Tin Biển Đông – 24/10/2018

Cac Bai Khac

No sub-categories

Kêu gọi tập trận chung với ASEAN ở Biển Đông:

Các nước đang đề phòng TQ

Bộ Quốc phòng Trung Quốc cho biết, từ 20-28/10, Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan sẽ tổ chức tập trận hải quân chung mang tên “ Hòa bình và Hữu nghị” tại eo biển Malacca. Trung Quốc sẽ cử 3 tàu khu trục và hộ vệ, 2 trực thăng chở hàng, 3 máy bay vận tải loại Il-76 và 692 quân lính tham gia cuộc tập trận này. Theo Bộ Quốc phòng Trung Quốc, cuộc tập trận nhằm thể hiện ý chí chung của lực lượng vũ trang ba nước trong việc duy trì hòa bình và ổn định tại khu vực Biển Đông, tăng cường trao đổi và hợp tác thực tế, nâng cao năng lực các nước cùng đối phó với nhiều mối đe dọa an ninh.

Tàu chiến Trung Quốc tập trận bắn đạn thật ở Biển Đông

Trung Quốc mời chào các nước ASEAN tham gia tập trận chung trên Biển Đông:

Phát biểu bên lề các Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Singapore (1-4/8), Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị cho biết Trung Quốc đề nghị các nước thành viên ASEAN tổ chức các cuộc tập trận hải quân chung một cách thường xuyên ở Biển Đông với Trung Quốc, song không nên “tiến hành các cuộc tập trận chung với nước ngoài mà không báo trước cho các quốc gia khác trong khu vực”.

Tuy nhiên, đáp lại lời mời của Trung Quốc, chỉ có Malaysia và Thái Lan chấp thuận tập trận chung với Bắc Kinh. Bộ Quốc phòng Trung Quốc nhấn mạnh, cuộc tập trận này là nhằm minh chứng cho ý chí chung của lực lượng vũ trang Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan trong việc duy trì ổn định và hòa bình ở khu vực Biển Đông, tăng cường hợp tác và trao đổi thực tiễn, đồng thời nâng cao khả năng đối phó với các mối đe dọa an ninh khác nhau.

Đây là lần thứ hai Trung Quốc tham gia một cuộc tập trận ở eo biển Malacca, nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương và là một trong những tuyến đường biển quan trọng nhất của thế giới.

Cuộc tập trận diễn ra trong bối cảnh căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ bùng phát toàn diện và các nước gia tăng chỉ trích Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông.

Cuộc tập trận diễn ra trong bối cảnh căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ tại Biển Đông tiếp tục leo thang sau vụ Bắc Kinh điều tàu chiến cắt mặt khu trục của Washington tại khu vực gần quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Phát biểu tại Hội thảo Trung Quốc, Bộ trưởng Kinh tế Malaysia Azmin Ali (11/10) cho biết, “ngày nay chúng tôi chờ đợi vai trò lãnh đạo toàn cầu của Trung Quốc, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn về sức mạnh mềm thông qua việc thúc đẩy các giá trị toàn cầu như tự do tín ngưỡng, tôn trọng lẫn nhau và công bằng. Với vị trí gần Trung Quốc, những diễn biến về địa chính trị ở Đông Nam Á được xem là những dấu hiệu đầu tiên cho thấy những ảnh hưởng về thương mại, ngoại giao và an ninh mà sự trỗi dậy của Trung Quốc có thể tác động tới phần còn lại của thế giới. Mặc dù Đông Nam Á nhìn nhận tốc độ phát triển kinh tế thần tốc của Trung Quốc với “sự thán phục thực sự”, song vẫn có nhiều lo ngại về các động thái quân sự của Bắc Kinh tại Biển Đông. “Chúng tôi bảo vệ quan điểm rằng không được phép cản trở tự do hàng hải trên Biển Đông. Khu vực này phải là khu vực hòa bình, tự do, trung lập và không được phép quân sự hóa”, ông Azmin nhấn mạnh.

Trong khi đó, Ngoại trưởng và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản cùng hai người đồng cấp Australia (10/10) đã thảo luận các phương án để thắt chặt mối quan hệ quân sự và an ninh; đồng thời tái khẳng định cam kết thúc đẩy hợp tác về an ninh hàng hải, phối hợp chặt chẽ với Mỹ trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có nhiều hành động đơn phương thay đổi hiện trạng, đặc biệt tại Biển Đông và Hoa Đông.

Đa phần các nước ASEAN từ chối tham gia tập trận chung với Trung Quốc là do thiếu lòng tin chính trị vào Bắc Kinh

Trung Quốc tìm mọi cách kêu gọi ASEAN tiến hành tập trận chung ở Biển Đông là nhằm thực hiện âm mưu tuyên truyền về tình hình Biển Đông và ngăn chặn Mỹ cũng như các nước khác tăng cường hiện diện trong khu vực. Tuy nhiên, mục đích của Trung Quốc khi mời chào các nước ASEAN tập trận chung lại khác hoàn toàn so với những gì Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên truyền.

Trung Quốc muốn tập trận quân sự và thăm dò năng lượng với các nước ASEAN ở Biển Đông, nhưng không có sự tham gia của các nước bên ngoài khu vực nhằm giảm ảnh hưởng của Mỹ ở Biển Đông. Bằng cách đề xuất các cuộc diễn tập quân sự chung, Trung Quốc cũng đang cố gắng gửi một thông điệp cho thế giới rằng ASEAN và Trung Quốc có thể làm việc cùng nhau và mọi thứ đang tiến triển tốt, do đó không cần sự tham gia từ bên ngoài vào vấn đề Biển Đông. Ngoài ra, tập trận cùng các nước ASEAN sẽ là cơ hội để Trung Quốc giành được lòng tin của các nước ASEAN, xoa dịu nỗi sợ hãi về sức mạnh quân sự áp đảo của Trung Quốc bằng cách tăng sự tự tin và vai trò của ASEAN. Bắc Kinh cũng muốn thông qua cuộc tập trận chung với các nước ASEAN để tuyên truyền về việc nước này đang tuân thủ và thực hiện đầy đủ các quy định của Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Không những vậy, thông qua cuộc tập trận, Trung Quốc cũng muốn phô trương sức mạnh quân sự, gửi đi thông điệp cảnh báo đối với các nước bên ngoài như Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ… không nên can dự vào vấn đề Biển Đông; đồng thời răn đe các nước tồn tại tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở trong khu vực.

