Tin Biển Đông – 29/11/2017

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tin Biển Đông – 29/11/2017

Trung Quốc có thể ứng dụng công nghệ năng lượng biển Đông cho ‘tàu hạt nhân quân sự’

VOA
29/11/2017

Hình vệ sinh chụp cơ sở của Trung Quốc trên Đá Vành Khăn, quần đảo Trường Sa.

Tờ Global Times của Trung Quốc hôm thứ Ba 28/11 nói rằng các chuyên gia nhận thấy các nhà máy điện hạt nhân nổi trên Biển Đông có những tiềm năng công nghệ “có thể ứng dụng cho các tàu hạt nhân quân sự.”
Tờ Breitbart nói rằng Global Times dùng ngôn ngữ rất mơ hồ để loan tải tin này, không rõ liệu Trung Quốc có ý định đưa tàu hạt nhân vào những nơi họ đã chiếm đóng bất hợp pháp ở Biển Đông để tiếp cận với các nhà máy này hay liệu Bắc Kinh sẽ bắt đầu xây dựng các nhà máy điện hạt nhân tương tự trên đại lục để sử dụng cho các cơ sở quân sự ở đó.
Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố rằng các công trình xây dựng của họ trên các đảo nhân tạo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – nơi mà Việt Nam và Phililiipines cũng tuyên bố chủ quyền – chỉ dành cho mục đích dân dụng, trong khi những nơi này lại đang có máy bay chiến đấu, tên lửa đất đối không và các công nghệ quân sự khác.
Báo Global Times viết: “Theo các nhà phân tích Trung Quốc, trọng tâm chính của các cơ sở hạt nhân ngoài khơi của Trung Quốc – dự kiến được thực thi trước năm 2020 – sẽ được sử dụng cho các đảo trên Biển Đông và khi công nghệ này phát triển, nó có thể được áp dụng cho các tàu hạt nhân quân sự.”
Dẫn lời ‘chuyên gia quân sự’ Song Zhongping, tờ Global Times nói rằng công nghệ này có thể tạo các phiên bản “công nghệ liên quan đến lò phản ứng hạt nhân” đã được thu nhỏ trên quần đảo Hoàng Sa và sử dụng cho “các tàu quân sự của quốc gia, tàu sân bay hoặc tàu ngầm hạt nhân thế hệ mới.”
Ông Song không giải thích chi tiết liệu khi sử dụng các lò phản ứng ở Biển Đông có đòi hỏi phải vận chuyển các tàu quân sự đến đó hay xây dựng chúng ở nơi khác.
Báo Global Times trích lời ông Song nói thêm rằng một “nhà máy điện hạt nhân biển” sẽ có cả phần nổi và phần chìm và sẽ “tập trung vào mục tiêu cung cấp điện cho quần đảo Tây sa (Việt Nam gọi là Hoàng Sa) và các đảo khác ở Biển Đông, nơi cơ sở hạ tầng đang được xây dựng.”
Ông Zhang Jinlin, một chuyên gia, kỹ sư học thuật, mô tả nhà máy này là “một dự án tổng thể dân sự-quân sự điển hình.”
Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần đề cập đến các dự án ở Biển Đông theo cách này – nhằm mục đích sử dụng cho cả dân sự và quân sự, nhưng Bắc Kinh bị cáo buộc là không công bố sẽ sử dụng các cơ sở được xây dựng này cho quân sự.
Một công ty đóng tàu ở tỉnh Hồ Bắc hôm Chủ nhật 26/11 tuyên bố sẽ bắt đầu xây dựng cơ sở điện hạt nhân hàng hải, được thiết kế để cung cấp điện cho các giàn khoan dầu khí ngoài khơi và hải đảo.
Theo công ty này, một liên doanh giữa Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy Trung Quốc (CSIC), Viện Nghiên cứu CSIC 719 và Tập đoàn Đầu tư Vốn Nhà nước Hồ Bắc Hồng Thái (Hubei Hongtai) vào năm 2015, các cơ sở điện hạt nhân sẽ phục vụ như các nhà máy điện hạt nhân loại nhỏ. Báo Hồ Bắc Daily cho biết hiện nay thiết kế kỹ thuật đã được hoàn thành, và dự án đang chuyển sang giai đoạn xây dựng.
Báo Global Times cho biết các cơ sở này có hai phần – nổi và chìm, và phần nổi sẽ được hoàn thành trước năm 2020.
Phần nổi sẽ cung cấp năng lượng hạt nhân nhiều hơn, mặc dù bị ảnh hưởng nhiều bởi điều kiện thời tiết biển, chẳng hạn như gió và sóng, trong khi phần chìm sẽ ổn định hơn nhưng sản xuất ít điện năng hơn.

