Tin Biển Đông – 19/06/2019

Cac Bai Khac

No sub-categories

Đâm, cướp tàu cá – Chiến lược của Trung Quốc

để độc chiếm Biển Đông

Đêm ngày 9/6, những ngư dân Philippines neo tàu của mình ở gần Bãi Cỏ Rong, thuộc khu vực quần đảo Trường Sa, để nghỉ ngơi sau nhiều ngày đánh bắt vất vả. Khi những ngư dân đang yên giấc, họ bất ngờ bị đánh thức bởi những tiếng quát tháo và đèn chiếu từ một tàu cá khác. Trước khi những ngư dân Philippines ngơ ngác kịp có bất cứ phản ứng nào thì chiếc tàu của họ đã bị tàu cá kia đâm chìm, hất cả 22 ngư dân trên tàu xuống biển.

Đó là câu chuyện mà những ngư dân Philippines kể lại với hãng tin ABS-CBN về cái đêm kinh hoàng khi họ bị tàu cá Trung Quốc đâm chìm và bỏ rơi giữa biển cho đến khi được một tàu cá của Việt Nam đến cứu nhiều giờ sau đó.

Sự việc tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá nước khác ở khu vực Biển Đông không phải là mới. Ngay trước vụ tàu cá Philippines, vào ngày 2/6, một tàu Trung Quốc khác đã cướp một tàu cá Việt Nam ở vùng ngư trường truyền thống gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Vào tháng 3 năm nay, một tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi cũng bị một tàu của Trung Quốc đâm chìm trong khu vực Đá Lồi thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Đó chỉ là một vài trong rất nhiều các trường hợp đâm, cướp tàu cá do tàu chấp pháp và tàu cá Trung Quốc thực hiện trong các năm qua với tàu cá của những quốc gia láng giềng ở khu vực Biển Đông. Nhận xét về hiện tượng này, giáo sư Renato Cruz de Castro thuộc trường Đại học De la Salle, Philippines, nói với Đài Á Châu Tự Do:

Họ đang chuyển dịch hoạt động của họ từ Hoàng Sa ra toàn Biển Đông. Đây là một chiến tranh về tâm lý, gây sức ép lên các nước, cho các nước thấy rằng họ đang áp dụng chính sách đó, nó không phải là một tai nạn.”

Sau sự việc đâm tàu, phía Trung Quốc nói rằng đây là một vụ tai nạn trên biển và thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc đã tìm cách cứu các ngư dân Philippines nhưng phải bỏ cuộc vì bị nhiều tàu cá Philippines khác bao vây. Tuyên bố này đã bị phía Philippines bác bỏ.

Chiến lược lâu dài

Sự việc tàu cá Philippines xảy ra vào khi quan hệ giữa Philippines và Trung Quốc đã có những cải thiện đáng kể dưới thời của Tổng thống Rodrigo Duterte, người muốn theo đuổi chính sách thời bình với Trung Quốc. Ông Duterte cũng đã từng tuyên bố sẵn sàng gạt sang bên phán quyết của tòa Trọng tài quốc tế về vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc liên quan đến vấn đề tranh chấp Biển Đông hồi năm 2016.

Thạc sĩ Hoàng Việt, thành viên Quỹ Nghiên cứu Biển Đông, cho rằng Trung Quốc luôn mạnh tay với các nước khi có liên quan đến những vấn đề mà nước này coi là lợi ích cốt lõi, bất chấp quan hệ hai bên nồng ấm ra sao.

Trung Quốc có tình cảm với bất cứ ai đi chăng nữa nhưng lợi ích của họ không thay đổi. Việt Nam cũng phải hiểu điều đó. Hồi năm 2011 khi ông Nguyễn Phú Trọng mới đắc cử chức Tổng Bí thư thì ông sang Trung Quốc ký thỏa thuận chung về các nguyên tắc giải quyết tranh chấp trên biển. Năm 2011 xảy ra vụ (Trung Quốc) cắt cáp, năm 2012 cũng cắt cáp, rồi đến năm 2014 Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng thềm lục địa của Việt Nam chẳng hạn thì đường dây nóng giải quyết tranh chấp giữa hai bên theo nguyên tắc coi như là số 0.”

Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố Biển Đông là quyền lợi cốt lõi của mình, cũng tương tự như với Tây Tạng và Tân Cương.

Ngay đối với Philippines, vào tháng 5 vừa qua, Trung Quốc cũng đã điều 93 tàu, gồm tàu chức năng và tàu cá đến khu vực bãi cạn Scarborough của Philippines, xua đuổi các tàu cá của Philippines, trong khi các tàu cá của Trung Quốc ra sức thu hoạch nhiều loài thủy sản, san hô, theo báo cáo của Cục Cảnh sát biển Philippines.

Trong vụ giàn khoan HD 981 hồi năm 2014 mà Trung Quốc điều ra Hoàng Sa, Trung Quốc cũng sử dụng các tàu cá phối hợp với tàu chấp pháp, tàu quân sự, để ngăn chặn các tàu chấp pháp của Việt Nam hoạt động trong khu vực.

