island), dài không quá 4 km, rộng khoảng 2 – 3 km; Nhóm Tây (Crescent) mà đảo lớn nhất mang tên Hoàng Sa (Pattle Island), diện tích khoảng 0,3 km². Đảo Phú Lâm cách đảo Hoàng Sa khoảng 87 km.

Quần đảo Trường Sa ở vào khoảng vĩ tuyến 12° Bắc và kinh tuyến 111° Đông, cách bờ biển Việt Nam khoảng 400 km, cách Philippin khoảng 300 km và cách Trung Quốc khoảng 1.500 km. Toàn thể quần đảo Trường Sa có diện tích khoảng 160.000 km², gồm trên 100 đảo và những hòn đá nhô lên mặt biển, trong đó có khoảng 26 đảo hoặc đá chính.

Trung Quốc sử dụng vũ lực chiếm đóng lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam

Người dân Việt Nam đã phát hiện ra các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đời. Những tài liệu lịch sử để lại đã chứng minh quan hệ chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo này ít ra là từ thời Chúa Nguyễn, vào thế kỷ thứ XVII. Cho đến ngày bị Pháp đô hộ, các triều đại kế tiếp trị vì nước Việt Nam đã thực sự nắm chủ quyền trên hai quần đảo này mà

không có nước nào cạnh tranh và coi các hải đảo này hoàn toàn thuộc lãnh thổ của Việt Nam.

Mãi đến đầu thế kỷ XX, năm 1909, trước sự đe doạ của chủ nghĩa bành trướng Nhật Bản, Trung Hoa mới bắt đầu chú ý tới quần đảo Hoàng Sa và sau này, trong những năm 1928, 1932, biểu hiện ý đồ tranh giành chủ quyền với chính quyền bảo hộ Pháp – chỉ biểu hiện ý đồ chứ không có hành động chiếm hữu thực sự. Cũng cần nhấn mạnh là hồi đó, cho đến hết chiến tranh thế giới thứ nhất, đòi hỏi của Trung Quốc chỉ nhằm vào quần đảo Hoàng Sa chứ không đả động đến quần đảo Trường Sa.

Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, với tư cách là quốc gia kế thừa, Pháp không hề khước từ chủ quyền trên hai quần đảo, tiếp tục khẳng định quan hệ chủ quyền và phản đối những yêu sách của Trung Quốc. Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã chiếm các hải đảo trên dãy Hoàng Sa và Trường Sa để làm căn cứ quân sự. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, lợi dụng danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật Bản, năm 1947, quân đội Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Phú Lâm (thuộc Nhóm Đông của quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (Itu Aba) của quần đảo Trường Sa, trong khi đó, Pháp đóng ở quần đảo Hoàng Sa (thuộc Nhóm Tây của quần đảo Hoàng Sa) và một số đảo khác của quần đảo Trường Sa. Chính phủ Bảo Đại chính thức thay thế Pháp ở quần đảo Hoàng Sa năm 1950 và chính quyền Ngô Đình Diệm ở quần đảo Trường Sa năm 1956.

Sau khi chiến thắng ở lục địa, chính quyền Bắc Kinh thay thế quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa ở đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) năm 1956, trong khi đó Đài Loan vẫn tiếp tục thường xuyên có mặt ở đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa). Năm 1974, quân đội Bắc Kinh đã sử dụng vũ lực, loại quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng hoà ra khỏi quần đảo Hoàng Sa và năm 1988, đổ bộ lên một số hòn đảo của quần đảo Trường Sa.

Lập trường phi pháp của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam

Chiếm hữu thực tế: Trong khi đòi hỏi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Quốc luôn luôn khẳng định rằng các hải đảo này là đất đai của họ đã từ lâu đời. Nói khác đi, Trung Quốc có danh nghĩa thụ đắc chủ quyền (titre d’acquisition) trước Việt Nam. Để chứng minh, nhà cầm quyền Trung Quốc viện dẫn nhiều tác phẩm lịch sử, tài liệu địa lý, di vật khảo cổ.., trong đó có những tài liệu từ đời Tam Quốc, đời nhà Tống, đời nhà Nguyên, nhà Thanh. Tuy nhiên, những tài liệu đó không những thiếu chính xác mà còn không chứng minh được quan hệ chủ quyền của nhà nước Trung Quốc đối với hai quần đảo.

