Tin Biển Đông – 18/10/2018

Cac Bai Khac

No sub-categories

Oanh tạc cơ B-52 bay qua Trường Sa

Hai máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ đã bay ngang Biển Đông vào hôm thứ ba 16/10, gần với các hòn đảo mà nhiều nước đang tranh chấp ở đây.

Hãng tin Mỹ CNN trích dẫn nguồn từ lực lượng Không quân Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương cho biết như vậy. Tuy Không quân Mỹ không nói là hai máy bay ném bom loại B-52H bay gần đảo nào, nhưng theo CNN thì có thể đó là các đảo mà Trung Quốc bồi đắp tại quần đảo Trường Sa.

Không quân Mỹ nói rằng hai máy bay này xuất phát từ căn cứ Guam của Hoa Kỳ tại vùng Tây Thái Bình Dương, và đây là một cuộc diễn tập thường xuyên đã bắt đầu từ năm 2004, và các chuyến bay được thực hiện trong không quận quốc tế, theo đúng như cam kết của Washington là duy trì một vùng trờ biển rộng mở tại khu vực Ấn Độ Thái Bình Dương.

Chưa thấy Bắc Kinh lên tiếng phản đối về chuyến bay của B-52 mới nhất này, như những lần trước đây mỗi khi B-52 bay qua Biển Đông.

Hồi tháng 9 vừa qua sau khi Mỹ cho máy bay B-52 bay qua Biển Đông, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã gọi đây là hành động khiêu khích và tuyên bố rằng Bắc Kinh sẽ thi hành các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông.

Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đến 90% diện tích Biển Đông, bồi dắp nhiều đảo đá và bãi cạn tại Trường Sa thành căn cứ quân sự.

Trước đó, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng của Mỹ phụ trách vấn đề an ninh châu Á Thái Bình Dương, Randall Schriver, nói với giới báo chí khi tháp tùng ông Jim Mattis, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đang công du tại Việt Nam và Singapore rằng Bắc Kinh đã thành công trong việc quân sự hóa Biển Đông, và Mỹ đang tìm cách đáp trả bằng cách thức phải chăng.

Trong khi đó, các viên chức Bộ quốc phòng Mỹ nói rằng Bắc Kinh đã đồng ý về cuộc gặp giữa Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Jim Mattis với người tương nhiệm Trung Quốc, Ngụy Phượng Hoàng bên lề cuộc họp Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN với các đối tác tại Singapore.

Bộ trưởng Jim Mattis đã bắt đầu chuyến thăm Việt Nam vào hôm thứ ba, ngày 16/10 kết thúc hôm thứ tư, ngày 17/10. Hôm nay, ngày 18/10, ông đến dự hội nghị với các Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN và các đối tác tại Singapore.

https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/b-52-flew-over-spratleys-10182018083658.html

 

Biển Đông: Nội dung chính

cuộc gặp bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ -Trung

Trọng Thành

Hôm nay, 18/10/2018, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ và đồng nhiệm Trung Quốc đã có cuộc gặp không chính thức tại Singapore. Tiêu điểm của cuộc hội kiến là căng thẳng tại Biển Đông. Hoa Kỳ khẳng định mong muốn duy trì liên lạc ở cấp cao, để ngăn ngừa gia tăng căng thẳng, có thể dẫn đến đụng độ vượt tầm kiểm soát.

Theo hãng thông tấn AP, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Jim Mattis và đồng nhiệm Trung Quốc Ngụy Phượng Hòa (Wei Fenghe) đã có cuộc nói chuyện kéo dài 90 phút, bên lề một hội nghị các bộ trưởng Quốc Phòng khối ASEAN ở Singapore. Hai bên không ra tuyên bố chung chính thức nào sau cuộc gặp.

Theo ông Randall Schriver, quan chức cao cấp bộ Quốc Phòng Mỹ phụ trách khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong số các vấn đề được bộ trưởng hai nước thảo luận, chủ đề trọng tâm là Biển Đông, nơi Hoa Kỳ xem các hoạt động quân sự của Trung Quốc hiện nay là « vô trách nhiệm ». Về phần mình, Bắc Kinh chỉ trích sự hiện diện quân sự của Mỹ là « không phù hợp ».

Theo bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, lập trường của Hoa Kỳ đã được các đối tác trong khu vực chia sẻ rộng rãi. Phía Trung Quốc chưa đưa ra bình luận nào sau cuộc họp này.

Từ nhiều tháng nay, quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh căng thẳng trên nhiều phương diện. Riêng về mặt quân sự, nhiều người lo ngại đụng độ có thể xảy ra khi một tàu Trung Quốc áp sát tàu chiến Mỹ Decatur, vào lúc chiến hạm này đi vào khu vực trong 12 hải lý của hai đá do Bắc Kinh kiểm soát tại quần đảo Trường Sa, hồi cuối tháng trước, với mục tiêu thực hiện tuần tra bảo vệ tự do hàng hải, hoạt động mà quân đội Mỹ tiến hành từ nhiều năm nay.

http://vi.rfi.fr/quoc-te/20181018-bien-dong-la-noi-dung-chinh-cuoc-gap-cua-hai-bo-truong-quoc-phong-my-trung

 

Đối sách của TQ trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông

và biện pháp đáp trả của cộng đồng quốc tế

Trong bối cảnh tình hình an ninh khu vực Biển Đông xuất hiện xu thế ngày càng xấu đi và biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền trở nên bế tắc, giới truyền thông Trung Quốc đã đề xuất “một số giải pháp” giúp Chính phủ Trung Quốc đối phó với những diễn biến mới trên Biển Đông. Tuy nhiên, những đề xuất này cũng chỉ mang tính chất phiến diện, không góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực mà chỉ khiến căng thẳng leo thang.