Đây là một phần trong chiến lược sử dụng lực lượng dân quân biển của Trung Quốc trong các năm qua tại các vùng nước tranh chấp.

Theo Hồ sơ Dân quân trên biển của Trung Quốc do các chuyên gia của Việt Nam thuộc Dự án Đại sự ký Biển Đông thực hiện, công bố hồi tháng 4 năm nay: “Trung Quốc sở hữu một lực lượng tàu đánh cá được cho là lớn nhất thế giới. Hàng ngàn ngư dân làm việc trên các tàu đánh cá đó, và trong các ngành nghề có liên quan, đều được đăng ký là một phần của lực lượng dân quân biển.”

Theo hồ sơ này, lực lượng dân quân biển của Trung Quốc được huấn luyện và được điều động để phòng thủ hoặc nâng cao khả năng bảo vệ “quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc”, hỗ trợ cho hải quân trong thời gian có chiến tranh.

Các tàu cá của ngư dân Trung Quốc được nhà nước hỗ trợ tiền của để đóng tàu vỏ sắt thay vì tàu vỏ gỗ yếu ớt như kiểu cũ. Các tàu được đóng lớn và có thể đi biển hàng tháng trời.

Với đội tàu đánh cá lớn như vậy, những năm qua, Trung Quốc liên tục điều các đội tàu hàng chục cái đi đến những vùng biển xa đang tranh chấp với các nước. Điển hình như hồi năm 2012, Trung Quốc điều đội tàu 29 chiếc tàu cá với hơn 300 ngư dân trong một chuyến đánh bắt dài 18 ngày tới khu vực đá Chữ Thập, đá Su Bi và tránh bão tại đá Vành Khăn ở khu vực quần đảo Trường Sa.

Với những đội tàu hùng hậu, những vụ đâm tàu của tàu cá Trung Quốc, theo nhận định của giáo sư Renato Cruz de Castro, trong tương lai sẽ nhiều hơn và cuối cùng sẽ tạo kết quả như ý của Trung Quốc. Ông nói:

“Nó sẽ làm giảm hoạt động đánh bắt cá trong khu vực. Dần dần các ngư dân sẽ bỏ cuộc. Nó giống như một cuộc chiến tâm lý trên vùng khai thác cá. Nó giống như khủng bố trên biển.”

Phản ứng yếu ớt

Tiếp theo sau những vụ đâm, cướp tàu cá do tàu Trung Quốc thực hiện, chính phủ Việt Nam, Philippines, những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất, đều lên tiếng phản đối chính thức. Tuy nhiên, những phản ứng này theo nhận định của một số chuyên gia quốc tế là khá yếu ớt.

Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte hôm 17/6 tuyên bố rằng vụ đâm tàu cá chỉ là một tai nạn bình thường trên biển mà một số người đã làm cho to lên. Đây cũng là lời giải thích giống với những phát biểu từ phía chính phủ Trung Quốc về vụ việc. Trong khi đó một số quan chức trong chính phủ Philippines cũng đã có những lời phát biểu tương tự. Giáo sư Renato Cruz de Castro cho biết:

Họ không muốn thay đổi chính sách thời bình hướng tới Trung Quốc. Đã có những nỗ lực từ phía chính phủ Philippines tìm cách nói theo lập trường của Trung Quốc rằng đây là một tai nạn bình thường.”

Tại Việt Nam, những vụ tàu Trung Quốc đâm tàu cá, cướp tàu cá của Việt Nam được công khai trên mặt báo thường cũng nhận được những phải đối chính thức từ phía Bộ Ngoại giao Việt Nam và Hội nghề cá. Tuy nhiên, những cuộc xuống đường của người dân để phản đối Trung Quốc thường bị đàn áp. Truyền thông trong nước và lãnh đạo Việt Nam thường kêu gọi người dân bình tĩnh, không bị kích động và không để tình hình làm xấu đi quan hệ đang tốt đẹp giữa hai nước.

Tại diễn đàn ASEAN, các nước trong khối thường không dám lên tiếng chỉ đích danh Trung Quốc trong vấn đề căng thẳng ở Biển Đông. Những tuyên bố chung của khối thường chỉ nói chung chung. Malaysia và Brunei, hai nước thuộc ASEAN, đồng thời cũng có tranh chấp về chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông thường tránh lên án Trung Quốc về vấn đề Biển Đông.

Thạc sỹ Hoàng Việt nhận định: “Việt Nam và các ASEAN biết, nhưng thực lực không mạnh, vị trí trên trường quốc tế không lớn và quá sợ cái oai của Trung Quốc nên không đặt vấn đề này nhiều. Có lẽ giờ là giai đoạn cảnh báo và tìm giải pháp cho vấn đề này…..”

Hoa Kỳ mới đây đã điều tàu tuần duyên đến đóng tại Nhật Bản. Bà Linda Fagan, Phó đô đốc, Tư lệnh Vùng Thái Bình Dương của Tuần duyên Hoa Kỳ cho biết tuần duyên Mỹ đang theo dõi các hoạt động của dân quân biển Trung Quốc.

