Tin Biển Đông – 20/02/2017
Hàng không mẫu hạm Mỹ trở lại tuần tra Biển Đông
Một hàng không mẫu hạm cùng đội tàu chiến của hải quân Mỹ đã trở lại bắt đầu tuần tra ở Biển Đông giữa bối cảnh có nhiều lo ngại rằng vùng biển tranh chấp này sẽ trở thành một điểm nóng dưới thời kỳ nắm quyền của Tổng thống Donald Trump.
Reuters dẫn lời hải quân Mỹ nói rằng lực lượng của Mỹ, gồm hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson, bắt đầu các hoạt động thường lệ ở Biển Đông hôm 18/2.
Chỉ huy của lực lượng này, thiếu tướng James Kilby, nói rằng nhiều tuần lễ diễn tập ở Thái Bình Dương trước đó đã cải thiện khả năng hoạt động hiệu quả cũng như sự sẵn sàng của đội tàu chiến này.
Ông Kilby được dẫn lời nói rằng “chúng tôi nóng lòng muốn chứng tỏ những khả năng đó trong khi gây dựng mối quan hệ vững mạnh sẵn có với các đồng minh, đối tác và những người bạn ở khu vực Ấn Độ Dương và châu Á – Thái Bình Dương”.
Thông tin về hoạt động tuần tra của hàng không mẫu hạm Mỹ xuất hiện một ngày sau khi Trung Quốc thông báo kết thúc các cuộc tập trận ở Biển Đông.
Trước đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cảnh báo Washington không nên thách thức chủ quyền của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp này.
Hoa Kỳ từng chỉ trích việc Bắc Kinh xây các đảo nhân tạo cũng như các cơ sở quân sự trên Biển Đông. Hải quân Mỹ từng tiến hành một số đợt tuần tra “tự do hàng hải” qua vùng biển này.
Trong khi công du châu Á đầu tháng này, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ hôm 4/2 tuyên bố rằng Hoa Kỳ chưa cần phải có những bước đi quân sự ở biển Đông nhằm ngăn chặn hành động mạnh mẽ khẳng định chủ quyền của Trung Quốc, dù chỉ trích Bắc Kinh làm xói mòn lòng tin của các quốc gia trong khu vực.
“Ngay lúc này, chúng tôi không thấy sự cần thiết phải thực thi các bước tiến quân sự mạnh mẽ”, ông James Mattis được Reuters dẫn lời nói trong một cuộc họp báo ở Tokyo, nhấn mạnh tới giải pháp ngoại giao.
http://www.voatiengviet.com/a/hang-khong-mau-ham-my-tro-lai-tuan-tra-bien-dong/3731126.html
ASEAN-Trung Quốc nỗ lực với Quy tắc Biển Đông
Philippines loan báo Trung Quốc và Hiệp hội các nước Đông Nam Á đang nỗ lực hết mình để hoàn thành khung sườn của Bộ Quy tắc Ứng xử Biển Đông (COC) trước thời hạn đã đề ra.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Philippines, Charles Jose, ngày 19/2 cho báo giới biết ASEAN và Trung Quốc đã có cam kết tới giữa năm nay phải đạt được khung sườn COC.
Vẫn theo lời ông Jose, giới chức đôi bên đang nỗ lực hết mình để hoàn tất trước thời hạn này.
Trước đó, Philippines, nước chủ tịch ASEAN năm nay, cho hay ASEAN nhắm đạt được khung sườn COC trong năm, một thỏa thuận mang tính ràng buộc hầu đảm bảo hòa bình-ổn định Biển Đông.
Khung sườn COC là bước quan trọng tiến tới việc chung quyết một Bộ quy tắc COC thực thụ.
Các cuộc thương lượng giữa ASEAN với Trung Quốc về COC đã kéo dài hơn chục năm nay.
