Tin Biển Đông – 27/03/2020
TQ sử dụng lực lượng tàu ngầm
hiện thực hóa âm mưu kiểm soát Biển Đông
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đặc biệt chú trọng đầu tư, nghiên cứu, chế tạo các loại tàu ngầm hiện đại để gia tăng khả năng giám sát, kiểm soát toàn bộ khu vực Biển Đông. Tuy nhiên, khả năng tác chiến của tàu ngầm Trung Quốc còn nhiều hạn chế, bất cập
Trung Quốc hiện đứng thứ ba trên thế giới về số lượng tàu ngầm với 69 tàu, trong đó có 5 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo và khoảng 64 tàu diesel-điện. Số tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc tuy không được thiết kế và tính năng ưu việt như tàu ngầm Nga hoặc Mỹ, nhưng tàu ngầm tên lửa đạn đạo chiến lược của Trung Quốc vẫn có thể bắn những tên lửa hạt nhân tầm xa. Trong số đó, tàu ngầm lớp Tấn (Type 094) mang tên lửa đạn đạo, dài 133m, trọng tải rẽ nước gần 9.000 tấn, được trang bị tên lửa Cự Lãnh-2 (JL-2)hai tầng sử dụng nhiên liệu rắn, có tầm bắn 8.000 – 9.000 km; Tàu ngầm lớp Thương (Type 093), đây là loại tàu ngầm đa năng, có sức rẽ nước từ 7,5 – 8.000 tấn, được trang bị 6 ống phóng ngư lôi 533 mm và có thể phóng tên lửa hành trình chống hạm YJ-82 với tầm bắn 129 km; Tàu ngầm lớp Nguyên (Type 041), đây là loại diesel – điện, được đóng từ đầu những năm 2000, được trang bị 6 ống phóng ngư lôi loại 533 mm, có thể dùng cho tên lửa chống hạm YJ-8 hoặc CX-1; Tàu ngầm lớp Tống (Type 039), đây là loại tàu ngầm điện – diesel không lớn, chiều dài 75 m, lượng giãn nước là 3.500 tấn, được trang bị 6 ống phóng ngư lôi loại 533 mm kết hợp với tên lửa chống hạm YJ-8. Ngoài ra, Trung Quốc còn một số loại tàu ngầm cũ như 02 chiếc tàu ngầm lớp Hán (Type 091), 5 tàu ngầm lớp Minh, gần 30 tàu loại Romeo (Type 033), 12 tàu ngầm đa năng chạy bằng điện và diesel Kilo 636.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc tích cực triển khai lực lượng tàu ngầm gia tăng kiểm soát trong khu vực Biển Đông. Theo đó, Hạm đội Nam Hải – lực lượng phụ trách khu vực Biển Đông được ưu tiên đầu tư, biên chế các loại tàu chiến hiện đại bậc. Hạm đội Nam Hải hiện duy trì khoảng 22 tàu ngầm, trong số đó là toàn bộ lực lượng tàu ngầm nguyên tử chiến lược của Trung Quốc với bốn chiếc hạng 094 lớp Tấn. Giới chuyên gia, học giả quốc tế từng nhận định hạm đội Nam Hải là một lực lượng đáng sợ trên Biển Đông và là một mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm cho các nước trong khu vực. Các tàu chiến của hạm đội này có thể đưa quân đánh chiếm bất cứ đảo nào tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Bên cạnh đó, giới học giả cho rằng việc Trung Quốc tập trung phát triển và điều tàu ngầm hạt nhân ra Biển Đông là nhằm: (i)Trung Quốc muốn rèn luyện khả năng tuần tra tầm xa, phát huy vai trò răn đe của tàu ngầm hạt nhân. Lực lượng tàu ngầm của Trung Quốc chỉ mới được chú trọng phát triển trong vài thập kỷ gần đây, vì vậy khả năng tác chiến và phối hợp còn nhiều hạn chế. (ii) Tìm cách theo dõi, ngăn chặn và từng bước không chế Mỹ can thiệp vào khu vực. (iii) Trung Quốc đang dần hình thành trận địa tàu ngầm ở Biển Đông, bảo vệ sườn phía Nam của Trung Quốc.
