Tin Biển Đông – 17/01/2017
Biển Đông sau chuyến thăm của ông Trọng
Trương Nhân TuấnNhà nghiên cứu ở Pháp
Sau chuyến đi Trung Quốc của TBT Nguyễn Phú Trọng vừa qua, BBC đăng bài có tựa đề: VN-TQ thỏa thuận ‘kiểm soát bất đồng’ Biển Đông.
Bài báo cũng dẫn bình luận từ Tân Hoa Xã: “Hai bên tin rằng chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng đã “đạt thành công to lớn” trong việc nâng cao sự tin cậy chính trị giữa hai bên, thắt chặt quan hệ hữu nghị truyền thống, củng cố quan hệ đối tác chiến lược hợp tác toàn diện, và đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực”.
Tôi thì không hề tin chuyến đi của ông Trọng “đạt thành công to lớn” như Tân Hoa Xã đã phóng đại.
Từ bao đời tổng bí thư, với biết bao nhiêu tuyên bố từ sau khi hai bên thiết lập lại bang giao 1991, hai bên luôn khẳng định những điều mà Tân Hoa Xã đã nói (là thắt chặt hữu nghị, quan hệ đối tác chiến lược, gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển…).
Nhưng những gì Trung Quốc hứa hẹn trên lý thuyết hoàn toàn trái ngược với những gì Trung Quốc đã làm trên thực tế.
Các tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc đưa ra các năm 2011, 2013, 2015, 2016, 2017… luôn khẳng định hai bên “không tiến hành các hành động làm thêm phức tạp, hoặc mở rộng tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc de dọa sử dụng vũ lực…”.
Trong khi trên thực tế thì các việc như đặt giàn khoan 981 (tháng 5/2014) của Trung Quốc rõ ràng là hành vi “mở rộng tranh chấp và làm phức tạp tình hình”.
Trung Quốc nhất quán trong lập trường là “không có tranh chấp ở Hoàng Sa”. Nhưng vị trí giàn khoan 981 là đặt trên thềm lục địa của Việt Nam. Mặc dầu giàn khoan đặt cách đảo Tri Tôn (thuộc Hoàng Sa) khoảng 20 hải lý, nhưng cái gọi là “đảo” Tri Tôn, thực tế chỉ là một thực thể địa lý nổi thường trực trên mặt nước biển, không có người sinh sống.
Mặt khác, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam, được khẳng định từ thời nhà Nguyễn. Nhà nước bảo hộ Pháp tái khẳng định lại hai lần, chủ quyền Hoàng Sa (và Trường Sa) thuộc Việt Nam, trước và sau Đệ nhị Thế chiến. Trung Quốc đã chiếm quần đảo này của Việt Nam bằng vũ lực vào tháng Giêng năm 1974.
Vì vậy hành vi đặt giàn khoan 981 của Trung Quốc là “mở rộng tranh chấp”, từ tranh chấp chủ quyền mở rộng qua tranh chấp về phân định biển (khu vực của vịnh Bắc Bộ).
Chưa hết, thái độ hung hăng của các tàu hải quân, hải cảnh… của Trung Quốc , lúc bảo vệ giàn khoan 981, đã đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam (gây tử thương cho nhiều người), cũng như tàu của các lực lượng này gây hấn đâm tàu hải cảnh của Việt Nam … gọi đúng là hành vi chiến tranh, nhẹ nhàng là gây hấn… “làm phức tạp thêm tình hình”.
Sau đó Trung Quốc cho xây dựng các đảo nhân tạo và mở rộng chúng, ở các bãi đá ngầm chiếm (bằng vũ lực) của Việt Nam năm 1988. Sau đó xây sân bay với đầy đủ hạ tầng cơ sở cho không quân, hải quân, sau đó lại đặt các giàn hỏa tiễn địa không…
Hành vi của Trung Quốc cũng là “mở rộng tranh chấp”. Bởi vì, như đã nói, chiếu Hiến chương LHQ, chủ quyền của Trung Quốc ở các bãi đá này không được nhìn nhận. Trong khi các thực thể này, một số là đá ngầm, không thể chiếm hữu, theo Phán quyết 12/7/2016 của Tòa Trọng tài ở La Haye. Việc chiếm hữu bằng vũ lực các bãi là vi phạm Hiến chương LHQ.
Việc xây dựng đảo và “quân sự hóa” chúng vừa làm “phức tạp thêm tình hình”, lại vừa “đe dọa chiến lược” đối với các nước chung quanh. Hành vi của Trung Quốc cũng phạm Luật quốc tế, vì việc xây dựng đảo nhân tạo đã gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường biển.