Phát biểu của phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Philippines được đưa ra trong lúc Ngoại trưởng các nước ASEAN chuẩn bị họp tại Boracay vao ngày 21/2. Trong số các đề tài thảo luận dịp này có phần chắc sẽ đề cập đến tân chính quyền Mỹ dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Donald Trump, cùng các mối quan tâm khác trong khu vực.
http://www.voatiengviet.com/a/asean-trung-quoc-no-luc-het-minh-vi-bo-quy-tac-bien-dong/3731900.html
Biển Đông: Việt Nam bắt đầu có chiến lược mới
chống Trung Quốc
Theo các chuyên gia quân sự, đối sách chủ yếu chống Trung Quốc trên Biển Đông của Việt Nam gần đây là chiến lược gọi là sea denial – chống tiếp cận từ ngoài biển -nghĩa là dùng các phương tiện thông thường ngăn không cho lực lượng đối phương thâm nhập.
Tuy nhiên, trong bài phân tích đăng trên trang mạng tờ báo Mỹ The National Interest ngày 16/02/2017, chuyên gia về Hải Quân Đông Nam Á Koh Swee Lean Collin thuộc trường Nghiên Cứu Quốc Tế S. Rajaratnam tại Singapore cho rằng Hải Quân Việt Nam đã thay đổi đối sách để chuyển sang sử dụng chiến lược counter-intervention – chống can thiệp – mà chủ lực sẽ là 6 tàu ngầm lớp Kilo có trang bị tên lửa hành trình Klub-S đã được Nga bàn giao đầy đủ.
Với tầm bắn 300 km, loại tên lửa này – gọi là SLCM (sea launched land-attack cruise missile), phóng đi từ ngoài biển nhắm vào các mục tiêu trên bờ – có thể đánh vào các căn cứ và sân bay Trung Quốc, chẳng hạn như căn cứ hải quân gần Tam Á (Sanya) ở phía nam đảo Hải Nam, nơi tập trung chủ lực các lực lượng Trung Quốc phụ trách Biển Đông.
Bài báo mở đầu bằng nhận xét ca ngợi hai chiến thắng Bạch Đằng của người xưa trước quân Trung Quốc xâm lược.
Năm 1287, tướng Ô Mã Nhi của nhà Nguyên dẫn đầu một đạo quân hùng hậu cùng vô số chiến thuyền đến xâm lược nước Đại Việt (tức Việt Nam ngày nay). Với đội quân tiên phong thiện chiến người Mông Cổ, có vẻ như đây sẽ là một trận thắng dễ dàng của quân Nguyên. Nhưng thực tế lại ngược lại với trận hải chiến một năm sau đó. Ở cửa sông Bạch Đằng gần Vịnh Hạ Long, tướng Trần Hưng Đạo đã tái hiện lại trận đánh năm xưa của Ngô Quyền chống quân xâm lược Nam Hán năm 938.
Theo cách đánh của Ngô Quyền, tướng Trần Hưng Đạo đã cho cắm các cây cọc đầu bọc sắt ở dưới lòng ba phụ lưu con sông, và chờ lúc thủy triều lên cao thì dụ chiến thuyền Mông Cổ tiến vào vùng nước nông. Khi thủy triều rút xuống, chiến thuyền Mông Cổ đã bị cọc sắt đâm vào làm mắc cạn. Những chiến thuyền nhỏ của quân Đại Việt khi đó bắt đầu tiến ra vây quanh đội chiến thuyền của Mông Cổ và ồ ạt phóng hỏa đốt cháy các chiến thuyền của quân địch bị bất động. Trận Bạch Đằng là một thất bại nặng nề của hạm đội xâm lược của nhà Nguyên.
Theo tác giả bài nghiên cứu, nếu chiến thắng năm 938 góp phần kết thúc thời kỳ Trung Hoa đô hộ Đại Việt lần thứ nhất, thì chiến thắng hải quân năm 1288 không làm thay đổi quan hệ song phương, với việc nhà Trần chấp nhận bá quyền của nhà Nguyên cho đến khi đế chế này bị lật đổ.
Theo The National Interest, trận Bạch Đằng là một ví dụ hiếm hoi về cách Việt Nam vận dụng các chiến thuật chủ yếu trên bộ để dùng vào một trận hải chiến. Cũng đáng ghi nhận là trận Bạch Đằng diễn ra ở vùng nước gần bờ của Việt Nam, thay vì là vùng biển khơi trên Biển Đông, nơi mà chiến thuyền Mông Cổ chắc chắn có thể chiến đấu hiệu quả hơn.
