Tin Biển Đông – 23/05/2019
TQ sử dụng doanh nghiệp quốc doanh
để thực thi chính sách ở Biển Đông
Tại Đại hội 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bắc Kinh đưa ra chiến lược Cường quốc biển. Để thực hiện chiến lược trên, Trung Quốc đã cải tổ hệ thống quản lý hành chính biển và tăng cường năng lực cho các cơ quan, lực lượng chấp pháp biển và hải quân nhằm “bảo vệ và thúc đẩy lợi ích” của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong đó, các doanh nghiệp quốc doanh của Trung Quốc có vai trò quan trọng nhằm từng bước thực hiện chiến lược trên.
Để thực hiện âm mưu chiến lược đã đề ra, các doanh nghiệp quốc doanh của Trung đều phải tuân thủ chỉ thị của chính phủ trung ương. Một số chủ thể sử dụng nguồn lực gây ảnh hưởng lên chính sách nhà nước, thậm chí để theo đuổi những sáng kiến riêng dưới chiêu bài xây dựng cường quốc biển để bảo vệ lợi ích kinh tế và chính trị. Theo đó, họ chủ động lồng ghép lợi ích kinh doanh của mình với lợi ích biển của Trung Quốc, xây dựng hình ảnh là người bảo vệ lợi ích quốc gia. Một số chủ thể khác chỉ phản ứng khi chính quyền trung ương đưa ra những chính sách khích lệ. Khi môi trường chính sách có lợi cho các doanh nghiệp này, họ trở nên rất chủ động trong việc thúc đẩy chính sách. Một số doanh nghiệp nhà nước khác chỉ đơn giản là bên thực thi chính sách, với vai trò làm công cụ chính trị thực hiện nhiệm vụ chiến lược của quốc gia. Tuy nhiên, điều quan trọng cần chú ý là hoạt động của họ không chỉ thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà nước, các công ty cũng lợi dụng vai trò thực thi chính sách để tối đa hóa cơ hội kinh doanh của mình.
Chính phủ Trung Quốc kiểm soát và hậu thuẫn các doanh nghiệp quốc doanh
Ở Trung Quốc, mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước và doanh nghiệp cho thấy các doanh nghiệp nhà nước chịu sự chỉ đạo của Nhà nước. Ban Tổ chức của CCP bổ nhiệm giám đốc điều hành doanh nghiệp quốc doanh, khá nhiều người trong số đó có thể giữ chức Bộ trưởng hoặc Thứ trưởng, một số thậm chí còn là ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng. Nhìn chung, doanh nghiệp quốc doanh tồn tại và thành công là nhờ mối liên hệ với quyền lực nhà nước, họ được hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi. Chẳng hạn, nhiều doanh nghiệp quốc doanh được quyền tiếp cận các khoản vay ngân hàng với hỗ trợ lãi suất thấp bởi đặc quyền với nhà nước.
Do mối quan hệ đặc biệt đó, các doanh nghiệp quốc doanh Trung Quốc thường được yêu cầu phục vụ lợi ích quốc gia ở mọi cấp độ. Dù các chủ thể doanh nghiệp không tìm cách áp đặt lên chính sách quốc gia, quy mô và tầm quan trọng của họ chắc chắn có tác động lên hành vi thực tế của Trung Quốc trong tranh chấp, theo đó cũng tác động đối với an ninh khu vực. Tương tự, bằng việc tận dụng khả năng và nguồn lực của các doanh nghiệp này, nhà nước cũng có thể huy động các doanh nghiệp quốc doanh bảo vệ “lợi ích” của Trung Quốc ở Biển Đông.
Tuy nhiên, vai trò là công cụ chiến lược đặc biệt trong quan hệ đối ngoại Trung Quốc không có nghĩa các doanh nghiệp quốc doanh hoàn toàn bỏ qua động lực thương mại bởi doanh nghiệp quốc doanh cũng có nhiệm vụ tối đa hóa lợi nhuận của công ty, nhiều quyết định đầu tư của họ được định hướng bởi các nguyên tắc thị trường. doanh nghiệp quốc doanh thường sử dụng lợi ích quốc gia biện minh cho việc tối đa hóa lợi ích kinh tế của riêng mình. Khi cả hai lợi ích song trùng, các doanh nghiệp quốc doanh sẽ chủ động hơn trong hợp tác với các cơ quan nhà nước và tham gia vào hoạt động đối ngoại của Trung Quốc. Đối với các chủ thể doanh nghiệp, kịch bản lý tưởng nhất là có được sự ủng hộ của nhà nước – điều đó sẽ thúc đẩy được lợi ích thương mại doanh nghiệp – trong khi thực hiện đầy đủ yêu cầu của nhà nước. Sự ủng hộ đó là những khoản vay ưu đãi và bảo đảm tín dụng đối với các thương vụ kinh doanh lớn, đặc biệt trong lĩnh vực chiến lược.