Dư luận liên quan cuộc tập trận sắp tới

Các nhà phân tích cho rằng, cuộc tập trận ba bên này là cách để chứng minh rằng các quốc gia ASEAN và Trung Quốc có thể làm việc cùng nhau về các vấn đề an ninh và quốc phòng, đặc biệt ở những khu vực ít nhạy cảm. Giáo sư Trương Khiết, chuyên gia về vấn đề Biển Đông thuộc Sở nghiên cứu châu Á-Thái Bình Dương và chiến lược toàn cầu trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Trung Quốc cho rằng, cuộc tập trận có thể giúp Trung Quốc cải thiện hợp tác quân sự với các nước ASEAN, qua đó giúp Trung Quốc thúc đẩy hơn nữa sáng kiến “Vành đai và Con đường” và gia tăng sức mạnh cho Trung Quốc trong cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở khu vực này.

Trong khi đó, chuyên gia an ninh hàng hải Collin Koh thuộc Đại học Công nghệ Nanyang nhận đinh, đối với Malaysia và Thái Lan, đây là cách chứng tỏ việc xây dựng lòng tin với Trung Quốc và là thông điệp khẳng định họ không đứng về bên nào trong mâu thuẫn giữa các cường quốc tại Biển Đông. Mục đích của họ là thể hiện quyết tâm thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực. Còn Trung Quốc dĩ nhiên sẽ xem đây là cái cớ để phản đối sự can thiệp từ bên ngoài vào Biển Đông.

http://biendong.net/bi-n-nong/24345-keu-goi-tap-tran-chung-voi-asean-o-bien-dong-cac-nuoc-dang-de-phong-tq.html

 

Nguy cơ từ đội tàu cá TQ

Lầu Năm Góc cảnh báo mối đe dọa từ hoạt động của lực lượng tàu cá “kiêm” dân quân biển Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông.

Trong báo cáo mới trình lên quốc hội Mỹ, Bộ Quốc phòng nước này bày tỏ quan ngại sâu sắc về lực lượng ngư dân hùng hậu đóng vai trò “hạm đội thứ 3” của Trung Quốc bên cạnh hải quân và hải cảnh. Báo mạng Asia Times dẫn báo cáo cho hay đơn vị dân quân biển trá hình này có bộ chỉ huy đặt tại đảo Hải Nam, được trang bị tàu cá bọc thép cỡ lớn, sẵn sàng chờ lệnh điều động đến các vùng biển trong khu vực. “Lực lượng này được trả lương nên hầu như không có chức năng đánh bắt để kiếm nguồn thu về thương mại mà đóng vai trò lớn trong những hoạt động dọa dẫm nhằm phục vụ mục đích chính trị của Trung Quốc”, báo cáo viết. Trong Sách trắng quốc phòng công bố hồi tháng 8, Nhật Bản cũng cảnh báo mối đe dọa từ tàu cá Trung Quốc, còn cựu Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ Scott Swift nhấn mạnh: “Đội tàu cá Trung Quốc rõ ràng có trung tâm chỉ huy và không hành động tùy tiện”.

“Trung Quốc được cho là sở hữu lực lượng dân quân biển lớn nhất thế giới nhưng hiện vẫn chưa rõ số lượng tàu cá”, theo bài phân tích của Giáo sư Andrew Erickson thuộc Trường Hải chiến Mỹ đăng trên chuyên trang The National Interest. Giới quan sát ước tính số lượng dân quân biển lên đến hàng trăm ngàn người. Trong đó, phần lớn không phải là ngư dân mà xuất thân từ những đơn vị quân đội bị giải thể hoặc cắt giảm nhân sự trong đợt cải tổ lực lượng vũ trang từ cuối năm 2016.

“Hạm đội thứ 3” là công cụ để Trung Quốc kiểm soát những thực thể bị nước này chiếm đóng phi pháp ở Biển Đông hoặc tăng cường quần đảo khu vực tranh chấp trên các vùng biển khác. Tờ The Washington Post dẫn lời chuyên gia Erickson nhắc lại vào năm 2017, Trung Quốc đã diễn tập kết hợp hải quân, hải cảnh và dân quân biển hoạt động trong khu vực quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam. Cùng năm, khoảng 260 tàu cá được 6 tàu vũ trang hộ tống di chuyển vào vùng biển xung quanh nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư đang tranh chấp với Nhật. Nếu xảy ra đối đầu, Trung Quốc có thể chỉ trích lực lượng chức năng các nước khác “đàn áp tàu dân sự”, theo Lầu Năm Góc. Ngược lại, “ngư dân” Trung Quốc trên các tàu vỏ thép từng gây ra nhiều vụ tấn công nghiêm trọng, bao gồm tông chìm một tàu tuần duyên Hàn Quốc hồi năm 2016. Trước đó, một nhân viên tuần duyên Hàn Quốc bị đâm chết hồi năm 2011 khi lên kiểm tra tàu cá Trung Quốc hoạt động trái phép trong vùng biển nước này.

Theo giới chuyên gia, đến nay, các bên vẫn đang chật vật tìm biện pháp hữu hiệu ứng phó “hạm đội thứ 3” mà không khiến tình hình vượt tầm kiểm soát hoặc tạo cớ để nước này triển khai lực lượng chính quy với danh nghĩa “bảo vệ ngư dân”. Tuy nhiên, Giáo sư Erickson nhận định việc Bộ Quốc phòng Mỹ lần đầu tiên đưa ra báo cáo kỹ lưỡng về dân quân biển Trung Quốc là dấu hiệu cho thấy Washington đã xác định mục tiêu để đưa ra đối sách.

Phe đối lập Hồng Kông lo ngại về cầu vượt biển dài nhất thế giới

Nguy cơ từ đội tàu cá Trung Quốc1

Ngày 23.10, các lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc chứng kiến lễ khánh thành cầu vượt biển dài nhất thế giới, nối Hồng Kông với Macau và TP.Châu Hải ở đại lục. Cây cầu có tổng chiều dài 55 km, gồm một đoạn ngầm dưới lòng biển, giúp giảm thời gian di chuyển giữa hai đầu từ 3 giờ xuống còn 30 phút. AFP dẫn lời Phó thủ tướng Trung Quốc Hàn Chính phát biểu tại buổi lễ cho rằng công trình này giúp tăng cường trao đổi kinh tế thương mại giữa 3 vùng, kết nối Hồng Kông, Macau với đại lục.