Trước đó, Tham mưu trưởng Hải quân Hoa Kỳ John Richardson nói với The Financial Times rằng Mỹ sẽ đối phó với lực lượng dân quân biển của Trung Quốc giống như đối với lực lượng quân sự chính quy.

Tuy nhiên những hành động của Mỹ gần đây tại Biển Đông để đối phó với chiến lược sử dụng dân quân biển của Trung Quốc, theo nhận xét của các chuyên gia, mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu, và còn cần thời gian để đánh giá.

Cho đến lúc này, Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng các hoạt động của lực lượng dân quân biển, trong khi những nước trong khu vực không có phản ứng mạnh. Giáo sư Castro cho rằng, nếu mọi việc vẫn diễn ra theo cách của Trung Quốc thì tình hình chỉ có hướng xấu đi cho các nước nhỏ và có lợi cho Trung Quốc.

Trung Quốc sẽ gia tăng các hoạt động, đe dọa các ngư dân từ Việt Nam, Philippines, Malaysia hoạt động ở Biển Đông. Các chính phủ không làm gì được và khi ngư dân thấy rằng chính phủ không thể làm gì cho họ thì họ cũng sẽ không ra khơi ở những vùng nước đó nữa.”

https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/china-wage-psychology-war-in-scs-to-consolidate-its-claims-06192019093429.html

 

Australia cam kết tiếp tục hợp tác với Việt Nam

trong bảo đảm khu vực Biển Đông

ổn định, hòa bình, thịnh vượng

Trong chuyến thăm Việt Nam hôm 13/6, Ngoại trưởng Australia Marise Payne khẳng định Australia sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong việc thực hiện các ưu tiên phát triển của mình như cơ sở hạ tầng, năng lực kỹ thuật số, an ninh mạng; tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong vấn đề Biển Đông để bảo đảm khu vực ổn định, hòa bình, thịnh vượng.

Trong cuộc tiếp Ngoại trưởng Australia Marise Payne, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ, Việt Nam đánh giá cao lập trường của Australia và mong muốn Australia tiếp tục có tiếng nói mạnh mẽ, ủng hộ lập trường của ASEAN và Việt Nam trong vấn đề Biển Đông với tinh thần hòa bình, hữu nghị, tự do hàng không, hàng hải, tuân thủ luật pháp quốc tế. Đáp lại, Ngoại trưởng Australia Marise Payne khẳng định Australia sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong việc thực hiện các ưu tiên phát triển của mình như cơ sở hạ tầng, năng lực kỹ thuật số, an ninh mạng; tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong vấn đề Biển Đông để bảo đảm khu vực ổn định, hòa bình, thịnh vượng.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao vai trò và những đóng góp quan trọng của bà trong việc thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – Australia phát triển tốt đẹp những năm qua, trên cả cương vị Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Quốc phòng trước đó, đồng thời hoan nghênh bà lựa chọn Việt Nam là một trong những nước đầu tiên đi thăm, ngay trong tuần thứ hai của nhiệm kỳ công tác mới.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị hai bên tiến hành xây dựng chương trình hành động triển khai quan hệ Đối tác chiến lược giai đoạn tiếp theo, mong Australia không chỉ là hỗ trợ tài chính ODA, mà tập trung vào hỗ trợ “phần mềm”… Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chúc mừng thắng lợi của Thủ tướng Scott Morrison trong cuộc tổng bầu cử Liên bang Australia cuối tháng 5 vừa qua và chúc mừng bà Marise Payne được bổ nhiệm lại làm Bộ trưởng Ngoại giao và kiêm thêm chức vụ Bộ trưởng Phụ nữ.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, thời gian qua, quan hệ hai nước phát triển rất tốt đẹp. Hàng năm, Australia đào tạo cho Việt Nam gần 30.000 sinh viên. Kim ngạch thương mại hai chiều năm 2018 đạt 7,7 tỷ USD (tăng 19,3% so với 2017) với xu hướng cân bằng. Hiện Australia có đầu tư hơn 1,84 tỷ USD vào Việt Nam, đứng thứ 19/128 nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việt Nam cũng có 47 dự án đầu tư trực tiếp vào Australia.

Không chỉ kinh tế, dư địa hợp tác trong các lĩnh vực khác còn rất lớn, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói và đề nghị hai bên sớm rà soát, tổng kết việc thực hiện Chương trình hành động Việt Nam-Australia giai đoạn 2016-2019 và tiến hành xây dựng chương trình hành động triển khai quan hệ Đối tác chiến lược giai đoạn tiếp theo với những mục tiêu và biện pháp cụ thể nhằm làm sâu sắc hơn nữa hợp tác trên tất cả các lĩnh vực.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng đề nghị hai bên phối hợp phát huy hiệu quả các cơ chế họp tác song phương hiện có, đặc biệt là các cơ chế thường niên cấp bộ trưởng. Hai bên cần tăng mạnh thương mại và đầu tư hai chiều tương xứng với quan hệ Đối tác chiến lược, trong đó giảm, bỏ rào cản thương mại. Hai bên cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực quan trọng khác như giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch, thể thao, giao lưu nhân dân…, tạo nền tảng vững chắc cho việc mở rộng và tăng cường họp tác toàn diện cả ở cấp trung ương và địa phương.