 Đối sách của Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông

Một số hãng truyền thông Trung Quốc dẫn lời các nhà phân tích Trung Quốc nhận định tình hình an ninh khu vực Biển Đông xuất hiện xu thế ngày càng xấu đi. Điều này không chỉ do một số nước Đông Nam Á tranh chấp chủ quyền biển đảo tại khu vực Biển Đông với Trung Quốc như Việt Nam, Malaysia, Indonesia tăng cường sức mạnh hải quân và không quân, mà quan trọng hơn là do Việt Nam mưu cầu quốc tế hóa vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông, lôi kéo các nước ASEAN tham gia đàm phán với Trung Quốc và Mỹ đang từng bước công khai hóa chính sách can dự vào tranh chấp chủ quyền tại khu vực Biển Đông. Theo các nhà phân tích Trung Quốc, trong ba nguyên nhân này, nguyên nhân các nước ven Biển Đông tăng cường sức mạnh quân sự hướng ra biển không đáng lo ngại. Bởi vì, bất kể nhìn từ phương diện nào (trang bị vũ khí hay năng lực tác chiến), sức mạnh quân sự của các nước này cho dù được tăng cường ở mức độ lớn, cũng không thể sánh với Trung Quốc. Tuy nhiên, vấn đề Việt Nam thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề tranh chấp Biển Đông và sự can dự ngày càng công khai của Mỹ vào vấn đề này sẽ khiến Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức thực sự.

Để ngăn chặn chiến lược của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, giới chuyên gia phân tích Trung Quốc cho rằng Bắc Kinh cần: (1) Đối với ý đồ của Việt Nam thúc đẩy quốc tế hóa vấn đề tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc một mặt có thể tiếp tục áp dụng biện pháp gây sức ép thích hợp để các nước ASEAN bác bỏ sách lược của Việt Nam. Mấu chốt để Trung Quốc áp dụng biện pháp này chính là Campuchia và Myanmar, hai nước cơ bản không có lợi ích tại Biển Đông và rõ ràng Việt Nam khó thuyết phục hai nước này đứng về phía mình để đàm phán với Trung Quốc về vấn đề chủ quyền Biển Đông. Ngoài ra, Campuchia và Myanmar là hai nước có quan hệ thực tế nhất với Trung Quốc trong số các nước ASEAN, cũng là hai nước mà Trung Quốc có ảnh hưởng nhiều nhất. Không những vây, Trung Quốc có thể tiếp tục sử dụng lợi ích kinh tế làm “mồi nhử” để kéo Campuchia và Myanmar về phía mình. Trong từng trường hợp cụ thể, có thể cùng với các nước này đạt được các thảo thuận song phương trên phương diện kinh tế, bao gồm cả viện trợ kinh tế không hoàn lại, để gắn lợi ích kinh tế của Campuchia và Myanmar với Trung Quốc. Từ đó, tranh thủ sự ủng hộ của hai nước này trong vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông vốn không liên quan đến họ. (2) Trung Quốc có thể lợi dụng nguyên tắc đồng thuận của ASEAN. Khi đã thuyết phục, thậm chí “kiểm soát” được Campuchia và Myanmar, Trung Quốc đứng sau hai nước này để “giật dây” phản đối sách lược quốc tế hóa vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông của Việt Nam. Như vậy, chỉ cần gián tiếp can thiệp, Trung Quốc cũng có thể dễ dàng làm thất bại sách lược lôi kéo các nước ASEAN của Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc hiện đã trở thành đối tác mậu dịch lớn nhất của ASEAN, chính vì vậy Trung Quốc có thể lợi dụng những lợi ích kinh tế để tiếp tục gây sức ép, răn đe ASEAN. Tuy nhiên, phương thức này cần phải được áp dụng thận trọng… Bởi vì bản thân Trung Quốc cũng có lợi ích kinh tế rất lớn từ ASEAN. (3) Về giải quyết vấn đề chủ quyền Biển Đông, nội bộ Trung Quốc có hai chủ trương chính. Một là tiếp tục áp dụng phương thức đàm phán hòa bình để giải quyết, điều này xuất phát từ tư duy Trung Quốc “hòa bình trỗi dậy”. Hai là phủ nhận, cho rằng kết quả đàm phán hữu quan chỉ khiến Trung Quốc không thể thu hồi được lãnh hải, do vậy cần áp dụng hành động vũ lực để giải quyết. Thế nhưng, các chuyên gia phân tích chiến lược của Trung Quốc cho rằng trong bối cảnh hiện nay, cả hai chủ trương này đều không thể áp dụng đơn độc. Bởi vì, chỉ có Trung Quốc đàm phán hòa bình, còn các nước hữu quan khác vẫn tiếp tục thúc đẩy khai thác tài nguyên Biển Đông. Còn nếu dùng hành động quân sự, chắc chắn Mỹ sẽ can dự với lý do bảo đảm an ninh khu vực. Một khi Mỹ can dự, lập tức Nhật Bản và Australia sẽ theo Mỹ. Nếu như để Mỹ, Nhật Bản và Australia, thậm chí là cả NATO tham gia giao chiến với Trung Quốc, thất bại là kết quả tất yếu đối với Trung Quốc. Cách làm này là nguy hiểm, không thể áp dụng.

