Tin Biển Đông – 14/06/2019
Hải Quân Nhật tập phối hợp tác chiến
với Mỹ ở Biển Đông
Trong ba ngày, từ 10-12/06/2019, Hải Quân Nhật Bản đã phái tàu chiến lớn nhất của mình, chiếc trực thăng mẫu hạm JS Izumo, đến Biển Đông tham gia tập trận chung với hàng không mẫu hạm Mỹ USS Ronald Reagan. Đây là cuộc tập trận mới nhất, thuộc loại rầm rộ nhất của Hải Quân Nhật Bản với đồng minh Hoa Kỳ trên vùng biển mà Trung Quốc tự nhận là có chủ quyền và đang áp đặt quyền khống chế.
Chuyên san Nhật Bản The Diplomat ngày 12/06 đã lồng sự kiện này trong một chuỗi cuộc tập trận của Nhật Bản nhằm tăng cường khả năng hợp đồng tác chiến với Hải Quân Mỹ, đặc biệt là tại địa bàn nóng hiện nay là Biển Đông.
Theo thông cáo ngày 11/06 của bộ phận thông tin của hàng không mẫu hạm Mỹ USS Ronald Reagan, tham gia tập trận cùng với tàu sân bay Mỹ, ngoài chiếc Izumo, Hải Quân Nhật Bản còn cử thêm hai khu trục hạm khác JS Murasame (DD-101) and JS Akebono (DD-108). The Diplomat còn trích dẫn Hạm Đội 7 của Mỹ cho biết thêm là có 5 phi cơ quân sự cũng tham gia đợt thao diễn.
Nhât báo Japan Times, trong bài viết về cuộc tập trận, cho biết là trong số các bài tập, có những nội dung rèn luyện kỹ năng hợp đồng chiến đấu cả trên biển lẫn trên không.
Mỹ Nhật tập trận để dự phòng Trung Quốc
Cuộc tập trận hải quân chung Mỹ-Nhật tại Biển Đông lần này đã nối tiếp theo một loạt những cuộc tập trận song phương Mỹ-Nhật, cũng như là đa phương có sự tham gia tích cực của hai nước. Trong bối cảnh đó, theo báo Japan Times, có rất nhiều khả năng là Bắc Kinh xem đó là những động thái chống lại Trung Quốc, đang muốn mở rộng tầm hoạt động của họ cả Biển Đông lẫn Thái Bình Dương.
Như một sự trùng hợp, Hải Quân Mỹ-Nhật đã khởi động cuộc tập trận ở Biển Đông đúng vào thời điểm Trung Quốc cho tàu sân bay duy nhất đang hoạt động của họ là chiếc Liêu Ninh băng qua Eo biển Miyako, nằm giữa đảo Miyako và đảo chính Okinawa của Nhật Bản để ra Thái Bình Dương.
Bên cạnh đó, Japan Times nhắc lại rằng, để mở rộng tầm khống chế của mình, Trung Quốc cũng đã cho xây dựng một loạt tiền đồn quân sự ở Biển Đông, trong đó có những hòn đảo nhỏ bên trên có sân bay dùng được vào mục tiêu quân sự và các loại vũ khí tiên tiến.
Trung Quốc tuyên bố là những công trình đó chỉ nhằm mục tiêu phòng thủ, nhưng một số chuyên gia thì thấy rằng đó là những cơ sở nhằm phục vụ mục tiêu khống chế vùng biển trong thực tế, bất chấp việc các láng giềng của Trung Quốc như Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Đài Loan đều có tuyên bố chủ quyền trong khu vực, trong lúc Hải Quân các nước Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và một số quốc gia Đông Nam Á khác đều thường xuyên hoạt động tại nơi này.
Dấn thân vào Biển Đông: Mỹ số một, Nhật Bản số hai
Ngay sau Mỹ, Nhật Bản đang nổi lên là một quốc gia ngoài vùng Biển Đông đang tích cực can dự vào việc bảo vệ quyền tự do hàng hải trong khu vực, dù không có tranh chấp lãnh thổ nào ở trong vùng.
Quyết tâm của Nhật Bản phản ánh trước hết qua việc tăng cường sự hiện diện ở Biển Đông về mặt quân sự. Chỉ tính riêng trong năm 2019 này, chiến hạm Nhật Bản đã tham gia hàng loạt cuộc tập trận song phương và đa phương với các đồng minh và đối tác.