Vai trò của các doanh nghiệp Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông
Theo như các tuyên bố chính thức của Trung Quốc, phát triển kinh tế biển trở thành một trong những ưu tiên quốc gia hàng đầu của Trung Quốc. Những thống kê của Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc (SOA) cho thấy, từ 2012 đến 2016, kinh tế biển Trung Quốc đạt mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 7,5%; cao hơn 0,2% so với tăng trưởng kinh tế quốc gia trong cùng kỳ. Năm 2016, giá trị sản lượng liên quan đến biển đạt 7,05 nghìn tỉ
Nhân dân Tệ (1,08 nghìn tỉ USD), chiếm 9,5% nền kinh tế đất nước. Theo đó, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở Biển Đông trở nên rất quan trọng đối với phát triển kinh tế Trung Quốc.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch:
Trước đây, các công ty du lịch tàu biển Trung Quốc thận trọng trong hoạt động kinh doanh của mình ở Biển Đông là do: (1) Dù đường bờ biển dài và nhiều chuỗi đảo, cơ sở du lịch gần những khu vực này khá hạn chế. Công nghiệp hóa ở các tỉnh duyên hải Trung Quốc đã làm suy thoái chất lượng môi trường biển, điều đó khiến cho các hoạt động như lặn biển, câu cá và lướt sóng bị ngưng trệ. Dù các vùng biển ven bờ đảo Hải Nam có môi trường tương đối thuận lợi cho tàu biển, cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể công nghiệp dẫn đến tình trạng phát triển quá mức đối với các vùng biển này. Vì một phần lí do trên, khách du lịch Trung Quốc bắt đầu hướng quan tâm vào Hoàng Sa, sử dụng dịch vụ của một số doanh nghiệp du lịch tư nhân có quy mô nhỏ. Những khách du lịch này là những cá nhân thường không để ý đến quy định của nhà nước. Do đó, các doanh nghiệp này đã chịu tổn thất trước điều kiện thời tiết xấu cũng như thiếu các biện pháp an toàn, tổn thất tài chính, bị các lực lượng chấp pháp các nước tranh chấp can thiệp và thậm chí là phản đối ngoại giao. Ở khía cạnh đó, ưu tiên của doanh nghiệp và chính phủ Trung Quốc là phát triển nguồn lực biển mới cho ngành du lịch, đáp ứng được nhu cầu thị trường. (2) Ngành du lịch tàu biển Trung Quốc ở vào tình thế khó khăn; ở thị trường cấp thấp, dư thừa khả năng đáp ứng nhưng thiếu khả năng ở thị trưởng cao cấp; ít được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi của Chính phủ; ngành công nghiệp du lịch tàu biển Trung Quốc thiếu công nghệ cốt lõi, kỹ năng quản lý và sự hỗ trợ cần thiết của nhà nước để phát triển chuỗi công nghiệp riêng cho ngành. (3) Ngành công nghiệp du lịch tàu biển Trung Quốc cũng phải đối mặt với những rào cản về mặt thể chế vốn hạn chế ngành phát triển. Theo Quy định Hải quan Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Quản lý Thu thuế Hàng hóa Xuất nhập khẩu, việc mua tàu biển nước ngoài sẽ phải chịu mức thuế cao là 27,35%, điều này chắc chắc làm tăng chi phí hoạt động cho toàn ngành tàu biển.
Tuy nhiên, chính sách thận trọng về ngành du lịch ở Biển Đông của Trung Quốc đã bắt đầu thay đổi từ năm 2009 khi Quốc vụ Viện ban hành Một số Ý kiến Thúc đẩy Phát triển Đảo Quốc tế Hải Nam cho ngành Du lịch. Ngoài ra, Trung Quốc còn ban hành một loạt văn pháp pháp quy về thúc đẩy phát triển du lịch biển như Văn bản chính sách Quy định về Phân vùng Chức năng Biển Quốc gia (2011 – 2020) năm 2012 của Quốc vụ Viện là bước ngoặt cho ngành du lịch ở Biển Đông, Văn bản quy định nhà nước hỗ trợ phát triển ngành nghề biển ở Hoàng Sa và Trường Sa, Bộ Giao thông Trung Quốc ban hành Hướng dẫn Quan điểm Thúc đẩy Phát triển Bền vững và Giàu mạnh ngành Công nghiệp Du lịch Tàu biển, Quốc vụ Viện cũng ban hành Thông báo Ban hành Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 về Phát triển và Hoạch định Ngành Du lịch vào tháng 12/2016.
Nhìn chung, các văn bản chính sách này đều có mục tiêu chung: phát triển ngành công nghiệp du lịch tàu biển. Trước sự hỗ trợ chính sách rõ ràng từ chính quyền trung ương, các công ty du lịch tàu biển Trung Quốc bắt đầu mở rộng hoạt động ở Biển Đông. Các chính sách thúc đẩy tiếp theo của nhà nước bắt đầu thay đổi động lực ngành công nghiệp du lịch tàu biển và thậm chí là mối quan tâm và sự can dự của ngành này ở Biển Đông. Tận dụng hỗ trợ từ nhà nước, một số công ty Trung Quốc chọn cách liên kết để phá vỡ thế độc quyền thị trường du lịch tàu biển Trung Quốc của các công ty nước ngoài. Theo Liu Junli, Giám đốc công ty Đầu tư Đại dương CCCC, một công ty con của CCCC, các CSEO cần phải phát triển ngành du lịch tàu biển Trung Quốc và vượt qua lợi thế công nghệ của các công ty du lịch tàu biển nước ngoài. Các doanh nghiệp Trung Quốc cũng hợp tác chặt chẽ với chính quyền Hải Nam để đánh giá tiềm năng thương mại trong việc đóng thêm tàu du lịch biển cũng như việc mở rộng dịch vụ ngành này. Các công ty Trung Quốc và chính quyền Hải Nam cùng nhất trí rằng việc phát triển du lịch ở Biển Đông sẽ thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng các đảo, tạo doanh thu cho cả chính quyền địa phương và người dân. Bên cạnh đó, phát triển du lịch các vùng biển tranh chấp ở Biển Đông cũng tạo cơ hội phát triển hệ thống cầu cảng tàu biển tại các thành phố tỉnh Hải Nam và Thành phố Tam Á.
Cuối cùng, kể từ khi chính quyền Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng khai thác tài nguyên du lịch ở Biển Đông, các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu quân tâm mở rộng hoạt động dân sự tại các vùng biển tranh chấp. Trong thời gian diễn ra triển lãm Du lịch tàu biển
Nam Hải Trung Quốc, Xu Lirong, Bí thư Đảng, CEO COSCO, tái khẳng định rằng, phát triển các tuyến du lịch biển ở Biển Đông là một phần sứ mệnh công ty nhằm thúc đẩy các cụm công nghiệp – xã hội, các lĩnh vực này sẽ kết hợp phát triển bất động sản, giáo dục về biển và quản lý khách sạn. Trong tương lai, công ty sẽ tìm kiếm cơ hội mở rộng hoạt động kinh doanh từ Hoàng Sa cho đến Đài Loan và các đảo khác ở các quốc gia láng giềng thành một phần Tuyến du lịch Văn hóa Con đường Tơ lụa trên Biển của Trung Quốc.