Việc Trung Quốc tăng cường lực lượng tàu ngầm hạt nhân ở Biển Đông là bước đi nguy hiểm, đe dọa nghiêm trọng an ninh trong khu vực. Truyền thông, báo chí phương Tây và giới chuyên gia cho rằng việc Trung Quốc triển khai các tàu ngầm hạt nhân ở Biển Đông và cũng như các vùng biển khác sẽ khiến quan hệ Mỹ – Trung trở nên căng thẳng hơn và bất ổn trong khu vực tiếp tục leo thang. Không những vậy, Trung Quốc sử dụng lực lượng tàu ngầm để theo dõi, giám sát (phi pháp) ở Biển Đông là vi phạm các quy định về luật pháp quốc tế, cũng như những điều khoản nước này đã ký kết, cam đoan với nhiều nước trong khu vực. Hành động đi ngược lại cam kết, gia tăng các hoạt động đe dọa an ninh hàng hải của Bắc Kinh sẽ khiến tình hình khu vực trở nên căng thẳng, bất ổn. Tuy nhiên, tàu ngầm của Trung Quốc còn nhiều điểm yếu, dễ bị phát hiện và khả năng tác chiến chưa cao.Theo đó, Trung Quốc chủ yếu sở hữu tàu ngầm thông thường, các tàu ngầm hạt nhân của Trung Quốc tương đối cũ và số lượng tên lửa mang theo hạn chế, năng lực tấn công hạt nhân kém. Bên cạnh đó, tàu ngầm của Trung Quốc bị đánh giá tương đối ồn và dễ bị phát hiện. Theo thông tin từ Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế Mỹ, các tàu ngầm được trang bị tên lửa đạn đạo thuộc lớp Tấn (Type 094) của Trung Quốc có độ ồn cao, rất dễ bị phát hiện bởi thiết bị sonar. Ngoài ra, hệ thống chỉ huy và thông tin liên lạc còn lạc hậu, đặc biệt là việc liên lạc giữa Bộ chỉ huy chiến lược và các tàu ngầm hạt nhân triển khai ngoài vùng biển xa.
Nhìn chung, Trung Quốc đang gia tăng năng lực kiểm soát khu vực Biển Đông, từng bước đột phá vòng vây chiến lược của Mỹ trong khu vực. Trong đó, sử dụng lực lượng tàu ngầm sẽ là một trong những con bài chiến lược của Trung Quốc để thực hiện ý đồ trên. Tuy nhiên, hành vi trên của Bắc Kinh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hòa bình, ổn định trong khu vực và Trung Quốc hiện chưa đủ năng lực để đối phó trực diện với lực lượng tàu ngầm của Mỹ khi hoạt động trên Biển Đông.
7 đảo nhân tạo trái phép Trường Sa
không cấu thành “chủ quyền” cho TQ ở Biển Đông
Từ năm 2010 đến nay, Trung Quốc đã tiến hành bồi lấp trái phép 7 thực thể trên quần đảo Trường Sa (Đá Tư Nghĩa, Đá Chữ Thập, Đá Vành khăn, Đá Gạc Ma, Đá Ga Ven, Đá Châu Viên, Đá Én Đất) nhằm biến những rạn san hô thành đảo nhân tạo khổng lồ. Tuy nhiên, hành động này của Trung Quốc không giúp họ tạo ra cơ sở để yêu sách “chủ quyền” trên Biển Đông.
Quá trình cải tạo phi pháp 7 bãi cạn, đảo đá ở Trường Sa
Từ năm 2010, Trung Quốc bắt đầu cải tạo, bồi đắp mở rộng quy mô lớn đá Chữ Thập, trong đó đã xây dựng một toà nhà bê tông dài hơn 60m. Trên ngôi nhà có nhiều ăng-ten, gồm cả một ăngten radar thu phát sóng cao tần Yagi của hải quân cùng hai vòm che radar và phủ sóng mạng điện thoại trên đá này. Từ năm 2014, Trung Quốc bắt đầu cải tạo mở rộng đá Chữ Thập thành đảo nhân tạo lớn nhất quần đảo Trường Sa với diện tích khoảng 2,74 km2 (7/2015), tổng kinh phí xây dựng hơn 73 tỉ Nhân dân tệ (11,5 tỉ USD). Trung Quốc xây dựng trên đá Chữ Thập 9 cầu tàu, 2 bãi đáp trực thăng, 10 ăng ten liên lạc qua vệ tinh và một trạm radar. Đặc biệt là việc xây dựng một đường băng dài 3.125m và rộng 60m, đây là đường băng duy nhất đủ lớn cho máy bay ném bom chiến lược tại Trường Sa, cho phép quân đội Trung Quốc bao quát không phận rộng lớn từ Tây Thái Bình Dương gồm cả Guam (nơi có các căn cứ Mỹ) đến Ấn Độ Dương. Tháng 4/2018, Trung Quốc đã khánh thành Tượng đài trên đá Chữ Thập để “kỷ niệm” các công trình xây dựng của họ trong Biển Đông, kể cả các công trình bồi đắp đất và xây đảo nhân tạo. Tháng 10/2018, Trung Quốc tiếp tục đưa vào vận hành các trạm quan sát thời tiết, gồm các thiết bị cho mặt đất và quan sát khí quyển và radar thời tiết trên 3 đảo, đá nhân tạo do nước này chiếm đóng, bồi đắp trái phép ở Biển Đông, trong đó có đá Chữ Thập.