Tuy nhiên, phe đối lập ở Hồng Kông và một số nhà phân tích tỏ ra lo ngại cây cầu là công cụ để chính quyền trung ương gia tăng kiểm soát đối với các đặc khu, theo tờ South China Morning Post. Mặt khác, dự án bắt đầu vào năm 2009 còn bị chỉ trích vì chậm tiến độ và đội vốn với tổng kinh phí ước tính khoảng 20 tỉ USD (466.914 tỉ đồng). Trong quá trình thi công cũng xảy ra nhiều sự cố khiến 10 công nhân thiệt mạng và hơn 600 người bị thương.

http://biendong.net/bi-n-nong/24336-nguy-co-tu-doi-tau-ca-tq.html

 

Bộ Thủy sản Indonesia: Hoạt động của tàu cá TQ

không phải là đánh bắt cá mà là

“hành vi phạm tội” có tổ chức xuyên quốc gia

Mới đây, Bộ trưởng Bộ Thủy sản Indonesia đã đưa ra cảnh báo về tình trạng tàu cá Trung Quốc đánh bắt trái phép, xậm phạm chủ quyền của Indonesia và các nước, thậm chí còn gọi đó không phải là đánh bắt cá mà là “hành vi phạm tội” có tổ chức xuyên quốc gia. Đây là thực trạng đã và đang diễn ra từ nhiều năm nay, cho thấy sự cần thiết phải tăng cường chia sẻ thông tin, hợp tác giữa các nước trong việc ngăn chặn tình trạng trên của tàu cá Trung Quốc.

Hoạt động trái phép của tàu cá Trung Quốc là “hành vi phạm tội” có tổ chức xuyên quốc gia

Phát biểu họp báo ở thủ đô Jakarta của Indonesia vừa qua, Bộ trưởng Bộ Thủy sản Indonesia Susi Pudjiastuti, chính trị gia nổi tiếng với lập trường cứng rắn và là “bàn tay sắt” khi xử lý hành vi bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông đã thẳng thắng chỉ trích đồng thời gửi thông điệp mạnh mẽ đến Trung Quốc, quốc gia sở hữu số tàu đánh cá lớn nhất thế giới về hành vi phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia. Theo tờ theo Bưu điện Hoa nam đưa tin phát biểu trước thềm Hội nghị Đại dương dự kiến được tổ chức ở Bali trong tháng 10 này, Bộ trưởng Susi Pudjiastuti cho biết “Chúng tôi (Inodnesia) có một số bất đồng với Trung Quốc về các vấn đề đánh bắt cá bất hợp pháp, không có nguyên tắc trật tự và không được báo cáo, tuy nhiên họ (Trung Quốc) vẫn không đồng ý rằng đó là phạm tội xuyên quốc gia. Nếu không có sự hợp tác từ quốc tế, chúng tôi sẽ không thể xử lý vấn đề này”.

Theo thống kê của cơ quan chức năng Indonesia, trong 4 năm qua (2014-2018), Chính phủ Indonesia đã cấm 10.000 tàu nước ngoài đăng ký đánh bắt cá trong vùng biển của Indonesia. Trong đó, hàng trăm tàu đã bị tịch thu và bị đánh chìm. Đa số các tàu đến từ Trung Quốc, Đài Loan. Giới chuyên gia cho rằng do trữ lượng cá trong nước của Trung Quốc giảm nhanh chóng, một phần là do nhu cầu dùng hải sản tươi sống ngày càng gia tăng của giới trung lưu nên chính quyền Bắc Kinh đã khuyến khích ngư dân nước này “đánh bắt ngoài khơi xa”, vượt xa khu kinh tế đặc quyền của Trung Quốc, thậm chí còn xâm phạm vào khu vực thềm lục địa và khu vực đặc quyền kinh tế của các nước khác ở Biển Đông. Mỗi năm một tàu có dung tích 100 GT (khoảng 2,83 m3) của Trung Quốc có thể bắt được 2.000 tấn cá. Hàng triệu tấn và thu được hàng tỷ USD, bà Pudjiastuti cho biết.

Các Bộ trưởng và nguyên thủ từ 35 quốc gia sẽ tham dự Hội nghị đại dương trong tháng này cùng với 200 tổ chức phi chính phủ và tư nhân. Trong đó, các vấn đề an ninh hàng hải, biến đổi khí hậu, ô nhiễm biển cũng như đánh bắt quá mức sẽ nằm trong chương trình nghị sự của Hội nghị. Bộ trưởng Pudjiastati cho biết rất nhiều hòn đảo hoặc quốc gia ven biển dễ bị đánh bắt quá mức và biến đổi khí hậu, bà sẽ vận động tăng cường giám sát và thực thi bảo vệ các lãnh thổ hiện có như khu bảo tồn biển. Bà chỉ ra rằng các ngư dân

Trung Quốc đã bị bắt do săn bắn cá mập ở xa như quần đảo Galapagos Nam Thái Bình Dương, một trong những kho báu sinh thái của đang được thế giới bảo tồn, gìn giữ. Trong khi đó, Trung Quốc luôn phủ nhận mọi hành vi sai trái và nói rằng các tàu đánh cá của họ được hỗ trợ bởi tàu tuần duyên và tàu hải quân, đang đi kiểm tra các vùng biển mà họ có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Năm 2016, một tàu tuần tra Indonesia đã bắt một chiếc tàu đánh cá Trung Quốc 300 tấn mang số hiệu Kway Fey 10078, do đánh bắt cá gần quần đảo Natuna. Bà Pudjiastuti nói rằng những kẻ săn trộm đang chuyển đổi chiến thuật, hoạt động vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Nếu không có tác động hơn nữa từ phía quốc tế trong việc giải quyết vấn đề này, việc di cư của các loài cá biển như cá ngừ vây vàng và cá tuyết sẽ bị ảnh hưởng.

Philippines: Hoạt động đánh bắt cá của Trung Quốc gây nhiều nguy hại cho môi trường

Tháng 7/2018, Giám đốc Học viện Các vấn đề Hàng hải và Luật biển Philippines, Tiến sĩ Jay Batongbacal cảnh báo nghề cá ở Biển Tây Philippines cũng như toàn bộ Biển Đông đang đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn trong vòng một thập kỷ tới. Nguyên nhân là do tình trạng đánh bắt thủy sản và tận diệt san hô của ngư dân Trung Quốc, dẫn đến sản lượng đánh bắt thủy sản ở Biển Đông đã xuống mức báo động. Mặc dù Chính phủ Philippines cho biết sẽ đưa vấn đề nêu trên ra cuộc thảo luận song phương với Trung Quốc, song Tiến sĩ Jay Batongbacal khuyến cáo Chính phủ Philippines nên có một “nỗ lực cấp bách hơn” để thay đổi chính sách của mình từ chỗ “quan sát một cách thụ động” sang có các hành động bảo vệ tích cực hơn. “Chúng tôi thực sự cần bảo vệ môi trường sống của cá và trữ lượng cá ở Biển Đông” theo ông Jay Batongbacal.

