Tin Biển Đông – 21/09/2020

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tin Biển Đông – 21/09/2020

Hải quân Indonesia bắt giữ hai tàu cá Việt Nam bị nghi ngờ đánh bắt cá trộm gần Natuna

Hải quân Indonesia hôm 20/9 ra thông cáo báo chí cho biết lực lượng này đã bắt giữ hai tàu cá Việt Nam cùng 13 thuyền viên bị nghi ngờ đánh bắt cá trộm trong vùng biển gần quần đảo Natuna của Indonesia hôm 19/9.

Thông cáo báo chí trích lời Đại tá Hải quân Binsar Alfred Syaiful Sitorus, chỉ huy tàu hải quân KRI Usman Harun 359 cho biết, phía Indonesia sau khi phát hiện hai tàu cá nước ngoài mang cờ Việt Nam ở vùng Biển Bắc Natuna, đã ra tín hiệu yêu cầu hai tàu này dừng lại để kiểm tra nhưng cả hai đã bỏ chạy.

Tàu của Indonesia đã truy đuổi và bắt giữ hai tàu cá gồm tàu BV 5075 TS với 10 thuyền viên và tàu BV 92658 TS với 3 thuyền viên.

Theo quy định về ký hiệu quy ước các tỉnh trong biển đăng ký tàu cá ở Việt Nam, BV là ký hiệu dùng cho các tàu cá thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

“Sau khi kiểm tra, hai tàu cá nước ngoài được cho là đã đánh bắt cá trái phép ở vùng thềm lục địa của Indonesia đã được đưa về căn cứ Hải quân Ranai để điều tra”, Đại tá Sitorus cho biết.

Trong các năm gần đây, Indonesia đã siết chặt việc kiểm soát vùng biển gần quần đảo Natuna, và bắt giữ nhiều tàu cá nước ngoài bị cáo buộc đánh bắt cá trong vùng biển của Indonesia.

Hôm 22/8, Cơ quan Giám sát Nguồn lợi Thuỷ sản và Biển Indonesia cho biết nước này vừa bắt giữ hai tàu cá của ngư dân Việt Nam bị cáo buộc đánh bắt cá trái phép tại vùng Biển Bắc Natuna.

Theo báo Tempo của Indonesia, từ tháng 10 năm 2019 trở lại đây, phía Indonesia đã bắt giữ 54 tàu cá nước ngoài đánh bắt cá trái phép ở vùng biển của Indonesia, trong đó có 27 tàu cá Việt Nam.

Hiện phía Việt Nam và Indonesia vẫn còn một vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn chưa được phân định ở phía bắc quần đảo Natuna và gần đảo Hòn Cau ở phía đông nam của Việt Nam.

Một số ngư dân Việt Nam bị Indonesia bắt giữ thời gian qua cho Đài Á Châu Tự Do biết họ bị phía Indonesia bắt giữ khi đang đánh bắt cá ngay trong vùng biển của Việt Nam.

https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/indonesia-captured-2-vn-ships-suspicious-of-illegally-fishing-in-north-natuna-sea-09212020074216.html

 

Biển Đông: Bắc Kinh đáp trả công hàm

Anh-Đức-Pháp bác bỏ yêu sách của Trung Quốc

Trọng Nghĩa

Hai hôm sau khi ba cường quốc châu Âu là Anh, Đức và Pháp gởi chung một công hàm đến Liên Hiệp Quốc bác bỏ các yêu sách chủ quyền trên biển của Bắc Kinh tại Biển Đông, ngày 18/09/2020, Trung Quốc đã phản pháo bằng một công hàm khác, cũng gởi đến Liên Hiệp Quốc, nội dung phủ nhận lập luận của ba nước châu Âu.