Đồng thời cái gọi là “thỏa thuận kiểm soát bất đồng ở Biển Đông”, theo như tựa đề bài báo thì có nhiều điều cần xét lại.
Thời ông Nông Đức Mạnh, tuyên bố chung năm 2011 đã có nội dung về kềm chế sự “bất đồng”: “không để bất đồng ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước”.
Đến thời ông Nguyễn Phú Trọng, như Tuyên bố năm 2013 nói về việc “kiểm soát tốt những bất đồng trên biển”. Tuyên bố 2015 nói đến việc “Hai bên nhất trí cùng nhau kiểm soát tốt bất đồng trên biển”. Tuyên bố 2017 thì nói “kiểm soát tốt bất đồng trên biển”.
Từ việc “kiểm soát tốt” để đi tới việc ký kết thỏa thuận “kiểm soát bất đồng” là một bước dài. Người ta hoài nghi về sự hiện hữu của thỏa thuận này. Khoản 9 bản Tuyên bố chung 2017, nhiều thỏa thuận, kết ước hai bên đã được ký kết. Tuy nhiên không hề thấy thỏa thuận về “kiểm soát bất đồng trên biển”.
Vấn đề độc lập quốc gia
Tháng Mười 2016 ông Đinh Thế Huynh (nghe đồn đoán là sẽ thay thế ông Trọng), có chuyến đi thăm Trung Quốc. Nhân dịp này Tập Cận Bình có nói với ông Huynh rằng : “Hai nước là một cộng đồng cùng chia sẻ tương lai”.
Vấn đề là, ý nghĩa của câu “một cộng đồng cùng chia sẻ tương lai” chỉ dành cho nhân dân trong một nước. Chỉ có người dân trong một nước mới chia sẻ một tương lai chung.
Tuyên bố năm 2017 lặp lại ý kiến này : “Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời,… có chế độ chính trị tương đồng, … có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung…. “
Ta không thấy ý kiến tương tự ở thời TBT Nông Đức Mạnh, hay các TBT tiền nhiệm.
Ý kiến này, nếu theo dõi nội dung các tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc, ta thấy là của Tập Cận Bình, biểu lộ lúc ông này sang thăm Việt Nam năm 2015.
Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ mong muốn “chia sẻ vận mệnh chung” với nhân dân Trung Quốc hết cả. Chưa bao giờ “tiền đồ” đất nước Việt Nam lại có mối “tương quan” với Trung Quốc hết cả.
Sau chuyến đi của ông Trọng, ý kiến của họ Tập trở thành “tuyên bố chung của hai nước”.
Theo tôi, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phạm những lỗi lầm vô cùng trọng đại, vì đã làm thương tổn nền độc lập của một quốc gia có chủ quyền.
Dân tộc Việt Nam chưa bao giờ mong muốn “chia sẻ vận mệnh chung” với nhân dân Trung Quốc hết cả. Chưa bao giờ “tiền đồ” đất nước Việt Nam lại có mối “tương quan” với Trung Quốc hết cả.
Tiền đồ là gì ? Nghĩa tiếng Hán là “con đường phía trước, tương lai tốt đẹp phía trước”.
Khi “chia sẻ vận mệnh chung”, có “chung một tương lai”, thì Việt Nam đã không còn “độc lập và tự chủ” trong những quyết định của mình (về tương lai) nữa.
Việc này đã phá vỡ “nguyên tắc độc lập tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”, đã được khẳng định theo Tuyên bố chung Việt Nam và Trung Quốc về hợp tác toàn diện 2000.
Nó cũng đi ngược tinh thần Hiến chương LHQ “bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia”. Đồng thời đi ngược lại nội dung Tuyên bố “5 điểm chung sống hòa bình” của Trung Quốc.
Tillerson – cứu tinh của Việt Nam?
Vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa kỳ tương lai, Rex Tillerson, ngày 11/1 nhân buổi điều trần tại Thượng viện, đã có những tuyên bố liên quan đến Biển Đông.
Trong chừng mực, nếu ý kiến của ông này được thực hiện, hầu hết các vấn đề ở Biển Đông sẽ tự động hóa giải.
Theo ông Tillerson, hành vi Trung Quốc xây dựng đảo ở Biển Đông tương đương với hành vi Nga chiếm Crimea. Ông này khuyến cáo Washington rằng phải gởi một tín hiệu cứng rắn đến Bắc Kinh : 1/ Trung Quốc ngưng ngay các việc xây dựng đảo. 2/ Trung Quốc không được tiếp cận các đảo này nữa.
Câu hỏi đặt ra, Hoa Kỳ có thẩm quyền để phát biểu (như vậy) cũng như có khả năng làm việc này hay không ?
Theo tôi là Hoa Kỳ có thể phát biểu những lời như vậy.