Năm 2015, Trung Quốc bắt xây một đường băng trên đá Vành Khăn và đến tháng 7/2016 thì một đường băng dài 2.644m, rộng 55m này đã hoàn thành. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã xây dựng ngọn hải đăng, kho bãi, các mái che radar, tháp truyền tín hiệu viễn thông, cảng vận chuyển quy mô lớn… trên đá Vành Khăn. Tháng 10/2018, Trung Quốc lại khánh thành các trạm khí tượng tại và tuyên truyền rằng mục đích của trạm này là “đảm bảo an toàn hàng hải trên Biển Đông, phục vụ cho việc quan sát khí quyển và mặt đất cơ bản, thiết bị đo chỉ số ô nhiễm không khí”.
Năm 2014, Trung Quốc đã tiến hành đào đắp đất cát để xây đường băng tại đá Gạc Ma, trên bãi đá chỉ có một nền bê tông nhỏ với một cơ sở liên lạc, cầu cảng và một đơn vị đồn trú. Phần nền bê tông hiện trải rộng trên diện tích 100.000 m2, nơi rộng nhất là 400m. Đá Gạc Ma hiện có các công trình như kênh tiếp cận, nhà máy bê tông, tháp phòng thủ, bơm khử mặn, bơm nhiên liệu, cơ sở quân sự nhiều tầng, radar, trạm liên lạc, bãi đáp trực thăng, cầu cảng và đê chắn sóng gia cố. Đến nay, Trung Quốc đã hoàn thiện cải tạo phi pháp đá Gạc Ma và đưa vào sử dụng trái phép nhiều hạng mục công trình như: Tòa nhà kiên cố cao 26 – 27m gồm 8 tầng, tại 4 góc nhà đều bố trí các lỗ châu mai – lỗ bắn. Trên nóc nhà bố trí 2 ra đa hàng hải, 2 ăng ten parabol và 1 thiết bị đảm bảo bay có quả cầu che, cùng một số thiết bị thông tin liên lạc khác. Trên tầng 6 của tòa nhà, phía Trung Quốc lắp radar điều khiển hỏa lực, hệ thống kính ngắm quang học hiện đại. Tầng 5 của tòa nhà được lắp 2 bệ pháo 30mm (7 nòng) và tầng 1 lắp 2 bệ pháo 76mm. Ngoài hệ thống súng pháo trên nhà 8 tầng, còn có 1 vị trí hỏa lực lắp đặt pháo 76mm, pháo 30mm quay hướng Đông Bắc luôn có quân nhân trực canh 24/24 trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và họ chỉ chui ra khỏi bệ pháo khi đổi ca trực. Ngoai ra, còn có các công trình khác trên bãi Gạc Ma như: 2 tháp radar đối không – đảm bảo bay cho máy bay, 1 tháp viễn thông thu phát sóng 4G cao khoảng 50m, 2 cột điện gió cùng hệ thống pin năng lượng mặt trời, 1 ngọn hải đăng cao 50m, bán kính chiếu xa khoảng 40 km… Bên cạnh đó, Trung Quốc còn nạo vét luồng rạch theo hướng Bắc – Nam với chiều dài 900 – 1.000m, rộng khoảng 250 – 400m thuận tiện cho các tàu trọng tải 4.000 tấn ra vào âu tàu phía trong bãi và cập cảng phía Bắc đá Gạc Ma.
Từ tháng 7/2014, Trung Quốc bắt đầu cải tạo phần đất trên đá Subi. Nơi này hiện có kênh tiếp cận, cầu cảng, các thiết bị thông tin liên lạc, radar, đê chắn sóng gia cố, bãi đáp trực thăng, cơ sở quận sự và có thể xây một đường băng dài 3.000m. Những hình ảnh mới đây chụp từ vệ tinh DigitalGlobe cho thấy có gần 400 tòa nhà mới được xây cất trên đá Subi. Tính đến nay, Subi là đảo nhân tạo lớn nhất trong số 7 đảo Trung Quốc xây dựng trái phép tại Trường Sa. Cơ sở hạ tầng tương tự cũng được triển khai tại đá Vành Khăn và Chữ Thập, bao gồm vị trí đặt tên lửa, đường băng dài 3 km, nhà kho lớn và một loạt thiết bị có thể theo dõi vệ tinh, hoạt động quân sự nước ngoài và thông tin liên lạc.