 Đường dẫn trực tiếp

Biển Đông thấp thỏm chờ COC 

Ngày đăng 28-11-2017 
BDN 
Ý định của Trung Quốc trong việc thúc đẩy tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) ngày càng lộ rõ, tạo ra thách thức cho Việt Nam trên bàn đàm phán.
Hội thảo quốc tế lần thứ 9 về Biển Đông với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực” do Học viện Ngoại giao, Quỹ Hỗ trợ nghiên cứu Biển Đông và Hội Luật gia Việt Nam tổ chức khai mạc ngày 27-11.
Một COC ràng buộc về pháp lý phải là thỏa thuận đạt được giữa Trung Quốc và ASEAN. Ràng buộc pháp lý tức là các xung đột phải được giải quyết và tuân thủ
COC phủ bóng
Tại cuộc họp giữa Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc hồi tháng 8, bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN cùng Trung Quốc đã đồng ý thông qua bộ khung của COC.
Nhưng tính tới nay, các điểm cụ thể xung quanh nguyên tắc của COC – một văn bản có tính ràng buộc về mặt pháp lý – vẫn còn là yếu tố khiến giới quan sát tò mò, thậm chí lo ngại về cơ chế thực hiện.
 Vì vậy, dù nằm trong phiên 7 – phiên cuối của hội thảo diễn ra chiều nay 28-11, vấn đề COC đã nhanh chóng trở thành tâm điểm bàn thảo của các học giả ngay từ đầu.
Năm 2016, một tòa trọng tài quốc tế ở The Hague (Hà Lan) đã ra phán quyết không công nhận tuyên bố chủ quyền phi pháp của Trung Quốc trên hầu hết Biển Đông.
Nhưng từ thời điểm ấy, Bắc Kinh vẫn nhất mực ngó lơ phán quyết nêu trên. Ông Brahma Chellaney, giáo sư nghiên cứu chiến lược Trung tâm Nghiên cứu chính sách (Ấn Độ), đã thẳng thừng chỉ trích thái độ bất tuân luật pháp của Trung Quốc.
Ông nói: “Trung Quốc đã làm lơ với phán quyết, cứ như không có gì xảy ra cả. Trong lúc chúng ta ngồi đây dự hội thảo thì họ vẫn tiến hành bồi đắp, củng cố sự hiện diện bành trướng ở Biển Đông.
Các nước lớn khinh thường phán quyết trọng tài, không tôn trọng luật pháp quốc tế khi nó gây hại cho họ. Vì thế nếu muốn có bộ quy tắc ứng xử hoàn chỉnh, nó phải ràng buộc và công bằng, minh bạch, ngang hàng về mặt an ninh”.
Trong nhiều năm qua, Trung Quốc luôn tỏ rõ lập trường cho rằng Biển Đông là câu chuyện giữa Trung Quốc và các nước tranh chấp khác. Điều này đồng nghĩa mọi vị “trọng tài” hay bất kỳ sự can thiệp nào của bên thứ ba cũng vô nghĩa. Theo GS Chellaney, đây là một chiến lược, một thông điệp nguy hiểm của Bắc Kinh về chủ nghĩa đơn phương – đa phương, mà COC là một công cụ để họ đạt được lợi ích.
Cân não
Thẩm phán Vladimir Vladimirovich Golitsyn, chánh án Tòa án quốc tế về Luật biển nhiệm kỳ 2014-2017, trong phần trình bày của mình khẳng định rằng luật pháp quốc tế là tối quan trọng cho việc giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, ông thừa nhận hiện nay “giá trị của các phán quyết đang dựa vào thái độ hợp tác của bên nhận phán quyết, mặc dù rõ ràng pháp luật quốc tế không chỉ được duy trì bằng bỏ phiếu, đồng thuận”.