Để ngăn chặn Mỹ can dự, giới chuyên gia phân tích Trung Quốc nêu rõ tính phức tạp của vấn đề Biển Đông khi mà Mỹ công khai can dự vào vấn đề này. Theo các chuyên gia phân tích Trung Quốc, để có được biện pháp giải quyết tối ưu, trước hết Trung Quốc cần hiểu rõ: Mỹ sở dĩ gây phiền hà cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, mục đích chủ yếu là kiềm chế Trung Quốc “hòa bình trỗi dậy”. Trên thực tế, biện pháp kiềm chế Trung Quốc của Mỹ không chỉ hạn chế ở vấn đề Biển Đông, mà trong các vấn đề khác như vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương và thương mại… Vì vậy, Trung Quốc cần triển khai một số biện pháp sau: (1) Chính phủ Trung Quốc cần tiếp tục tuyên truyền để người dân và cộng đồng quốc tế hiểu rõ rằng nếu tranh chấp Biển Đông chỉ hạn chế ở mức song phương và khu vực thì chủ trương “gác lại tranh chấp, cùng khai thác” dễ đạt được nhận thức chung. Còn trong bối cảnh có thế lực bên ngoài can thiệp sâu, tranh chấp Biển Đông sẽ chỉ phức tạp thêm chứ không đạt được bất kỳ phương thức giải quyết nào. Cần làm cho các nước ASEAN hữu quan hiểu rằng chính sách can dự sâu của Mỹ vào vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông không chỉ gây tổn hại nghiêm trọng lợi ích của Trung Quốc, mà còn là thảm họa đối với các nước trực tiếp tranh chấp khác. (2) Trung Quốc tiếp tục thông qua kênh trao đổi ngoại giao hoặc trao đổi chuyên ngành với các nước ASEAN để nhấn mạnh rằng lập trường của Philippines trong vấn đề Hoàng Nham (Scarborough), hành động khiêu khích bắt giữ ngư dân Trung Quốc của Indonesia và những hành động mở rộng thăm dò khai thác dầu khí của Việt Nam tại Biển Đông… đều chỉ khiến tình hình an ninh Biển Đông trở nên xấu hơn. (3) Trung Quốc cũng cần áp dụng biện pháp cực đoan như tìm kiếm các “con bài” có thể mặc cả với Mỹ trong vấn đề Biển Đông. (4) Trung Quốc cần tiếp tục tiến hành quân sự hóa ở Biển Đông, nâng cao năng lực quốc phòng và khả năng răn đe quân sự nhằm cảnh cáo các nước liên quan tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, cũng như cảnh cáo Mỹ và các nước đồng minh khi tìm cách tăng cường hiện diện trong khu vực.

Đáng chú ý, giới quân sự Trung Quốc cũng đề xuất một số biện pháp để đối phó với tình hình căng thẳng ở Biển Đông. Theo đó, Trung Quốc kiên trì lập trường giải quyết hoà bình song không có nghĩa sẽ mềm tay và càng không phải là sẽ hoàn toàn từ bỏ các biện pháp cứng rắn khác. Giới quân sự Trung Quốc đã đề xuất cần duy trì sự hiện diện ở Biển Đông trên 5 lĩnh vực: (1) Về hành chính; (2) về luật pháp; (3) về quân sự – những nơi có điều kiện đóng quân thì đóng quân, không có điều kiện thì lắp đặt các thiết bị quân sự, không có điều kiện lắp đặt thì cắm biểu tượng chủ quyền hoặc quốc kỳ Trung Quốc; (4) về kinh tế – cần tiến hành khảo sát khoa học, lắp đặt giàn khoan thăm dò khai thác dầu khí, khai thác du lịch ở Biển Đông; (5) về dư luận – báo chí và các mạng xã hội cần thông qua các kênh để tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc cũng thúc đẩy phát triển lực lượng chấp pháp trên biển, sẵn sàng “đối phó với những tình huống khẩn cấp”.

Biện pháp đáp trả của cộng đồng quốc tế:

Trung Quốc luôn tuyên bố muốn có hòa bình, ổn định và chủ trương giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông một cách hòa bình nhưng trên thực tế là ngược lại. Với những đề xuất của giới chuyên gia, học giả và truyền thông Trung Quốc như trên cho thấy quyết tâm của Bắc Kinh trong việc thôn tính Biển Đông. Trước việc Trung Quốc khiển khai một loạt các biện pháp nhằm chia rẽ, tăng cường quản lý trên thực địa và nâng cao năng lực quốc phòng ở Biển Đông, các nước liên quan cần có biện pháp đáp trả trước hành động trên của Bắc Kinh.

Đầu tiên, các nước ASEAN và Trung Quốc cần sớm thông qua Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Chủ trương nhất quán của Việt Nam là giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Để ngăn chặn những hành động đơn phương có thể tạo nên căng thẳng, các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam cần trai đổi, phối hợp thúc đẩy ASEAN và Trung Quốc thảo luận thông qua COC. Trong tham vấn xây dựng COC, các nước cần trao đổi về bản chất của COC, cách tiếp cận xây dựng COC, thời gian hoàn thành và đề cương COC.

Thứ hai, các nước liên quan tranh chấp cần tiếp tục phơi bầy những hành động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông ra công luận quốc tế, góp phần giúp các nước hiểu rõ bản chất tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và những hành vi khiêu khích của Trung Quốc đối với khu vực.

Thứ ba, trong luật pháp Việt Nam có rất nhiều bằng chứng về chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa. Do vậy, qua những phương tiện thông tin đại chúng, cần làm cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo này.

Thứ tư, Mỹ và các nước đồng minh nên áp đặt chế tài đối với các công ty Trung Quốc tham gia bồi đắp đảo và triển khai các máy bay tác chiến điện tử luân phiên đến Philippines để phá sóng lực lượng của Trung Quốc. Trường hợp Trung Quốc triển khai lực lượng ra Đá Vành Khăn mà họ chiếm của Philippines hồi năm 1995 thì Mỹ cần đáp trả bằng việc triển khai binh lực ra các thực thể mà Philippines hiện kiểm soát.

Thứ năm, Mỹ nên tạm dừng cấp thị thực du học cho con em các quan chức và các lãnh đạo doanh nghiệp Trung Quốc, treo lại chương trình thị thực đầu tư EB-5 cho các công dân Trung Quốc và cho phép các quan chức chạy trốn chiến dịch truy quét tham nhũng mang tên ‘Săn cáo’ của Chính phủ Trung Quốc được trú ẩn ở Mỹ. “Điều này sẽ gây áp lực trực tiếp lên giới lãnh đạo Trung Quốc”.