Theo Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế Mỹ (CSIS), tổng lượng cá ở Biển Đông đã suy giảm khoảng 70-95% kể từ những năm 1950 và tỷ lệ đánh bắt đã giảm 66-75% trong vòng 20 năm qua; đến năm 1990, sản lượng cá ở một số khu vực ở Biển Đông đã giảm 90% so với những năm 1960. Số lượng loài cá mú chấm nhỏ trong vòng 8 năm qua đã giảm 80%. Một số loài hiện nay đang đối diện với nguy cơ tuyệt chủng. Mới đây, tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) đã công bố bản đồ về điều tra trữ lượng cá ở Biển Đông cho thấy các ngư trường phía Bắc Biển Đông (giáp Trung Quốc), Vịnh Bắc Bộ, và phía Tây Biển Đông (giáp Việt Nam) đã bị khai thác hầu như cạn kiệt. Vùng xung quanh quần đảo Trường Sa chỉ còn một trữ lượng cá nhất định. Ngoài ra, nhiều loài sinh vật biển trong khu vực Biển Đông như cá ngừ vây xanh, san hô, rùa biển, trai tai tượng… đang phải đối mặt với mối đe dọa tuyệt chủng do hoạt động khai thác đánh bắt quá mức và môi trường sinh sống bị phá hủy. Hiện Trung Quốc là nước có đội tàu cá đông nhất thế giới (khoảng 450.000 tàu cá), trong đó khoảng 200.000 tàu đánh cá đại dương. Hàng năm, số tàu cá Trung Quốc khai thác, đánh bắt khoảng 71 triệu tấn cá ở khu vực Biển Đông.

Trung Quốc một mặt tìm cách xoa dịu dư luận, mặt khác hành xử đe nạt tàu thuyền của các nước

Trung Quốc sử dụng các lệnh cấm đánh, bắt cá theo mùa để thể hiện “trách nhiệm”. Hàng năm, Trung Quốc đều tự ban hành lệnh cấm đánh bắt cá áp dụng trên toàn Biển Đông kéo dài từ đầu tháng 5 đến giữa tháng 6, đây vốn là thời điểm biển êm dịu nhất và là mùa thu hoạch lớn nhất của ngư dân các nước. Riêng trong năm nay (2018), Trung Quốc đã đơn phương ban hành lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông, kéo dài khoảng hơn ba tháng, bắt đầu từ ngày 1/5 đến 16/8, trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến khu vực biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực Vịnh Bắc Bộ và Bãi cạn Scarborough. Lệnh cấm này cũng được áp dụng ở vùng biển Bột Hải, Hoàng Hải và Hoa Đông. Đây là lệnh cấm dài nhất kể từ khi Trung Quốc thực thi lệnh này lần đầu tiên vào năm 1999 đến nay. Trung Quốc tuyên bố sẽ tăng cường sử dụng tàu chấp pháp để “giám sát, tuần tra, bắt giữ và xử phạt các hành vi vi phạm”.

Tàu thuyền đánh cá của Trung Quốc nổi tiếng hung hán và liều lĩnh khi hoạt động trên biển. Trung Quốc đang sử dụng một hạm đội tàu cá để thu thập thông tin về các tàu nước ngoài hoạt động ở Biển Đông. Các tàu này được trang bị hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu (GPS) để liên lạc với tàu phòng vệ bờ biển, nhiều tàu còn mang theo cả vũ khí. Các chuyên gia ngành công nghiệp đánh bắt Trung Quốc tiết lộ, nguồn trợ cấp từ chính phủ cho phép ngư dân sử dùng các tàu sắt công suất lớn thay vì tàu gỗ. Hệ thống GPS được trang bị cho ít nhất 50.000 tàu, nhằm giúp đội tàu cá liên lạc với tàu phòng vệ bờ biển Trung Quốc trong trường hợp khẩn cấp, kể cả đụng độ với tàu nước ngoài. Nhiều tàu mang cả vũ khí loại nhỏ. Đội tàu cá ở một thị trấn cảng tại đảo Hải Nam được huấn luyện quân sự, trợ cấp mọi thứ, kể cả nhiên liệu để thực hiện cái gọi là “lực lượng dân quân biển” tiến ra Biển Đông.

Tàu cá Việt Nam thường xuyên bị tàu Trung Quốc xuôi đuổi và tấn công khi đánh bắt trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Vụ việc xảy ra hôm 30/7/2017 tại địa điểm cách Đông Nam đảo Cù Lao Xanh, Bình Định 145 hải lý, tàu Bình Định số hiệu 96101 TS bị tàu vỏ sắt Trung Quốc đâm vào mạn phải rồi bỏ chạy, làm một ngư dân bị thương nhẹ, tàu hư hỏng nặng. Gần đây nhất, hôm 21/4/2018, hai tàu cá của Trung Quốc mang số hiệu 45103 và 46001 đã đâm chìm tàu cá QNg 90332 TS của Việt Nam ở vùng biển cách đảo Linh Côn thuộc quần đảo Hoàng Sa khoảng 7 hải lý về phía Đông Nam. Ngày 24/5/2018, khi đang đánh bắt tại vùng biển cách đá Bạch Quy thuộc quần đảo Hoàng Sa khoảng 7 hải lý về hướng Tây Nam, tàu cá Quảng Ngãi số hiệu QNg 96798 TS của Việt Nam đã bị chìm sau khi va chạm với tàu hải cảnh Trung Quốc số hiệu 31102.

Philippines cũng là nước xảy ra nhiều vụ tàu cá của người dân bị tàu Trung Quốc đe dọa và tấn công trên biển. Tháng 6/2012, một ngư dân Philippines đã thiệt mạng và bốn người mất tích khi tàu của họ bị một tàu Trung Quốc đâm chìm ngoài khơi tỉnh Pangasina. Năm 2014, một tàu cảnh sát biển Trung Quốc cũng đã phun vòi rồng để xuôi đuổi tàu cá Phillippines tại Bãi cạn Scarborough. Tháng 2/2015, Chính quyền Philippines tiếp tục tố cáo tàu cảnh sát biển Trung Quốc đã đâm hỏng ba tàu cá Philippines tại khu vực Bãi cạn Scarborough của Philippines. Vào tháng 5/2018, một nhóm phóng viên của hãng tin GMA News đã dùng điện thoại quay lại toàn bộ vụ việc hai cảnh sát biển Trung Quốc lên một tàu cá Philippines và lấy cá mà ngư dân Philippines đánh bắt ở Bãi cạn Scarborough.

