Tin Biển Đông – 16/05/2019

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tin Biển Đông – 16/05/2019

Trung Quốc theo dõi tàu tuần duyên Hoa Kỳ

tập trận với Philippines ở Biển Đông

Tàu tuần duyên của Hoa Kỳ vừa có cuộc tập trận với tàu tìm kiếm cứu hộ của Philippines gần bãi cạn Scarborough trong tuần này, trong khi Trung Quốc điều 2 tàu tuần duyên đến theo dõi từ xa. Giới chức lực lượng tuần duyên Hoa Kỳ và Philippines cho BenarNews biết như vậy hôm 15/5.

Theo BenarNews, tàu tuần duyên Cutter Berholf, một trong những tàu tuần duyên hiện đại nhất của Mỹ đã tham gia tập trận cùng tàu cứu hộ Batangas của Philippines gần bãi Scarborough hôm thứ Tư ngày 15/5. Cuộc diễn tập được kết thúc với một tình huống giả định tìm kiếm cứu hộ.

Phó Đô đốc Linda Fagan, Chỉ huy hoạt động Tuần duyên của Hoa Kỳ ở Châu Á Thái Bình Dương được BenarNews trích lời cho biết hoạt động phối hợp giữa hai nước tạo cơ hội cho hai bên chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau. Hai bên cam kết phối hợp để tăng cường khả năng cũng như việc quản lý biển, an ninh.

Giới chức tuần duyên Philippines cho BenarNews biết trong khi Mỹ và Philippines diễn tập, hai tàu của tuần duyên Trung Quốc đã đứng từ xa để theo dõi nhưng không có động thái can thiệp.

Philippines đã từng kiểm soát bãi Scarborough cho đến khi Trung Quốc giành quyền kiểm soát từ Philippines vào năm 2012.

Trung Quốc đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông, nơi các nước láng giềng khác cũng có chủ quyền, bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.

https://www.rfa.org/vietnamese/news/internationalnews/chinese-ship-monitor-us-philippines-coast-guard-join-drill-05162019082324.html

 

Mỹ: Trung Quốc phản ứng quá mức

với hoạt động của Mỹ trên Biển Đông

Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ hôm 15/5 nói rằng các hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông đang bị chú ý quá mức cần thiết, theo Reuters.

Quân đội Hoa Kỳ cho biết hai tàu chiến của họ đã đi gần các đảo mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông vào thứ Hai tuần trước, một động thái khiến Bắc Kinh nổi giận vào thời điểm quan hệ giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đang căng thẳng vì cuộc chiến thương mại.

“Thành thật mà nói, các hoạt động này đã bị truyền thông chú ý, và đôi khi từ phía Trung Quốc, hơn mức cần thiết”, Reuters dẫn lời Đô đốc John Richardson nói với các phóng viên bên lề hội nghị quốc phòng hàng hải ở Singapore.

Trong một bài phát biểu trước đó, ông Richardson nói rằng các hoạt động của hải quân của Hoa Kỳ là nhất quán trong nhiều thập niên qua và không hề tăng lên gần đây.

“Tôi đã làm phân tích và tôi có thể tự tin khẳng định rằng mức độ hoạt động của chúng tôi ổn định trong nhiều thập niên qua”, Đô đốc Richardson nói, và cho biết thêm rằng gần đây không hề có sự gia tăng đột biến nào.

Bắc Kinh đã lên án hoạt động mà Hoa Kỳ nói là “di chuyển vô tư” ở gần khu vực Đá Gaven và Đá Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa, vào tuần trước. Trung Quốc nói rằng hoạt động này “xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc” và “phương hại hòa bình, an ninh và trật tự tốt đẹp của các vùng biển liên quan”.

Hoạt động tự do hàng hải của Hoa Kỳ nhằm mục đích thách thức hoạt động của Trung Quốc mà Mỹ cho là hạn chế quyền tự do di chuyển trong vùng biển chiến lược.

Cụ thể, Hoa Kỳ chỉ trích việc Trung Quốc xây các đảo nhân tạo trên các bãi cạn và việc lắp đặt các cơ sở quân sự trên các đảo này, bao gồm đường bay và bến cảng.

Ông Richardson nói với các phóng viên rằng ông không còn ngạc nhiên về phản ứng của Trung Quốc nữa.