Chiến lược chống tiếp cận trên biển
Đối với tờ báo Mỹ, cũng dễ hiểu là vì sao mà vào năm 1988, Việt Nam đã bị Trung Quốc đánh bại trong một trận hải chiến trên biển khơi ở khu vực quần đảo Trường Sa. Vào lúc đó, Hải Quân Trung Quốc đã cho thấy là họ hơn hẳn Hải Quân Việt Nam, chưa quen với các trận đánh ngoài biển khơi, đồng thời cũng bị lấn át về quân số và vũ khí.
Trận chiến năm đó là một nỗ lực nhằm ngăn không cho Trung Quốc xâm phạm quần đảo Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Tuy nhiên vì chiến đấu quá xa bờ, lại không được tiếp viện kịp thời và đầy đủ, kết quả của trận đánh đã được an bài một cách nhanh chóng và dứt khoát.
Việt Nam đã bị Trung Quốc cướp lấy một số đảo đá sau trận hải chiến đó, và đối với giới lãnh đạo chính trị và quân sự Việt Nam, việc giành lại các thực thể đó là điều không cần phải bàn cãi.
Theo tờ báo Mỹ, Việt Nam đã nhận thức được những hạn chế về mặt hải quân của mình và thừa biết là không thể nào tái lập chiến công hiển hách của người xưa. Do đó, căn cứ vào tình trạng bất đối xứng về lực lượng ngày càng sâu đậm với Trung Quốc, Việt Nam đã phải thực thi chiến lược chống tiếp cận trên biển – sea denial.
Về cơ bản, chiến lược chống tiếp cận trên biển nhằm việc ngăn chận hay phá vỡ đường tiến của đối phương vào các vùng biển có liên quan, đồng thời không để cho đối thủ được tự do hành động trong cùng một khu vực.
Chuyên gia Đài Loan Ngô Thượng Tô (Wu Shang-su) chẳng hạn, đã cho rằng vì ít có khả năng chiến thắng trước đối thủ Trung Quốc (mạnh hơn gấp bội nếu đối đầu trực diện), nên Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc áp dụng chiến lược chống tiếp cận trên biển.
Đồng thời yếu tố tài chính cũng buộc Việt Nam phải hành động như vậy vì Việt Nam tiếp tục ưu tiên phát triển kinh tế-xã hội theo chủ trương Đổi Mới thực hiện từ đầu những năm 1990 (cũng là thời điểm quân đội Việt Nam tinh giản biên chế). (…)
Việt Nam cải tiến chiến lược
Tuy nhiên, chuyên gia trên tờ The National Interest nhận định, sẽ hết sức sai lầm khi cho rằng Việt Nam dễ cam chịu. Việt Nam từ lâu đã nhận thức được những giới hạn trong chiến lược chống tiếp cận trên biển kiểu truyền thống, và do đó đã tìm cách cải tiến chiến lược để ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc dùng quân sự xâm lược trên Biển Đông.
Theo National Interest, vào lúc Hải Quân Việt Nam vừa nhận được đầy đủ 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo của Nga và sắp sửa vận hành được một đội tàu ngầm hoàn chỉnh trong năm 2017, mọi người vẫn nghĩ rằng chiến lược hải quân đặt trọng tâm vào việc chống tiếp cận trên biển của Việt Nam vẫn đang được áp dụng.