Đối với Indonesia, vài năm trở lại đây, tàu cá và tàu cảnh sát biển Trung Quốc thường xuyên xâm phạm, xuôi đuổi và tấn công tàu cá và lực lượng chấp pháp của Indonesia tại quần đảo Natuna (khu vực EEZ của Indonesia). Trung Quốc cũng đòi hỏi có chủ quyền trong khu vực này theo “đường lưỡi bò”. Trong tháng 3/2016, lực lượng tuần duyên Indonesia đã bắt giữ tàu cá Kway Fey của Trung Quốc cùng 8 thuyền viên đánh bắt trái phép ở vùng biển Natuna. Tuy nhiên, khi lực lượng chấp pháp Indonesia đang lai dắt tàu cá này, một tàu hải cảnh của Trung Quốc đã can thiệp, đe dọa và yêu cầu tàu Indonesia thả tàu Kway Fey trong vòng 30 phút. Phía Chính phủ Indonesia sau đó đã ra tuyên bố phản đối mạnh mẽ hành động của Trung Quốc.

http://biendong.net/bi-n-nong/24344-bo-thuy-san-indonesia-hoat-dong-cua-tau-ca-tq-khong-phai-la-danh-bat-ca-ma-la-hanh-vi-pham-toi-co-to-chuc-xuyen-quoc-gia.html

 

Pháp đáp trả tham vọng hàng hải của TQ

Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Florence Parly ngày 23/10 đã tuyên bố khởi động chương trình sản xuất một tàu sân bay thế hệ mới nhằm thay thế tàu Charles de Gaulle bởi con tàu này sẽ được cử đi làm nhiệm vụ mới.

Theo trang tin Opex360 chuyên về an ninh quốc phòng, trước khi được bảo trì và nâng cấp, tàu sân bay Charles de Gaulle tập trung chủ yếu vào các hoạt động chống tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) tự xưng. Con tàu này – vốn được coi là niềm tự hào của Hải quân Pháp – đang trong giai đoạn tái khởi động để chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo, đó là tập trung bảo vệ quyền tự do hàng hải. Charles de Gaulle sẽ trở lại vùng biển Ấn Độ Dương, nơi nó thường xuyên hiện diện trong khoảng thời gian 2001-2015, và có thể còn hoạt động với quy mô rộng hơn chứ không chỉ giới hạn ở Ấn Độ Dương.

Khi được báo chí đặt câu hỏi liệu sự trở lại của tàu sân bay Charles de Gaulle có phải là một “yếu tố đáp trả” tham vọng hàng hải của Trung Quốc hay không, Bộ trưởng Florence Parly nhấn mạnh Pháp luôn ở tuyến đầu trong việc bảo vệ quyền tự do hàng hải trong các vùng biển quốc tế – một quyền bất khả xâm phạm – mà hiện giờ điển hình là ở Biển Đông. Bà khẳng định Pháp sẽ thể hiện quyền tự do hành động và đi lại tại vùng biển này.

Trong số tất cả các quốc gia có tàu sân bay, chỉ có 2 quốc gia chế tạo tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân. Một là Mỹ và quốc gia thứ hai có thể khiến nhiều người bất ngờ, đó là Pháp. Chiếc Charles de Gaulle, hay R91, là chiếc tàu mặt nước chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên của Pháp và cũng là tàu sân bay duy nhất của nước này. Nó đã trở thành lực lượng tấn công tầm xa chủ lực của quân đội Pháp.

Cần phải nhắc lại rằng Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông, mắt xích quan trọng của các tuyến vận chuyển hàng hải quốc tế và có những mỏ dầu khí trữ lượng lớn. Vì mục đích này, nhà chức trách Trung Quốc thực hiện chính sách “việc đã rồi” bằng cách quân sự hóa các rạn san hô ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đồng thời chèn ép các nước láng giềng có tuyên bố chủ quyền chồng chéo tại khu vực tranh chấp này. Theo Bộ trưởng Florence Parly, việc tàu sân bay Charles de Gaulle sớm trở lại hoạt động với đầy đủ tính năng chiến đấu sẽ tạo ra sức mạnh triển khai tầm xa cho hải quân Pháp. Tàu Charles de Gaulle dự kiến sẽ đến Ấn Độ Dương vào năm 2019.  Nhiệm vụ của tàu Charles de Gaulle đã được nói rõ trong các phát biểu của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron nhân chuyến thăm Australia vào tháng 4/2018 khi ông khẳng định mong muốn “xây dựng một trục Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để thực thi quyền tự do hàng hải và hàng không”, chống lại nguy cơ “bá quyền” của Trung Quốc trong bối cảnh ảnh hưởng của Bắc Kinh không ngừng gia tăng tại khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

Mặt khác, tháng 8 vừa qua, không quân Pháp đã thực hiện chiến dịch “Pegasus 2018” nhằm thể hiện tình trạng sẵn sàng của Không quân Pháp tại các khu vực trên thế giới. Với 3 chiếc tiêm kích Rafale, một máy bay vận tải quân sự A400M, một chiếc A310 và một máy bay tiếp dầu, đội bay của Pháp đã thăm nhiều nước ở Đông Nam Á, trong đó có Indonesia, Malaysia và Việt Nam.

Pháp là một cường quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Trong năm 2014, báo cáo của Thượng viện Pháp nhấn mạnh rằng Hải quân Pháp phải đảm bảo “sự hiện diện thường xuyên và rõ rệt hơn”. Trước đó, một tài liệu của Tổng Cục Quan hệ Quốc tế và Chiến lược (DGRIS) khuyến cáo Pháp cần nâng cao năng lực giám sát, ngăn chặn và hành động quân sự khi đối mặt với mối đe dọa có thể làm tổn hại tới an ninh quốc gia và khu vực.

http://biendong.net/dam-luan/24330-phap-dap-tra-tham-vong-hang-hai-cua-tq.html

 

Tự do hàng hải ở Biển Đông: Quan điểm và thực trạng

Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền và tự do hàng hải ở Biển Đông, Mỹ luôn phản đối các tuyên bố chủ quyền, hành động gây hấn và phát triển quân sự của Trung Quốc. Thái độ của Mỹ về tranh chấp tại Biển Đông tương đối nhất quán: Trung lập trong tranh chấp về chủ quyền và ủng hộ tự do lưu thông hàng hải; phản đối các hành động bá chiếm, tự phân định ranh giới các vùng biển; kêu gọi các nước tuân thủ luật pháp quốc tế, phản đối việc đe doạn sử dụng hoặc sử dụng vũ lực của bất kỳ bên nào, phản đối bất kỳ sự can thiệp trái phép nào vào các hoạt động kinh tế; kêu gọi Trung Quốc và các nước ASEAN tuân theo tinh thần của tuyên bố chung về ứng xử Biển Đông (DOC) và tự kiềm chế.