Đánh giá cao Australia tiếp tục dành ưu tiên về viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mong Australia không chỉ là hỗ trợ tài chính ODA mà tập trung vào hỗ trợ “phần mềm”, nâng cao năng lực, đặc biệt năng lực quản trị, và những kinh nghiệm trong điều hành nền kinh tế trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và chính phủ điện tử.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao sự hợp tác và phối hợp hiệu quả giữa hai nước tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là Liên hợp quốc, đối tác ASEAN-Australia và các cơ chế ASEAN mở rộng, APEC, ASEM, CPTPP… Đồng thời, mong Australia tiếp tục ủng hộ và phối hợp chặt chẽ trong thời gian tới, đặc biệt trong quá trình Việt Nam đảm nhiệm vai trò

Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2019 – 2020 và Chủ tịch ASEAN 2020, trong đó có việc tổ chức Hội nghị cấp cao ASEAN-Australia trong năm 2020.

Chúc mừng Việt Nam trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021, Bộ trưởng Ngoại giao Australia nhìn nhận, điều này cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam trên trường quốc tế và Australia sẽ sát cánh cùng Việt Nam trong việc đảm đương vai trò này một cách tốt nhất.Quan hệ hợp tác Việt Nam-Australia được xây dựng và phát triển trên cơ sở niềm tin, một yếu tố vô cùng quan trọng, bà Marise Payne nói. Hai bên có niềm tin vững chắc vào nhau, cùng chia sẻ nhiều lợi ích, ưu tiên chiến lược. Chia sẻ với ý kiến của Thủ tướng về thương mại, đầu tư, bà Bộ trưởng cho biết, bà có dịp gặp gỡ nhiều người Australia làm việc tại Việt Nam và họ đều bày tỏ, hiệp định CPTPP mở ra nhiều cơ hội hợp tác. Nhiều doanh nghiệp Australia mong muốn tăng cường đầu tư vào Việt Nam. “Tôi sẽ chỉ đạo Bộ Ngoại giao tìm kiếm, mở ra các cơ hội hợp tác mới khi chúng ta đã là Đối tác chiến lược của nhau”, bà Marise Payne nói.

Đánh giá cao các ý kiến của bà Marise Payne, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhất trí cho rằng, hai bên có lòng tin, sự tin cậy lẫn nhau rất lớn. Là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2020 – 2021 cũng như Chủ tịch ASEAN năm 2020, Việt Nam sẽ làm hết sức mình trong việc xây dựng thế giới hòa bình, thịnh vượng.

http://biendong.net/bien-dong/28787-australia-cam-ket-tiep-tuc-hop-tac-voi-viet-nam-trong-bao-dam-khu-vuc-bien-dong-on-dinh-hoa-binh-thinh-vuong.html

 

Phản ứng của Bắc Kinh và dư luận quốc tế

về vụ tàu TQ cố tình đâm chìm tàu cá Philippines

Sau khi Philippines đưa ra tuyên bố cảnh báo sẽ cắt đứt quan hệ ngoại giao nếu Trung Quốc không điều tra và xử lý ổn thỏa vụ đâm chìm tàu cá và để mặc ngư dân Philippines trên Biển, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên tiếng ngụy biện về hành vi vô nhân đạo, mạn rợ trên.

Phản ứng từ Trung Quốc

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng (13/6) ngang nhiên tuyên bố nước này vẫn “đang điều tra” và việc Philippines “chính trị hóa vụ việc mà không xác thực” là hành động vô trách nhiệm; khẳng định đây chỉ là “tai nạn hàng hải bình thường khi lưu thông trên biển”. Tuy nhiên, ông Cảnh Sảng cho biết thêm: “Nếu những thông tin liên quan là đúng, thì dù thủ phạm là người nước nào, hành vi của họ cũng cần bị lên án”.

Việc Trung Quốc đưa ra những tuyên bố đổi trắng thay đen, đổ lỗi cho các bên liên quan về vấn đề Biển Đông không phải hiếm gặp. Trong vụ tàu Trung Quốc đâm chìm tàu Việt Nam (6/3/2019) ở vùng biển Đá Lồi, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng (7/03) cũng ngang nhiên bác bỏ thông tin về việc, tìm cách biện minh và đổ lỗi cho Việt Nam; xuyên tạc rằng tàu Ngư chính của Trung Quốc liên lạc với Trung tâm Tìm kiếm và Cứu hộ Trên biển của Trung Quốc và “cứu” các ngư dân trong buổi chiều, cho rằng khi tàu Trung Quốc tiếp cận tới tàu cá Việt Nam, thì tàu này đã chìm.