Đầu những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu xây dựng nhà tạm thành nhà kiên cố 2 tầng với cầu cảng, lô cốt và hệ thống thông tin liên lạc, ụ pháo… trên đá Tư Nghĩa. Từ năm 2014, phía Trung Quốc đã huy động hàng chục tàu vận tải công trình trọng tải lớn, tập trung xây dựng cải tạo trái phép bãi Tư Nghĩa thành căn cứ quân sự. Hiện nay, căn cứ quân sự do Trung Quốc xây dựng trái phép trên bãi Tư Nghĩa đã hoàn tất các cơ sở hạ tầng, công trình trên diện tích cải tạo khoảng 9,5 ha bao gồm nhà kiên cố 8 tầng cao khoảng 26 – 27m, tại 4 góc nhà của các tầng đều bố trí lỗ bắn. Trên nóc bố trí 2 radar hàng hải và 2 ăngten parabol, 1 thiết bị có quả cầu che và các thiết bị thông tin liên lạc, quan sát. Ở tầng 6 của tòa nhà lắp rada điều khiển hỏa lực, kính ngắm quang học, còn tầng 5 lắp 4 bệ pháo 30 mm (7 nòng), tầng 1 lắp 4 bệ pháo 76 mm… Ngoài ra, vị trí hỏa lực lắp đặt pháo 76 mm, pháo 30 mm quay hướng Đông; tháp viễn thông thu phát sóng 4G cao khoảng 50 m; bãi đáp trực thăng, cầu cảng hướng Đông – Tây dài khoảng 80 – 100 m. Ngoài việc bồi đắp và xây dựng khối nhà 09 tầng, Trung Quốc cũng cho nạo vét một luồng dẫn vào cầu cảng của đá Tư Nghĩa, dài khoảng 900m với độ sâu trên 10m để đón các tàu trọng tải lớn vào cảng.
Bên cạnh đó, Trung Quốc còn tập trung lực lượng cải tạo phi pháp và mở rộng diện tích phần đất nhân tạo trên bãi đá Châu Viên lên đến 119.711 m2; xây dựng các công trình như kênh tiếp cận, đê chắn sóng, bãi đáp trực thăng, các tòa nhà hỗ trợ, cơ sở quân sự, ăng ten liên lạc vệ tinh, radar, hải đăng… trên đá Châu Viên. Tại đá Gaven, Trung Quốc đã cải tạo, mở rộng trái phép diện tích 114.000 m2, xây dựng kênh tiếp cận, súng phòng không, súng hải quân, thiết bị liên lạc, kiến trúc hỗ trợ xây dựng, tháp phòng thủ, cơ sở quân sự, bãi đáp trực thăng và đê chắn sóng…
Trung Quốc xây dựng đảo nhân tạo ở Biển Đông là vi phạm luật pháp quốc tế:
Thứ nhất, các đảo nhân tạo Trung Quốc xây dựng trái phép thuộc quần đảo Trường Sa là của Việt Nam mà Trung Quốc đã chiếm đóng bằng vũ lực. Trung Quốc luôn tự cho là có chủ quyền đối với khu vực quần đảo Trường Sa nói riêng và với hơn 80% diện tích Biển Đông nói chung, nhưng trên thực tế, Trung Quốc đã dùng vũ lực quân sự để xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào các năm 1956, 1974, 1988, 1995… Những hành động vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế này sẽ không đem lại chủ quyền cho Trung Quốc ở Biển Đông.
Không những vậy, Tòa Trọng tài Thường trực tại The Hague (PCA) ra phán quyết chung cuộc vụ Philippines kiện Trung Quốc về “Đường Chín Đoạn”, hay còn gọi là “Đường Lưỡi Bò” trên Biển Đông. Trong đó, phán quyết của Tòa đã nêu rõ: “Tòa kết luận không có căn cứ pháp lý để Trung Quốc đòi quyền lịch sử với các vùng biển nằm trong “đường chín đoạn”. Ngoài ra, về vấn đề pháp lý của “các hòn đảo” mà Trung Quốc đã cơi nới mở rộng nhân tạo dựa trên các bãi cạn, đá ngầm, cùng vùng biển xung quanh, Toà kết luận “không có thực thể nào ở Quần đảo Trường Sa đáp ứng được các điều kiện để làm căn cứ tính những vùng biển nới rộng”. Toà cũng lưu ý về việc có sự hiện diện của con người trên một số điểm, nhưng xác định việc đó không làm thay đổi bản chất “không thể là nơi con người có thể sinh sống hoặc tự nó có giá trị kinh tế” của các thực thể này, bởi sự tồn tại của con người tại đó hoàn toàn “phụ thuộc vào sự hỗ trợ bên ngoài chứ không phải dựa vào khả năng tự có”.