Tầm quan trọng của việc đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông

Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3.5 triệu km vuông, từ vĩ độ 3° đến 26° Bắc và từ kinh độ 100° đến 121° Đông. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi 8 nước khác là Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Camphuchia. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực, nó còn có ảnh hưởng lớn đối với châu Á – Thái Bình Dương và Mỹ.

Ngoài nguồn tài nguyên thiên nhiên biển phong phú, phục vụ cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh (thủy sản, khoáng sản, dầu khí, băng cháy…). Biển Đông còn nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á. Có 5 tuyến đường biển lớn nhất thế giới đi xuyên qua khu vực Biển Đông (tuyến từ Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Xuy-ê, Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Australia, Newzealand; tuyến Đông Á đi qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi Australia và Newzealand, Nam Thái Bình Dương; tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á). Biển Đông được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ 2 thế giới (mỗi ngày có khoảng 150-200 tàu các loại đi qua đây, 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên) 45% lượng vận tải thương mại của thế giới đi qua vùng Biển Đông. Ngoài ra, khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới (cảng Singapore và Hồng Công) và có 4 eo biển quan trọng đối với nhiều nước (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai – Wetar).

Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế giới, đáng chú ý: (1) Eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của Indonesia và Malaysia), hàng hóa của các nước Đông Nam Á và Bắc Á đều phải đi qua đây. (2) Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể dùng để kiêm soát các tuyến hàng hải và dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè…

Tự do hàng hải trong khu vực Biển Đông ảnh hưởng đối với các nước

Về kinh tế: Khu vực châu Á – Thái Bình Dương là một khu vực đang phát triển, có thị trường lớn; hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là nông sản, may mặc, thủ công mỹ nghệ… qua các nước châu Âu, châu Mỹ; nhập khẩu thiết bị kỹ thuật công nghệ cao từ các nước phát triển. Trong quá trình vận chuyển hàng hóa, các nước thường sử dụng đường biển vì nó có ưu điểm về kinh tế so với các loại hình vận chuyển khác.

Trong khu vực, một số nước có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào tuyến đường biển (Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc …), cụ thể: Nhật Bản hàng năm có khoảng 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu và 45% khối hàng hoá xuất khẩu đi qua khu vực Biển Đông; Trung Quốc có 29/39 tuyến đường biển, 60% hàng hóa xuất khẩu và 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông, năm 2010 thương mại biển TRUNG QUốC chiếm 9,87% GDP; xuất khẩu hàng hóa các nước Đông Nam Á chiếm 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40%. Vì vậy, những nước này đều tập trung phát triển ngành vận tải đường biển và quan tâm đến vấn đề tự do hàng hải, đặc biệt là tự do hàng hải ở khu vực Biển Đông.

Đối với một số nước trên thế giới như Mỹ, Ấn Độ, Australia…, thị trường xuất nhập khẩu của những nước này chủ yếu là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản; hàng hóa vận chuyển từ khu vực Trung Đông, Ấn Độ Dương đều phải qua khu vực Biển Đông. Vì vậy, nếu xảy ra xung đột ở vùng biển này, các loại tàu biển phải chạy dọc theo đường mới hoặc vòng qua phía Nam Australia, khi đó cước phí vận tải tăng mạnh, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế của các nước.

Về quân sự: Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải tại Biển Đông vẫn chưa được giải quyết; nạn cướp biển và khủng bố trong khu vực Biển Đông ở mức cao. Vì vậy, vùng biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa hình, chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế.

Ngoài ra, tự do hàng hải trong khu vực Biển Đông còn có ý nghĩa lớn về mặt quân sự đối với Mỹ và các nước đồng minh, vì: (1) Đồng minh của Mỹ trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương (Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Australia, Philippines, Singapore) đều có mối liên hệ mật thiết với Biển Đông; (2) Tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực nhằm kiềm chế Trung Quốc; (3) Có tuyến đường ngắn nhất để Mỹ chuyển quân từ Hạm động Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương đến Trung Đông, Tây Á (từ Biển Đông chạy qua eo Malacca);(4) Đảm bảo an ninh hàng hải cho các tàu thương mại của Mỹ và các nước đồng minh.

Về chính trị: Biển Đônng còn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đông. Vì vậy, vấn đề tự do hàng hải ở Biển Đông bị một nước hoặc một nhóm nước khống chế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của các nước khu vực.

Quan điểm của các nước về tự do hàng hải ở Biển Đông

Quan điểm của Mỹ: Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền và tự do hàng hải ở Biển Đông, Mỹ luôn phản đối các tuyên bố chủ quyền, hành động gây hấn và phát triển quân sự của Trung Quốc. Thái độ của Mỹ về tranh chấp tại Biển Đông tương đối nhất quán: Trung lập trong tranh chấp về chủ quyền và ủng hộ tự do lưu thông hàng hải; phản đối các hành động bá chiếm, tự phân định ranh giới các vùng biển; kêu gọi các nước tuân thủ luật pháp quốc tế, phản đối việc đe doạn sử dụng hoặc sử dụng vũ lực của bất kỳ bên nào, phản đối bất kỳ sự can thiệp trái phép nào vào các hoạt động kinh tế; kêu gọi Trung Quốc và các nước ASEAN tuân theo tinh thần của tuyên bố chung về ứng xử Biển Đông (DOC) và tự kiềm chế. Tuy nhiên, trước những thái độ tự do lưu thông hàng hải của các nước trên thế giới. Mỹ đã có những phản ứng cứng rắn hơn và có những biện pháp kiềm chế Trung Quốc (tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực Biển Đông, tiến hành tập trậ với các nước trong khu vực…). Giai đoạn hiện nay Mỹ thường: (1) Ủng hộ thiết lập cơ chế an ninh vùng để ngăn chặn hành động dùng vũ lực; (2) Tiếp tục đảm bảo sự hiện diện quân sự và tham gia gây ảnh hưởng đến các sự kiện xảy ra trong vùng; (3) Giữ vai trò người cân bằng lực lượng bên ngoài bằng cách hỗ trợ những nước khác yếu hơn trong khu vực làm đối trọng với sự gia tăng quyền lực của đối thủ tiềm năng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Ấn Độ: Ấn Độ luôn giữ lập trường trung lập trong vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, kêu gọi các nước giải quyết vấn đề Biển Đông bằng biện pháp hòa bình và trên cơ sở luật pháp quốc tế và Luật Biển 1982 (UNCLOS). Tuy nhiên, thời gian gần đâ, Ấn Độ và VN tăng cường hợp tác quân sự và khai thác dầu khí tại Biển Đông đã gặp phải sự phản đối của TRUNG QUốC. Phía Ấn Độ đã có thái độ cứng rắn và bày tỏ sự ủng hộ mạnh đối với tự do hàng hải trong vùng biển quốc tế, bao gồm cả Biển Đông. Ấn Độ cho rằng thăm dò dầu khí là một lĩnh vực quan trọng trong tiến trình hợp tác với VN, Ấn Độ hợp tác với VN căn cứ trên luật lệ, công ước và chuẩn mực quốc tế, ủng hộ các nước sử dụng các biện pháp hòa bình và dựa trên luật pháp quốc tế giải quyết tranh chấp chủ quyền khu vực Biển Đông.