Xây dựng lực lượng phản công
Đối với nhà nghiên cứu Koh Swee Lean Collin, quả đúng là tàu ngầm, đặc biệt là tàu ngầm quy ước, thường được gắn với một chiến lược chống tiếp cận, tuy nhiên, trong trường hợp của Việt Nam, cần phải nhìn xa hơn bình thường. Cả 6 chiếc tàu không chỉ được trang bị bằng các loại vũ khí chống tiếp cận truyền thống như ngư lôi và thủy lôi chẳng hạn, mà còn có tên lửa hành trình hải đối địa Klub-S – tên tắt tiếng Anh là SLCM (sea launched land-attack cruise missile), có thể bắn trúng mục tiêu cách xa đến ba trăm cây số…
Nhà quan sát kỳ cựu về quân đội Việt Nam Carlyle Thayer đã cho rằng loại tên lửa này của Việt Nam sẽ được dùng để tấn công các cảng và các sân bay Trung Quốc, chẳng hạn như căn cứ hải quân Tam Á trên đảo Hải Nam, hơn là nhắm vào các thành phố trải dọc theo bờ biển phía nam lục địaTrung Quốc.
Vai trò lực lượng phản công này vẫn phù hợp với chiến lược phòng thủ răn đe của Hà Nội, nhưng việc có thêm một khả năng tấn công như vậy rõ ràng là một bước chuyển ra khỏi chiến lược chống tiếp cận trên biển.
Người Việt Nam không thể hy vọng ngăn chặn sự xâm lăng của Trung Quốc nếu không có phương tiện bắt Bắc Kinh trả giá đắt, như nguy cơ lực lượng Hải Quân tiền phương của Trung Quốc ở Tam Á bị tiêu diệt chẳng hạn. (…)
Vào lúc này, Việt Nam chưa có năng lực tấn công Trung Quốc sâu trong đất liền. Tuy nhiên, sự thiếu hụt đó không cản trở khả năng phản công của Việt Nam chống lại các mục tiêu ven biển.
Căn cứ Hải Quân Tam Á của Trung Quốc chẳng hạn, có thể bị tấn công một cách dễ dàng bằng các loại tên lửa bay trên mặt nước không cần đến hệ thống định vị vệ tinh tinh vi mà Việt Nam chưa có. Và Hà Nội đã chú ý đến việc tăng cường khả năng trừng phạt Bắc Kinh và bắt Trung Quốc trả giá nặng nề nếu xâm lăng Việt Nam. Vào tháng 9 năm 2014, một quan chức quân sự ở Hà Nội nhận xét rằng tầu ngầm Kilo không phải là vũ khí duy nhất của Việt Nam, mà chỉ là một phần trong số vũ khí mà Việt Nam đang phát triển để bảo vệ tốt hơn chủ quyền của mình.
Vì vậy, để đạt mục tiêu đó, Việt Nam đã có thêm những động thái nhằm định hình một chiến lược chống can thiệp mạnh mẽ hơn, phản ánh sự rời xa cách chống tiếp cận trên biển truyền thống. Ví dụ, thủy quân lục chiến Việt Nam đã tập trận « tái chiếm đảo », tại khu vực quần đảo Trường Sa, điều không thể tưởng tượng được từ năm 1988.
Trong tháng 5 năm 2016, có tin là Việt Nam đã đàm phán với Nga để mua thêm một cặp chiến hạm Gepard 3.9 được trang bị tên lửa dẫn đường. Điều đặc biệt của thương vụ này các các chiến hạm mới đó sẽ được trang bị tên lửa hành trình Klub. Việt Nam có lẽ lấy cảm hứng từ sự kiện các hộ tống hạm cùng cỡ với loại Gepard 3.9 trong Tiểu Hạm Đội Caspi của Nga, đã phối hợp tốt với tàu ngầm Rostov-on-Don thuộc lớp Kilo để phát động thành công những cuộc tấn công bằng tên lửa hải đối địa.
Tóm lại, theo nhà nghiên cứu Koh Swee Lean Collin, để đối phó với tiềm lực quân sự to lớn của Trung Quốc, Việt Nam đang từng bước chuyển hướng chiến lược, từ chống tiếp cận trên biển qua một chiến lược mới sẽ làm tăng chi phí mà Trung Quốc phải trả cho hành động xâm lăng của họ. Việc hoàn chỉnh hạm đội tàu ngầm của Việt Nam vào năm 2017 này chỉ là bước quan trọng đầu tiên theo hướng đó.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20170220-bien-dong-viet-nam-bat-dau-co-chien-luoc-moi-chong-trung-quoc