“Tôi cho rằng họ ngày càng kiên định trong phản ứng với những việc này, nhưng tôi lại trở lại với nguyên tắc đầu tiên… tôi chỉ muốn chắc chắn rằng phương thức hoạt động của hải quân là nhất quán. Chúng tôi không làm bất cứ điều gì để khiêu khích hơn hay vì mục đích nào khác”, Đô đốc Richardson khẳng định.

https://www.voatiengviet.com/a/my-trung-quoc-phan-ung-qua-muc-voi-hoat-dong-cua-my-o-bien-dong/4918771.html

 

Hải Quân Mỹ: Không hề tăng tuần tra ở Biển Đông

để chống Bắc Kinh

Trọng Nghĩa

Tư lệnh Hải Quân Mỹ ngày 15/05/2019 bác bỏ lập luận theo đó Mỹ đã cho tăng cường các chiến dịch tuần tra tại vùng Biển Đông để thách thức các đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Trung Quốc.

Tại Hội Nghị Quốc Tế về An Ninh Trên Biển tổ chức ở Singapore, trước sự hiện diện của các đại diện hải quân 33 nước trong đó có Trung Quốc, đô đốc John Richardson tuyên bố là ông đã phân tích vấn đề và có thể khẳng định chắc chắn rằng cường độ của các chiến dịch tuần tra cũng như sự hiện diện của Hải Quân Mỹ trong vùng đều « nhất quán » trong nhiều thập niên gần đây, và không hề gia tăng đột ngột.

Theo hãng tin Mỹ AP, tuyên bố trên của tư lệnh Hải Quân Mỹ là nhằm trấn an một số đối tác trong khu vực.

Tư lệnh Hải Quân Mỹ, được Reuters trích dẫn, cũng cho rằng các hoạt động bảo vệ quyền tự do hàng hải ở Biển Đông đang bị « chú ý quá mức cần thiết ». Các hoạt động này không chỉ được giới truyền thông theo dõi, mà còn bị Trung Quốc chú ý. Tại Biển Đông, ngoài việc tuần tra, lực lượng Mỹ còn có những hoạt động thường lệ khác là tập trận.

Trong một thông báo công bố hôm 14/05, lực lượng Tuần Duyên Mỹ xác nhận là tàu tuần tra cỡ lớn USCG Bertholf của Mỹ vào hôm đó đã tham gia một cuộc diễn tập chung với hai tàu tuần duyên của Philippines tại Biển Đông.

Báo chí Philippines tiết lộ là cuộc thao diễn được tiến hành gần bãi cạn Scarborough, phía tây đảo Luzon, một điểm nóng ở Biển Đông hiện đang bị Trung Quốc kiểm soát. Hai tàu Hải Cảnh Trung Quốc được điều đến để theo dõi sát cuộc tập trận, nhưng không có hành vi cản trở.

http://vi.rfi.fr/chau-a/20190516-hai-quan-my-tuan-tra-bien-dong-chong-bac-kinh

 

“Con đường tơ lụa trên biển”:

Tham vọng của TQ và hệ lụy đối với khu vực Biển Đông

Một trong những nhân tố quan trọng của sáng kiến Một Vành đai, Một con đường (OBOR) do Trung Quốc đưa ra vào năm 2013 là khái niệm Con đường tơ lụa trên Biển thế kỷ 21. Mục đích của đại chiến lược này là nhằm cách mạng hoá tuyến đường thương mại biển sâu từ Đông Nam Á qua châu Phi đến châu Âu và thúc đẩy phát triển kinh tế của các nước tham gia thông qua trợ giúp về phát triển hạ tầng kỹ thuật dọc theo đường bờ biển.

Con đường tơ lụa trên biển của Trung Quốc

Con đường tơ lụa trên là phần quan trọng trong kế hoạch toàn cầu về hồi sinh Con đường tơ lụa cổ xưa, kết nối Trung Quốc với các nước Persian và biển Địa Trung Hải. Quy mô dự án định rõ các chỉ số giá trị các thị trường mà tuyến đường chạy qua: lưu thông hàng hóa của Trung Quốc với Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) đạt 443 tỷ USD, với Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) ở mức 150 tỷ USD, với Liên minh châu Âu (EU) – 559 tỷ USD, với châu Phi – 192 tỷ USD, với Trung Đông – 257 tỷ USD. Việc thực hiện dự án này cho phép Trung Quốc giải quyết một loạt nhiệm vụ quan trọng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa.