Thứ sáu, Mỹ nên tính tới là tấn công vào những điều mà Bắc Kinh cho là ‘lợi ích cốt lõi’ của họ – tức là những lợi ích mà Bắc Kinh không thể nào nhượng bộ dù chỉ một chút và sẵn sàng dùng tất cả các biện pháp, kể cả quân sự, để bảo vệ. Tấn công vào các ‘lợi ích cốt lõi’, bao gồm Đài Loan, Tân Cương và Tây Tạng, do đó, sẽ khiến Trung Quốc tổn thương nặng và khiến họ đáp trả quyết liệt. Theo đó, Bộ Ngoại giao Mỹ nên công bố báo cáo về tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Tạng và Tân Cương và nêu ra những lập trường có thể của Mỹ đối với những tuyên bố chủ quyền này (riêng về Đài Loan, Mỹ đã có lập trường đối với chính sách ‘Một Trung Quốc’ kể từ Thông cáo Thượng Hải năm 1972 cũng như đạo Luật về Quan hệ với Đài Loan năm 1979) và thiết lập Viện Mỹ ở Dharamsala để nâng cấp quan hệ giữa Mỹ và chính phủ lưu vong Tây Tạng.

Thứ bay, để đảm bảo tự do hàng hải trên Biển Đông, Mỹ và các nước đồng minh cần tăng cường các chiến dịch tuần tra bảo vệ tự do hàng hải (FONOP), góp phần khẳng định quyền tự do hàng hải của tàu bè đi lại trên Biển Đông. Ngoài ra, Mỹ cần tăng cường hơn nữa sự hiện diện quân sự, nếu cần có thể thiết lập thêm căn cứ thường trực, trên Biển Đông để gửi tín hiệu đến Bắc Kinh rằng việc họ đang tìm cách kiểm soát vùng biển và vùng trời Biển Đông “là vô ích”.

Thứ tám, Mỹ nên tích cực tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp với các bên thay vì giữ lập trường trung lập như lâu nay. Ngoài ra, Mỹ cũng cần tăng cường quan hệ với các nước ASEAN, tìm cách thúc đẩy ASEAN và Trung Quốc sớm thông qua COC.

Nhìn chung, việc chuyên gia, học giả và truyền thông Trung Quốc đưa ra những kiến nghị, đề xuất trên là không mới. Chính phủ Trung Quốc vẫn đang tiếp tục sử dụng ảnh hưởng kinh tế, quân sự để chia rẽ ASEAN và ngăn chặn Mỹ cùng các nước đồng minh tăng cường hiện diện trong khu vực. Đối với biện pháp đáp trả của cộng đồng quốc tế là tương đối phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, để góp phần đảm bảo hòa bình, ổn định ở Biển Đông, các nước liên quan cần tiếp tục tăng cường hoạt động giao lưu, tập trận, tuần tra và giám sát ở Biển Đông.

http://biendong.net/doc-bao-viet/24229-doi-sach-cua-tq-trong-tranh-chap-chu-quyen-bien-dong-va-bien-phap-dap-tra-cua-cong-dong-quoc-te.html

 

Cấm đánh bắt cá hàng năm ở Biển Đông:

TQ đang vi phạm luật quốc tế

Từ năm 1999 đến nay, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc đều đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông. Trung Quốc thường tuyên truyền về cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông là lợi ích sinh thái, kinh tế, xã hội và sự hoan nghênh rộng rãi cộng đồng ngư dân. Tuy nhiên, trên thực tế, hành động đơn phương này của Trung Quốc không chỉ vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược lại DOC mà còn xâm phạm chủ quyền của các nước ven Biển Đông.

Các quy định của Luật pháp quốc tế về “cấm đánh bắt cá”

Cấm đánh bắt cá là một trong những chính sách phổ biến của nhiều quốc gia giáp biển. Lệnh cấm này nhằm mục đích bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, dựa trên các văn bản pháp luật quốc tế như: Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS); Hiệp định về các loài cá di cư của LHQ 1995; Công ước bảo vệ đa dạng sinh học (CBD); Công ước về buôn bán quốc tế các loài động, thực vật đang bị nguy cấp (CITES) và Công ước về các loài di cư (CMS).

Theo các quy định trên, thì lệnh cấm đánh bắt cá được áp dụng trong 2 điều kiện là: Các quốc gia ven biển chỉ có quyền đánh bắt cá trong phạm vi vùng biển mà quốc gia đó chủ quyền và quyền tài phán, thường chủ yếu là vùng đặc quyền kinh tế; Lệnh cấm đánh bắt cá phải dựa trên các số liệu khoa học, trên cơ sở trao đổi thường xuyên với các tổ chức trong khu vực và quốc tế, ngoài ra phải có sự tham vấn của các quốc gia liên quan. Trước khi áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá, thì quốc gia đó phải thông báo công khai, thông tin đầy đủ khu vực, nội dung đánh bắt cá với ngư dân trong nước và tham vấn với các nước trong khu vực.

Việc tham vấn với các quốc gia có liên quan đặc biệt quan trọng và trở thành nghĩa vụ trong trường hợp quy định cấm đánh bắt cá được áp dụng với các loài cá có khả năng di cư xa hoặc sinh sống trên khu vực biển của nhiều quốc gia. Danh sách các loài cá có khả năng di cư xa, đang bị đe doạ hoặc sinh sống tại nhiều quốc gia được quy định rõ tại CBD, CMS và Hiệp định 1995. Ngoài ra, trước khi áp dụng, quốc gia ven biển có nghĩa vụ thông báo công khai, đầy đủ thông tin về quy định cấm đánh bắt cá với ngư dân của nước mình và ngư dân của các nước khác được phép đánh bắt cá trong EEZ của nước mình.