Trước đó, ông Lục Khảng (3/1/2019) ngang nhiên cho rằng việc tàu cảnh sát biển Trung Quốc đâm va tàu của ngư dân Việt Nam hoạt động đánh cá ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam hiện Trung Quốc đang chiếm giữ trái phép là “hành động chấp pháp bình thường”. Theo đó, phía Trung Quốc xuyên tạc rằng: “Căn cứ tình hình mà chúng tôi nắm được, tàu công vụ Trung Quốc luôn chỉ tuần tra chấp pháp bình thường trên vùng biển mà Trung Quốc quản hạt. Một số biện pháp đã được áp dụng cho tàu cá nước ngoài xâm nhập đánh bắt là điều bình thường, cũng là phương thức chấp pháp ở mức thấp nhất. Mà theo tôi tìm hiểu thì những việc mà bạn hỏi chỉ là tình hình cá biệt. Việc một số quốc gia láng giềng trên thế giới thỉnh thoảng xảy ra tranh chấp nghề cá cũng là rất bình thường”.

Cộng đồng quốc tế lên tiếng phản đối Trung Quốc

Tại thủ đô Manila, hàng trăm người dân đã đổ xuống đường biểu tình, mang theo những băng rôn, biểu ngữ bày tỏ phản đối hành động của Trung Quốc và yêu cầu chính quyền

Tổng thống Rodrigo Duterte phải có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền quốc gia và có thái độ cứng rắn hơn với nhà cầm quyền Bắc Kinh. Những người tham gia biểu tình cho rằng không thể đánh cá với sự hiện diện đáng sợ của Trung Quốc trong khu vực. Đã có báo cáo về sự quấy rối trực tiếp của người Trung Quốc đối với ngư dân Philippines và thậm chí sự hiện diện của tàu chiến Trung Quốc tại Bãi cạn Scarborough, nhưng Chính quyền Tổng thống Duterte vẫn chưa đưa ra biện pháp lên án Trung Quốc.

Theo Giáo sư Jay Batongbacal, Giám đốc Viện Hàng hải và Luật biển thuộc Đại học Philippines, sự việc mới đây cần phải được xem là “giọt nước tràn ly”; và chính quyền nước này cần phải nhanh chóng bắt đầu có những hành động thiết thực và cứng rắn đáp trả Trung Quốc nhằm tránh để lại tiền lệ về sau. Giáo sư Jay Batongbacal nhận định, Chính quyền Philippines không nên để sự việc này trôi qua mà không xem xét hoặc cân nhắc chính sách của mình về khu vực biển Đông. Đây là trường hợp mới nhất về hành động đe doạ các nước láng giềng của Trung Quốc, và nếu cứ để Trung Quốc tiếp tục làm thế, chúng ta có thể sẽ sớm thấy Trung Quốc thường xuyên tông vào và buộc ngư dân của ta rời khỏi biển Đông, giống như cách mà họ đã làm với ngư dân Việt Nam ở vùng biển của Việt Nam. Điều cần nhất là phải đưa ra những thay đổi và điều chỉnh; nếu không có thay đổi, thì Trung Quốc sẽ coi đây là một tín hiệu cho thấy việc làm này có thể lặp lại mà không gặp phải nguy cơ nhận lấy phản ứng bất lợi từ Philippines. Ông Jay Batongbacal cũng đề xuất Manila nên gửi một công hàm yêu cầu Bắc Kinh phải điều tra, công bố một bản báo cáo về vụ việc cũng như biện pháp trừng phạt và răn đe cụ thể đối với tàu Trung Quốc bị cáo buộc; đồng thời khẳng định vụ việc rõ ràng là đã có sự vi phạm đối với Quy tắc phòng tránh tàu thuyền đâm va trên biển (COLREGS) và những luật lệ quốc tế về hàng hải, cũng như việc đã từ chối giúp đỡ tàu, thuyền đang gặp nạn. Ngoài ra, hành vi bỏ mặc tàu Philippines sau khi đâm chìm cũng đã đủ quy kết tàu Trung Quốc vào tội “cố ý gây tai nạn” vì “một con tàu đang di chuyển trên biển không thể nào đâm vào một con tàu đang neo đậu cả. Chỉ có thể là tàu Trung Quốc đã cố ý làm như vậy mà thôi”.

Theo các chuyên gia, sự việc 22 ngư dân bị đâm chìm mới đây trong chuỗi những xung đột mới nhất với Trung Quốc chỉ trong năm 2019 có thể sẽ châm ngòi cho sự hồi sinh của liên minh chiến lược Manila-Washington. Cụ thể, Philippines có thể sẽ quay lại trở thành một mắt xích quan trọng của chiến lược kiềm chế Trung Quốc trong khu vực của Mỹ.

Ramon Beleno, một nhà khoa học chính trị tại Đại học Ateneo De Dqavoau, cho biết quyết định bỏ mặc ngư dân Philippines gặp nạn là “không phù hợp”; nhấn mạnh “việc này là phi đạo đức, nếu một tai nạn xảy ra, cho dù đó có phải là bạn của chúng ta hay không, ngay cả khi vô ý, điều đúng đắn cần làm là giúp đỡ những nạn nhân đó”. Theo ông Ramon Beleno, “điều đúng đắn mà Bắc Kinh cần làm là hỗ trợ việc điều tra và bắt giữ những người liên quan. Đó là những gì chúng tôi mong đợi từ họ”. Trong khi đó, Giám đốc điều hành của Viện Cải cách Chính trị và Kinh tế Ramon Casiple cũng có chung quan ngại, khi cho rằng tàu Trung Quốc “không nên bỏ mặc các thuyền viên Philippines”, khẳng định cứu giúp người gặp nạn là hành vi phổ quát.