Qua những tường thuật của các tác giả, người ta không rõ những hải đảo được kể ra có thuộc hai quần đảo Hoàng Sa hoặc Trường Sa hay không, hay chỉ là những đảo kế cận đảo Hải Nam, bởi vì những hải đảo đó mang nhiều tên khác nhau và địa điểm so với bờ biển cũng không rõ. Những tài liệu ấy đôi khi trái ngược với nhiều nguồn tài liệu địa dư khác của chính Trung Quốc, mô tả vương vực phía Nam Trung Quốc chấm dứt bởi đảo Hải Nam. Ngay cả những tài liệu nói tới một số sự kiện lịch sử tương đối rõ hơn để chứng minh một số biểu hiện chủ quyền như: Cuốn sách của Vũ Kinh Tổng Yếu về chính sách quốc phòng đời Tống, có lời đề tựa của vua Tống Nhân Tông (1023-1053) nói đến cái gọi là việc tuần binh hải quân từ Quảng Đông tới Hoàng Sa; Việc vua nhà Nguyên (thế kỷ XIII) ra lệnh cho một nhà thiên văn nổi tiếng là Quách Tử Kính đo thiên văn ở trên lục địa Trung Quốc và cả trên bốn bể, nghĩa là hàm ý trên cả các đảo thuộc Hoàng Sa; Cuộc viễn chinh do Sử Bật chỉ huy đi đánh Giava năm 1293 có ghi trong Nguyên sử, đặt cả vùng Hoàng Sa dưới sự tuần binh; Việc tướng Ngô Thăng thuộc triều Thanh, chỉ huy tuần binh các vùng biển trong thời gian 1710 – 1712 được diễn dịch ra là bao gồm cả vùng Hoàng Sa… cũng chỉ xác nhận Trung Quốc biết sự hiện hữu của quần đảo Hoàng Sa thôi chứ không minh chứng được sự chiếm hữu, bởi vì những tài liệu đó quá rời rạc, lẻ tẻ, hơn nữa rất mập mờ, nếu không nói là hoàn toàn thiếu cơ sở nghiêm túc.

Theo luật quốc tế, những phát hiện hoặc kiến thức về địa dư, kể cả sự lui tới của những dân chài lưới trên hải đảo, chưa phải là một yếu tố đủ để chứng minh quan hệ về chủ quyền trên đất đai khám phá ra. Muốn cho sự phát hiện có một hiệu quả pháp lý, nó phải được tiếp theo bằng một sự chiếm hữu thực sự (occupation effective) kèm theo một ý chí biểu hiện chủ quyền bằng những hành vi của một cơ quan quyền lực nhà nước tối cao chứ không chỉ đơn thuần là một hành động tư nhân.

Trái với Trung Quốc, Việt Nam đã đưa ra nhiều chứng cớ lịch sử chứng minh một cách vững chắc rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc đất đai của mình. Ban đầu, các quần đảo có tên nôm là Bãi Cát Vàng. Theo ông Lưu Văn Lợi, tên Cát Vàng có ghi trên bản đồ của Đỗ Bá Công Đạo và tác giả người Anh Gutzlaff trong một bài đăng trên tạp chí Hội Địa dư Luân Đôn năm 1849 nhan đề Địa dư của Triều đại Nam Kỳ cũng gọi là Katvàng. Những tài liệu lịch sử của Việt Nam đã ghi chép về các hải đảo này từ đời Lê Thánh Tông (cuối thế kỷ XV). Bản đồ thời Hồng Đức thế kỷ XVII cũng có ghi. Phía Việt Nam không những đưa ra các tài liệu về sự phát hiện đất đai và hiểu biết về địa lý, mà còn chứng minh rằng nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và quản lý hành chính thực sự hai quần đảo ấy.

Tài liệu đầu tiên xác nhận chủ quyền Việt Nam là tác phẩm “Tuyển tập Thiên NamTứ Chí Lộ đồ thư” của Đỗ Bá, viết vào thế kỷ XVII. Tiếp theo là tác phẩm Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn năm 1776. Trong sách này, sử gia Việt Nam có ghi rõ địa điểm của đảo Hoàng Sa (đi đường biển 3 ngày, 3 đêm), sự khai thác do nhà nước tổ chức và số lượng kim khí thu lượm được từng năm (1704, 1705, 1709, 1713…). Theo Lê Quý Đôn, Chúa Nguyễn lập ra một công ty nhà nước gọi là “Công ty Hoàng Sa” với chức năng ra các hải đảo này khai thác hải sản và thu lượm hàng hoá do các tàu ngoại quốc bị đắm bỏ lại từ đầu thế kỷ XVIII. Năm 1821, Phan Huy Chú đã dành một chương dài trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí nói về quần đảo Hoàng Sa (địa lý, tài nguyên, tổ chức Công ty Hoàng Sa…). Các bản đồ hoặc các tác phẩm địa dư xuất bản năm 1774, 1838, 1882 (Giáp Ngọ Bình Nam đồ, Đại Nam nhất thống toàn đồ, Đại Nam nhất thống chí) ghi chú các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Sự cai trị thực sự các quần đảo cũng được nói rõ trong các bộ sử như: Đại Nam thực lục (1821 – 1844); Đại Nam thực lục tiền biên (1600 – 1775); Đại Nam thực lục chính biên; Đại Nam nhất thống chí (1865 – 1882); Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ (1843 – 1851).

Đầu thế kỷ XIX, các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức tiếp tục củng cố chủ quyền trên các hải đảo. Vua Gia Long đặc trách Công ty Hoàng Sa ra các đảo thăm dò đường hàng hải, thi hành công tác vẽ bản đồ. Năm 1833, vua Minh Mệnh cho dựng một ngôi đền, một bia và trồng cây xanh làm dấu cho các tàu bè dễ nhận ra đảo, tránh bị đắm tàu. Năm 1836, vua Minh Mệnh ra lệnh cho đô đốc hải quân đóng cột gỗ, có khắc dấu những nơi đã thanh tra: “năm thứ 17 thời Minh Mệnh, vâng lệnh nhà vua, đô đốc Phan Hữu Nhật tới Hoàng Sa để xem xét và ghi chú địa hình và đóng cột mốc để đánh dấu sự kiện”.