Theo ghi nhận của The Diplomat, từ 02-08/05/2019, trực thăng mẫu hạm Izumo và khu trục hạm Murasame của Nhật đã tham gia một cuộc diễn tập hải quân đa phương cùng với các chiến hạm Mỹ, Philippines và Ấn Độ tại Biển Đông, trong một sự kiện được đánh gia là “có ý nghĩa nhất” trong thời gian gần đây.
Ngay sau đó, hai tàu chiến Nhật Bản đã tiếp tục tiến xuống phía nam Biển Đông, thao diễn chung với khu trục hạm Mỹ USS William P. Lawrence, tại eo biển Malacca, cửa ngõ từ Ấn Độ Dương đi vào Biển Đông.
Tần suất tập trận chung Mỹ Nhật tại Biển Đông ngày càng tăng
Từ cuộc tập trận song phương Mỹ Nhật đầu tiên tại Biển Đông vào năm 2015 đến nay, tần suất các cuộc thao diễn chung giữa hai quốc gia đồng minh ngày càng tăng, song song với các mối lo ngại ngày càng nhiều về các hoạt động của Trung Quốc ở vùng biển tranh chấp.
Hoa Kỳ dĩ nhiên là nước năng động nhất, nhưng Nhật Bản cũng ngày càng dấn thân sâu hơn vào khu vực, ngày càng phái càng nhiều tàu chiến của mình tham gia các cuộc tập trận song phương và đa phương trên khắp khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.
Riêng tại Biển Đông, theo ghi nhận của The Diplomat, dù không theo chân Washington tham gia hay tự mình thực hiện các chiến dịch tuần tra bảo vệ quyền tự do hàng hải, Tokyo thường xuyên cho chiến hạm của mình tháp tùng theo và tập trận với Hải Quân Hoa Kỳ.
Từ đầu năm đến nay, các hoạt động của Nhật cũng mở rộng thêm ra toàn vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, với hàng loạt những cuộc tập trận và thao diễn với Ấn Độ.
Izumo sẽ lại ghé cảng Việt Nam
Sắp tới đây, hoạt động của Hải Quân Nhật tại Biển Đông nói riêng, và tại Ấn Độ-Thái Bình Dương nói chung sẽ được tăng cường thêm, với chiến dịch triển khai thường niên của trực thăng mẫu hạm Izumo và khu trục hạm Murasame đã bắt đầu từ ngày 30 tháng 4 và sẽ kéo dài cho đến 10 tháng Bảy.
Trong khuôn khổ chiến dịch triển khai này, một thông cáo của Hải Quân Nhật Bản ngày 05/06 cho biết là tàu Izumo sẽ ghé cảng Việt Nam trong tháng này, thời điểm và cảng ghé thăm chưa được xác đinh rõ, nhưng giới quan sát cho rằng Izumo sẽ ghé Cam Ranh.
Một chi tiết đáng chú ý là sự hiện diên hầu như thường xuyên của trực thăng mẫu hạm Izumo trong các cuộc tập trận, một mình hay kèm theo hải đội tác chiến bao gồm hai khu trục hạm Murasame và Akebone, cùng với năm phi cơ quân sự.
Luyện cách dùng tàu sân bay và phối hợp với đồng minh
Theo giới quan sát, từ khi chính phủ Nhật Bản quyết định bật đèn xanh cho việc biến hai chiếc tàu chở trực thăng Izumo và Kaga thành hàng không mẫu hạm thực thụ, chở theo các chiến đấu cơ hiện đại F-35B có khả năng cất cánh lên thẳng, việc tập huấn cho thủy thủ đoàn của các chiếc tàu sân bay tương lai của Nhật đã trở thành cấp bách.
Điều đó giải thích lý do vì sao trong thời gian gần đây, chiếc Izumo liên tiếp được tung vào những hoạt động chung với Hải Quân Hoa Kỳ, rèn luyện kỹ năng tương tác với các chiến hạm tháp tùng cũng như là với các hàng không mẫu hạm của đồng minh Hoa Kỳ.
Bên cạnh đó, Hải Quân Nhật Bản cũng đẩy mạnh những hoạt động hợp tác với các nước khác như Việt Nam, Philippines, Ấn Độ, Pháp, Úc để tạo tiền đề cho việc phối hợp khi cần thiết.
Ba năm sau phán quyết của Tòa Trọng tài:
TQ đã làm gì trên Biển Đông
Ba năm sau khi Tòa Trọng tài Liên hợp quốc theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển (UNCLOS) ra phán quyết quan trọng, mang tính lịch sử liên quan vụ kiện Trung Quốc của Philippines về Biển Đông, Trung Quốc tiếp tục không thực thi phán quyết của Tòa, vẫn ngang nhiên đẩy mạnh các hoạt động phi pháp trên biển.