Ngành công nghiệp du lịch cũng tin tưởng phát triển du lịch ở Biển Đông là một trong cách hữu hiệu nhất để tăng cường yêu sách chủ quyền Trung Quốc. Theo một nhà quản lý cấp cao trong ngành này, “du lịch ở Biển Đông cần hỗ trợ chính sách và tài chính của chính phủ. Chính quyền trung ương cần cung cấp đầy đủ phương tiện và điều phối mối quan hệ giữa ngành du lịch với các ngành khác.” Ông cũng khẳng định thực hiện du lịch tàu biển là một “yêu sách mềm về chủ quyền”, khác với hoạt động đánh bắt của Trung Quốc có thể dễ bị giám sát và bắt giữ, gây ra tranh cãi ngoại giao. “Do đó, du lịch ở Biển Đông mang trọng trách lớn về an ninh quốc gia và cần nhận được hỗ trợ từ tất các cấp chính quyền”.
Để đảm bảo sự ủng hộ rộng rãi cho hoạt động kinh doanh ở Biển Đông, các công ty du lịch tàu biển cũng thực hiện các chương trình giáo dục “lòng yêu nước”. Chẳng hạn, việc đăng ký Du lịch tàu Biển Nam Hải chỉ áp dụng đối với công dân Trung Quốc vì chuyến du lịch sẽ có nghi thức chào cờ và tuyên thệ yêu nước. Phát triển các kế hoạch dựa trên quan điểm xúc tiến du lịch là hỗ trợ cho yêu sách “chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc ở Biển Đông”. Tháng 6/2016, hơn 10.000 khách du lịch Trung Quốc tham gia các chương trình lịch này, chủ yếu là du lịch ở Hoàng Sa. Những tuyến du lịch như vậy trở nên phố biến đối với công chúng,
Đối với các công ty dầu khí quốc gia ở Biển Đông:
Từ lâu, công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc CNOOC mong muốn mở rộng hoạt động thương mại ở Biển Đông nhằm tiếp cận các nguồn dự trữ năng lượng lớn ở khu vực. Năm 1992, công ty Crestone của Mỹ ký hợp đồng với CNOOC phát triển lô Vạn An Bắc 21 (Wan-an Bei 21), gần quần đảo Trường Sa. Nhưng do căng thẳng gia tăng giữa Việt Nam và Trung Quốc, dự án đã bị hoãn. Năm 2005, Bắc Kinh chỉ đạo CNOOC hợp tác với 2 công ty nhà nước của Philippines và Việt Nam là Công ty Dầu khí quốc gia Philippines và PetroVietnam thực hiện khảo sát địa chấn chung ở các vùng biển tranh chấp gần Trường Sa. Tuy nhiên, năm 2008, Dự án Khảo sát Địa chấn Biển Chung Trung Quốc – Philippines – Việt Nam (JMSU) hết hiệu lực do thiếu lòng tin, quan ngại về mặt chiến lược và những cáo buộc tham nhũng ở Philippines.
Do căng thẳng triền miên và nhạy cảm chính trị ở Biển Đông, CNOOC bất đắc dĩ triển khai hoạt động thương mại ở các vùng biển tranh chấp mà không được nhà nước hỗ trợ bởi một số nguyên do. Thứ nhất, thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên ở Biển Đông nếu không có hỗ trợ về chính trị sẽ ảnh hưởng lợi ích kinh doanh của CNOOC. Tập đoàn được niêm yết công khai từ năm 2001 nên CNOOC phải đáp ứng kỳ vọng và bảo vệ lợi ích cho các cổ đông. Thứ hai, CNOOC thiếu khả năng về công nghệ khi hoạt động ở các vùng biển sâu ở Biển Đông. Theo truyền thống, CNOOC chỉ thực hiện hoạt động khoan dầu ven biển. Để đa dạng hóa danh mục kinh doanh, CNOOC đã mở rộng hoạt động trên bờ và hạ nguồn, thực hiện các dự án rủi ro cao ở Biển Đông vốn không phải là ưu tiên của CNOOC. Thứ ba, CNOOC thận trọng khi đặt chân hoạt động kinh doanh ở Biển Đông bởi trữ lượng năng lượng tại khu vực chưa thực sự rõ ràng.
Tuy nhiên, người dân Trung Quốc đã đặt nghi vấn về logic kinh doanh của CNOOC. Các học giả Trung Quốc chỉ trích CNOOC vì không phát triển nguồn tài nguyên ở Biển Đông, trong khi Việt Nam và các quốc gia khác đều thu lợi từ hoạt động khai thác nguồn tài nguyên năng lượng ở Biển Đông. Đối mặt với áp lực ngày một tăng từ công chúng, năm 2008, CNOOC tuyên bố sẽ đầu tư khoảng 32 tỉ USD phát triển tài nguyên năng lượng ở Biển Đông.