Những tài liệu lịch sử nói trên cũng như tính xác thực của chúng đã được các tác giả nước ngoài nhìn nhận. Do đó, có thể nói rằng, liên tục từ đầu thế kỷ XVIII cho đến thời kỳ là thuộc địa của Pháp, qua hoạt động chiếm hữu của cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước mà không gặp sự phản đối của nước nào, nhất là Trung Quốc, Việt Nam đã thụ đắc chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thể theo đúng những quy tắc của luật quốc tế hiện hành hồi đó.

Trung Quốc không những không đưa ra được những chứng cớ lịch sử về liên hệ chủ quyền với hai quần đảo mà còn không đưa ra được dấu vết nào chứng tỏ sự phản đối của Trung Quốc về sự thụ đắc chủ quyền của các vua chúa Việt Nam trong suốt thế kỷ XVIII và nhất là thế kỷ XIX khi các triều vua Việt Nam tổ chức việc khai thác có hệ thống các quần đảo dưới quyền tài phán của mình.

Tóm lại, cho tới thời kỳ Pháp đô hộ Việt Nam, với hiệp ước bảo hộ năm 1884, ta có thể kết luận như Monique Chemillier – Gendreau: “Việt Nam đã giữ chủ quyền không có cạnh tranh trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, phù hợp với hệ thống pháp lý của thời ấy, suốt trong gần hai thế kỷ”.

Hiệp uớc Pháp – Thanh: Trong văn thư nói trên, chính phủ Trung Hoa đưa ra một luận cứ thứ hai dựa vào Hiệp ước Pháp – Thanh ký ở Bắc Kinh ngày 26/6/1887, phân chia biên giới giữa Trung Quốc và Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam). Theo Điều 3 của bản Hiệp ước, những điểm tranh chấp ở vào phía đông và đông bắc của Móng Cái, ở bên kia đường biên giới do Uỷ ban phân chia biên giới ấn định, thuộc về Trung Quốc. Các hòn đảo ở phía Đông kinh tuyến Paris, 105043’ kinh tuyến Đông – nghĩa là con đường biên giới bắc Nam đi qua mũi phía Đông của hòn đảo Trà Cổ – thuộc về Trung Quốc và các đảo ở phía Tây của kinh tuyến ấy thuộc về Việt Nam. Nói khác đi, Trung Quốc cho rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở về phía Đông của ranh giới ấy thuộc về Trung Quốc.

Tuy nhiên, mục đích của Hiệp ước 1887 là phân định biên giới giữa Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam) và Trung Quốc. Hiệp ước chủ yếu liên quan đến đất liền. Nó chỉ có mục đích phụ để giải quyết những đảo nhỏ không quan trọng ở gần bờ biển nhất, mà không cần phải chỉ định rõ tên. Hiệp ước cũng chỉ định rõ điểm khởi đầu của con đường phân chia ranh giới đi qua mũi đông của đảo Trà Cổ mà không chỉ điểm cuối bởi vì bề dài của nó tuỳ sự hiện hữu của những đảo gần bờ biển. Nếu theo cách giải thích của Trung Quốc để kéo dài đường ranh giới tới giao điểm với bờ biển Trung Kỳ (miền trung Việt Nam) thì tất cả các đảo ở phía Nam của Huế đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Công ước Vienne ngày 29/6/1969 điển pháp hoá những quy tắc giải thích các hiệp ước quốc tế nhấn mạnh vào vai trò của thiện ý trong việc giải thích và vào sự cần thiết giải thích các văn bản theo nghĩa thông thường của các từ và dưới ánh sáng của mục đích và đối tượng của Hiệp ước (Điều 31). Điều 32 cho phép xem xét những công trình sửa soạn hiệp ước và những bối cảnh mà hiệp ước đã được ký kết. Mà mối quan tâm khi ký Hiệp ước 1887 khi đó giữa Pháp và Trung Quốc là vấn đề thương mại. Lúc đó cả hai bên không ai nghĩ tới các quần đảo.

Cái gọi là sự “khước từ chủ quyền” của Chính phủ Việt NamDân chủ Cộng hòa: Trung Quốc đưa ra ba sự kiện sau đây để khẳng định cái gọi là Việt Nam đã “khước từ chủ quyền” trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:

Đầu tiên, ngày 15/6/1956, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp Đại sứ quán Trung Quốc hình như đã khẳng định rằng: “theo những tài liệu lịch sử của phía Việt Nam thì những đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc”. Tuy nhiên, lời tuyên bố này cho đến nay vẫn không thể xác thực, do đó, khó có thể cho nó một giá trị về phương diện pháp lý. Thứ hai, Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 nhân dịp Trung Quốc công bố quyết định nới rộng vùng lãnh hải của họ ra 12 hải lý và chỉ định rõ là quyết định liên quan đến lãnh hải của lục địa Trung Quốc và tất cả các hải đảo thuộc Trung Quốc trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghi: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể”. Toàn bộ nội dung Công hàm không hề đề cập đến việc Việt Nam từ bỏ hay xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cuối cùng, Trung Quốc cũng dựa trên một tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 09/5/1965 liên quan tới vùng chiến đấu của quân đội Mỹ theo đó Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hình như đã tố cáo rằng vùng này gồm “một phần lãnh hải Trung Hoa tiếp cận với một phần quần đảo Tây Sa”.