Phán quyết của Tòa đã bị Trung Quốc xem thường và không thực thi
Trong ba năm qua, lập trường, quan điểm, yêu sách và các hành động của Trung Quốc vẫn bộc lộ rõ những âm mưu độc chiếm Biển Đông. Bắc Kinh vẫn tiến hành các hoạt động bồi đắp, xây dựng và quân sự hóa trên 7 đá mà nước này đang chiếm đóng trái phép trên quần đảo Trường Sa (của Việt Nam), gồm: đá Gaven, đá Tư nghĩa, đá Gạc Ma, đá Châu Viên, đá Chữ Thập, đá Subi và đá Vành khăn. Trung Quốc vẫn ngang nhiên áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá trên Biển Đông, trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến khu vực biển nằm giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực vịnh Bắc Bộ, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và bãi cạn Scarborough; tiến hành ngăn chặn, bắt giữ, xua đuổi (phi pháp) ngư dân Việt Nam cũng như ngư dân các nước đánh bắt hải sản hợp pháp ở Biển Đông. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tích cực thúc đẩy các dự án thăm dò, khảo sát và tìm cách khai thác trái phép các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế của các nước ven Biển Đông…
Nhìn chung, Trung Quốc đang triển khai đồng bộ các hoạt động phi pháp trên Biển Đông theo những hướng sau: (1) Mở rộng các hoạt động xây dựng trên các đá, bãi cạn ở quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa, nhằm tăng cường khả năng kiểm soát Biển Đông một cách tổng thể. (2) Lợi dụng những bước đột phá về mặt khoa học kỹ thuật, Bắc Kinh triển khai hàng loạt những dự án để tăng cường giám sát, khai thác kinh tế và hỗ trợ lực lượng quân đội đang đồn trú phi pháp trong khu vực như xây dựng các nhà máy hạt nhân trên các đảo nổi, thành lập một mạng lưới giám sát đối với các tàu hàng hải, phát triển công nghệ mới để tìm và có thể khai thác “băng cháy”. (3) Trung Quốc đã triển khai một chiến dịch tuyên truyền rộng rãi để ngăn cản việc thực hiện phán quyết trọng tài. Các biện pháp mà Trung Quốc đã thực hiện là rất khác nhau, bao gồm việc ban hành chính sách “bốn không”, thông qua các luật và quy định mới như sửa đổi Luật An toàn giao thông hàng hải năm 1984 và củng cố các tuyên bố thông qua học thuyết “Tứ Sa”. (4) Trung Quốc thúc đẩy hợp tác thương mại, kinh tế, viện trợ không hoàn lại… nhằm cải thiện quan hệ và gia tăng ảnh hưởng đối với các nước ASEAN, từ đó Bắc Kinh tìm cách chia rẽ đoàn kết trong ASEAN về vấn đề Biển Đông. (5) Bắc Kinh đang cố gắng sử dụng các cuộc đàm phán của COC để ngăn chặn các nước bên ngoài khu vực tìm cách can thiệp, tăng cường hiện diện ở Biển Đông. (6) Đáng chú ý, gần đây Trung Quốc tiến hành cải cách, cơ cấu lại các lực lượng chấp pháp trên biển để tạo tiền đề pháp lý gia tăng các hoạt động trấn áp (phi pháp) và khẳng định “chủ quyền” trên Biển Đông. Vừa qua, Trung Quốc đã chính thức vũ trang hóa lực lượng Cảnh sát biển bằng cách đặt lực lượng này dưới sự chỉ huy trực tiếp của Quân ủy Trung ương Trung Quốc và trang bị súng cho các tàu chấp pháp.