Dù CNOOC phải đối mặt với áp lực trong nước khi bắt đầu hoạt động ở Biển Đông, lý do kinh tế là lời giải thích hợp lý hơn về việc tại sao công ty này lại bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến khu vực này, cụ thể. (1) Tăng trưởng nhanh về kinh tế của Trung Quốc trong những thập kỷ qua thúc đẩy nhu cầu nguồn tài nguyên dầu, khí vốn đang phụ thuộc nguồn nhập khẩu từ bên ngoài. Nhu cầu lớn về nguồn tài nguyên đã thúc đẩy các công ty dầu khí quốc gia liên doanh với bên ngoài hoặc khai thác các khu vực đang được phát triển ở Trung
Quốc. Năm 2009, nhập khẩu dầu khí Trung Quốc đáp ứng 51,3% nhu cầu trong nước. Đây là lần đầu tiên lượng nhập khẩu dầu Trung Quốc chiếm hơn 50% lượng dầu tiêu thụ. Dầu thô nhập khẩu Trung Quốc chủ yếu từ Trung Đông và Đông Phi và phải đi qua eo biển hẹp Malacca nằm giữa Indonesia và Malaysia. Nhiều nhà phân tích an ninh Trung Quốc coi eo biển này là tuyến đường dễ bị tổn thương về mặt chiến lược, đặc biệt trong trường hợp xảy ra xung đột Trung – Mỹ. Với gần 3/4 lượng dầu nhập khẩu Trung Quốc đi qua eo biển này, cái gọi là “Thế Lưỡng nan Malacca” ngay từ đầu đã ảnh hưởng đến toan tính an ninh năng lượng của Trung Quốc. (2) Khi hoạt động kinh doanh chủ yếu ở các khu vực xa bờ, CNOOC sẽ phải đối diện với cạnh tranh từ 2 công ty dầu khí quốc gia khác là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) và Công ty Hóa dầu Trung Quốc (công ty mẹ của Sinopec). Đúng như tên gọi, hoạt động của CNOOC tập trung ở các mỏ dầu xa bờ như Liêu Đông, Bột Hải và Bắc Hải. Ban đầu CNOOC còn lưỡng lự mở rộng hoạt động ở Biển Đông, công ty này chỉ thay đổi quan điểm khi năm 2004, CNPC được chính phủ chấp thuận khai thác các lô ở Biển Đông và sau đó Sinopec cũng được chính phủ cấp phép khai thác tại khu vực này (trong cùng năm). Ngoài cạnh tranh trong nước, CNOOC còn phải đối diện với khó khăn ở Hoa Đông, khu vực Nhật Bản và Trung Quốc đều tranh chấp chủ quyền quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Lo lắng về vấn đề cạnh tranh và hy vọng mở rộng thị trưởng, dưới danh nghĩa bảo vệ chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông, các giám đốc điều hành đã vận động hành lang để chính phủ hỗ trợ. Trong khi đó, CNOOC quyết định hợp tác với các đối tác khác phát triển công nghệ khoan nước sâu. Năm 2006, CNOOC đã cử cán bộ tới Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đóng tàu Ngoại Cao Kiều (Waigaoqiao) Thượng Hải, là công ty con của CSSC, để nghiên cứu khả năng phát triển giàn khoan nước sâu. Năm 2006, sau những cuộc thảo luận và tham vấn với CSSC, Bộ Đất đai và Tài nguyên, Học viện Khoa học Trung Quốc đầu tư gần 1 tỉ USD xây dựng giàn khoan HYSY-981. Phát triển dàn khoan HYSY-981 được các cơ quan chính phủ ủng hộ, như Ủy ban Cải cách Phát triển Quốc gia (NDRC), Bộ Khoa học và Công nghệ. Dự án sớm thu hút được chú ý của giới lãnh đạo cấp cao. Nguyên CEO CNOOC Fu Yucheng viết một bản báo cáo về HYSY-981 gửi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào khi ông đến thăm Thanh Đảo năm 2009. Năm 2010, CNOOC tuyên bố sẽ đầu tư 200 tỉ Tệ (30,75 tỉ USD) trong 20 năm tiếp theo để phát triển thêm mỏ dầu “Đại Khánh” ở Trung Quốc (Daqing, đây là mỏ dầu lớn nhất của Trung Quốc). Ngoài ra, đáp ứng đề nghị của CNOOC, chính quyền Hải Nam cam kết cung cấp tàu chấp pháp hỗ trợ công ty bảo vệ các dự án xa bờ.
Mọi nỗ lực tìm kiếm hỗ trợ của nhà nước đã được đền đáp. Năm 2011, Quốc vụ Viện ban hành Quyết định Điều chỉnh Quy định Khai thác Tài nguyên Dầu khí Xa bờ trong Hợp tác với Doanh nghiệp nước ngoài. Tháng 7/2012, Quốc vụ Viện ban hành Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 về Phát triển các ngành Công nghiệp mới Chiến lược Quốc gia, trong đó nhà nước hết sức coi trọng phát triển năng lực về công nghệ khai thác tài nguyên nước sâu đến năm 2015.
Đối với các Công ty Xây dựng cơ sở hạ tầng:
Từ 2013, Trung Quốc thực hiện chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng và cải tạo đất trên quy mô rất lớn tại 7 thực thể chiếm đóng ở Trường Sa. Những thực thể nhân tạo này cho phép Trung Quốc tăng cường hiện diện quân sự ở Biển Đông, do đó dấy lên mối quan ngại an ninh từ các quốc gia láng giềng và các quốc gia khác trong và ngoài khu vực. Trong quá trình xây dựng các đảo nhân tạo, CCCC đóng vai trò đầu tàu thực hiện chính sách này.
Chính phủ Trung Quốc chỉ đạo CCCC thực hiện nhiệm vụ chiến lược này bởi một số lý do. Thứ nhất, CCCC có thế mạnh về công nghệ và năng lực thi công cũng như khả năng tiếp cận tốt hơn về nguồn vốn ngân hàng và chi phí tài chính thấp so với đối thủ cạnh tranh. Thứ hai, công ty có uy tính lớn trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng biển như xây dựng kênh biển sâu và các dự án khai hoang, cải tạo. Thứ ba, thông qua mua bán và sáp nhập, CCCC có thể củng cố hoạt động kinh doanh, hưởng lợi lớn thị trường cơ sở hạ tầng nhờ giảm chi phí chuỗi cung và tiếp nhận năng lực công nghệ từ các CSOE khác. Thứ tư, để thúc đẩy cạnh tranh trong khai thác tài nguyên biển, CCCC khéo léo tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty khác và chính quyền địa phương. Một trong đó là công ty Cá voi Xanh (Tian Jing). Đây là một công ty nạo vét thuộc sở hữu CCCC, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa. Tàu nạo vét của Cá Voi Xanh do một công ty con của Tập đoạn Thương mại Trung Quốc (một CSEO khác) có tên Công nghiệp Thương mại Trung Quốc
(Shenzheng) đóng. Năm 2017, CCCC cùng với những CSEO khác như CSSC triển khai đóng tàu Thiên Côn (Tiankun). Đây là tàu nạo vết lớn nhất, hiện đại nhất châu Á. Do hạn chế về dữ liệu chính thức, rất khó xác nhận lợi nhuận tài chính mà CCCC và các công ty khác thu được từ hoạt động xây dựng đảo nhân tạo. Tuy nhiên, theo tờ Thời báo Tài chính Quốc tế (phụ bản tờ Nhân dân Nhật báo), chi phí ước tính hoạt động cải tạo và xây dựng trang thiết bị chỉ riêng trên Đá Chữ Thập đã là 73,6 tỉ Tệ (11,4 tỉ USD).