Australia: Quan điểm của Australia cũng như một số nước khác trong khu vực là cần tạo ra một cơ cấu để có thể kiểm soát và kiềm chế được các xung đột ở Biển Đông. Australia cũng như nhiều nước khác có quyền lợi gián tiếp liên quan đến những sự kiện tại Biển Đông, nhưng Australia phải chịu ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc và Mỹ đối với vấn đề tranh chấp ở Biển Đông nên rất khó để Australia can thiệp vào những xung đột nhỏ trên biển. Tuy nhiên, tại Hội nghị Tham vấn bộ trưởng 2011 (AUSMIN), Mỹ và Australia đã cùng ra thông cáo chung phản đối sử dụng vũ lực trong tranh chấp Biển Đông; tái khẳng định tự do hàng hải, duy trì hòa bình- ổn định, tinh thần tôn trọng quốc tế và giao thương hợp pháp không bị cản trở tại Biển Đông là lợi ích quốc gia của Australia cũng như với cộng đồng quốc tế.

Nhật Bản: Nhật Bản là một quốc đảo, 45% hàng hóa xuất khẩu phải vận chuyển qua Biển Đông. Ngoài ra, tuy Nhật Bản không có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, nhưng hiện Nhật Bản và Trung Quốc còn tranh chấp về chủ quyền đảo Điếu Ngư. Vì vậy, chính phủ Nhật Bản luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề tự do thương mại hàng hải; phản đối các hành động gây hấn và các hoạt động quân sự của Trung Quốc tại Biển Đông. Nhật Bản cho rằng, liên minh Mỹ – Nhật sẽ là nền tảng cho hoàn bình và ổn định tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Trung Quốc: Với việc tuyên bố có chủ quyền đối với 80% Biển Đông; tăng cường sức mạnh và trang bị quân sự; có nhiều hoạt động “khiêu khích” các nước trong khu vực Biển Đông, va chạm tàu Philippines, cắm mốc và xây dựng các căn cứ đồn trú quân sự trên Biển Đông…) đã làm cho tranh chấp trên Biển Đông căng thẳng hơn. Tuy nhiên, Trung Quốc luôn sử dụng “giọng điệu” tôn trọng và đảm bảo tự do hàng hải trên Biển Đông, đồng thời cho rằng các tuyến hàng hải trên vùng biển xung quanh Trung Quốc, cũng như các vùng biển lân cận, không bị cản trở; tàu bè tiếp tục được tự do đi lại trên các tuyến hàng hải này.

Philippines: Philippines là một trong 5 nước có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Chính phủ Philippines luôn có thái độ cứng rắn và phản đối mạnh với các tuyên bố, hoạt động quân sự, khai thác dầu khí, đáng bắt cá của TRUNG QUốC. Tuy mới kết thúc chuyến thăm Trung Quốc nhằm giảm bớt những căng thẳng tại Biển Đông và thúc đẩy phát triển kinh tế giữa hai nước, Tổng thống Benigno Aquino vẫn đưa ra lập trường cứng rắn về tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, đồng thời đặt ra mục tiêu tìm kiếm viện trợ quân sự từ Mỹ để củng cố vị thế trong khu vực; Philippines cho rằng một số nước lớn như Mỹ, Nhật Bản … có vai trò quan trọng đảm bảo hòa bình, ổn định và tự do hàng hải trong khu vực.

Singapore: Singapore không liên quan đến tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Trước đây Singapore thường thể hiện thái độ trung lập, không đưa ra những tuyên bố trực tiếp về vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, tự do hàng hải có ảnh hưởng trực tiếp đến Singapore, Bộ Ngoại giao Singapore đã ra thông cáo kêu gọi Trung Quốc làm rõ tuyên bố chủ quyền của nước này ở Biển Đông và thể hiện thái độ quan tâm sâu sắc đến mọi vấn đề làm ảnh hưởng tự do hàng hải trên các tuyến đường biển quốc tế, trong đó có Biển Đông.

Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Bruney: Đều lên tiếng ủng hộ tự do hàng hải trong khu vực Biển Đông; kêu gọi các nước thực hiện DOC và ký kết COC; có các hành động đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực; giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán hòa bình và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hành động tuyên bố chủ quyền theo đường “lưỡi bò”, thực hiện nghiêm túc các tuyên bố chung đã ký kết giữa ASEAN và Trung Quốc.

Tuy nhiên, một số nước ASEAN không liên quan đến lợi ích trực tiếp đến khu vực Biển Đông như Myanmar, Lào, Camphuchia đều né tránh đề cập đến vấn đề Biển Đông do tính toán lợi ích trong quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Thời gian gần đây, cùng với việc Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng kinh tế chính trị đối với một số nước này, Myanmar đã ông khai ủng hộ lập trường của Bắc Kinh trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông và vấn đề tự do hàng hải.

Dư luận quốc tế và báo chí về tự do hàng hải

Nhận định của các chuyên gia, học giả: Một số chuyên gia, học giả trên thế giới như Nghị sĩ Rodolfo Biazon, Nghị sĩ Ben Evardone (Philippines); Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Leon Panetta; Michael Vatikiotis, Chuyên gia An ninh tại Trung tâm đối thoại nhân văn Singapore; Termsak Chalermpalanupap, Giám đốc Tổng Cục Chính Trị và An Ninh của Ban Thư Ký ASEAN; Tiến sĩ Peter Dutton, Giáo sư thuộc Học Viện Nghiên Cứu về Hàng Hải Trung Quốc; Giáo sư Carl Thayer; Thượng Nghị Sĩ John McCain… đều đưa ra nhận định, an ninh khu vực Biển Đông ảnh hưởng đến quyền tự do hàng hải của cả những nước không tranh chấp chủ quyền; mặc dù tồn tại bất đồng tại Biển Đông trong thời gian dài, nhưng khu vực này vẫn là vùng biển có giao thông vận chuyển hàng hải năng động trên thế giới; nguyên nhân chính chưa giải quyết được tranh chấp chủ quyền của các nước ở Biển Đông là việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền theo đường “lưỡi bò” và tự do hàng không thể “sống chung” với đường “lưỡi bò” của Trung Quốc. Một số chuyên gia cũng kêu gọi Mỹ xem xét lại các phê chuẩn Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) nhằm bảo vệ quyền tự do hàng hải đối với các nước.