Thứ hai, các đảo nhân tạo Trung Quốc xây dựng trái phép là trên các loại đá tự nhiên và các rạn san hô vĩnh cửu còn vi phạm các quy định của UNCLOS, Hiến chương Liên hợp quốc, xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với hoạt động tự do hàng hải, hàng không và môi trường sinh thái ở Biển Đông.
Thứ ba, Trung Quốc đã vi phạm các quy định Điều 87 UNCLOS, liên quan việc “tôn trọng hợp lý”. Việc hưởng quyền xây dựng đảo nhân tạo của một số quốc gia không nên ảnh hưởng bất hợp lý đến quyền và lợi ích của các quốc gia khác cũng như cả cộng đồng quốc tế. Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong các điều khoản liên quan của UNCLOS, nó chỉ ra rằng khi một quốc gia ven biển thiết lập vùng an toàn xung quanh đảo nhân tạo, cần đảm bảo rằng khu vực này liên quan một cách hợp lý đến bản chất và chức năng của hòn đảo nhân tạo ấy, và cũng cần phải đưa ra thông báo về phạm vi của vùng an toàn. Hơn nữa, “đảo, các thiết lập và cấu trúc nhân tạo cùng với các vùng an toàn bao quanh chúng có thể không được thiết lập nếu chúng ảnh hưởng đến việc sử dụng các tuyến đường biển đã được công nhận thiết yếu đối với đường biển quốc tế”.
Thứ tư, Trung Quốc đã vi phạm các điều khoản, thỏa thuận song phương, đa phương về nghĩa vụ phải thông báo và tham vấn về việc xây dựng đảo nhân tạo và các thiết lập ở Biển Đông; vi phạm các quy định của Tuyên bố về Cách ứng xử trên Biển Đông (DOC) năm 2002 và cam kết không tiến hành quân sự hóa, làm phức tạp hóa tình hình Biển Đông.
Trước âm mưu, ý đồ và hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa, Bộ Ngoại giao Việt Nam và các nước đã nhiều lần phản đối hoạt động cải tạo, bồi đắp và quân sự hóa trên Biển Đông của Trung Quốc. Việt Nam khẳng định “có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa cũng như các quyền hợp pháp đối với các vùng biển của Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS”. Hành động của Trung Quốc đi ngược lại tinh thần của Tuyên bố của các bên ở Biển Đông (DOC), trái với thoả thuận về nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, không phù hợp với thoả thuận quan trọng lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được về kiểm soát tốt bất đồng trên biển. Các hành động của Trung Quốc không có lợi cho việc duy trì môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác ở Biển Đông và xu thế phát triển tốt đẹp của quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, cũng như nỗ lực của các nước trong việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử (COC) hiện nay.
Đối phó với TQ, Philippines mua
hệ thống radar phòng thủ hiện đại của Nhật Bản
Truyền thông Philippines cho biết cho biết Bộ Quốc phòng nước này đã quyết định mua hệ thống radar phòng thủ J/FPS-3 của Nhật Bản nhằm tăng cường khả năng cảnh báo sớm của lực lượng không quân
Theo thông tin trên, Bộ Quốc phòng Philippines đã quyết định mua hệ thống radar phòng thủ J/FPS-3 từ Nhật Bản. Hệ thống radar này sẽ giúp tăng cường khả năng cảnh báo sớm của không quân Philippines bằng cách giám sát các máy bay chiến đấu tàng hình và phát hiện tên lửa tầm thấp. Đây là thỏa thuận xuất khẩu vũ khí đầu tiên của chính quyền Abe kể từ khi họ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu vũ khí năm 2014.