Trước hết, cần để ý là công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ ghi nhận và tôn trọng bề rộng lãnh hải mới 12 hải lý của Trung Quốc thôi chứ không đả động tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Dẫu sao, sau Hiệp định Genève, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chỉ kiểm soát phần lãnh thổ trên vĩ tuyến 17, phần lãnh thổ miền Nam trong đó có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lúc đó hoàn toàn do chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Do đó, lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có hiệu quả pháp lý về chủ quyền trên các hải đảo này.

Hơn nữa, các sự kiện nói trên đã xảy ra trong những bối cảnh chính trị và quân sự đặc biệt ở từng thời điểm. Trước sự biểu dương lực lượng của Hạm đội 7 của Hoa Kỳ trên eo biển Đài Loan, sát gần biên giới Trung Quốc trong những năm cuối thập kỷ 50, có thể coi lời tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như một cử chỉ hỗ trợ Trung Quốc về mặt chính trị chống lại chính sách khiêu khích của Hoa Kỳ, bởi vì việc nới rộng lãnh hải từ 3 hải lý ra 12 hải lý nhằm mục đích đẩy lùi tàu chiến Hoa Kỳ ra xa ngoài biên giới hơn. Sau này, lời tuyên bố liên quan đến vùng chiến đấu cũng vậy, là lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang bước vào giai đoạn khẩn trương mới, với sự can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ và Việt Nam, bằng những trận tấn công ồ ạt của không quân và thuỷ quân, bằng sự đổ bộ của hàng trăm ngàn lính Mỹ. Một cuộc chiến tranh khốc liệt bắt đầu lan rộng ra cả hai miền Nam – Bắc. Tuy

nhiên, trong tình hình quốc tế giữa thập kỷ 60, Hoa Kỳ tự kiềm chế chỉ can thiệp vào giới hạn lãnh thổ Việt Nam hay Đông Dương, chứ không dám xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc.

Trung Quốc vi phạm các nguyên tắc căn bản của luật quốc tế khi tìm cách xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Như đã trình bày ở trên, những lập luận của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý vững chắc, hoàn toàn trái với những quy tắc của công pháp quốc tế và những án lệ về thụ đắc chủ quyền trên đất đai.

Những hành động chiếm đóng các hải đảo bằng vũ lực là một sự vi phạm rõ ràng Hiến chương Liên hợp quốc mà Điều 2 đoạn 4 cấm sử dụng vũ lực để xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia. Quyết nghị số 2625 ngày 24/10/1970 sau khi đã nhắc lại rằng mọi sự chiếm hữu đất đai là bất hợp pháp đã quy định: “mọi quốc gia có nghĩa vụ phải tránh sử dụng sự đe doạ hoặc sử dụng vũ lực để vi phạm biên giới quốc tế hiện hữu của một quốc gia khác, như một phương tiện để giải quyết những tranh chấp quốc tế, kể cả những tranh chấp về đất đai và những vấn đề liên quan đến biên giới của các quốc gia”. Cho đến nay, vì đuối lý, Trung Quốc đã nhiều lần từ chối đề nghị giải quyết tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng trọng tài hoặc trước toà án quốc tế.

Trước kia Trung Quốc chỉ trích luật quốc tế cho rằng phương Tây đã dùng luật quốc tế như một khí cụ cho chủ nghĩa thực dân đế quốc. Những quy tắc về thụ đắc đất đai dựa trên sự phát hiện đầu tiên những đất đai vô chủ trên thế giới, nhất là ở châu Mỹ, châu Phi, châu Úc… không kể đến sự hiện hữu của dân bản xứ tại đây coi là “không văn minh”. Tuy nhiên, những quy tắc nói trên là những quy tắc phát sinh từ thời kỳ đầu chủ nghĩa thuộc địa. Sau đó, những quy tắc của luật quốc tế về thụ đắc chủ quyền đã tiến hoá, quy định những điều kiện về sự chiếm hữu thực thụ và ý chí biểu hiện chủ quyền của cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước đó. Vậy mà Trung Quốc vẫn đơn thuần dựa vào sự phát hiện đất đai từ xưa, nghĩa là quy tắc lỗi thời của thời thực dân, để khẳng định quan hệ chủ quyền và coi như mình có danh nghĩa chủ quyền trước Việt Nam.

Vì chính Trung Quốc trước kia cũng đã là nạn nhân của chính sách thực dân của các cường quốc phương Tây tới xâu xé, cắt xén đất đai của mình (những hiệp ước thiết lập đặc quyền ngoại giao theo luật quốc tế phương Tây trong thời kỳ 1842-1860) nên khi thu hồi độc lập Trung Quốc không thừa nhận những hiệp ước gọi là “hiệp ước bất bình đẳng” do các cường quốc phương Tây áp đặt cho Trung Quốc. Vậy mà Trung Quốc lại không ngần ngại lấy Hiệp ước Pháp – Thanh 1887 để làm cơ sở cho sự đòi hỏi chủ quyền của mình. Hiệp ước này giống hệt những hiệp ước bất bình đẳng khác bởi vì nó được ký kết hai năm sau cuộc chiến tranh Pháp – Thanh giữa cường quốc Pháp và triều đình Trung Hoa yếu ớt thời đó. Mục đích chính của Hiệp ước là xác nhận sự thôn tính và kiểm soát Đông Dương thuộc vùng ảnh hưởng của Trung Quốc trước kia.