Tillerson so sánh các đảo Biển Đông (mà Trung Quốc chiếm và xây thành đảo nhân tạo) với Crimea. Dĩ nhiên ai cũng biết Crimea thuộc Ukraine. Nhưng các đảo (mà Trung Quốc đã chiếm) thì không ai biết chúng thuộc chủ quyền nước nào.
Có ba giả thuyết để Tillerson củng cố cho lập trường của mình.
Thứ nhất, Trung Quốc không có chủ quyền ở các bãi đá, đơn giản vì họ xâm chiếm (của Việt Nam) năm 1988 bằng vũ lực. Ý kiến của Tillerson phù hợp tinh thần quốc tế công pháp.
Thứ hai, vịn vào yếu tố Mỹ có quyền quản lý các đảo ở Thái Bình Dương do Nhật chiếm đóng trước Thế chiến thứ hai (theo một điều ước của Hội Quốc liên trước 1945). Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Thái Bình Dương. Các đảo này bị Nhật chiếm đóng. Vì vậy Mỹ có quyền lên tiếng đòi quyền quản lý. Dựa trên lập luận này thì Mỹ có quyền “cấm” Trung Quốc léo hánh đến các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thứ ba, các đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Pháp. Vấn đề là Pháp “im lặng” về việc này từ sau khi rời Việt Nam cho đến nay. Pháp tuyên bố chủ quyền ở Trường Sa, sáp nhập vào tỉnh Bà Rịa, do “khám phá”. Không quốc gia nào phản đối việc này. Sẽ là một sự “đảo lộn” về địa chính trị nếu bây giờ Pháp lên tiếng đòi Trường Sa và Mỹ ủng hộ yêu sách này.
Về khả năng, câu trả lời bỏ ngỏ.
Trung Quốc có dám “mất tất cả” những gì đã tạo dựng lên, từ thập niên 1980 đến nay, (có thể còn mất thêm nhiều thứ quí giá khác như vấn đề ly khai…) để khai chiến với Mỹ hay không ?
Và Mỹ có dám “chấn thương nội tạng lâu dài” để gây chiến tranh với Trung Quốc vì những hòn đảo mà Mỹ không có (hay có mà ít) lợi ích chiến lược hay không ?
Bài phản ánh văn phong và quan điểm của tác giả, nhà nghiên cứu ở Pháp.
http://www.bbc.com/vietnamese/forum-38635560
Bộ Quốc phòng Philippines
chỉ trích Trung Quốc triển khai vũ khí ở Biển Đông
Bộ Quốc Phòng Philippines chỉ trích việc Trung Quốc đưa võ khí ra các đảo nhân tạo ở Biển Đông là hành động gây bất ổn, khong phù hợp với mục tiêu theo đuổi hòa bình, hữu nghị mà Bắc Kinh thường nói.
Chỉ trích được đưa ra trong bản tuyên bố mang chữ ký của ông Delfin Lorenzana, Bộ Trưởng Quốc Phòng Phi, được phổ biến ngày hôm nay tại Manila.
Bản tuyên bố cũng nhắc lại hồi tháng trước chính phủ Phi đã gửi thư ngoại giao cho đại sứ Trung Quốc tại Manila để phản đối, sau khi Phi xác nhận được tin Trung Quốc triển khai võ khí ở Trường Sa, cho rằng phản đối ngoại giao là điều cần thiết phải làm, nhấn mạnh dù quan hệ với Bắc Kinh đang nồng ấm hơn, nhưng người dân Phi an tâm vì chính phủ không bao giờ quên trách nhiệm phải bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Tại Bắc Kinh, phát ngôn viên Hoa Xuân Oánh của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nói rằng Trung Quốc có quyền triển khai võ khí ở Trường Sa, tại những hòn đảo mà chủ quyền thuộc về họ.
Bà Hoa Xuân Oánh cũng nhắc lại quan điểm của Bắc Kinh là thảo luận song phương với những nước đang tranh chấp chủ quyền, kể cả với Phi, để giảm bớt căng thẳng tại Biển Đông.
Tuần trước, việc Trung Quốc bồi đắp, cải tạo những hòn đảo ở Trường Sa trở thành đề tài được mọi người chú ý tới, sau khi ông Rex Tillerson, người được Tổng Thống Đắc Cử Donald trump để cử giữ chức vụ ngoại trưởng nói rằng Washington cần phải gửi những tín hiệu rõ rệt đến Bắc Kinh.
Khi ra điều trần trước Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện Liên Bang Mỹ, ông Tillerson cho hay tín hiệu của Hoa Kỳ phải là, thứ nhất, Trung Quốc phải ngưng ngay những hoạt động bồi đắp, cải tạo đảo, và thứ nhì là phải cấm không cho Trung Quốc tiếp cận với những hòn đảo mà Bắc Kinh đang tranh chấp chủ quyền với những nước khác.