Thực tiễn quốc tế cho thấy,  Liên minh châu Âu (EU) và  nhiều quốc gia như Australia, Mỹ, Ấn Độ, Thái Lan, Philippines, Mexico… đều từng áp dụng các quy định cấm đánh bắt cá theo thời gian hoặc theo một số loài cá nhất định. Đây là một trong những biện pháp được đánh giá có tính hiệu quả cao giúp bảo tồn, quản lý, duy trì nguồn tài nguyên sinh vật biển và bảo vệ đa dạng sinh học, từ đó thúc đẩy phát triển bền vững. Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ sở hữu hợp pháp 13% diện tích Biển Đông, tức là nếu áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá theo quy định quốc tế, thì nước này chỉ được cấm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Nhưng Bắc Kinh lại ngang nhiên tuyên bố chủ quyền đối với 90% khu vực của Biển Đông (hơn 3 triệu km2), vi phạm nghiêm trọng UNCLOS và xâm hại đến vùng đặc quyền kinh tế mà các nước trong khu vực đã tuyên bố chủ quyền.

Trung Quốc đang vi phạm luật pháp quốc tế và xâm phạm chủ quyền của các nước

Đầu tiên, lệnh cấm đánh bắt cá này là quyết định vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo Hoàng Sa vốn là một bộ phận không thể tách rời của Việt Nam, song đã bị Trung Quốc 3 lần sử dụng vũ lực bất hợp pháp vào năm 1909, năm 1956 và năm 1974. Sau khi sử dụng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc áp dụng nhiều thủ đoạn, để hợp thức hóa “chủ quyền lịch sử” đối với khu vực này, như xây dựng các căn cứ quân sự kiên cố; ồ ạt đưa quân, dân ra quần đảo để tạo lập các đơn vị hành chính “thành phố Tam Sa”; công bố văn bản pháp lý quy định hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng các vùng biển và thềm lục địa bao lấy toàn bộ quần đảo; thường xuyên  ra các lệnh, quyết định hành chính, lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm là một ví dụ điển hình.

Thứ hai, phạm vi của Lệnh cấm đánh cá này xâm phạm các EEZ và thềm lục địa của Việt Nam và Philippines. Theo quy định của UNCLOS 1982, Việt Nam (12/11/1982) đã công bố Tuyên bố về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam, nên Việt Nam hoàn toàn có quyền xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của mình. Phạm vi mà Lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến khu vực biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực vịnh Bắc Bộ và bãi cạn Scarborough, đã bao trùm lên một phần vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Không những vậy, tại phán quyết của Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS (7/2016), Toà đã khẳng định việc áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá năm 2012 tại một khu vực lớn tại Biển Đông, mà không loại trừ EEZ của Philippines và không giới hạn áp dụng với các tàu mang cờ Trung Quốc, là sự vi phạm Điều 56 UNCLOS về quyền chủ quyền đối với tài nguyên sinh vật biển trong EEZ của Philippines (đoạn 716, phán quyết 2016). Việc tiếp tục đơn phương tuyên bố áp dụng lệnh đánh bắt cá trong phạm vi rộng tại Biển Đông vào năm 2017, năm 2018, sau khi phán quyết Tòa Trọng tài có hiệu lực, cho thấy sự thách thức của Trung Quốc đối với quy định của pháp luật quốc tế hiện hành.

Thứ ba, phạm vi lệnh cấm đánh cá còn vi phạm quy chế của vùng chồng lấn nằm ở cửa vịnh Bắc Bộ. Hiện nay, giữa Việt Nam và Trung Quốc đang đàm phán phân định vùng chồng lấn này. Theo quy định của UNCLOS và theo thực tiễn quốc tế, trong khi đàm phán phân định vùng chồng lấn, các bên liên quan không được phép đơn phương tiến hành bất kỳ một hoạt động nào. Việc Trung Quốc đơn phương ra lệnh cấm đánh cá ở vùng chồng lấn là trái với quy định của UNCLOS, bất chấp thông lệ quốc tế và hoàn toàn đi ngược lại cam kết chính trị của hai bên.

Thứ tư, với điều kiện địa lý của một vùng biển nửa kín, nơi các tài nguyên sinh vật có độ đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau lớn, việc tham vấn là một trong các nghĩa vụ bắt buộc để bảo tồn các loài có khả năng di cư cao và sinh sống trên vùng biển của nhiều quốc gia.  Tuy nhiên, Trung Quốc đã tuỳ tiện áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương trong khoảng thời gian không phù hợp với thực tiễn đánh bắt cá ở Biển Đông và không tiến hành tham vấn với các quốc gia hữu quan.

Thứ năm, việc Trung Quốc đơn phương tuyên bố áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm cho thấy Trung Quốc vi phạm nguyên “kiềm chế, không thực hiện các hoạt động làm phức tạp và leo thang tranh chấp” đã được quy định trong DOC.

Dù biết vi phạm luật pháp quốc tế, Trung Quốc cố tình đưa ra lệnh cấm đánh cá nhằm phục vụ âm mưu riêng

Thứ nhất, để thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc áp dụng và phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp để “giành lấy sự công nhận trên thực tế” yêu sách chủ quyền phi pháp trên Biển Đông. Trung Quốc muốn thông qua việc cố tình giải thích và áp dụng sai các quy định của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, đặc biệt là UNCLOS để tìm cách hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò” ở Biển Đông.

Thứ hai, thông qua việc đưa ra quy định cấm đánh bắt cá hàng năm, Trung Quốc muốn phản biện lại phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016) bằng cách chứng minh “Trung Quốc là nước đang kiểm soát hiện hữu, lâu dài ở Biển Đông” và các thực thể địa lý (bị Tòa tuyên bố không phải đảo) đó hoàn toàn “thích hợp cho con người ở và có đời sống kinh tế riêng”.