Hệ thống radar phòng thủ J/FPS-3air vốn được Lực lượng phòng vệ trên không Nhật Bản (JASDF) biên chế từ năm 1991. Nếu hợp đồng được ký kết, đây sẽ là lần đầu tiên Tokyo xuất khẩu trang bị quốc phòng trong 51 năm qua. Mỗi tổ hợp J/FPS-3 nâng cấp có mức giá dự kiến 8,9-18 triệu USD. Tokyo cho rằng
việc chào bán radar đời cũ được hiện đại hóa sẽ đáp ứng yêu cầu chi phí thấp của Manila, tăng khả năng giành được đơn hàng. Phiên bản J/FPS-3 có tầm hoạt động tối đa khoảng 450 km, được JASDF tích hợp vào các hệ thống phòng thủ chống tên lửa đạn đạo và phát hiện vật thể xâm phạm không phận từ xa.
Trong những năm gần đây, quan hệ quân sự giữa Nhật Bản và Philippines đã có nhiều bước đột phá mới. Tuy nhiên, sự hợp tác quốc phòng giữa hai nước chủ yếu được duy trì bằng cách cung cấp vũ khí miễn phí. Chẳng hạn, Nhật Bản đã tặng 10 tàu tuần tra mới được đóng cho Philippines vào năm 2016, Lực lượng phòng vệ hàng hải Nhật Bản (JMSDF) đã tặng máy bay huấn luyện TC-90 cho Hải quân Philippines vào tháng 3 năm 2018 và đã đồng ý vào tháng 6 để bàn giao các bộ phận của UH -1H Máy bay trực thăng Huey cho không quân Philippines.
Theo giới chuyên gia, không chỉ đơn thuần là tăng cường hợp tác quân sự với Manila thông qua buôn bán vũ khí, chính quyền Abe còn dự định thông qua việc bán hệ thống radar cho Philippines để từng bước thay thế Mỹ tăng cường hiện diện quân sự ở châu Á – Thái Bình Dương. Theo đó, cả Nhật Bản và Philippines đều là đồng minh truyền thống của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nhưng sau khi Duterte trở thành tổng thống năm 2016, Manila bắt đầu xem xét lại mối quan hệ quốc phòng với Washington. Vào Tháng 2/2020, họ tuyên bố chấm dứt Thỏa thuận Lực lượng Tham quan (VFA) với Hoa Kỳ, không cho phép lính Mỹ đóng quân tại Philippines nữa hoặc các tàu Mỹ neo đậu tại cảng của họ. Điều này chắc chắn sẽ làm thay đổi mạng lưới quốc phòng mà Mỹ và các đồng minh đã thiết lập ở châu Á – Thái Bình Dương. Trong hoàn cảnh như vậy, Tokyo, bằng cách tăng cường mối quan hệ quốc phòng với Manila và bán thiết bị quân sự cho nước này với hy vọng sẽ lấp đầy khoảng trống an ninh do sự rút quân của Mỹ.
Tiến trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông
đang bế tắc: Các bên cần tăng cường đối thoại
Trong bối cảnh tình hình dịch bệnh do virus nCoV gây ra đã, đang và sẽ còn tác động ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình khu vực, điều này đã ảnh hưởng đến tiến trình đàm phán, thảo luận về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc và ASEAN. Để thúc đẩy quá trình đàm phán, các bên cần gia tăng đối thoại, trao đổi, song song với đó phải thực hiện tốt DOC, luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982.
Theo nguyên Thứ trưởng Phạm Quang Vinh, chủ trương đối ngoại chung của Việt Nam luôn là độc lập tự chủ, làm bạn với các nước, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Việt Nam tính đến lợi ích của mình để phát triển quan hệ với các đối tác nhưng đồng thời trên cơ sở quan hệ có đi có lại và lợi ích song trùng. Trong chính sách chung đó, Việt Nam muốn hợp tác tốt và xây dựng trong môi trường hòa bình, ổn định chung. Việt Nam cũng mong muốn ASEAN có mối quan hệ hợp tác tốt với các nước lớn, các nước khác. ASEAN cần phải dựa trên nguyên tắc là lấy lợi ích của khu vực, lợi ích của ASEAN để phát triển quan hệ với tất cả các nước đối tác.
Trong vấn đề Biển Đông, từng nước ASEAN có thể có lợi ích khác nhau, do vậy, cần có những bàn bạc giữa các nước, lấy lợi ích chung để đi tới đồng thuận. Tinh thần này thể hiện rõ nhất là trong tuyên bố 6 điểm của ASEAN năm 2012 với nội dung ASEAN mong muốn khu vực hòa bình, ổn định, bao gồm cả an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Đây là khu vực địa chiến lược rất quan trọng và ai cũng có lợi ích. Bên cạnh đó, càng khi có tranh chấp phức tạp, thì các bên càng cần phải vừa bảo đảm tôn trọng luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982); vừa tuân thủ cam kết giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; đồng thời thúc đẩy đối thoại xây dựng lòng tin, không để những tình huống phức tạp xảy ra. Khi các bên cùng nhau tham vấn để xây dựng COC thì vẫn phải thực hiện tốt các điều trên cũng như Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC). Do đó, COC phải là công cụ tốt hơn để quản trị hành vi và rủi ro, đó mới là mong mỏi chung. Như vậy, COC phải dựa trên luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982, các nguyên tắc đã được đề ra trong DOC; đồng thời đúc kết từ bài học và tình hình thực hiện DOC của gần hai thập kỷ qua, để từ đó có thể quản trị tốt hơn các hành vi và những rủi ro, tránh phức tạp nảy sinh. Một COC đáp ứng được điều đó mới là một COC thực chất, hiệu quả.