Ở một số khía cạnh, CCCC đã thu được lợi ích từ hoạt động xây đảo nhân tạo ở Trường Sa. Đầu tiên, CCCC có thể lợi dụng khát vọng của Trung Quốc trở thành quốc gia biển hùng mạnh. Để thể hiện quyết tâm trở thành chủ thể quan trọng trong quá trình phát triển biển của Trung Quốc, năm 2015, CCCC sáp nhập ba doanh nghiệp nạo vét quan trọng thành một công ty có tên Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Nạo vét CCCC, theo đó, hoạt động sáp nhập này thực sự tăng cường được năng lực nạo vét và đóng góp cho lợi ích an ninh biển của Trung Quốc. Thứ hai, CCCC nhấn mạnh cam kết thực hiện chiến lược phát triển biển ở Biển Đông của Trung Quốc và chính sách quốc gia về thúc đẩy hợp tác dân sự – quân sự thông qua phát triển Thành phố Tam Sa. Để hoàn thành mục tiêu này, CCCC hợp tác với chính quyền tỉnh Hải Nam. Theo Giám đốc Hội đồng Quản trị CCCC, ông Liu Qitao, Hải Nam đóng vai trò quan trọng về mặt chiến lược trong việc tăng cường hợp tác dân sự – quân sự. Do đó, CCCC sẽ tiếp tục tham gia vào quá trình phát triển kinh tế Hải Nam và đóng vai trò chính phát triển tài nguyên ở Biển Đông. Ông tiếp tục khẳng định, CCCC sẽ “khắc cốt ghi tâm” về trách nhiệm phải có thành công theo đúng như kỳ vọng của nhà nước và xã hội. Về mặt lịch sử, CCCC thu vén được lợi ích từ mở rộng kinh doanh ở Hải Nam, phát triển từ một nhà thầu đơn thuần thành một tập đoàn đa ngành trong nhiều lĩnh vực: bất động sản, cơ sở hạ tầng, phát triển tài nguyên và nhiều lĩnh vực khác. Ở mặt ngược lại, chính quyền Hải Nam cũng tỏ rõ sự ủng hộ đối với CCCC, cam kết cung cấp “nguồn lực tốt nhất, môi trường kinh doanh và môi trường sống tốt nhất” cho công ty mà chính quyền xem là một nhà đầu tư quan trọng. Thứ ba, ngoài hoạt động cải tạo đất ở Trường Sa, CCCC còn chủ động phát triển các hoạt động kinh doanh khác. Được lập năm 2016, mục tiêu của Quỹ Đầu tư Đại dương CCCC là thúc đẩy phát triển 4 lĩnh vực kinh doanh chủ chốt: du lịch tàu biển; bất động sản, khai thác tài nguyên và các hoạt động liên quan ở Biển Đông; xây dựng cơ sở hạ tầng. Cùng với nhà đầu tư CCCC, Quỹ Đầu tư Đại dương CCCC đánh giá việc khai thác tài nguyên và hoạt động kinh doanh ở Biển Đông, quyết định hợp tác hơn nữa với chính quyền Thành phố Tam Sa. Chẳng hạn, Vào tháng 12/2012, CCCC và Tam Sa ký Thỏa thuận Khung về Hợp tác Chiến lược để thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Xây dựng và Phát triển (Tam Sa) CCCC và năm 2016, thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Du lịch Biển Giấc mơ Tam Sa Nam Hải. Theo Chủ tịch Thành phố Tam Sa, Xiao Jie, phát triển các dự án xây dựng quan trọng trên Đảo Cây thuộc quần đảo Hoàng Sa và cầu cảng cố định neo đậu cho tàu đánh cá ở Tam Sa đóng vai trò rất quan trọng cho phát triển kinh tế biển dọc Con đường Tơ lụa trên Biển.
Theo CCCC, mục tiêu thành lập Công ty Xây dựng và Phát triển (Tam Sa) CCCC là những lợi ích dài hạn của công ty trong tương lai. Điều đó có thể giúp thúc đẩy lợi ích kinh doanh khác nhau của CCCC như xây dựng và bảo trì cơ sở hạ tầng biển xa, đánh bắt, phát triển du lịch biển xa và dịch vụ hậu cần cho các hoạt động trên các đảo và đá. CCCC lên mục tiêu đầu tư trên 100 tỉ Tệ (15,4 tỉ USD) trong 5 năm kế tiếp để mở rộng hoạt động kinh doanh cho các hoạt động này. Kế hoạch đầu tư tham vọng của CCCC xuất phát từ một thực tế là công ty đã âm thầm thu đươc lợi ích từ hoạt động cải tạo đất ở Biển Đông thông qua thực thi nhiệm vụ quốc gia và lịch sử hợp tác lâu dài với Hải Nam, hợp tác kỹ thuật với các công ty khác và hoạt động kinh doanh đa dạng của mình ở Biển Đông trong quá khứ.
Nhìn chung, từ 2012, các chủ thể doanh nghiệp của Trung Quốc đóng vai trò ngày một quan trọng trong thực hiện chính sách Biển Đông của Trung Quốc. Song, các chủ thể này không hoàn toàn đóng vai trò chính sách độc lập cũng như không mang tính quyết định trong việc định hình chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Với mục tiêu chính trị bao trùm là củng cố yêu sách lãnh thổ và quyền tài phán trên biển, Trung Quốc sẽ tiếp tục hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp quốc doanh ở Biển Đông. Khi lợi ích kinh doanh còn song trùng với lợi ích quốc gia nhà nước, các doanh nghiệp quốc doanh sẽ vẫn tiếp tục ủng hộ chính sách quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông. Do đó chúng ta có thể còn được chứng kiến các doanh
nghiệp quốc doanh Trung Quốc tiếp tục đóng vai trò nổi bật trong tranh chấp Biển Đông ở tương lai. Khi lợi ích thương mại và sự hiện diện về mặt kinh tế của Trung Quốc trong lĩnh vực biển phát triển, có lẽ Bắc Kinh sẽ có động cơ thúc đẩy để sử dụng các công cụ chính trị, chấp pháp và quân sự với một tâm thế quyết đoán hơn để bảo vệ lợi ích biển và kinh tế đang phát triển của mình, do đó càng làm phức tạp thêm tranh chấp Biển Đông.