Về phương diện pháp lý, Trung Quốc đã ký và phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc 1982 về luật biển. Thế nhưng, theo Điều 121, khoản 3, nếu như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc chủ quyền Trung Quốc đi chăng nữa thì các quần đảo này vì chỉ gồm những hòn đảo diện tích nhỏ bé, khí hậu lại khắc nghiệt, con người không thể sinh cơ lập nghiệp ở đó, nghĩa là không có khả năng có một đời sống kinh tế tự túc, thì các đảo chỉ được nhìn nhận lãnh hải mà thôi chứ không có quyền có thềm lục địa hoặc vùng đặc quyền kinh tế riêng.

Hơn nữa, các quần đảo này vì ở xa bờ biển Trung Quốc quá 24 hải lý nên không thể ảnh hưởng tới sự phân định vùng lãnh hải của lục địa Trung Quốc được. Do đó, đường biên giới hàng hải mà Trung Quốc yêu sách chủ quyền hoàn toàn vi phạm những điều khoản của Công ước Liên hợp quốc về luật biển.

Trắng trợn hơn nữa, tháng 5 năm 1992, Bắc Kinh cho phép Công ty Crestone của Mỹ thăm dò một vùng nhượng địa 24.155 km2 ở phía tây Trường Sa, ngay bên cạnh Đại Hùng. Đây là một vùng mà Trung Quốc gọi là Vạn An Bắc 21 và Việt Nam gọi là bãi đá ngầm Tư Chính, nằm trên thềm lục địa của Việt Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 300 km và cách đảo Hải Nam khoảng 1.000 km. Vùng này không thể thuộc thềm lục địa của Trường Sa được (ngay cả khi được nhìn nhận có thềm lục địa đi nữa) bởi vì nó đối diện với Trường Sa và bị ngăn cách nhau bằng một rãnh sâu từ 1.800 tới 2.000m.

Cũng không thể quên rằng, trong tranh chấp với Việt Nam trên các hải đảo, Trung Quốc luôn luôn lợi dụng những thời cơ thuận lợi để thực hiện mưu đồ bành trướng, như việc thay thế

phát xít Nhật sau Chiến tranh thế giới thứ hai để chiếm đảo Phú Lâm ở quần đảo Hoàng Sa và Ba Đình ở quần đảo Trường Sa, rồi lợi dụng lúc tình hình cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang khẩn trương năm 1974 để độc chiếm quần đảo Hoàng Sa, rồi đổ bộ lên quần đảo Trường Sa năm 1988 khi Việt Nam đang bị khó khăn về kinh tế, rồi lợi dụng khoảng trống chiến lược trong vùng Đông Nam Á, với sự rút lui của hải quân Liên Xô và của Hạm đội 7 của Mỹ sau thất bại ở Việt Nam để mưu toan kiểm soát Biển Đông.

Kết luận:

Từ những luận cứ ở trên cho thấy, Trung Quốc không hề có căn cứ lịch sử, pháp lý để khẳng định “chủ quyền” ở Biển Đông và những gì mà nước này đang cố gắng tuyên truyền chỉ là hình thức ngụy biện, biến không thành có. Ngoài ra, hành động sử dụng vũ lực để xâm chiếm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là phi pháp, vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là Hiến chương LHQ.

Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền của đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật pháp quốc tế. Các hành động nêu trên của Trung Quốc không chỉ xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà còn đi ngược lại Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, không phù hợp với nhận thức chung quan trọng của Lãnh đạo cấp cao hai nước về việc kiểm soát tốt bất đồng trên biển cũng như xu thế phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước, trái với tinh thần và nội dung của Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), không có lợi cho tiến trình đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) cũng như việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Biển Đông và khu vực. Việt Nam kiên quyết phản đối, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hoạt động nêu trên, tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thực hiện nghiêm túc Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng như Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), không có hành động làm phức tạp tình hình; đóng góp thiết thực và tích cực vào phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc vì hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông và khu vực.

http://biendong.net/bi-n-nong/25913-lap-truong-phi-phap-cua-tq-doi-voi-quan-dao-hoang-sa-truong-sa-cua-viet-nam.html

 

Chuyên gia: Liên Xô còn chưa đối phó được

tàu ngầm Mỹ, TQ đừng ảo tưởng!

Với sức mạnh về chính trị và ngoại giao, Mỹ luôn đảm bảo được quyền tiếp cận các chốt điểm quan trọng trên biển, “khóa chặt” đường ra vào của các tàu ngầm Trung Quốc.

Trong một bài viết gần đây trên Tập san dành cho các Nhà khoa học Nguyên tử (Bulletin for Atomic Scientists), chuyên gia Owen Cote đã tiến hành một phép so sánh để đánh giá thực lực của các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) giữa Trung Quốc và Mỹ.

Phép so sánh của Owen Cote có tham chiếu với cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Liên Xô trong suốt giai đoạn Chiến tranh Lạnh.