Trong khi đó, giới bình luận quốc tế khẳng định, hành động đơn phương của Trung Quốc trên Biển Đông là một bước đi sai lầm, làm tổn hại uy tín của nước này trên trường quốc tế. Ông Greg Poling, một nhà nghiên cứu thuộc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược ( CSIS ) nhận định, các nước láng giềng Trung Quốc đã trở nên giống như bị tê liệt trước những hành động bạo lực và hù dọa liên tục với cường độ thấp đến mức rất ít khi được nói đến trên báo chí của khu vực. Nhà bình luận Brad Glosserman cho rằng, uy tín của Trung Quốc đã sụt giảm nghiêm trọng khi bị coi là nhân tố gây bất ổn khu vực.

Giới truyền thông quốc tế cũng lên tiếng chỉ trích những hành động xâm hại nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản ngư dân Philippines của tàu Trung Quốc, đặc biệt là các vụ tàu Trung Quốc đâm chìm tàu cá của Philippines và Việt Nam.

http://biendong.net/bien-dong/28786-phan-ung-cua-bac-kinh-va-du-luan-quoc-te-ve-vu-tau-tq-co-tinh-dam-chim-tau-ca-philippines.html

 

Chủ trương, quan điểm của Đức

liên quan vấn đề Biển Đông

Đức tuy điều tàu chiến tham gia các hoạt động tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông, song nước này có lợi ích trong khu vực và nhiều lần kêu gọi giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Đức có lợi ích thiết thực ở Biển Đông

Biển Đông có tầm quan trọng và vị thế địa chiến lược trọng yếu không chỉ đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ bao quanh, mà còn đối với khu vực Đông Á và thế giới. Trước hết vì Biển Đông nằm trên tuyến hàng hải huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á. Là một phần của tuyến đường biển nối trực tiếp Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Biển Đông đóng vai trò vô cùng quan trọng trong thương mại hàng hải toàn cầu.

Điểm trọng yếu thứ hai của Biển Đông là các đảo, quần đảo ngoài khơi, như Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm ở vị trí trung tâm – một trong những nơi có nhiều tuyến đường hàng hải đi qua nhất trên thế giới. Các quần đảo này đóng vai trò cực kỳ quan trọng với tư cách là các vị trí phòng thủ chiến lược trọng yếu đối với nhiều quốc gia trong khu vực Biển Đông. Đồng thời là các cơ sở hậu cần phục vụ các hoạt động biển xa, như kiểm soát các tuyến hàng hải đi qua lại trên Biển Đông, dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm radar, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng và tiếp nhiên liệu cho tàu thuyền… Các chiến lược gia phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ kiểm soát và khống chế được toàn bộ Biển Đông.

Ngoài ra, khu vực Biển Đông còn có những eo biển quan trọng đối với nhiều quốc gia và với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á. Đó là các eo biển: Malacca, Luzon, Lombok, Sunda, Makascha và Ombai-Wetar. Đặc biệt, eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của Indonesia, Malaysia và Singapore) có vị trí vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hóa của Đông Nam Á và Bắc Á đều phải đi qua Biển Đông. Đây cũng là eo biển có lượng tàu thuyền đi qua nhộn nhịp và lượng dầu vận tải hàng năm qua đây chiếm vị trí thứ 2 thế giới, sau eo biển Homuz (Cộng hòa Iran). Ba eo biển thuộc chủ quyền Indonesia là Sundan, Lombok và Makascha đóng vai trò dự phòng trong tình huống eo biển Malacca ngừng hoạt động vì lý do nào đó. Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển qua các eo biển này thì hàng hóa giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước phí cao hơn vì quãng đường dài hơn. Eo biển Luzon nằm giữa đảo Luzon của Philippines và vùng lãnh thổ Đài Loan, là cửa liên thông của tuyến hàng hải quốc tế qua Biển Đông với khu vực Tây Bắc và Bắc Thái Bình Dương.

Tuyến đường vận tải quốc tế qua Biển Đông được coi là nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới và điểm gần nhất của tuyến vận tải biển này chỉ cách Côn Đảo (Việt Nam) chừng 38 km. Mỗi ngày có khoảng 300 tàu vận tải các loại qua lại Biển Đông, bao gồm 200 tàu chở dầu, 50% số tàu này có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% từ 30.000 tấn trở lên. Các tuyến đường biển nói trên là “yết hầu” cho giao lưu hàng hóa của nhiều nước châu Á. Hơn qua vùng Biển Đông với gái tị thương mại khoảng 5,3 nghìn tỷ USD. Theo thống kê của Cơ quan năng lượng Mỹ, 1/3 lượng dầu thô và hơn 1/2 lượng khí hóa lỏng được chuyên chở qua Biển Đông. Lượng dầu lửa và khí hóa lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama ở Trung Mỹ.