AMTI: ‘Đội tàu phá hoại nhất của Trung Quốc
trở lại Biển Đông’
Quân đội Philippines cần kiểm chứng tin tức cho rằng đội tàu khai thác trai tượng khổng lồ của Trung Quốc đã trở lại Biển Đông, hãng truyền thông ABS-CBN của Philippines dẫn nguồn từ Phủ Tổng thống (Malacañang) cho biết hôm 21/5.
Trước đó, Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) có trụ sở ở Washington D.C. cho biết các hình ảnh vệ tinh mà họ có được cho thấy các đội tàu khai thác trai tượng của Trung Quốc đã trở lại Biển Đông trong khu vực mà Philippines tuyên bố có chủ quyền ‘trong vòng sáu tháng vừa qua’.
“Đây là lần đầu tiên tôi nghe về việc này và tôi cho rằng Bộ Tư lệnh Miền Tây cần kiểm chứng sự việc và chuyển qua cho Bộ trưởng Ngoại giao để cho cơ quan này có thể có bất cứ hành động gì về vấn đề này,” phát ngôn nhân Phủ Tổng thống Salvador Panelo phát biểu trong một cuộc họp báo.
Trở lại ồ ạt
Hồi tháng trước, các ngư dân Philippine trình báo rằng ngư dân Trung Quốc đang khai thách ồ ạt loại trai tượng ở Bãi cạn Scarborough mà Manila tuyên bố có chủ quyền nhưng đã bị Trung Quốc giành lấy quyền kiểm soát từ năm 2012.
Bộ trưởng Ngoại giao Philippine Teodoro Locsin Jr. trước đó đã nói rằng nước ông sẽ có hành động pháp lý với Trung Quốc về việc khai thác trai tượng ở bãi cạn giàu tài nguyên này.
Báo cáo của AMTI cho thấy các đội tàu khai thác trai tượng Trung Quốc đang hoạt động thường xuyên ở bãi cạn Scarborough nhưng ‘không có bằng chứng rõ ràng’ cho thấy ngư dân Trung Quốc cũng đang khai thác trai tượng ở quần đảo Trường Sa.
Sự trở lại ồ ạt của các đội tàu khai thác vào lúc này sau diễn ra sau khi Trung Quốc có sự giảm mạnh các hoạt động từ năm 2016 cho đến cuối năm 2018, theo AMTI.
Những đội tàu này hoạt động theo hình thức là hàng chục tàu đánh bắt nhỏ đi cùng với một vài tàu mẹ cỡ lớn. Chúng phá hủy những dải san hô rộng lớn để bắt trai tượng vốn đang nằm trong diện khẩn nguy. Vỏ của những con trai tượng này sau đó sẽ được đưa trở lại tỉnh Hải Nam nơi mỗi chiếc vỏ sẽ được bán với giá hàng ngàn đô la Mỹ trong thị trường đồ trang sức rất sôi động.
Mặt hàng đắt tiền
Loài trai tượng có vỏ có thể đạt tới chiều dài một mét, có trọng lượng trên 200 kg và có thể sống trên trăm tuổi. Người dân Trung Quốc xem đây là ‘vàng trắng của biển cả’ do giá của nó trong vòng bốn năm qua đã tăng đột biến đến nỗi nhiều ngư dân Trung Quốc đã từ bỏ cánh đánh bắt hải sản truyền thống.
Vỏ của loài trai tượng khồng lồ đã đạt được vị thế là mặt hàng xa xỉ trên thị trường Trung Quốc. Đó cũng là một cách để giữ gìn của cải và khoản đầu tư sinh lợi cao. Các mặt hàng nữ trang được chế tác từ vỏ loài này thậm chí còn được ca ngợi là đem lại cho người đeo năng lực siêu nhiên và cải thiện sức khỏe. Do đó, vỏ trai tượng đối với người Trung Quốc giống như ngà voi, ngọc trai, ngọc bích và vi cá với tất cả những lời đồn thổi phi lý về lợi ích của chúng nhập làm một.
Mặt khác, các sản phẩm làm từ vỏ trai tượng rất khó có thể làm giả. Sản phẩm thật có những lớp tăng trưởng bất thường, mịn với màu sắc khác biệt tinh tế vốn có thể dễ dàng
nhìn thấy dưới kính hiển vi thông thường. Một cặp vỏ ốc cao cấp có thể được bán với giá lên đến một triệu nhân dân tệ, tức tương đương 150.000 đô la Mỹ.
Khai thác kiểu tàn phá
AMTI cho biết kể từ cuối năm 2018, các hình ảnh vệ tinh cho thấy các đội tàu này hoạt động thường xuyên ở bãi cạn Scarborough và trên khắp Quần đảo Hoàng Sa, bao gồm cả bãi Châu Viên (Bombay Reef).
Cũng theo cơ quan này thì từ năm 2012 cho đến 2015, các ngư dân khai thác trai tượng của Trung Quốc đã làm hư hại hay phá hủy ít nhất 28 bãi san hô trên khắp Biển Đông.
Phương pháp khai thác điển hình của các ngư dân săn trộm này là neo tàu lại rồi kéo những thanh trụ dài của động cơ đặt bên thành tàu qua bề mặt dải san hô để phá vỡ chúng giúp cho họ có thể dễ dàng lấy lên các con trai tượng khổng lồ. Hậu quả sinh thái là tàn khốc. Vì lẽ đó, trong vụ kiện của Philippines nhằm vào Trung Quốc hồi năm 2016, Tòa Trọng tài Thường trực cho rằng Bắc Kinh đã vi phạm các nghĩa vụ của họ phải bảo vệ môi trường biển theo luật pháp quốc tế.