Sau đó, Owen Cote đã đi đến kết luận rằng, trong tương lai gần, Mỹ vẫn có thể dựa vào các lợi thế về công nghệ và địa lý để duy trì được khả năng răn đe của mình, đồng thời đặt Trung Quốc vào những tình huống nguy hiểm.

Soi chiếu lại lịch sử thời Chiến tranh Lạnh, Hải quân Mỹ là lực lượng đầu tiên triển khai SSBN nhưng đã sớm nhận ra rằng, các tàu ngầm mới của họ có thể bị phát hiện từ khá xa bằng công nghệ sonar thụ động thích hợp.

Khi đã xác định được vấn đề, Hải quân Mỹ thực hiện những bước đi đầu tiên làm cho SSBN trở nên yên tĩnh hơn (và do đó gần như miễn nhiễm với sự phát hiện của Liên Xô), và tiếp đến là mở rộng khả năng thu âm để có thể theo dõi SSBN của Liên Xô đầy đủ hơn.

Nhờ công nghệ và những lợi thế địa lý nhất định, các tàu ngầm hạt nhân Mỹ ẩn mình một cách hiệu quả trong khi SSBN của Liên Xô thường trực bị đe dọa tấn công từ các tàu Hải quân Mỹ.

Liên Xô sau đó nhận thức được những vấn đề này và tìm mọi cách thức để giải quyết. Như đã biết, Liên Xô cuối cùng đã quyết định áp dụng chiến lược “pháo đài”, tức sử dụng một số lượng lớn tàu hải quân để bảo vệ các khu vực tuần tra của SSBN.

Tuy nhiên, theo chuyên gia Owen Cote, giải pháp này của Liên Xô quá tốn kém nguồn lực. Việc các tàu ngầm Liên Xô không thể giấu mình một cách đáng tin cậy có nghĩa là Hải quân của họ phải sử dụng rất nhiều tới các phương tiện chiến đấu trên mặt nước, trên không và trên bộ mới có thể bảo vệ được lực lượng SSBN.

Còn với việc phát hiện các tàu của NATO, Liên Xô lại thiếu mất tầm vươn xa địa lý để phát triển các khả năng theo dõi tương đương cho chính các tàu ngầm của họ.

Quay về hiện tại, khoảng cách về công nghệ giữa các tàu ngầm Mỹ và Trung Quốc thậm chí còn lớn hơn so với khoảng cách giữa Mỹ và Liên Xô trước đây. Nhưng điều quan trọng hơn, ngày nay, Mỹ có lợi thế rất lớn về khả năng giám sát sự xâm nhập của tàu ngầm Trung Quốc vào Thái Bình Dương.

Tàu ngầm Trung Quốc không thể tiếp cận tới các khu vực tuần tra ở phạm vi bao quát rộng lớn của Mỹ mà không bị phát hiện và theo dõi. Hơn nữa, Mỹ có sức mạnh về chính trị và ngoại giao để bảo đảm quyền tiếp cận các chốt điểm trên biển “khóa chặt” Hải quân Trung Quốc.

Cuối cùng, và có lẽ quan trọng nhất, Trung Quốc, hiện tại và trong tương lai có thể dự đoán, chưa thể sở hữu cách thức theo dõi tương tự việc ra vào của các tàu ngầm Mỹ.

Điểm yếu này khiến Trung Quốc rơi vào một vị thế rất giống với Liên Xô trước đây, xét về tầm vươn địa lý, thậm chí còn kém hơn. Có nghĩa là trong tương lai gần, Trung Quốc đơn giản không thể dựa vào lực lượng SSBN làm đòn răn đe hạt nhân thứ hai đáng tin cậy để đối phó với Mỹ.

SSBN của Trung Quốc có thể vẫn là một biện pháp răn đe hiệu quả chống lại Ấn Độ và các cường quốc hạt nhân khác nhưng ngay cả khi nước này kéo dài tầm bắn tên lửa trên các tàu ngầm, họ sẽ vẫn phải chấp nhận những bất lợi nghiêm trọng về căn cứ neo đậu và phạm vi tuần tra.

Liên Xô đã không thể làm giảm sút được lợi thế của Mỹ thời Chiến tranh Lạnh thì Trung Quốc ngày nay làm sao có thể cân bằng được khả năng này với Mỹ.

http://biendong.net/doc-bao-viet/25916-chuyen-gia-lien-xo-con-chua-doi-pho-duoc-tau-ngam-my-tq-dung-ao-tuong.html

 

Cảnh sát Trung Quốc phải chống lại ‘cách mạng màu’

Cảnh sát Trung Quốc phải tập trung chống lại “các cuộc cách mạng màu” và đặt việc bảo vệ hệ thống chính trị của Trung Quốc làm trọng tâm công việc của mình, một quan chức chấp pháp hàng đầu nói.

Reuters dẫn lời Bộ trưởng Công an Zhao Kezhi nói trong tuyên bố đăng trên trang web của Bộ hôm 18/1 rằng cảnh sát Trung Quốc phải “chú trọng ngăn chặn và chống lại ‘các cuộc cách mạng màu’ và bảo vệ vững chắc an ninh chính trị Trung Quốc”.

Ông cũng nói thêm rằng lực lượng này phải “bảo vệ vững chắc lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc và hệ thống xã hội chủ nghĩa của đất nước chúng ta”.