Việc thực hiện chiến lược Con đường tơ lụa trên biển, theo ý kiến lãnh đạo Trung Quốc, làm giảm bớt những bất đồng đang nổi lên giữa Trung Quốc và các nước láng giềng liên quan đến căng thẳng trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Việc đẩy mạnh hợp tác nhiều mặt tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ dẫn đến cải thiện môi trường chính trị đối ngoại. Ảnh hưởng của dự án này không kém phần quan trọng đối với tình hình chính trị trong nước Trung Quốc. Việc xây dựng vành đai kinh tế thân Trung Quốc giải quyết cùng lúc nhiều nhiệm vụ: Thứ nhất, các khoản đầu tư hiệu quả với tỷ lệ hoàn vốn cao và lợi ích lâu dài lớn. Thứ hai, giải quyết được vấn đề tụt hậu của các khu vực phía Tây Trung Quốc nhờ sự hội nhập tích cực của những khu vực này. Chính sách cải cách đang được Trung Quốc

tiến hành chủ yếu liên quan đến các khu vực duyên hải, các khu vực khác ít tham gia tiến trình này. Giai đoạn mới “sự cởi mở toàn diện” bằng cách thực hiện dự án Con đường tơ lụa trên biển cho phép, theo ý kiến các chuyên gia Trung Quốc, khắc phục được khuyết điểm này. Thứ ba, trong quá trình thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng sẽ tạo ra nhiều việc làm mói trong các tập đoàn nhà nước Trung Quốc. Tất nhiên, phía Trung Quốc nhấn mạnh phương diện kinh tế. Mục đích của sáng kiến này là tái định hướng các nguồn xuất khẩu hàng hóa và tư bản vào chính những quốc gia mà đến nay vẫn chưa tham gia tích cực vào nền thương mại thế giới. Trong những thập niên trở lại đây, Trung Quốc bắt đầu phát triển quan hệ hợp tác với các nước châu Phi và Trung Á. Việc kiểm soát hai tuyến của Con đường tơ lụa cũng cho phép bảo đảm an ninh năng lượng Trung Quốc, bởi vì là nước nhập khẩu năng lượng lớn nhất thế giới, Trung Quốc hoàn toàn phụ thuộc vào cung cấp đường biển, điều này đồng nghĩa rằng vẫn thường xuyên tồn tại nguy cơ bị áp đặt “lệnh cấm vận dầu mỏ” trên biển. Đối với Trung Quốc, dự án cho phép giảm các chi phí kho vận, trong khi đối với các nước mà Con đường tơ lụa đi qua, nó cho phép thu hút đầu tư vào khu vực. Cuối cùng, dự án cho phép tạo ra những tuyến đường vận tải biển an toàn, thông suốt và hiệu quả cao có những điểm đầu mối tại các cảng quan trọng nhất.

Cơ sở cần thiết xây dựng Con đường tơ lụa trên biển, những phương hướng chính thực hiện dự án và những lĩnh vực hợp tác quan trọng nhất của các nước tham gia dự án. Theo phía Trung Quốc, để thực hiện dự án này cần phải:

Đạt được sự đồng thuận giữa các nước về mở rộng hợp tác trên biển. Trong những năm gần đây trong tiến trình đàm phán cấp cao, lãnh đạo Trung Quốc đã đưa những vấn đề hợp tác trên biển trở thành một trong những chủ đề quan trọng nhất trong thảo luận song phương. Kết quả là thành lập được các Quỹ Hợp tác trên biển Trung Quốc – ASEAN và Trung Quốc – Indonesia. Trong khi đó, Trung Quốc cũng đang tích cực hỗ trợ phát triển hợp tác trên biển với các nước Đông Nam Á và Nam Á, châu Phi, và hình thành những cơ chế phối hợp hành động ở cấp độ các cơ quan hàng hải quốc gia khác nhau; phát triển hợp tác trong lĩnh vực an ninh hàng hải. An toàn các tuyến đường biển là sự đảm bảo phát triển bền vững dự án. Các cảng biển dọc Con đường tơ lụa trên biển mới phải được sử dụng làm nơi xử lý hàng vận chuyển, bổ sung dự trữ và nghỉ ngơi của các đội tàu vận chuyển. Những điểm bến đậu trên biển như thế nhằm bảo đảm an ninh và con đường biển thuận lợi đối với tất cả các nước. Các cảng biển như thế có thể được từng nước tham gia dự án xây dựng, hoặc với sự giúp đỡ của Trung Quốc và các nước khác, hoặc thậm chí cho thuê.

Liên quan đến những mối đe dọa an ninh phi truyền thống trở nên căng thẳng trong những năm gần đây (hải tặc, khủng bố trên biển, tội phạm xuyên biên giới và một số mối đe dọa khác) đối với những nước nằm dọc tuyến đường, sự cần thiết giải quyết những vấn đề này đang trở nên nóng bỏng. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc dự định khuyến khích hợp tác trong lĩnh vực công nghệ hàng hải, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, dự báo hàng hải, cứu hộ trên biển, phòng ngừa và giảm nhẹ hậu quả thiên tai. Trung Quốc cũng khuyến khích xây dựng các cảng biển, bến tàu và mạng lưới thông tin để bảo đảm luồng hàng hóa và thông tin mở. Hơn nữa, lưu thông hàng hóa giữa Trung Quốc với các nước nằm dọc Con đường tơ lụa trên biển, hiện chiếm 37,9% kim ngạch thương mại nước ngoài của Trung Quốc và sẽ tăng lên trong thời gian tới.

Hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực kinh tế và công nghiệp biển có nghĩa là tái cấu trúc công nghiệp, hợp tác trong những lĩnh vực ưu tiên trên biển như đánh bắt cá, du lịch, khử muối nước biển, dược sinh học, các tài nguyên biển tái tạo, đang đặt ra cho các doanh nghiệp Trung Quốc trong ngành nhiệm vụ nâng cao khả năng cạnh tranh và vươn lên cấp độ quốc tế. Chính phủ Trung Quốc sẽ giúp đỡ các doanh nghiệp trong lĩnh vực đóng tàu, đánh bắt cá và nuôi trồng hải sản nhằm mục đích tạo dựng cơ sở sản xuất và chuỗi công nghiệp với những nước giàu tài nguyên thiên nhiên và có nhu cầu tiêu thụ lớn.

Đề xuất sử dụng những công cụ rất khác nhau để hợp tác: các khu vực triển lãm kinh tế biển, các công viên công nghiệp, các công viên công nghệ hàng hải, các khu vực hợp tác kinh tế – thương mại, các cơ sở đào tạo hàng hải; mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa – nhân đạo mà phía Trung Quốc coi là nền tảng cơ bản để xây dựng Con đường tơ lụa trên biển. Không những vậy, Trung Quốc sẽ phát triển trao đổi trong lĩnh vực văn hóa biển, du lịch và giáo dục, trong đó đặc biệt khuyến khích trao đổi văn hóa và các sản phẩm du lịch mang đặc trưng rõ ràng của dự án Con đường Tơ lụa trên biển.

Kế hoạch triển khai

Chính phủ Trung Quốc tuyên bố tỉnh Phúc Kiến là điểm đầu tuyến đường chính Con đường tơ lụa trên biển. Đặc biệt, tuyến đường được bắt đầu từ thành phố Tuyền Châu (tỉnh Phúc Kiến) và đi qua các cảng lớn nhất ở miền Nam Trung Quốc: Quảng Châu, Hải Khẩu và Bắc Hải tới eo biển Malacca với

điểm trung gian tại Kuala Lumpur (Malaysia) cắt Ấn Độ Dương chạy qua Calcutta (Ấn Độ) và Colombo (Sri Lanka). Chạy qua Biển Đỏ, Djibouti và kênh đào Suez. Con đường tơ lụa trên biển đi xuyên qua Biển Địa Trung Hải đến Athens (Hy Lạp) và sau đó đến Venice (Italy), nơi giáp nối tuyến đường trên bộ Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa. Tuyến đường này dự định có một nhánh về phía châu Phi thông qua Maldives đến Nairobi (Kenya), một nhánh khác dẫn đến khu mặt nước phía Nam Thái Bình Dương.

Sáng kiến “Vành đai và Con đường” thực tế đang dẫn đến hình thành hệ thống vận chuyển đa phương thức hoạt động rất tốt, hơn nữa Trung Quốc không cần xây dựng hàng nghìn km đường sắt hay cơ sở hạ tầng giao thông khác, bởi phần lớn cơ sở hạ tầng đã có sẵn. Trung Quốc đã xây dựng các cảng lớn hiện đại tại một loạt quốc gia có mối quan hệ hữu nghĩ với nước này như Gwadar ở Pakistan, Hambantota ở Sri Lanka, Cheattagong ở Bangladesh, Chauphyu ở Myanmar và đang lên kế hoạch xây dựng một loạt cảng mới. Nhiệm vụ duy nhất là hiện đại hóa và kết nối cơ sở hạ tầng hiện có thành một hệ thống thống nhất, còn trong trường hợp cần thiết sẽ bổ sung những mắt xích còn thiếu, chẳng hạn hiện thực hóa hai hành lang kinh tế “Trung Quốc – Pakistan” và “Ấn Độ – Bangladesh – Myanmar – Trung Quốc”. Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cảng biển thường rất hay kéo theo việc xây dựng các nhánh đường sắt. Như vậy, các hành lang trên bộ vận chuyển hàng hóa thay cho đường biển đang được xây dựng.

Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của dự án Con đường tơ lụa là tái định hướng các nguồn xuất khẩu hàng hóa và vốn từ Trung Quốc vào chính những nước mà đến giờ vẫn chưa tham gia tích cực vào thương mại thế giới. Hơn nữa, như thực tế chứng minh, phần lớn các dự án mà Trung Quốc thực hiện nằm trong mối liên kết chặt chẽ với nguồn đầu tư của Trung Quốc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên của những quốc gia đối tác, bảo đảm cho Trung Quốc độc lập về năng lượng. Trong bối cảnh đó, có thể chho rằng trong tương lai xa Con đường tơ lụa trên biển sẽ được kéo dài tới Mỹ Latinh.

Mặc dù Con đường tơ lụa trên biển rất có lợi cho các nước châu Á, sự tham gia của Nga vào dự án này thoạt nhìn về mặt địa lý không được xem xét đến. Tuy nhiên, Nga đang áp dụng các biện pháp nhằm hòa hợp với dự án của Trung Quốc và không để bị gạt sang bên lề các tiến trình hội nhập khu vực đang diễn ra. Nga có tiềm năng trung chuyển rất lớn với tuyến đường có một không hai: tuyến đường biển miền Bắc. Nga đề xuất tuyến đường này bổ sung cho dự án của Trung Quốc. Nhánh phía Bắc của Con đường tơ lụa trên biển sẽ kết nối phía Bắc châu Âu và Đông Bắc Á.

Ý đồ và hệ lụy của Con đương Tơ lụa trên biển

Theo báo cáo, mặc dù Con đường tơ lụa trên biển là sáng kiến kinh tế nhưng có hàm ý chiến lược. Mục tiêu công khai của Trung Quốc về Con đường tơ lụa trên biển phục vụ các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, bao gồm phát triển nền kinh tế xanh, cải thiện an ninh lương thực và năng lượng, đa dạng hóa và đảm bảo các tuyến đường giao thông biển, duy trì chủ quyền lãnh thổ và tăng cường ảnh hưởng quốc tế. Trên thực tế, Con đường tơ lụa trên biển có tiềm năng mở rộng không gian hàng hải chiến lược của Trung Quốc, thiết lập các cứ điểm để bảo vệ các tuyến hàng hải trọng yếu, qua đó từng bước hình thành trật tự biển do Trung Quốc chi phối. Điều này lý giải tại sao Con đường tơ lụa trên biển không có mục tiêu, phạm vi địa lý rõ ràng và ngày càng mở rộng.

Trung Quốc kỳ vọng thông qua Con đường tơ lụa trên biển xây dựng một hệ thống liên hoàn các cảng biển, dự án hạ tầng và đặc khu kinh tế ở Đông Nam Á, Nam Á và mở rộng xa hơn; qua đó tái lập chuỗi sản xuất và thị trường để hình thành trật tự Trung Quốc đóng vai trò trung tâm. Con đường tơ lụa trên biển được đánh giá là “động thái chính trị quan trọng nhất nửa đầu thế kỷ 21”, kỳ vọng sẽ giúp Trung Quốc chuyển từ “bị động” sang “chủ động” trong ngoại giao, tạo bàn đạp để Trung Quốc vươn lên thành cường quốc toàn cầu. Lãnh đạo Trung Quốc nhận thức rõ: “một cường quốc toàn cầu phải có sức mạnh hàng hải vượt trội” và tại Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 11/2012, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tuyên bố Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc biển. Tham vọng này được lặp lại trong Sách trắng Quốc phòng của Trung Quốc năm 2013 và một lần nữa vào năm 2015.

Theo đánh giá của SIPRI và FES, Con đường tơ lụa trên biển có thể có những tác động an ninh trái chiều nhau ở Biển Đông và Ấn Độ Dương. Về kinh tế, Con đường tơ lụa trên biển có thể có những tác động tích cực thông qua gia tăng nguồn vốn đầu tư, kết nối cơ sở hạ tầng, đẩy nhanh sự hội nhập giữa các nền kinh tế, qua đó gián tiếp thúc đẩy gác tranh chấp và hạn chế các nguy cơ xung đột. Con đường tơ lụa trên biển là sự bổ sung hữu ích cho Kế hoạch Tổng thể về Kết nối ASEAN (MPEC), qua đó giúp đẩy tạo ra các cơ hội phát triển kinh tế, thúc đẩy thịnh vượng. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, Con đường tơ lụa trên biển mở đường cho Trung Quốc gia tăng hiện diện ở Biển Đông và Ấn Độ Dương,

tạo ra các đòn bẩy để Trung Quốc can dự sâu vào chính trị khu vực, làm suy yếu các cấu trúc an ninh hiện có, mà trung tâm là ASEAN và hệ thống trục và nan hoa của Mỹ.