Khi đó ông John McManus thuộc Đại học Miami, người ra làm chứng với tư cách chuyên gia tại phiên tòa, đã trình bày về diện tích hơn 25.000 mẫu bề mặt san hô nước nông bị thiệt hại do hành động khai thác trai tượng của Trung Quốc gây ra cho đến năm 2016, so với 15.000 mẫu bị tàn phá do việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc.
Bắc Kinh dung dưỡng?
Theo AMTI thì trước đây cũng như bây giờ, giới chức Trung Quốc đều biết về hành động phá hoại này của ngư dân của họ và dường như dung dưỡng cho hoạt động của những đội tàu này. Các hình ảnh vệ tinh cho thấy các tàu khai thác trai tượng của Trung Quốc đã hoạt động thường xuyên tại bãi Châu Viên trong Quần đảo Hoàng Sa kể từ cuối năm 2018 mà bằng chứng rõ nhất là những cột trầm tích có thể nhìn thấy được. Những cột trầm tích này, cùng với những vết sẹo lan ra rộng khắp bề mặt dải san hô, là những dấu hiệu rõ ràng của cách dùng các thanh trụ đào bới xuống để khai thác vỏ trai tượng. Và tất cả những hoạt động này diễn ra bất chấp Trung Quốc đã thiết lập Trạm ‘Ocean E’ trên bãi Châu Viên hồi tháng 7 vừa rồi với khả năng giám sát vốn cho phép nó gửi các thông tin về các hoạt động gần bãi san hô cho giới chức Trung Quốc ở Hoàng Sa.
Còn tại bãi cạn Scarborough, các rạn san hô ở đây đã bị tổn hại ở quy mô lớn trong giai đoạn khai thác vỏ trai tượng ban đầu cho đến năm 2016. Tuy nhiên các hình ảnh hồi tháng 12 năm 2018 cho thấy một số lượng lớn các tàu khai thác trai tượng đã trở lại hoạt động.
Khi so sánh những hình ảnh chụp vào thời điểm tháng 12 và tháng 3, AMTI đã nhận ra những vết loang lổ mới trên dải san hô do hoạt động khai thác mới đây.
Cách khai thác mới
Bãi cạn Scarborough cũng cho thấy bằng chứng đầu tiên về một cách khai thác khác của ngư dân Trung Quốc ở những bề mặt san hô sâu hơn mà những thanh trụ không thể với tới. Hồi tháng Tư, một nhóm các nhà làm phim của ABS-CBN đã đến bãi cạn Scarborough và quay được cảnh những chiếc tàu Trung Quốc sử dụng những chiếc ống gắn với động cơ trên tàu để khai thác trai tượng. Cách khai thác này làm khuấy động trầm tích ở những vùng biển xung quanh. Và cũng như ở bãi Châu Viên, có bằng chứng rõ ràng cho thấy giới chức Trung Quốc biết rõ và dung dưỡng cho những hành động khai thác tàn phá môi trường này. Đài ABS-CBN đã quy được hình ảnh lực lượng tuần duyên Trung Quốc, vốn duy trì sự hiện diện thường trực ở Scarborough, đến thăm những chiếc tàu khai thác này.
Các nhà làm phim của ABS-CBN cũng quay được những đống vỏ trai tượng lớn được để trên khắp bãi san hô để sau đó các tàu các đến thu gom, trong khi hình ảnh vệ tinh từ tháng Ba dường như cho thấy những đống vỏ trai tượng này dưới những đốm trắng bất thường nằm rải rác vốn không thấy có trong những hình ảnh trước.
Tuy nhiên, ở quần đảo Trường Sa, AMTI không tìm thấy bằng chứng rõ ràng về hành vi khai thác mới. Nhưng cách khai thác mới mà ngư dân Trung Quốc áp dụng ở bãi cạn Scarborough cho thấy ngày càng khó hơn để ghi lại những hoạt động của đội tàu Trung Quốc. Không giống như những thanh trụ gây ra những vết sẹo trên bề mặt san hô ở nước cạn, những máy bơm nước áp lực cao ở những vùng biển sâu hơn gây ra những thiệt hại khó có thể thấy được trong những hình ảnh vệ tinh, theo giải thích của AMTI. Điều này có nghĩa là nhiều hoạt động khai thác của ngư dân Trung Quốc trên Biển Đông không được bên ngoài biết đến.
Tập Cận Bình khuyến khích?
Trong một bài báo trên tờ Diplomat hồi đầu năm 2016, nhà báo Victor Robert Lee cho biết rằng mặc dù loài trai tượng là loài khẩn nguy và việc buôn bán chúng bị cấm theo luật pháp quốc tế và theo luật pháp Trung Quốc trên danh nghĩa, nhưng hành động khai thác chúng của các ngư dân Trung Quốc trong nhiều trường hợp diễn ra với sự có mặt của các tàu tuần duyên Trung Quốc hay trên những bãi san hô do hải quân của Giải phóng Quân Trung Quốc chiếm giữ.
Trong khi đó, nhiều công dân mạng Trung Quốc đã bày tỏ sự ủng hộ với việc khai thác này với lập luận rằng ‘những ngư dân Hải Nam khai thác trai tượng ở Nam Hải đang đảm bảo cho chủ quyền của Trung Quốc’.
Tác giả bài báo đã đưa ra dẫn chứng là trước khi Trung Quốc tiến hành các hoạt động bồi đắp đảo gây tranh cãi ở các bãi Chữ Thập, Subi và bãi Vành Khăn hồi năm 2014 và 2015 đã có làn sóng những tàu cá Trung Quốc đã gây ra những những vết sẹo hình vòng cung trên khắp những dải san hô rộng lớn ‘như thể là ngư dân Trung Quốc được phát tín hiệu được phép thu gom chiến lợi phẩm trước khi những bãi san hô này vĩnh viễn bị nhấn chìm dưới hàng triệu tấn cát. Do đó việc khai thác tàn phá san hô này không chỉ gây quan ngại về hậu quả môi trường mà nó còn cho thấy nơi nào Trung Quốc đang nhắm đến kế tiếp để xây đảo nhân tạo.