Thái độ của Trung Quốc đối với vụ kiện của Philippines năm 2016 càng khiến giới quan sát củng cố lập luận rằng cần có một thỏa thuận mang tính ràng buộc. Nhưng Trung Quốc, trong quá trình thúc đẩy hoàn tất COC đã đồng thời vận dụng hai chiến lược: tách bạch và “duy trì hiện trạng”.
Trả lời Tuổi Trẻ về việc tại sao Trung Quốc chọn thời điểm này để thúc đẩy COC, GS Jay Batongbacal – giám đốc Viện Các vấn đề biển và Luật biển ở Đại học Philippines – cho rằng: “Chúng ta đều thấy rằng Trung Quốc giờ đây đã có lợi thế trên Biển Đông sau giai đoạn xây dựng đảo nhân tạo trái phép. Thế nên giờ họ muốn thúc đẩy COC để tạo ra cảm giác hiện trạng cần được duy trì”.
Các học giả tại hội thảo cũng nhìn ra cách Trung Quốc cố gắng sử dụng sức mạnh kinh tế để chia tách ASEAN, nhằm từng bước đạt được lợi ích.
GS Chellaney khẳng định COC nhiều khả năng sẽ chỉ tạo ra khoảng cách giữa kinh tế và chính trị. Đây là điểm gây trở ngại với sự tham gia của các nước khác, khu vực khác vào tranh chấp Biển Đông.
“Biển Đông là một câu chuyện điển hình cho thách thức hàng hải ngày nay. Các mâu thuẫn quanh vấn đề này vì thế không chỉ ảnh hưởng tới khu vực trực tiếp mà còn là các khu vực khác, các nước khác. Những tiền lệ mà nó tạo ra, nếu có, sẽ có tác động tới các khu vực tương tự chứ không phải chuyện riêng của ai” – ông Chellaney nói.
Học giả người Ấn Độ ví Biển Đông như một cuộc chạy marathon. Giờ đây Trung Quốc đang củng cố sức mạnh, còn các nước khác nhất định phải ngăn chặn điều đó thông qua luật pháp quốc tế.
GS Batongbacal thì nói rằng điểm mấu chốt hiện tại là các nước ASEAN phải đảm bảo không có xung đột thông qua bộ quy tắc COC, nhưng đồng thời phải đàm phán để COC là một áp lực lên những lợi thế mà Trung Quốc gầy dựng.
ASEAN cần tự lực
Trong phần nhận xét riêng cùng Tuổi Trẻ, GS Carl Thayer cho rằng quan hệ Mỹ – Trung dẫu quan trọng, thực tế Washington cũng không thể buộc các nước ASEAN phải làm gì cả. Ngược lại Trung Quốc vẫn có thể sử dụng chiến lược chia rẽ ASEAN bằng cách sử dụng nguyên tắc đồng thuận của ASEAN. Điều đó đồng nghĩa ASEAN cần xây dựng năng lực và thống nhất, tỉnh táo trong vấn đề phạm vi trong COC.
GS Robert Beckman, giám đốc Chương trình luật và chính sách đại dương, Trung tâm Luật quốc tế thuộc Đại học Quốc gia Singapore, cũng nói rằng bản thân các nước ASEAN phải “tin vào phán quyết, chứ không để các tranh luận đi từ phán quyết chuyển sang hợp tác như cách Philippines và Trung Quốc đã làm”.