Tình hình trên Biển Đông hiện nay cho thấy cần có Bộ Quy tắc Ứng xử Biển Đông để tránh xảy ra xung đột giữa các nước; quyền lợi hợp pháp của các nước trên Biển Đông phải được giải quyết thông qua đối thoại và đàm phán; chấm dứt việc đe dọa về quân sự hoặc gây áp lực trong xác nhận chủ quyền; kêu gọi Trung Quốc và ASEAN hãy tôn trọng Tuyên bố DOC, hạn chế các hoạt động làm phức tạp tình hình, gia tăng tranh chấp, ảnh hưởng đến hòa bình ổn định tại Biển Đông.

Nhận định của báo chí: Một số Hãng thông tấn như New York Times, VOA, BBC, Inquirer (Philippnes), Daily Youmuri (Nhật Bản) đưa ra nhận định, “căng thẳng bùng lên” ở Biển Đông đã chứng tỏ Tuyên bố DOC không đạt hiệu quả. Các nước trong khu vực ngày càng bất bình với việc Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền, phát triển sức mạnh quân sự và có nhiều hoạt động “khiêu khích” các nước xung quanh. Tranh chấp chủ quyền trong khu vực vẫn chưa được giải quyết là do Trung Quốc muốn giải quyết tranh chấp với từng nước thông qua đàm phán song phương, nhưng VN, Indonesia và Philippines muốn sử dụng giải pháp đa phương để giải quyết tranh chấp. Vì vậy, các nước ASEAN phải đoàn kết, thống nhất lập trường chung trong việc giải quyết tranh chấp với Trung Quốc; kêu gọi Bắc Kinh cần kiềm chế trên biển và cho rằng Trung Quốc đã phá vỡ cam kết DOC 2002.

Tuy nhiên, một số trang mạng Trung Quốc ( Tân Hoa Xã, Thời báo Hoàn Cầu, Nhật báo Nhân Dân…) liên tục chỉ trích và phê phán một số nước như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản đã can thiệp vào tranh chấp ở Biển Đông. Mỹ đã tiến hành nhiều hoạt động phục vụ kế hoạch “trở lại Đông Nam Á”, đưa ra một số cam kết hỗ trợ các nước trong khu vực. Tuy nhiên, động cơ thực sự khiến Mỹ can dự vào Biển Đông là xuất phát từ lợi ích chiến lược của Mỹ.

Thời gian tới, tình hình Biển Đông sẽ tiếp tục diễn biến theo triều hướng phức tạp hơn. Sự tranh giành lợi ích giữa các bên sẽ căng thẳng hơn do các nước đều có lợi ích đan xen tại đây. Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện ý đồ bành trướng và gia tăng ảnh hưởng tại Biển Đông thông qua việc khẳng định lợi ích “cốt lõi”, đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ quyền trong nước và quốc tế; tiếp tục sử dụng sức mạnh kinh tế để gây sức ép đối với một số nước trong khu vực, tăng cường khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản và công tác nghiên cứu đại dương. Tuy nhiên, Mỹ cũng như các cường quốc trên thế giới sẽ không để yên cho các hành vi phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông. Những nước này sẽ tích cực tuần tra đảm bảo tự do hàng hải, hàng

không ở Biển Đông; đồng thời có các biện pháp thiết thực ngăn chặn và buộc Trung Quốc phải tuân thủ luật pháp quốc tế

http://biendong.net/bi-n-nong/24343-tu-do-hang-hai-o-bien-dong-quan-diem-va-thuc-trang.html

 

Biển Đông : Úc xây quân cảng

tại Papua New Guinea để đề phòng Trung Quốc

Tú Anh

Đảo Manus, thuộc quần đảo Papua New Guinea ở Nam Thái Bình Dương, sẽ là một căn cứ quân sự chiến lược của hải quân Úc, trong bối cảnh Trung Quốc không ngừng biểu dương lực lượng trong khu vực. Trong chiều hướng này, Canberra đã chi 5 triệu đôla Úc để nâng cấp bến cảng, trước ngày trao cho Papua New Guinea một tàu tuần duyên.

Theo báo Úc The Australian và The Australian Financial Review hôm nay 24/10/2018, thông tin thứ nhất được nhiều viên chức cao cấp của bộ Quốc Phòng xác nhận là Canberra đảm nhận phần lớn chi phí xây dựng một căn cứ quân sự tại quốc đảo Papua New Guinea. Thông tin thứ hai là Hải quân Úc gia tăng hoạt động tại Biển Đông, nơi Trung Quốc tranh giành chủ quyền với các nước láng giềng Đông Nam Á.

Cụ thể, trong cuộc điều trần ngày 24/10/2018 tại Thượng Viện, tư lệnh hải quân Úc, phó đô đốc Mike Noonan cho biết các tàu chiến của Úc di chuyển trong vùng Biển Đông và thường bị chiến hạm Trung Quốc tra hỏi qua hệ thống liên lạc. Cho đến nay, hai bên luôn giữ thái độ lịch sự, không khiêu khích nhau. Tuy chưa tham gia vào các cuộc tập trận bảo vệ tự do lưu thông như hạm đội Mỹ tiến sát các đảo bị Trung Quốc tự cho là chủ nhân, chiến hạm của Úc đã hiện diện thường xuyên hơn và ở lâu hơn ở Biển Đông : từ 43 ngày trong năm 2014 lên đến 254 ngày trong năm 2017.

Tham mưu trưởng Angus Cambell cũng cho biết Hải quân Úc sẽ hiện diện nhiều hơn trong khu vực Biển Đông, với 8 chiến hạm trong 60 ngày tính từ đầu năm nay, tại con đường huyết mạch của thương mại thế giới.

Ngoài Papua New Guinea, bộ Quốc Phòng Úc cũng đang chuẩn bị kế hoạch phát triển căn cứ ở đảo Fiji trong mục đích không che giấu : ngăn chận ảnh hưởng Trung Quốc trong khu vực Biển Đông và Nam Thái Bình Dương.

http://vi.rfi.fr/chau-a/20181024-bien-dong-uc-xay-quan-cang-tai-papuanew-guinea-de-de-phong-trung-quoc