Trên thực tế, lợi ích và quan điểm của các nước Đông Nam Á với Con đường tơ lụa trên biển rất khác nhau. Indonesia, Thái Lan, Philippines và Malaysia tìm cách cân bằng giữa kết nối kinh tế chặt chẽ hơn với Trung Quốc để phát triển và duy trì chủ quyền về kinh tế và chính trị. Các nước này nhận thức rõ rủi ro và hậu quả của việc phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Tuy nhiên, do không có đủ năng lực tài chính và kỹ thuật để tự phát triển cơ sở hạ tầng độc lập và sự hỗ trợ của các cơ chế đa phương hiện tại chậm chạp, rườm rà, nên họ tích cực chào đón đầu tư và kinh nghiệm kỹ thuật từ Trung Quốc. Việt Nam được coi là nước hoài nghi nhất về Con đường tơ lụa trên biển vì dự án này liên quan đến xung đột lợi ích giữa Việt Nam và Trung Quốc. Định kiến lịch sử, sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông khiến Việt Nam rất nghi ngờ ý đồ của Trung Quốc. Một số dự án do Trung Quốc thực hiện tại Việt Nam có nhiều sai sót đã khiến Việt Nam mất lòng tin vào cách quản lý dự án nước ngoài của Trung Quốc. Ở phía ngược lại, Lào và Campuchia coi trọng Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), trong đó có Con đường tơ lụa trên biển. Là nước không có biển và phụ thuộc nhiều vào thương mại và đầu tư từ Trung Quốc, Lào muốn trở thành điểm trung chuyển giữa Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan. Việc Lào tham gia sâu vào BRI khiến nước này phụ thuộc hơn vào Trung Quốc. Campuchia ưu tiên tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo nên cũng tích cực tham gia vào BRI bất chấp các tác động về chủ quyền. Năm 2016, Bộ Du lịch Campuchia khuyến khích sử dụng đồng Nhân dân tệ để thu hút khách du lịch Trung Quốc. Singapore là nước hưởng lợi nhất từ các dự án BRI với vai trò hỗ trợ dịch vụ ngân hàng và pháp lý cho các dự án. Trên thực tế, 33% các khoản đầu tư của Trung Quốc ra bên ngoài liên quan đến BRI và 85% các khoản đầu tư vào Trung Quốc đi qua Singapore.

Từ thực tế đó, Con đường tơ lụa trên biển có khả năng tác động tiêu cực đến an ninh ở Biển Đông ở ba khía cạnh. Thứ nhất, Con đường tơ lụa trên biển mở đường giúp Trung Quốc gia tăng hiện diện ở Đông Nam Á và gia tăng ảnh hưởng với các nước thành viên ASEAN, qua đó giảm tính cố kết và thống nhất trong ASEAN. Điển hình, Campuchia luôn tránh không chỉ trích Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, khiến ASEAN khó phản ứng thống nhất. Thứ hai, Con đường tơ lụa trên biển có thể làm trầm trọng các xung đột, tranh chấp về chủ quyền và quyền tài phán trên Biển Đông. Quần đảo Trường Sa có giá trị chiến lược quan trọng vì nằm dọc theo tuyến đường vận tải quốc tế qua Biển Đông. Thứ ba, Con đường tơ lụa trên biển có thể làm giảm vai trò an ninh của Mỹ, tạo ra bàn đạp để Trung Quốc xâm nhập quân sự vào khu vực. Nguy cơ này trở nên hiện hữu bởi ASEAN thiếu một cấu trúc an ninh khu vực hiệu quả và cam kết của Tổng thống Trump đối với khu vực không rõ ràng và chắc chắn. Việc tăng cường lực lượng quân sự trên sẽ làm tăng nguy cơ xảy ra sự cố, va chạm ngoài ý muốn trên Biển Đông.

http://biendong.net/bien-dong/28047-con-duong-to-lua-tren-bien-tham-vong-cua-tq-va-he-luy-doi-voi-khu-vuc-bien-dong.html

 

Một số điểm đáng chú ý trong cuộc tập trận chung

ở Biển Đông lần đầu tiên

giữa Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Philippines

Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Philippines vừa tiến hành cuộc tập trận chung đa phương lần đầu tiên giữa bốn nước ở Biển Đông. Đây được xem là động thái thúc đẩy sáng kiến “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở và tự do”, nhằm ngăn chặn sự mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc hiện nay tại khu vực.