Trong công hàm mang ký hiệu CML/63/2020, Trung Quốc trước hết đã bác bỏ quan điểm dựa trên Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982 mà Anh, Đức và Pháp đã dùng làm cơ sở để phủ nhận các yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Trong điểm 1 của công hàm, sau khi tuyên bố chống lại “việc sử dụng UNCLOS là vũ khí chính trị để tấn công các nước khác”, Trung Quốc khẳng định rằng “UNCLOS không bao trùm mọi vấn đề trên biển”, trích dẫn điều khoản 8 trong Lời Nói Đầu của UNCLOS ghi nhận rằng: “các vấn đề không quy định trong Công Ước sẽ tiếp tục được điều chỉnh bằng các quy tắc và nguyên tắc của pháp luật quốc tế chung”.

Đây là một lập luận phản bác lại công hàm chung của Anh, Đức và Pháp vốn đã nhấn mạnh tính chất toàn cầu và nhất quán của UNCLOS.

Điểm 2 của công hàm Trung Quốc tiếp tục cho rằng: “Chủ quyền lãnh thổ và các quyền lợi về biển của Trung Quốc tại Biển Đông đã được xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài và luôn luôn được các chính quyền Trung Quốc liên tiếp duy trì”.

Sau khi khẳng định là các quyền này “phù hợp với luật quốc tế, trong đó có Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và UNCLOS”, Bắc Kinh đồng thời  phủ nhận giá trị của phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye vốn cho rằng các yêu sách chủ quyền lịch sử của Trung Quốc tại Biển Đông không có cơ sở pháp lý.

Điểm này cũng nhằm phản bác lập trường chung của ba nước châu Âu, đã bác bỏ các yêu sách dựa trên lịch sử của Trung Quốc và nhấn mạnh nhu cầu tôn trọng phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực.

Với công hàm ngày 18/09/2020, Trung Quốc một lần nữa lại biện minh cho các đòi hỏi chủ quyền đã bị hầu hết các nước đánh giá là không hợp pháp. Chỉ riêng tại Liên Hiệp Quốc, trong số 15 công hàm về Biển Đông của các nước khác – từ Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, cho đến Mỹ, Úc rồi Anh, Đức và Pháp – hầu như tất cả đều ủng hộ phán quyết Biển Đông của Tòa Trọng Tài Thường Trực.

https://www.rfi.fr/vi/ch%C3%A2u-%C3%A1/20200921-bi%E1%BB%83n-%C4%91%C3%B4ng-b%E1%BA%AFc-kinh-%C4%91%C3%A1p-tr%E1%BA%A3-c%C3%B4ng-h%C3%A0m-anh-%C4%91%E1%BB%A9c-ph%C3%A1p-b%C3%A1c-b%E1%BB%8F-y%C3%AAu-s%C3%A1ch-c%E1%BB%A7a-trung-qu%E1%BB%91c

 

Chuyên gia: Nga nên dùng “ngoại giao khoa học”

để dấn thân vào Biển Đông

Mai Vân

Trong số các cường quốc trên thế giới hiện nay, có lẽ Nga là nước có biểu hiện kín đáo nhất trên vấn đề Biển Đông, ít ra là so với Hoa Kỳ hay Trung Quốc. Trong một bài phân tích đăng ngày 18/09/2020 trên trang mạng của hội nghiên cứu Chính Sách Châu Á và Thái Bình Dương (Asia and the Pacific Policy Society) tại Úc, một chuyên gia Nga đã cho rằng Matxcơva có một số ưu thế có thể khai thác để dấn thân tích cực hơn vào hồ sơ Biển Đông.

Theo bà Olga Krasnyak, phó giáo sư tại khoa Quan Hệ Quốc Tế, trường Kinh Tế Cao Cấp Matxcơva (The National Research University Higher School of Economics) thì Biển Đông có thể mang lại cho Nga những cơ hội hợp tác khoa học và những mối lợi lớn về mặt ngoại giao, giúp Matxcơva tăng cường vị thế địa chính trị của mình. Đối với bà, thay vì sử dụng đường lối ngoại giao truyền thống, Nga nên thúc đẩy điều mà bà gọi là “ngoại giao khoa học” (từ ngữ tiếng Anh là science diplomacy).