Thứ ba, Trung Quốc muốn thông qua lệnh cấm đánh bắ cá mặc cả, răn đe, hăm dọa, mua chuộc các quốc gia, các công ty, các cá nhân đang thực hiện các dự án đầu tư khai thác tài nguyên trong phạm vi hoàn toàn nằm trong các vùng biển hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông.

Dư luận liên quan:

Theo các chuyên gia quốc tế, thì việc Trung Quốc ra lệnh cấm đánh bắt cá không phải là bảo vệ hệ sinh thái, nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt này. Mà trước hoặc sau mỗi lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông, là nước này lại có một động thái quân sự nhằm phô trương sức mạnh và tìm cách độc chiếm nguồn tài nguyên, hải sản ở Biển Đông. Với diện tích khoảng 3 triệu km2, Biển Đông là khu vực cung cấp trữ lượng cá vô cùng lớn. Theo ước tính, thì năm 2012 Biển Đông chiếm khoảng 12% sản lượng đánh bắt cá của thế giới, trị giá 21,8 tỷ USD. Nhưng với sự tham gia hoạt động đánh bắt cá ngày một nhiều của các nước trong khu vực. Thì sản lượng đánh bắt cá và nguồn trữ lượng cá năm 2015, đã giảm khoảng 70 – 90%, so với năm 1950. Riêng lượng cá chưa khai thác gần bờ có xu hướng giảm nhất, hiện nay giảm xuống chỉ còn từ 5 đến 30%. Vì nguồn lợi thủy sản chiếm vị trú quan trọng chiến lược đối với Trung Quốc, ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế, đời sống và khẩu phần ăn của người dân nước này. Nên từ những năm 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc phải tính tới việc ra lệnh cấm các nước đánh bắt cá đối với khu vực Biển Đông. Có thể nói, Trung Quốc vừa là nguồn cung, cũng vừa là thị trường lớn nhất vê tiêu thụ cá trên thế giới. Nước này có tới 9 triệu ngư dân (chiếm ¼ ngư dân của thế giới), nếu tính gộp tất cả các ngành nghề liên quan tới ngư nghiệp, đánh bắt thủy sản, thì mỗi năm đã đóng góp cho ngân sách nước này khoảng 330 tỷ USD, tương đương 3,5% GDP Trung Quốc. Mặc dù ra lệnh cấm đánh bắt cá với mục đích bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt ở Biển Đông, vì lợi ích chung của cộng đồng khu vực. Nhưng trên thực tế, Trung Quốc vừa cấm đánh bắt cá, cũng vừa ngang nhiên đưa các tàu cá ngư nghiệp vào khai thác với số lượng gia tăng.

Cộng đồng quốc tế, nhất là các nước có chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông liên tục đưa các tuyên bố phản đối hành động đơn phương của Trung Quốc, cho rằng hành động này của Bắc Kinh chỉ khiến tình hình khu vực trở nên căng thẳng. Trước sự chỉ trích của quốc tế và khu vực, Bắc Kinh thường biện minh rằng khu vực cấm đánh bắt cá này là do chính quyền địa phương ban hành, chứ không phải là một phần chính sách quốc gia, đồng thời tìm cách tuyên truyền về cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông là lợi ích sinh thái, kinh tế, xã hội và sự hoan nghênh rộng rãi cộng đồng ngư dân, đồng thời đề ra mục tiêu xây dựng nền văn minh sinh thái để bảo vệ và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sinh vật biển.

Phản ứng của Việt Nam

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhiều lân tuyên bố Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như các quyền hợp pháp với các vùng biển Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS; nhấn mạnh Việt Nam kiên quyết phản đối và bác bỏ quyết định đơn phương này của Trung Quốc vì đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS và các văn bản pháp lý quốc tế liên quan, đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông DOC ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002, không phù hợp với xu thế phát triển quan hệ hai nước trong bối cảnh hiện nay, không có lợi cho duy trì hòa bình ở khu vực.

Hội Nghề cá Việt Nam cũng nhiều lần có công văn gửi các Bộ, ngành liên quan phản đối hành động đơn phương này từ phía Trung Quốc. Theo Hội Nghề cá Việt Nam, hành động đơn phương han hành Quy chế cấm đánh bắt cá của Trung Quốc trên Biển Đông gây cản trở sản xuất trên biển của ngư dân, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và vùng biển vịnh Bắc bộ, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược lại DOC; không phù hợp với xu thế phát triển của quan hệ hai nước trong bối cảnh hiện nay, không có lợi cho duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực; nhấn mạnh Hội Nghề cá Việt Nam kịch liệt phản đối hành động đơn phương và không có giá trị pháp lý của phía Trung Quốc. Quyết định trên của phía Trung Quốc là vô giá trị.

http://biendong.net/doc-bao-viet/24227-cam-danh-bat-ca-hang-nam-o-bien-dong-tq-dang-vi-pham-luat-quoc-te.html

 

Lý do Nhật tăng cường hiện diện quân sự ở Biển Đông

Việc đưa tàu chiến tới Biển Đông và tăng cường sức mạnh quân sự của Nhật dường như xuất phát từ nỗi lo ngại ngày càng lớn với Trung Quốc.

Chỉ trong hai tháng qua, Lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản (JMSDF) đã triển khai ba tàu hải quân, trong đó có tàu sân bay trực thăng JS Kaga, liên tục thực hiện hoạt động tuần tra trên Biển Đông, tham gia diễn tập và ghé thăm cảng các quốc gia trong khu vực.

Tàu ngầm JS Kuroshio của JMSDF hồi đầu tháng 9 còn lần đầu tiên tham gia một cuộc diễn tập tác chiến chống ngầm trên Biển Đông cùng biên đội tàu sân bay trực thăng JS Kaga. Nhóm tác chiến tàu JS Kaga hôm 31/8 cũng diễn tập chung với nhóm tác chiến tàu sân bay USS Ronald Reagan của Mỹ trên Biển Đông, cho thấy nỗ lực gia tăng sự hiện diện của Tokyo tại vùng biển chiến lược này.