Do đó, giới chuyên gia nhận định Biển Đông là tuyến đường thủy quốc tế quan trọng và Đức là cường quốc thương mại. Ông Walter Ladwig, thuộc khoa nghiên cứu chiến tranh tại King’s College, London cho biết, hoàn toàn hợp lý nếu Đức muốn thực hiện phần của mình để giúp đảm bảo là quyền tự do hàng hải được tôn trọng trong vùng biển quốc tế được cho phép theo luật quốc tế. Cùng quan điểm trên, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế nhận định Biển Đông là một giao lộ hàng hải đối với các nhà xuất khẩu Đức. Hàng hóa Đức trị giá khoảng 117 tỷ đô la đã được vận chuyển qua Biển Đông vào năm 2016, khiến Đức trở thành nước có lưu lượng thương mại lớn thứ 9 đi qua khu vực này. Đối với Đức, di sản của hai cuộc chiến tranh thế giới có thể khiến họ gặp khó khăn hơn Pháp, Anh, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và Philippines khi tham gia các hoạt động của Mỹ ở Biển Đông.

Quan điểm chính thức của Đức về vấn đề Biển Đông

Trong những tháng gần đây, các quan chức chính phủ Đức chưa thể thống nhất quan điểm về kế hoạch điều tàu tham gia các hoạt động vì tự do hàng hải do Mỹ dẫn đầu ở Biển Đông. Điều đó không chỉ phản ánh về nước Đức có vị thế là cường quốc kinh tế hàng đầu châu Âu và có vai trò dẫn đường cho EU, mà còn là một quốc gia có chính sách đối ngoại và quốc phòng chịu ảnh hưởng của hai cuộc thế chiến cũng như 45 năm đất nước và chính trị bị chia cắt kể từ năm 1945.

Tuy nhiên, các quan chức hàng đầu của Đức cũng đã đưa ra những tuyên bố cứng rẳn, ủng hộ việc đảm bảo tự do hàng hải, hàng không trong khu vực, cũng như giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông dựa theo luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Cụ thể:

Đại sứ Đức tại Philippines Thomas Ossowski (6/2014) vừa tuyên bố chính phủ Đức đang theo dõi sát sao tình hình ở Biển Đông và biển Hoa Đông, giữa lúc Trung Quốc hạ đặt phi pháp giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) ở vùng biển Việt Nam; đồng thời khẳng định Đức rất quan tâm tới việc duy trì an ninh cho các tuyến đường biển và kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Đại sứ Ossowski còn kêu gọi ASEAN và Trung Quốc thúc đẩy đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).

Khi tiếp Tổng thống Philippines Aquino tại Berlin, Thủ tướng Đức Angela Merkel (9/2014) cho biết Đức ủng hộ Philippines trong việc tìm ra giải pháp hòa bình cho vấn đề tranh chấp ở Biển Đông; khẳng định việc dàn xếp các tranh chấp quốc tế cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của UNCLOS” và “đó là cách rất hiệu quả để giải quyết những bất đồng”. Bà Merkel nhấn mạnh: “Chúng tôi chia sẻ những lo ngại về căng thẳng gia tăng tại một khu vực trên thế giới và chúng tôi tin vào các biện pháp tiếp cận tích cực và cụ thể. Tuy nhiên, chúng tôi cũng tin vào việc giải quyết tranh chấp thông qua luật pháp quốc tế”.

Trong chuyến thăm Trung Quốc, Thủ tướng Đức Angela Merkel (29/10/2015) cho rằng tranh chấp ở Biển Đông là một “cuộc xung đột nghiêm trọng”, kêu gọi Trung Quốc giải quyết tranh cãi với Mỹ về vấn đề lãnh hải ở Biển Đông và gợi ý rằng tranh chấp nên được đưa ra tòa án quốc tế. Theo bà Angela Merkel, điều quan trọng là tuyến đường thương mại trên biển vẫn rộng mở dù có tranh cãi.

Trong chuyến thăm Việt Nam, Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Đức Markus Ederer (17/6/2015) cho biết, Đức khẳng định ủng hộ quan điểm giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, đồng thời không đồng tình những hành động đơn phương làm phức tạp tình hình ở Biển Đông.

Trong cuộc họp giữa Bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng hai nước Đức và Australia (6/9/2016), lãnh đạo hai nước đã ra Tuyên bố chung hối thúc các quốc gia liên quan đến tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông giải quyết hòa bình vấn đề này trên cơ sở Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển. Tuyên bố nêu rõ: “Các Bộ trưởng đã thừa nhận rằng hòa bình và ổn định ở Biển Đông là một vấn đề gây quan ngại toàn cầu. Họ đã hối thúc tất cả các bên kiềm chế, làm dịu căng thẳng và giải quyết những tranh chấp một cách hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS”; đồng thời tái khẳng định với tất cả các nước tầm quan trọng của việc duy trì trật tự quốc tế hiện hành trên cơ sở các nguyên tắc.”