Dù Biển Đông căng thẳng,
Việt Nam vẫn ký thỏa thuận với Exxon Mobil
Ngày 13/01/2017, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam ( PVN ) đã cùng với Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP) đã ký với tập đoàn dầu khí Mỹ Exxon Mobil hai văn bản : thỏa thuận khung phát triển dự án khai thác mỏ khí Cá Voi Xanh và thỏa thuận khung hợp đồng bán khí của mỏ này.
Mỏ khí Cá Voi Xanh là dự án khí lớn nhất ở Việt Nam từ trước đến nay. Mỏ này nằm cách bờ biển tỉnh Quảng Nam, miền Trung Việt Nam, khoảng 80 km, với trữ lượng được ước tính khoảng 150 tỷ mét khối khí. Mục tiêu mà dự án đề ra là sẽ đạt dòng khí đầu tiên vào năm 2023 để cung cấp cho miền Trung Việt Nam. Nhưng mỏ khí Cá Voi Xanh nằm trong vùng biển đang tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc.
Thỏa thuận nói trên được ký kết đúng vào lúc ông John Kerry đang viếng thăm Việt Nam lần cuối trong cương vị ngoại trưởng Mỹ, còn ông Nguyễn Phú Trọng công du Trung Quốc lần đầu tiên kể từ khi tái đắc cử tổng bí thư Đảng. Một sự trùng hợp về thời điểm nhưng nó cũng phản ánh chính sách của Việt Nam gọi là « đa phương hóa và đa dạng hóa » quan hệ ngoại giao.
Thỏa thuận này cũng được ký chỉ vài ngày sau khi ngoại trưởng được chỉ định của Mỹ, Rex Tillerson, nguyên là một lãnh đạo của tập đoàn Exxon Mobil, đã gây phản ứng giận dữ từ báo chí chính thức của Trung Quốc, khi lên tiếng yêu cầu cấm Trung Quốc tiếp cận các đảo nhân tạo ở Biển Đông, vì theo ông việc Trung Quốc xây các đảo nhân tạo này là « phi pháp », chẳng khác gì việc nước Nga sát nhập vùng Crimée của Ukraina.
Khi còn là một lãnh đạo của Exxon Mobil, ông Tillerson đã từng « nếm mùi » áp lực của Trung Quốc muốn ngăn cản tập đoàn dầu khí Mỹ đầu tư khai thác ở Việt Nam. Trong một bài viết đề ngày 16/01/2017, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam thuộc Học viện Quốc phòng Úc, nhắc lại rằng vào năm 2007 ông nhận được thông tin là tình báo Trung Quốc đã lấy được một bản sao Chiến lược biển của Việt Nam đến năm 2020. Chiến lược này đề ra kế hoạch gắn nền kinh tế vùng bờ biển với các tài nguyên nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, trong đó có cả dầu khí.
Giáo sư Carl Thayer cho biết, lúc đó phía Trung Quốc đã cảnh cáo các tập đoàn dầu khí phương Tây là nếu giúp Việt Nam khai thác dầu khí, thì quyền lợi của họ ở Trung Quốc sẽ bị tổn hại. Theo nhật báo Hồng Kông The South China Morning Post, vào năm 2008, Exxon Mobil đã công khai xác nhận những áp lực đó của Trung Quốc. Nhưng giáo sư Thayer nhận định, bằng chính sách « cây gậy và củ cà rốt » mà Hoa Kỳ thi hành với Trung Quốc, phía Bắc Kinh đã ngưng sách nhiễu các tập đoàn dầu khí Mỹ làm ăn với Việt Nam.
Vấn đề là sau những tuyên bố của ông Tillerson về Biển Đông, chưa biết là Trung Quốc sẽ phản ứng ra sao về thỏa thuận vừa được ký giữa Việt Nam với Exxon Mobill, nhất là vì mỏ khí Cá Voi Xanh nằm tại vùng biển đang tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc. Tất cả tùy thuộc phần lớn vào quan hệ Mỹ – Trung dưới thời tổng thống Donald Trump. Hiện giờ Bắc Kinh còn tỏ ra thận trọng, mềm mỏng trước những tuyên bố cứng rắn của các bộ trưởng tương lai cũng như của bản thân ông Trump. Nhưng chắc chắn là Trung Quốc sẽ không khoanh tay ngồi yên nếu chính quyền mới của Mỹ thi hành một chính sách gây tổn hại cho lợi ích của họ, đặc biệt là tại Biển Đông.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20170117-bien-dong-cang-thang-viet-nam-thoa-thuan-exxon-mobil