Trong vấn đề Biển Đông hiện nay, các bên cần nghiêm túc thực hiện một số điểm sau: Trước hết là việc không làm phức tạp tình hình và sau đó là việc xây dựng lòng tin và bảo đảm thực hiện, tuân thủ cam kết và luật pháp quốc tế. DOC có điều 5 nhấn rất mạnh về việc kiềm chế, không làm phức tạp tình hình. Phải có ổn định, lòng tin, tuân thủ luật pháp quốc tế trên biển, thì mới có thể đàm phán COC hiệu quả. Nếu bên nào có những hành động làm phức tạp thêm tình hình, làm trái với luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982, thì rõ ràng đó là câu chuyện đặt ra với hòa bình, an ninh khu vực. Vừa qua, vẫn có các hành vi xâm phạm như vậy, bao gồm cả việc xâm phạm vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của các nước khác. ASEAN đã nêu nhiều về các nguyên tắc kể trên, trong các văn kiện, bao gồm các văn bản của ASEAN về các thành tố về COC năm 2012. Với những vấn đề này, ASEAN cần phải tiếp tục có tiếng nói. Bên cạnh đó, Biển Đông gắn với hoà bình, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, với phát triển khu vực và lợi ích của các nước. Nhất trí chung là như vậy, cũng như về các nguyên tắc đối với COC, nhưng đây tiếp tục là một vấn đề khó của ASEAN và khu vực, không phải lúc nào các nước cũng chung quan điểm. Do vậy, cần phải dựa vào các nguyên tắc, lợi ích chung để bàn bạc, có tiếng nói, từ đó thể hiện được vai trò trung tâm của ASEAN. Chặng đường để có được một COC khi càng còn nhiều khó khăn, thì càng cần gia tăng đối thoại, trao đổi, song song với kiềm chế, xây dựng lòng tin và nhất là càng cần phải thực hiện tốt DOC, luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982.
Trước đó, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Quốc Dũng, Tổng Thư ký Ủy ban Quốc gia ASEAN cho biết, đến nay, ASEAN và Trung Quốc đã kết thúc vòng rà soát thứ nhất. Vừa qua, tại các cuộc họp tại Đà Lạt, COC đã đạt được kết quả tốt, chuẩn bị bước vào vòng đàm phán thứ hai. Có thể nói, COC đang là một chương trình nghị sự ưu tiên của ASEAN và Trung Quốc. Hai bên đều xác định muốn đẩy nhanh tiến trình COC nhất có thể. Tuy nhiên, các ưu tiên, lợi ích và sự quan tâm của các bên còn có sự khác biệt, do vậy, cần thêm thời gian để thương lượng. Các bên đều nhận thức được tầm quan trọng của COC. Với tư cách là Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam cũng sẽ đóng góp vào đẩy nhanh tiến trình COC, dành thêm thời gian cho đàm phán cũng như tìm ra cách thức phù hợp để đàm phán một cách hiệu quả hơn, đạt được chất lượng cao hơn trong năm 2020. Hiện nay, Philippines, nước điều phối quan hệ ASEAN – Trung Quốc, chủ trì đàm phán với Trung Quốc về COC. Do đó, Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ với Philippines để đẩy nhanh tiến trình này trong năm 2020. Việt Nam hy vọng và sẽ nỗ lực để có thể hoàn tất vòng đàm phán thứ 2 trong năm nay.