Khi hội đàm với Thủ tướng Việt Nam, Thủ tướng Angela Merkel (7/2017) khẳng định Đức ủng hộ tự do hàng hải trên Biển Đông, ủng hộ lập trường chính nghĩa của Việt Nam giải quyết các tranh chấp tại biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên tinh thần thượng tôn luật pháp quốc tế. Theo bà Angela Merkel, với tư cách là nước đầu tàu trong EU, có kinh nghiệm xử lý các tranh chấp trên biển, Đức khẳng định ủng hộ tự do hàng hải trên Biển Đông, ủng hộ lập trường chính nghĩa của Việt Nam giải quyết các tranh chấp tại biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên tinh thần thượng tôn luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).

Đối với vấn đề Biển Đông, Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier cũng khẳng định Đức ủng hộ tự do hàng hải trên Biển Đông; ủng hộ lập trường giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).

Cùng quan điểm với chính giới, truyền thông Đức nhiều lần lên án Trung Quốc phá vỡ nguyên trạng trên Biển Đông. Các báo điện tử lớn nhất của Đức như Toàn cảnh Frankfurt, Sóng Đức và Thế giới đã đồng loạt có các bài viết lên án Trung Quốc phá vỡ nguyên trạng các đảo trên Biển Đông. Báo điện tử “Toàn cảnh Frankfurt” chỉ trích Trung Quốc muốn tạo sự đã rồi trên Biển Đông, đồng thời dẫn lời cựu Tổng thống Mỹ Barack Obama cảnh báo Trung Quốc không nên có các hành động “hiếu chiến” trên Biển Đông và nhấn mạnh trong quá trình xử lý tranh chấp lãnh thổ, Bắc Kinh đã không tuân thủ đúng các tiêu chuẩn và quy định của luật pháp quốc tế. Trong khi đó, báo điện tử Sóng Đức phản ánh về việc Trung Quốc xây dựng trái phép các đảo trên Biển Đông, với chùm 10 ảnh cập nhật về những hoạt động cải tạo này cùng các bình luận đi kèm ở mỗi ảnh. Còn tờ Thế giới cho rằng những hành động cải tạo đảo của Trung Quốc đã làm cho Mỹ “không thể ngồi yên” và buộc phải thể hiện thái độ phản đối rõ ràng.

Không những vậy, giới học thuật Đức cũng đã tổ chức các hội thảo quốc tế về tranh chấp ở Biển Đông. Tại hội thảo quốc tế về vấn đề Biển Đông được tổ chức tại Viện Á-Phi thuộc trường Đại học Hamburg (19/5/2017), có Giáo sư-tiến sỹ Thomas Engelbert thuộc Viện Á-Phi; tiến sỹ Bill Hayton, chuyên gia của Viện nghiên cứu quốc tế Hoàng gia Anh; tiến sỹ Gerhard Will, chuyên gia về Đông Nam Á cùng nhiều học giả hàng đầu của Đức nghiên cứu về châu Á, Đông Nam Á và Biển Đông tham dự. Buổi hội thảo cũng thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan truyền thông tại Đức như kênh truyền hình Deutsche Welle, hệ thống truyền thông của Đại học Hamburg cùng khoảng 100 khách mời đến từ nhiều quốc gia như Đức, Mỹ, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ… Phát biểu khai mạc hội thảo, giáo sư-tiến sỹ Engelbert nhấn mạnh vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông là chủ đề mang tính thời sự toàn cầu, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong những năm qua, rất nhiều hội thảo quốc tế về chủ đề này đã được tổ chức ở nhiều nước nhằm phản ánh sự thật khách quan và thực trạng tranh chấp trên Biển Đông. Theo giáo sư-tiến sỹ Engelbert, việc tổ chức hội thảo lần này góp phần giúp giới học giả, các nhà nghiên cứu và người dân Đức có thêm thông tin một cách khách quan về vấn đề Biển Đông, qua đó có thể góp tiếng nói ủng hộ lẽ phải, sự thật lịch sử và lên án những hành động trái với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) và phán quyết của Tòa Trọng tài ở La Hay. Tiến sỹ Bill Hayton tập trung phân tích về vấn đề lịch sử tuyên bố chủ quyền của các bên ở Biển Đông cũng như lý giải vấn đề tranh chấp Biển Đông hiện nay và toan tính của Trung Quốc thông qua yêu sách phi lý của cái gọi là “đường 9 đoạn”.

Nhìn chung, tuy chưa điều tàu chiến tham gia các hoạt động tuần tra tự do hàng hải, hàng không trong khu vực, song Đức cũng như các nước đồng minh đều đặc biệt quan tâm, theo dõi về diễn biến tình hình khu vực, đồng thời cam kết sẽ đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông và ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Trung Quốc.

http://biendong.net/bien-dong/28789-chu-truong-quan-diem-cua-duc-lien-quan-van-de-bien-dong.html