Đầu tháng này, xe thiết giáp lội nước Nhật lần đầu được triển khai ra nước ngoài kể từ sau Thế chiến II để tham gia tập trận chung với Mỹ và Philippines trên đảo Luzon nhìn ra Biển Đông.

Không chỉ tăng cường hiện diện quân sự và tuần tra trên Biển Đông, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản (JSDF) còn tổ chức các hoạt động quảng bá hình ảnh trong nước. JSDF hôm 14/10 tổ chức duyệt binh quy mô lớn với sự tham gia của 4.000 binh sĩ, hàng chục xe thiết giáp và chiến đấu cơ hiện đại, gồm cả tiêm kích tàng hình F-35A. Đây được đánh giá là một trong những động thái nằm trong chiến dịch nâng cao vị thế của quân đội nước này, nhằm đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc, theo CNN.

“Tham vọng thống trị khu vực châu Á – Thái Bình Dương của Trung Quốc đặt ra những thách thức lớn với Nhật Bản, buộc nước này tăng cường tiềm lực quân sự để răn đe, hỗ trợ các quốc gia khác cân bằng sức mạnh quân sự và chính trị đối phó Bắc Kinh”, Timothy Heath, chuyên gia phân tích quốc phòng thuộc Viện Nghiên cứu RAND của Mỹ, nhận định.

“Các động thái này thể hiện tầm nhìn vượt khỏi Đông Nam Á của JSDF và nó đều có chủ đích. Nhật Bản đang phát tín hiệu rằng Trung Quốc phải lưu tâm đến họ ở mọi tình huống trong khu vực, dù Mỹ có can dự hay không”, Corey Wallace, chuyên gia phân tích an ninh tại Đại học Freie của Đức, nêu quan điểm.

Hiến pháp Nhật Bản thời hậu Thế chiến II quy định quân đội nước này chỉ có chức năng phòng vệ, trong đó Điều 9 nêu rõ Tokyo từ bỏ quyền phát động chiến tranh và không triển khai lực lượng quân đội ra nước ngoài tham chiến.

Đây là trở ngại với tham vọng duy trì lực lượng quân đội đứng thứ 5 thế giới của Nhật Bản, trong bối cảnh nước này đối mặt với sự tăng cường tiềm lực quân sự của các đối thủ như Triều Tiên và Trung Quốc. Để đối phó những thách thức này, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đặt mục tiêu sửa đổi hiến pháp vào năm 2020, nhằm tăng tính năng động và góp phần nâng cao vị thế của quân đội Nhật trên trường quốc tế.

Sách trắng quốc phòng Nhật Bản công bố hồi tháng 8 nhấn mạnh mối quan ngại với Trung Quốc trong môi trường an ninh đang thay đổi. “Việc quân đội Trung Quốc hiện đại hóa nhanh chóng, tăng cường năng lực tác chiến và đơn phương gia tăng hoạt động leo thang gần Nhật Bản tạo ra lo ngại an ninh mạnh mẽ trong khu vực và cộng đồng quốc tế”, sách trắng viết.

Không chỉ tuần tra trên Biển Đông, các tàu chiến Nhật hồi tháng 9 còn vượt hàng nghìn km tới Ấn Độ Dương, ghé thăm cảng ở Ấn Độ, Sri Lanka và tham gia diễn tập cùng một chiến hạm Anh.

Peter Layton, học giả tại Viện Griffith của Australia, cho rằng các hoạt động giao lưu quân sự với Anh, Australia và Ấn Độ là một phần trong chiến lược triển khai quyền lực mềm trên toàn cầu của Nhật. “Những mối quan hệ này không nhất thiết phải quá tin cậy hoặc vững chắc. Mục đích chính của chúng là khiến Trung Quốc bất an”, Layton nói.

Sách trắng quốc phòng của Nhật cho biết JSDF đã tiến hành 66 cuộc diễn tập quân sự công khai với các lực lượng quân đội nước ngoài trong giai đoạn từ tháng 4/2015 tới tháng 6/2018, tăng đáng kể so với 53 cuộc diễn tập trong ba năm trước đó.

Trong thời gian tới, hoạt động giao lưu quân sự đa phương này sẽ được tăng thêm. Trong cuộc phỏng vấn cuối tuần trước, Ngoại trưởng Nhật Bản Taro Kono cho biết nước này có thể tham gia tuần tra Biển Đông cùng với Australia.

Giới phân tích cho rằng các cuộc diễn tập như vậy cũng là cơ hội để Nhật phô diễn tính năng các vũ khí tối tân, nhằm tìm kiếm khách hàng tiềm năng trong khu vực.

“Sẽ rất hay nếu các hoạt động giao lưu quân sự được tăng cường bằng thỏa thuận kinh tế, trong đó có việc mua bán vũ khí. Liên kết thương mại cùng nhiều hợp đồng quân sự sẽ giúp tăng cường quan hệ giữa Nhật Bản với các nước khác về lâu dài, cũng là yếu tố quan trọng để duy trì khả năng răn đe hiệu quả”, chuyên gia Layton nhấn mạnh.

http://biendong.net/bi-n-nong/24197-ly-do-nhat-tang-cuong-hien-dien-quan-su-o-bien-dong.html

 

Mỹ không để TQ viết lại luật quốc tế trên Biển Đông

Đó là khẳng định của Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Randall G.Schriver, đặc trách các vấn đề châu Á – Thái Bình Dương, về chính sách của nước này tại khu vực.

Ông có thể cho biết về chiến lược của Mỹ tại liên khu Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương dưới thời Tổng thống Donald Trump?