Về lực lượng tham gia cuộc tập trận

Mặc dù những cuộc tập trận tương tự từng được tiến hành ở Biển Đông, song đây là lần đầu tiên 4 nước là Mỹ – Nhật Bản – Ấn Độ và Philippines tập trận chung. Cuộc tập trận diễn ra từ ngày 2/5 đến 8/5/2019. Tham dự có tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS William P Lawrence của Mỹ, tàu sân bay trực thăng Izumo của Nhật Bản, khu trục hạm INS Kolkata và tàu chở dầu INS Shakti của Ấn Độ, cùng một tàu tuần tra của Philippines. Đây đều là những tàu hải quân chủ chốt của các nước, trong đó đã tiến hành các hoạt động phối hợp chung như hoạt động tuần tra tự do hàng hải chung; cứu trợ thảm họa tự nhiên, hỗ trợ nhân đạo; chống cướp biển; vận tải đường biển; tiếp tế nhiên liệu…

Tàu USS William P Lawrence của Hải quân Mỹ là tàu khu trục tên lửa dẫn đường lớp Arleigh Burke do Công ty đóng tàu Northrop Grumman chế tạo. Con tàu được đưa vào hoạt động từ tháng 6/2011. Trong khi đó, tàu sân bay Izumo của NhậtBản đã thực hiện nhiều chuyến hải trình quốc tế, đáng chú ý nhất là cuộc tập trận hỗn hợp với tàu ngầm lần đầu tiên ở Biển Đông hồi cuối năm 2018 vừa qua. Chiến hạm này có thể sẽ được nâng cấp thành tàu sân bay tác chiến của Nhật Bản để mang theo hàng loạt tiêm kích tàng hình F-35B trong tương lai. Tàu NS Kolkata là tàu dẫn đầu trong các khu trục hạm tên lửa dẫn đường tàng hình lớp Kolkata của Hải quân Ấn Độ, được xây dựng tại Mazagon Dock Limited (MDL) và được bàn giao cho hải quân vào ngày 10/ 7/2014 sau khi hoàn thành các thử nghiệm trên biển của mình. Con tàu được Thủ tướng Narendra Modi ủy quyền chính thức trong một buổi lễ được tổ chức vào ngày 16/8/2014.

Cuộc tập trận kết thúc sau khi Mỹ triển khai hai tàu khu trục USS Preble và USS Chung Hoon tiến vào khu vực 12 hải lý quanh đảo nhân tạo Trung Quốc bồi đắp trái phép trên đá Ga Ven và Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Hải quân Mỹ khẳng định đây là hoạt động “đi qua vô hại” trong quá trình thực hiện chiến dịch tuần tra tự do hàng hải, nhằm “thách thức các tuyên bố chủ quyền phi lý và bảo đảm quyền tiếp cận các vùng biển theo luật pháp quốc tế”.

Mục đích của các bên trong cuộc tập trận này

Với Mỹ, cuộc tập trận nhằm tăng cường hiện diện, ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc. Chỉ huy Andrew J. Klug của tàu khu trục USS William P. Lawrence cho biết “sự phối hợp chuyên nghiệp với các đồng minh, đối tác và bạn bè trong khu vực là những cơ hội để xây dựng các mối quan hệ bền chặt hiện có của chúng tôi”. Cuộc tập trận chung giữa bốn nước thể hiện một thách thức mới đối với Bắc Kinh trong bối cảnh Tổng thống Donald Trump của Mỹ đe dọa sẽ tăng mức thuế đánh trên 200 tỷ USD hàng hóa của Trung Quốc. Trong một thách thức riêng rẽ với Bắc Kinh trên các vùng biển ở châu Á, tàu USS William P. Lawrence và một khu trục hạm khác của Hoa Kỳ đã đi ngang qua eo biển Đài Loan hồi tháng Tư. Bắc Kinh vẫn coi Đài Loan là một tỉnh ’ thuộc lãnh thổ Trung Quốc, đòi tách ly ra khỏi Hoa Lục.

Với Nhật Bản, cuộc tập trận là dịp để hải quân nước này tăng cường khả năng tác chiến xa bờ, với sự tham gia của các nhóm tàu tác chiến chiến lược như tàu sân bay trực thăng Izumo. Tokyo muốn nâng cấp các khu trục hạm trực thăng lớp Izumo thành tàu sân bay nhằm đối phó với hoạt động quân sự của Bắc Kinh ở Thái Bình Dương. Nhật Bản dường như không có lựa chọn khác, do nước này lo ngại việc Trung Quốc nhiều lần điều tiêm kích và oanh tạc cơ bay qua khu vực phía nam Nhật Bản, cũng như vấn đề tranh chấp chủ quyền nhóm đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông. Giới quan sát nhận định chương trình nâng cấp chiến hạm lớp Izumo đánh dấu sự thay đổi đáng kể trong chính sách quốc phòng Nhật Bản. Kế hoạch từng gặp nhiều chỉ trích, do Điều 9 trong Hiến pháp hòa bình của Nhật quy định nước này không được sở hữu các vũ khí mang tính chất tấn công như tàu sân bay.