Trang mua hàng trực tuyến của Trung Quốc Alibaba có hàng chục trang chyên về các sản phẩm được chế tác từ vỏ trai tượng, từ vòng tay cho đến dây chuyền cho đến một cặp vỏ còn nguyên.
Theo nhà báo Victor Robert Lee thì chính phủ Trung Quốc đã khuyến khích ngành khai thác vỏ trai tượng bất chấp tính bất hợp pháp của nó như là một cách để thúc đẩy kinh tế của ‘Thành phố Tam Sa’.
Hồi tháng Tư năm 2013, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có một chuyến viếng thăm được đưa tin rộng rãi đến cảng Đầm Môn trên đảo Hải Nam trong một hành động được xem là gửi lời cảnh báo đến các nước khác về tranh chấp chủ quyền của Trung Quốc. Lúc đó, ông Tập đã lên thăm một chiếc tàu cá vốn đã từng bị chặn giữ ở Palau hồi năm 2012 về tội đánh bắt bất hợp pháp khiến cho 25 ngư dân Trung Quốc bị bắt giữ và một người bị cảnh sát Palau bắn chết. Tin tức cho rằng các ngư dân này lúc đó đang săn trộm trai tượng.
Ông Tập đã được Tân Hoa Xã dẫn lời nói với các ngư dân lúc đó là: “Đảng và Nhà nước sẽ nỗ lực hơn để giúp đỡ cho quý vị…”
Thượng nghị sĩ Mỹ đề nghị dự luật mới
nhắm vào Trung Quốc ở Biển Đông
Các Thượng Nghị sĩ Mỹ hôm thứ Năm ngày 23/5 đề xuất lại một dự luật được cho là nhắm đến các hoạt động mở rộng và quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông và Hoa Đông nơi Trung Quốc đang có các tranh chấp về chủ quyền với một số nước châu Á.
Theo trang tin South China Morning Post, dự luật yêu cầu chính phủ Mỹ phải trừng phạt những cá nhân và tổ chức của Trung Quốc tham gia vào các hoạt động phi pháp và nguy hiểm ở Biển Đông và Hoa Đông.
Với tên gọi Dự luật Cấm vận Biển Đông và Hoa Đông, Dự luật đòi hỏi chính phủ phải tịch thu các tài sản về tài chính đặt tại Mỹ của các cá nhân và tổ chức có liên quan đến các hoạt động làm nguy hại đến hòa bình, an ninh và ổn định trên khu vực Biển Đông. Thậm chí, dự luật còn đề nghị việc từ chối cấp visa cho những người bị xác định là vi phạm luật này.
Thượng nghị sĩ Marco Rubio, người tham gia đề xuất dự luật được South Morning China Post trích lời cho biết dự luật nhằm thắt chặt hơn nữa các nỗ lực của Mỹ và đồng minh để đối phó với hoạt động quân sự hóa nguy hiểm và phi pháp của Trung Quốc ở vùng tranh chấp mà Trung Quốc đã chiếm đóng ở Biển Đông.
Dự luật trước đó đã được giới thiệu vào năm 2017 nhưng không qua được Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ.
Các Thượng Nghị sĩ Mỹ tin tưởng lần này dự luật sẽ được thông qua ở Thượng Viện và Hạ Viện trước khi được Tổng thống ký thành luật theo quy định tại Mỹ.
Lý do của sự lạc quan là vì chưa bao giờ các Thượng nghị sĩ và Dân biểu Mỹ lại có chung tiếng nói nhiều như lúc này trong việc đối phó với Trung Quốc trong cuộc chiến thương mại đang diễn ra giữa hai nước vì những quan ngại về an ninh và quyền lợi của Mỹ.
Dự luật hiện được sự ủng hộ của 13 Thượng nghị sĩ Dân chủ và Cộng hòa, hơn rất nhiều so với con số 2 Thượng Nghị sĩ hồi năm 2017.
Việt Nam lên tiếng phản đối Trung Quốc
cho đua thuyền buồm và cào nghêu ở Biển Đông
Việt Nam hôm 23 tháng 5 lên tiếng phản đối Trung Quốc cho tiến hành cuộc đua du thuyền buồm cũng như khai thác nghêu tại khu vực Biển Đông.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng, khi được báo chí hỏi về việc Trung Quốc tổ chức cuộc đua thuyền buồm cúp Ty Nam lần thứ 7 ở Hoàng Sa, lập lại quan điểm lâu nay là Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyển đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo qui định của luật pháp quốc tế. Việc Trung Quốc tiếp tục tổ chức cuộc đua thuyền buồm cúp Ty Nam đến nay là lần thứ 7 tại khu vực Hoàng Sa là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này, trái với nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa hai phía; trái với tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông –DOC; gây phức tạp tình hình và không có lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác tại Biển Đông.
Đối với tin mà Sáng kiến Minh Bạch Hàng Hải thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc tế & Chiến Lược đưa ra hôm 20 tháng 5 rằng đội tàu khai thác nghêu từng mang tiếng tàn phá môi trường của Trung Quốc đang gia tăng các hoạt động ở Biển Đông, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng cũng cho rằng quan điểm của Hà Nội về các vấn đề chủ quyển ở Biển Đông là rõ ràng, nhất quán và được khẳng định nhiều lần.
Bà Lê Thị Thu Hằng nhắc lại việc khai thác các nguồn tài nguyên ở Biển Đông cần tuân thủ các qui định của luật quốc tế như được ghi rõ trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.
Trung Quốc cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ phía Việt Nam Cộng Hòa vào tháng giêng năm 1974. Từ đó đến nay, Trung Quốc tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng kiên cố trên các đảo chiếm đóng.
Đảo Phú Lâm mà Trung Quốc gọi là Vĩnh Hưng được Bắc Kinh biến thành trung tâm hành chính Tam Sa quản lý các đảo đá tại Biển Đông.