Nói một cách ngắn gọn, chúng tôi tìm cách thúc đẩy một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở, trong bối cảnh đa số các vùng biển châu Á đang đối mặt với thách thức từ thái độ ngày càng cứng rắn của Trung Quốc trong việc áp đặt chủ quyền bất hợp pháp tại khu vực. Thông qua việc hợp tác với đồng minh và đối tác của Mỹ, cũng như các bên chia sẻ lợi ích tại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, chúng tôi muốn góp phần duy trì tự do hàng hải, thúc đẩy tuân thủ luật và quy tắc quốc tế.

Tổng thống Trump đã ký Đạo luật ủy quyền quốc phòng 2019 với ngân sách lên đến 716 tỉ USD. Vậy có bao nhiêu phần trăm trong số này rót vào Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương?

Tôi không thể nói chính xác là bao nhiêu phần trăm, nhưng tôi có thể nói rằng chiều hướng đang tiếp tục nghiêng về mục tiêu tái cân bằng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Đó là cam kết đã được Bộ trưởng Mattis thể hiện qua Chiến lược An ninh quốc gia (NSS) và nhận được sự ủng hộ của đa số thành viên quốc hội.

Chúng tôi làm việc với các ủy ban quân vụ, ủy ban phân bổ ngân sách, và ai nấy đều hiểu rằng Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là mặt trận ưu tiên. Theo thời gian, mọi người có thể thấy được sự dịch chuyển tài nguyên và nguồn lực. Điều này không có gì phải bàn cãi.

Đến nay, có vẻ như các biện pháp mà Mỹ cùng đồng minh đang áp dụng vẫn chưa cho thấy hiệu quả đáng kể trong việc ngăn chặn những hành động gây quan ngại của Trung Quốc ở Biển Đông. Trong tương lai gần và dài hạn, Mỹ sẽ điều chỉnh như thế nào về khía cạnh chiến lược và cách tiếp cận?

Tôi đồng ý rằng chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi về hành vi của Trung Quốc tại Biển Đông. Tuy nhiên, theo thời gian, điều mà chúng tôi muốn hướng đến chính là thể hiện một sự phản đối đồng loạt và mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế vì ngày càng có thêm nhiều quốc gia tỏ ý quan ngại về hành vi của Trung Quốc. Thông qua nỗ lực gia tăng áp lực từ cộng đồng thế giới, chúng tôi hy vọng chính quyền Bắc Kinh cuối cùng sẽ thay đổi hành vi của mình. Tất nhiên, chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nhằm bao gồm tất cả các bên tại khu vực, và chúng tôi luôn hy vọng trở thành đối tác với Trung Quốc. Thế nhưng trong tương lai gần, Mỹ sẽ tập trung vào nỗ lực thu thập sự ủng hộ của quốc tế để bảo đảm tính tự do và rộng mở cho khu vực.

Duy trì lợi ích tại Biển Đông là quan điểm nhất quán của nhiều chính quyền Mỹ từ trước đến nay. Dù một số cách tiếp cận của Tổng thống Trump trực tiếp hơn những người tiền nhiệm, nhưng các chính quyền Mỹ trước đó vẫn nhận ra tầm quan trọng của Biển Đông. Tổng thống Trump không phải là một nhà lãnh đạo theo kiểu truyền thống và ông sẵn sàng thử nhiều cách khác nhau.

Vừa qua, tàu chiến Trung Quốc đã “áp sát nguy hiểm” tàu khu trục Mỹ tại khu vực quần đảo Trường Sa. Mỹ có biện pháp gì để ngăn chặn nguy cơ tại vùng biển này?

Chúng tôi hoàn toàn có cách đối phó. Nếu Trung Quốc cho rằng có thể thay đổi ý định của Mỹ bằng cách ngày càng khiêu khích hơn, thực hiện các hành động nguy hiểm tại Biển Đông, tôi khẳng định họ đã nhận định sai. Chúng tôi vẫn tiếp tục đi đến những nơi mà luật quốc tế cho phép, chúng tôi sẽ không thay đổi ý định chỉ vì những hành động trên. Chúng tôi sẽ không để họ viết lại luật quốc tế và Mỹ vẫn đang theo đuổi điều đó thông qua các hoạt động di chuyển tự do và hợp pháp của các lực lượng tại khu vực.

Mỹ vẫn tiếp tục đối thoại trực tiếp với Trung Quốc về những hành vi nguy hiểm có thể dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Chúng tôi sẽ tiếp tục trao đổi với họ thông qua kênh liên lạc quân sự chính thức về cách thức hoạt động một cách an toàn, để tránh sự cố có thể biến thành khủng hoảng chính trị song phương.

Theo ông, tình hình leo thang căng thẳng về nhiều mặt giữa Mỹ và Trung Quốc hiện tại sẽ tác động như thế nào đến khu vực?

 

Hiện chúng tôi đang trong giai đoạn xuất hiện một số căng thẳng trong quan hệ. Phó tổng thống Mỹ Mike Pence vừa có bài phát biểu hết sức thẳng thắn và trực tiếp về hành vi của Trung Quốc và những khía cạnh của hành vi đó đang ảnh hưởng như thế nào đến môi trường nội địa của Mỹ. Chúng tôi không muốn quan hệ với Trung Quốc xấu đi. Bên cạnh đó, chúng tôi có quan điểm khác nhau về Biển Đông và đang tìm cách xử lý trên mọi kênh hiện có, từ ngoại giao đến quân sự. Điều này có nghĩa là chúng tôi rất cẩn thận khi hành động và đảm bảo không dẫn đến xung đột. Tuy nhiên, chúng tôi cũng lo ngại hành vi của Trung Quốc có thể dẫn đến ngưỡng ngày càng có nhiều hành động cố tình hơn. Chúng tôi muốn Trung Quốc trở thành một phần của Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Thế nhưng, trong tương lai gần, nếu cần thiết, chúng tôi sẽ phải giải quyết một cách trực tiếp.

http://biendong.net/goc-nhin-moi/24226-my-khong-de-tq-viet-lai-luat-quoc-te-tren-bien-dong.html