Bộ trưởng Công an nói thêm tại một cuộc gặp thường niên của Bộ này rằng cảnh sát cũng phải “đánh mạnh vào mọi sự xâm nhập và các hoạt động lật đổ bởi thế lực thù địch nước ngoài”.

Theo Reuters, Đảng Cộng sản Trung Quốc từ lâu đã giao nhiệm vụ cho cảnh sát phải bảo vệ sự ổn định của đất nước.

Tuy nhiên, những nỗ lực này gia tăng dưới thời kỳ nắm quyền của Chủ tịch Tập Cận Bình, người từng tuyên bố rằng Trung Quốc cần phải làm nhiều hơn nữa để chống lại ảnh hưởng của phương Tây, vốn có thể gây tổn hại sự cầm quyền của đảng.

https://www.voatiengviet.com/a/cảnh-sát-trung-quốc-phải-chống-lại-cách-mạng-màu-/4748504.html

 

Trung Quốc cảnh báo Canada

không nên cấm công nghệ 5G của Hoa Vi

Thụy My

Đại sứ Trung Quốc tại Canada hôm 17/01/2019 đã cảnh báo Ottawa là có thể bị trả đũa nếu cấm Hoa Vi (Huawei) cung cấp thiết bị cho mạng lưới 5G.

Ông Lư Sa (Lu Shaye) tuyên bố như trên trong cuộc họp báo, nhưng không cho biết chi tiết, và đòi hỏi Canada nên có một « quyết định khôn ngoan ». Đại sứ Trung Quốc nhấn mạnh, ngoại trưởng Canada – bà Chrystia Freeland vốn chỉ trích mạnh mẽ Bắc Kinh – khi tham dự Diễn đàn Davos tuần tới không nên cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ của các nước.

Theo ông Lư Sa, bà Mạnh Vãn Châu (Meng Wanzhou) đã bị Canada giam giữ trong điều kiện tệ hại. Ngược lại, ông Nhậm Chính Phi (Ren Zhengfei) nhà sáng lập Hoa Vi và là cha của bà Mạnh, nói rằng bà được Canada đối xử tử tế, và ngoại trưởng Canada hôm 17/01 hoan nghênh nhận xét của ông Nhậm.

Quan hệ giữa Trung Quốc và Canada đã xấu hẳn đi sau khi bà Mạnh Vãn Châu, giám đốc tài chính Hoa Vi bị bắt tại Vancouver hôm 01/12/2018 theo yêu cầu của Hoa Kỳ vì nghi vấn vi phạm lệnh cấm vận với Iran.

Để trả đũa, Trung Quốc bắt giam hai công dân Canada, và mới đây đã kết án tử hình một người Canada vì cáo buộc buôn ma túy – án tử được tuyên nhanh chóng một cách đáng kinh ngạc. Thủ tướng Canada Justin Trudeau tố cáo Bắc Kinh áp dụng tùy tiện án tử hình và kêu gọi sự trợ giúp của các nhà lãnh đạo khác trên thế giới.

Tại Hoa Kỳ hôm thứ Tư 16/1, một nhóm dân biểu lưỡng đảng đã đệ trình dự luật cấm các công ty Mỹ bán chip điện tử và các linh kiện khác cho Hoa Vi, ZTE và các công ty Trung Quốc khác vi phạm lệnh cấm vận của Mỹ.

Trường đại học danh tiếng Oxford của Anh ngày 18/01 loan báo ngưng nhận mọi tài trợ của Hoa Vi, do « quan ngại của công chúng ».

Về tình hình kinh tế, tăng trưởng của Trung Quốc năm 2018 xuống đến mức thấp nhất kể từ 30 năm qua do thương chiến Mỹ-Trung và tiêu thụ nội địa sụt giảm. Con số chính thức sẽ được công bố vào đầu tuần tới, nhưng theo 13 nhà phân tích được AFP tham khảo, tỉ lệ tăng trưởng không quá 6,6%, và nợ cả công lẫn tư của Trung Quốc đã vượt quá 250% GDP.

http://vi.rfi.fr/chau-a/20190118-trung-quoc-canh-bao-canada-khong-nen-cam-cong-nghe-5g-cua-hoa-vi

 

Ba tàu hải quân Trung Quốc

thăm ‘thiện chí’ Philippines

Ba tàu hải quân Trung Quốc cập cảng Manila hôm 17/1 trong “chuyến thăm thiện chí” kéo dài 4 ngày.

AP nhận định rằng chuyến thăm của hai tàu khu trục và một tàu tiếp liệu cho thấy mối quan hệ cải thiện giữa hải quân hai nước.

Tin cho hay, một ban nhạc của hải quân Philippines biểu diễn cùng với hàng chục người dân vẫy cờ để chào đón các tàu hải quân Trung Quốc.

Chuẩn đô đốc Xu Haihua, Phó Chánh văn phòng của Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, nói rằng sự kiện trên sẽ “thúc đẩy thêm nữa hòa bình, ổn định và hợp tác hàng hải”.

XEM THÊM:

Trung Quốc: Biên giới với Việt Nam là ‘cầu nối hữu nghị’

Ngoài Việt Nam và một số nước khác, Philippines cũng có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc.

Mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Manila đã xấu đi vì tranh chấp lãnh hải cho tới khi ông Duterte đắc cử tổng thống vào giữa năm 2016 và tìm cách củng cố quan hệ với Trung Quốc trong khi chỉ trích các chính sách an ninh của Mỹ, theo AP.

Chính quyền của người tiền nhiệm của ông Duterte, ông Benigno Aquino III, đã đưa Trung Quốc ra tòa trọng tài quốc tế và thắng, nhưng Bắc Kinh đã phớt lờ phán quyết.

https://www.voatiengviet.com/a/ba-tàu-hải-quân-trung-quốc-thăm-thiện-chí-philippines/4748450.html

 

Singapore chọn máy bay chiến đấu F-35 của Mỹ,

bỏ qua máy bay châu Âu, TQ

Singapore chọn máy bay chiến đấu F-35 để thay thế cho các máy bay chiến đấu già cỗi của nước này, Bộ Quốc phòng Singapore thông báo hôm thứ Sáu, 18/1.

Với quyết định kể trên, Singapore lựa chọn máy bay của Mỹ, bỏ qua các mẫu máy bay của châu Âu và Trung Quốc.

Singapore, đất nước giàu có với quy mô bằng một thành phố, là nơi có quân đội thuộc vào hàng được trang bị tốt nhất châu Á.

Trước đây, Singapore đã cho biết khi đó họ đang đánh giá, so sánh F-35 của hãng Lockheed Martin với Eurofighter Typhoon và máy bay chiến đấu tàng hình do Trung Quốc sản xuất.

Các máy bay F-16 của Singapore sẽ bị thải loại sau năm 2030 và máy bay tấn công hỗn hợp F-35 được xác định là sự thay thế phù hợp nhất để duy trì khả năng của RSAF (Không quân Cộng hòa Singapore), Bộ Quốc phòng Singapore tuyên bố.

Bộ cho biết không quân nước này trước hết cần mua “một số lượng nhỏ” F-35 “để đánh giá đầy đủ về khả năng và sự phù hợp của chúng trước khi quyết định về một phi đoàn đầy đủ.

Bộ trưởng Quốc phòng Ng Eng Hen cho biết trong một bài đăng trên Facebook hôm 18/1 rằng Singapore phải mất hơn 5 năm để đưa ra quyết định vì họ phải xem xét kỹ các thông số kỹ thuật và những gì cần thiết.

“Các cơ quan của chúng tôi giờ đây sẽ phải nói chuyện với các đối tác Hoa Kỳ để thúc đẩy quá trình về phía trước”, Bộ trưởng Ng nói.

(The Economic Times, Channel News Asia)

https://www.voatiengviet.com/a/singapore-chon-may-bay-chien-dau-f35-cua-my-bo-qua-may-bay-chau-au-tq/4748743.html

 

Campuchia: EU đánh thuế vào gạo

là ‘một loại vũ khí’ chống lại nông dân

Các mức thuế mà Liên hiệp châu Âu (EU) đánh vào gạo của Campuchia là “vũ khí” chống lại nông dân nghèo khó và sẽ làm tổn thương hàng triệu người đang chật vật tìm cách thoát nghèo, chính phủ và đảng cầm quyền của Campuchia nói.

EU từ ngày 18/1 sẽ áp thuế đối với gạo từ Campuchia và Myanmar trong ba năm tới để kiềm chế tình trạng gạo nhập ngày càng tăng mà EU cho rằng đã làm thiệt hại các nhà sản xuất trong khối này.

Ủy ban châu Âu, cơ quan giám sát chính sách thương mại trong khối, sẽ áp mức thuế 175 euro (200 đô la) đối với mỗi tấn gạo trong năm đầu tiên, giảm xuống 150 euro trong năm thứ hai, và 125 euro trong năm thứ ba.

Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) cầm quyền của Thủ tướng Hun Sen nói rằng quyết định này là một hành động phân biệt đối xử về thương mại sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu người nghèo Campuchia.

“Đây là hành động tôn trọng nhân quyền hay vi phạm nhân quyền?”, Người phát ngôn của CPP, ông Sok Eysan nói với các phóng viên. “Hành động của Ủy ban EU là phân biệt đối xử thương mại”, ông nói tiếp.

Bộ Thương mại Campuchia đã gọi quyết định của EU là “vũ khí giết chết nông dân Campuchia” và chống lại các quy tắc thương mại quốc tế.

Campuchia và Myanmar được hưởng lợi từ chương trình “Bất cứ gì ngoại trừ vũ khí” của EU, cho phép hai nước kém phát triển nhất thế giới xuất khẩu hầu hết hàng hóa sang Liên hiệp châu Âu không phải chịu thuế.

Qua một cuộc điều tra, Ủy ban châu Âu đã phát hiện ra rằng nhập khẩu gạo từ cả hai quốc gia nói trên cộng lại đã tăng 89% trong năm vụ mùa trồng lúa vừa qua.

Ủy ban cho biết cuộc điều tra cũng đã phát hiện ra rằng giá thấp hơn đáng kể so với giá tại thị trường EU và đã gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho các nhà sản xuất gạo của EU.

https://www.voatiengviet.com/a/campuchia-eu-danh-thue-vao-gao-la-mot-loai-vu-khi-chong-nong-dan/4748823.html