Chính quyền Nga thiển cận khi đứng ngoài Biển Đông

Chuyên gia Olga Krasnyak trước hết cho rằng việc chính quyền Nga không quan tâm nhiều đến vấn đề Biển Đông, xem nhẹ các lợi ích tiềm tàng của mình ở châu Á và Thái Bình Dương là một cái nhìn thiển cận.

Về mặt lịch sử, sức mạnh và quyền lợi của Hải Quân Nga trải rộng từ vùng Biển Đen và Biển Baltic ở phía tây vòng lên vùng Bắc Cực ở miền bắc Thái Bình Dương ở phía bắc và phía đông của Nga. Đây là một khu vực quan trong đối với Nga từ hàng thế kỷ nay và là một trong những lợi ích cốt lõi chiến lươc của Matxcơva.

Biển Đông dĩ nhiên chưa bao giờ là trọng tâm chú ý trong chính sách ngoại giao của Nga, phần lớn là vì ở xa nước Nga, không phải là nơi mà Matxcơva có nhiều quyền lợi kinh tế, trong lúc lại là địa bàn của những thế lực lịch sử khác trong vùng, như Trung Quốc và các nước ASEAN.

Quan điểm chính thức mà bộ Ngoại Giao Nga đưa ra về tranh chấp Biển Đông là phải bảo vệ các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Đối với bà Krasnyak, rõ ràng là Matxcơva tin tưởng rằng ngoại giao là cách duy nhất để giải quyết một cách hòa bình tranh chấp ở Biển Đông.

Nga không thể tự bằng lòng với một vai trò thứ yếu

Thoạt nhìn thì đường lối này có vẻ hợp lý và hoàn toàn có thể hiểu được – đó chỉ là duy trì luật quốc tế – thế nhưng nhìn kỹ hơn thì thấy vấn đề phức tạp hơn nhiều.

Thái độ thụ động của Nga trước hết có tác dụng là để yên cho các cường quốc khác có không gian để hành động, tạo ra một khoảng trống mà ảnh hưởng của Nga hoàn toàn có thể lấp đầy nếu Matxcơva chọn phương thức can thiệp.

Trong thực tế, theo chuyên gia Krasnyak, đối với Nga, Biển Đông có thể mang lại nhiều cơ hội. Ví dụ như Nga đang là đối tác chiến lược với Trung Quốc, và hai quốc gia cùng với Iran đã tổ chức thao diễn ở Ấn Độ Dương và biển Oman vào tháng 12/2019. Nga cũng gia tăng hiện diện trong vùng với một chính sách năng lượng chiến lược nhắm vào thị trường châu Á-Thái Bình Dương. Trong tình hình đó, việc giữ một vai trò thứ yếu không phải là một chọn lựa đúng đắn.

Tuy nhiên, Nga hoàn toàn có thể tự tin lao vào một cuộc đua tranh giành ảnh hưởng, với hệ quả là bị buộc phải hiện diện trong một điểm nóng địa chính trị quan trọng. Nếu quyết định hành động ngay từ bây giờ, thì một trong những cách tiếp cận tốt để hiện diện ở Biển Đông có lẽ là chính sách “ngoại giao khoa học”.

Vận dụng chính sách Bắc Cực và Biển Đông

Đối với bà Olga Krasnyak, ngoại giao khoa học là một công cụ đối ngoại thực thụ, vận dụng hợp tác khoa học quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề môi trường nhằm phát huy các lợi ích quốc gia. Vấn đề là áp dụng kiểu ngoại giao khoa học đó như thế nào ở Biển Đông.

Chuyên gia Nga nêu bật ví dụ về chính sách Bắc Cực của Nga. Nga có kinh nghiệm tuyệt vời trong lĩnh vực này và có một ghế trong Hội Đồng Bắc Cực, một diễn đàn liên chính phủ trong thực tế hoàn toàn dựa trên khoa học ngoại giao. Trên một vài điểm, tình hình Bắc Cực và Biển Đông có thể so sánh với nhau.