Với Ấn Độ, trên cơ sở chính sách Hành động hướng Đông và sáng kiến chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, Ấn Độ đã từng bước tăng cường can dự vào vấn đề Biển Đông đồng thời đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia khu vực trong lĩnh vực hàng hải. Mặc dù còn tồn tại những hạn chế trong cách tiếp cận, song sự can dự của Ấn Độ góp phần làm đa dạng hóa lựa chọn hợp tác cho các quốc gia yêu sách nhỏ ở khu vực trong vấn đề Biển Đông. Cuộc tập trận đi cùng với việc tăng cường hiện diện ở khu vực Đông Nam Á, một trong những ưu tiên trong chiến lược “Hành động Hướng Đông” của nước này, giúp Ấn Độ tăng cường quan hệ với các đối tác như Mỹ, Nhật Bản và Philipines. Giới phân tích cho rằng cuộc tập trận cũng nhằm gửi thông điệp đến Trung Quốc, nước đang có chính sách lấn lướt các nước ở khu vực. Mục tiêu bao trùm của Ấn Độ là trong các hoạt động tương tự như cuộc tập trận chung lần này là đảm bảo tự do hàng hải và hàng không, giao thương không bị cản trở; ủng hộ giải quyết hòa bình tranh chấp, phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, duy trì hòa bình, ổn định khu vực và tôn trọng luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS).

Với Philippines, mặc dù nước này đang bị chỉ trích về chính sách thắt chặt quan hệ, giao thiệp với Trung Quốc nhưng nước này về bản chất vẫn là một đồng minh của Mỹ và đang thực hiện Hiệp ước đồng minh giữa hai nước. Giới quân sự nước này cũng tiếp tục đa dạng các quan hệ để tìm cách cân bằng quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ để tìm kiếm lợi ích. Cuộc tập trận cũng sẽ giúp chính quyền của Tổng tống R. Duterte giảm sức ép từ dư luận người dân trong nước về việc không chịu bảo vệ chủ quyền trên biển. Cuộc tập trận cũng giúp Philippines tăng cường quan hệ với Ấn Độ để tranh thủ sự ủng hộ của nước này. Mối quan hệ hợp tác biển giữa hai nước đang từng bước được thúc đẩy. Hàng năm, Ấn Độ vẫn tiến hành các cuộc viếng thăm tàu quân sự tới Philippines. Tháng 10/2017, hai tàu

chiến Ấn Độ đã thăm Philippines nhân kỷ niệm 25 năm đối tác đối thoại Ấn Độ – ASEAN và nhấn mạnh mong muốn thắt chắt mối quan hệ hơn nữa mối quan hệ hợp tác trên biển giữa hai nước. Trong Hội nghị Thượng Ấn Độ – ASEAN, Ấn Độ và Philippines đã ký Biên bản ghi nhớ (MoU) về hợp tác và hậu cần quốc phòng. Mục đích của MoU là tạo ra khuôn khổ thúc đẩy và tăng cường hợp tác, tăng cường điều phối giữa Bộ Quốc phòng hai nước nhằm hợp tác chung về dịch vụ và hỗ trợ hậu cần, và về phát triển, sản xuất, mua sắm thiết bị quốc phòng. Trong vụ kiện giữa Philippines – Trung Quốc ở Biển Đông năm 2016, Ấn Độ cũng đã thể hiện sự ủng hộ đối với Phán quyết khi “ghi nhận” và “kêu gọi tất cả các bên thể hiện tinh thần tuân thủ tuyệt đối UNCLOS”.

Phản ứng từ các nước khu vực

Phản ứng về hoạt động của các nước, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng hôm nay cho biết Việt Nam cho rằng tất cả các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng hải, hàng không, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS). Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa theo quy định của luật pháp quốc tế. Việt Nam tôn trọng hoạt động tự do hàng hải và hoan nghênh các hành động đóng góp cho hòa bình, an ninh khu vực của các quốc gia trên Biển Đông”.

http://biendong.net/bien-dong/28048-mot-so-diem-dang-chu-y-trong-cuoc-tap-tran-chung-o-bien-dong-lan-dau-tien-giua-my-nhat-ban-an-do-va-philippines.html