Giới chuyên gia, học giả và truyền thông khu vực, quốc tế cho rằng tuy được Trung Quốc và ASEAN thúc đẩy đàm phán, song vẫn còn gặp nhiều khó khăn để đạt được COC trong thời gian sắp tới. Nguyên nhân chính là do: Thứ nhất, Trung Quốc cũng đang âm thầm cản trở COC vì: (1) Trung Quốc tiếp tục tiến hành các hoạt động quân sự hóa trên Biển Đông, đồng thời tìm cách tăng cường khả năng quản lý, giám sát (phi pháp) đối với khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và ngăn chặn ngư dân Philippines tiếp cận bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham. Những hành động trên của Trung Quốc tiếp tục làm xói mòn lòng tin, làm gia tăng căng thẳng và có thể ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và sự ổn định trong khu vực. (2) Trung Quốc không muốn có một COC mang tính ràng buộc pháp lý, vì cho rằng nếu COC mang tính ràng buộc về pháp lý sẽ ngăn chặn âm mưu độc chiếm Biển Đông của Bắc Kinh. (3) Bắc Kinh muốn thông qua các cuộc đàm phán, tham vấn với ASEAN để nghiên cứu, nắm quan điểm của các nước ASEAN đối với Trung Quốc. Từ đó, Bắc Kinh sẽ đưa ra những đối sách cụ thể với từng nước, để lôi kéo hoặc ép buộc phải ủng hộ quan điểm của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Nói một cách khác, Trung Quốc vẫn muốn tìm cách chia rẽ ASEAN và chèn ép những nước “không nghe lời”. Thứ hai, nội dung dự thảo COC có những tranh chấp phức tạp về mặt pháp lý trong việc xác lập các vùng biển và thềm lục địa xuất phát từ việc giải thích và áp dụng khác nhau các quy định của UNCLOS 1982; tranh chấp chủ quyền đối với các đảo, đá ở Biển Đông. Đặc biệt là một số thành viên khi tham gia với những động cơ chính trị khác nhau, tiêu biểu là Trung Quốc, một thành viên đã có những hoạt động vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia khác xung quanh Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế và các cam kết chính trị đã đạt được. Trung Quốc đã và đang tìm cách trì hoãn quá trình thương thảo để tranh thủ tạo được lợi thế trong đàm phán về COC. Chừng nào yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc chưa được hợp thức hóa trong việc xác lập phạm vi điều chỉnh COC thì chừng đó không thể có được COC. Điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc phải thực hiện bằng được chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông để vươn lên tranh giành vị trí siêu cường số một thế giới đối trọng với Mỹ. Và như vậy có thể thấy rằng cái gọi là “đã đạt được bản thảo đầu tiên của COC” do Trung Quốc chủ động thông tin là cố ý thổi phồng, nhằm mục đích tuyên truyền, mê hoặc dư luận vì động cơ chính trị. Có chăng chỉ có thể là “đã đạt tiến triển tốt trong việc xây dựng “Khung COC với Trung Quốc” như phía Philppines thông báo.
Được biết, COC không thể là phương tiện để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ hay phân định ranh giới biển ở Biển Đông. Việc giải quyết các tranh chấp nói trên phải được thực hiện bằng thương lượng trực tiếp giữa các bên tranh chấp, hoặc thông qua các cơ quan tài phán quốc tế có thẩm quyền và được các bên tranh chấp thỏa thuận sử dụng. Giống như DOC, COC sẽ tiếp tục là một công cụ xây dựng lòng tin nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, tin cậy lẫn nhau và khuyến khích hợp tác sử dụng và quản lý Biển Đông một cách hòa bình, tối ưu trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật biển 1982; các biện pháp thực hiện trong khuôn khổ COC sẽ không gây phương hại đến quá trình giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và vùng biển. Mặt khác, COC cần kế thừa và phát triển các quy định của DOC, khắc phục những điểm hạn chế đã cản trở việc triển khai DOC trên thực tế nhằm giảm căng thẳng và nguy cơ xung đột trên Biển Đông. Với mục tiêu như trên, COC không nên dừng lại ở cam kết của các bên thực hiện các nguyên tắc khung, hoặc không tiến hành những hành động không được quy định cụ thể. COC cần phải xác định rõ những hành vi không được phép tiến hành ở Biển Đông vì vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước Luật biển 1982, các thỏa thuận giữa các bên hữu quan liên quan đến vùng biển này hay do gây ra căng thẳng, bất ổn định trên Biển Đông. COC cũng cần quy định những điều kiện và cơ chế thích hợp cho phép các bên tăng cường đối thoại, giảm thiểu căng thẳng khi tranh chấp, bất đồng nảy sinh, triển khai hợp tác trong những lĩnh vực nhất định, nhất là những biện pháp xây dựng lòng tin. Với cách tiếp cận như trên, COC cũng cần phải có phạm vi, đối tượng và nội dung phù hợp, có tính đến những khó khăn, vướng mắc đã nảy sinh khi đàm phán DOC.