Cả hai đều tạo cơ hội cho việc thúc đẩy hợp tác khoa học quốc tế. Trung Quốc hiện đang tham gia vào một số dự án khoa học ở Bắc Cực, cho nên Nga có thể đóng vai trò là người hòa giải và hỗ trợ trong việc giới thiệu và hướng dẫn các dự án khoa học chung giữa Trung Quốc và các nước ASEAN ở Biển Đông.

Một ví dụ: Biển Đông là một vùng biển bận rộn nhất trên thế giới và phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về hậu cần mà Nga có thể giúp giải quyết. Điều này có thể mở ra cơ hội kinh tế cho các quốc gia ven biển, bao gồm cả Trung Quốc.

Điều này cũng có lợi cho Nga. Bằng cách tuân theo luật pháp quốc tế và mang lại chuyên môn khoa học, Nga có thể có được ưu thế khi đàm phán với Trung Quốc và Hoa Kỳ để giải quyết các tranh chấp, cả ở Bắc Cực và Biển Đông.

Tăng cường hành động bảo vệ môi trường tại Biển Đông

Sau cùng, Nga có thể giành được chỗ đứng trong khu vực bằng cách phát huy các hành động vì môi trường và sinh thái.

Giống như ở Biển Đông, vùng biển Bắc Cực là không gian mà các hoạt động quốc tế làm gia tăng rủi ro về môi trường và sinh thái, điều mà Nga đã có nhiều kinh nghiệm trong việc khắc phục.

Theo cách tương tự, với căng thẳng đang diễn ra ở Biển Đông, các vấn đề môi trường như thiệt hại đối với các rạn san hô, dường như không phải là ưu tiên của các cường quốc trong khu vực và kinh nghiệm của Nga trong việc giải quyết các vấn đề về bảo vệ môi trường và sinh thái có thể giúp ích.

Giống như các quốc gia hàng hải ở Biển Đông, các nước thành viên Hội Đồng Bắc Cực thường có những tranh cãi chính trị liên tục, vì vậy đó không phải là một trở ngại đáng kể. Ví dụ, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Nga cần liên tục được cải thiện, và hợp tác ở Bắc Cực đã trở thành một không gian, nơi mà hợp tác khoa học chiếm ưu thế trước sự cạnh tranh địa chính trị thù địch giữa hai bên.

Tất nhiên, giữa Biển Đông và Bắc Cực có khác biệt về địa lý và khu vực đáng kể, nhưng các cơ chế ngoại giao khoa học mang tính xây dựng và “lịch sự” không nên bị bỏ qua trong cả hai trường hợp, và Nga cũng có thể nhận thấy điều này.

Những người hoài nghi có thể không tin và ý định thực sự của Nga ở một trong hai khu vực, nhưng không ai có thể lập luận rằng việc thúc đẩy lợi ích quốc gia thông qua hợp tác khoa học nên bị lên án, đặc biệt khi nó thúc đẩy lợi ích chung.

Cuối cùng, nếu Nga có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy các tiến trình hòa bình và hợp tác khoa học quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề môi trường và sinh thái ở Biển Đông, thì trong quá trình đạt được tiến bộ khoa học và ngoại giao, nước này có thể nêu gương tích cực cho các cường quốc khác và xây dựng một chuẩn mực có lợi cho toàn bộ khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.

https://www.rfi.fr/vi/qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF/20200921-chuy%C3%AAn-gia-nga-n%C3%AAn-du%CC%80ng-ngoa%CC%A3i-giao-khoa-ho%CC%A3c-%C4%91%C3%AA%CC%89-d%C3%A2%CC%81n-th%C3%A2n-v%C3%A0o-bi%E1%BB%83n-%C4%91%C3%B4ng