Về hoạt động núp bóng dân sự của Trung Quốc trên đảo Phú Lâm: (1) Đẩy mạnh hoàn thiện và đưa vào vận hành hệ thống liên lạc giữa đảo với đất liền. Ngày 07/9/2015, Công ty điện thoại di động Hải Nam thuộc Tập đoàn viễn thông di động China Mobile tuyên bố đã hoàn tất lắp ráp kỹ thuật và bắt đầu sử dụng trạm phát sóng cung cấp dịch vụ sóng điện thoại di động 4G tại đảo Linh Côn thuộc quần đảo Hoàng Sa. Nhờ dịch vụ này, sóng điện thoại di động 4G được bao phủ 07 đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa gồm đảo Phú Lâm, đảo Quang Ảnh, đảo Cây, đảo Hoàng Sa, đảo Tri Tôn, đảo Quang Hòa và đảo Linh Côn. Trước đó vào tháng 3/2015, Trung Quốc cũng tuyên bố đã thiết lập kỹ thuật và phủ sóng 4G tại bãi đá Chữ Thập và đá Subi thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đến ngày 23/7/2018, Cục quản lý Bưu chính tỉnh Hải Nam ngang nhiên tuyên bố chính thức khai trương dịch vụ chuyển phát nhanh tới “thành phố Tam Sa” qua đường hàng không và dự kiến sẽ nâng tần suất vận chuyển hàng hóa đến đảo Phú Lâm từ 01 chuyến bay/tuần lên ít nhất 01 chuyến bay/ngày. (2) Tích cực tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao. Ngày 30/7/2018, Trung Quốc tiếp tục cho khai
trương “Thư viện số Trung Quốc chi nhánh Tam Sa” tại đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa, trong đó áp dụng các công nghệ hiện đại nhất hiện nay như Big Data, Cloud… để lưu trữ khoảng 200.000 bản tài liệu số hóa âm thanh và hình ảnh. Trung Quốc cũng đã tổ chức cuộc đua thuyền buồm cúp Ty Nam lần thứ 5 ở quần đảo Hoàng Sa, thành lập văn phòng Cục Kiểm dịch kiểm nghiệm xuất nhập cảnh Hải Nam trên đảo Phú Lâm. Ngoài ra, theo truyền hình Trung Quốc (CCTV) đưa tin, rạp chiếu phim mang tên Ngân Long trên đảo Phú Lâm. (3) Vận hành trái phép mạng lưới điện cỡ nhỏ. Theo Asia Times, Trung Quốc đã vận hành trái phép mạng lưới điện thông minh cỡ nhỏ đầu tiên trên đảo Phú Lâm. Các bản tin của Tân Hoa Xã và Nhân dân Nhật báo ngang nhiên đưa tin rằng mạng lưới này sẽ cung cấp điện cho các cơ sở quân sự mà Trung Quốc xây dựng phi pháp trên các hòn đảo mà nước này tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Theo Tân Hoa Xã, mạng lưới điện phi pháp này sẽ giúp tăng khả năng cung cấp điện trên đảo thêm 08 lần, đồng thời có thể kết nối với mạng lưới điện chính trên đảo Hải Nam nhằm đáp ứng các nhu cầu về quân sự và dân sự. Báo Trung Quốc thậm chí còn đưa tin mạng lưới điện trên đảo Phú Lâm có thể được phát triển thành trung tâm kiểm soát nhằm quản lý các mạng lưới điện khác trên các đảo lân cận. (4) Triển khai các chuyến bay “dân sự”. Từ năm 2016, Trung Quốc đã kheo khoang nước này sẽ tiến hành các chuyến bay dân sự đến và đi từ đảo Phú Lâm. Hãng Reuters dẫn nguồn báo chí Trung Quốc cho biết, những chuyến bay sẽ đến cái gọi là thành phố Tam Sa (mà Bắc Kinh đơn phương lập ra trái phép) trên đảo Phú Lâm và máy bay cỡ lớn như Boeing 737 có sức chứa đến 200 người có thể được dùng. Hai tàu chở khách và một tàu cảnh sát biển của TQ đã đóng tại “Tam Sa” để phục vụ cho thông tin liên lạc cơ động tại đây. Người phụ trách “Tam Sa” ngụy biện rằng, sân bay ở đây và một ở Đá Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam sẽ thúc đẩy dịch vụ hàng không trong khu vực.
Về hoạt động quân sự hóa quy mô lớn trên đảo Phú Lâm của Trung Quốc: (1) Các hoạt động mở rộng, xây dựng trái phép. Trung Quốc đã nâng cấp một đường băng dài 3.000 m và một cảng nước sâu dài 1.000 m trên đảo Phú Lâm. Đường băng này có khả năng đón nhận ít nhất tám máy bay thế hệ thứ tư như máy bay chiến đấu SU-30MKK và máy bay ném bom JH-7, trong khi các bến cảng có thể tiếp nhận những tàu có trọng tải từ 5.000 tấn trở lên. Hiện nay cơ sở hạ tầng trên đảo Phú Lâm đã hoàn chỉnh và được tổ chức như một thị xã, nhằm phục vụ mục đích quốc phòng và kinh tế của Trung Quốc trong toàn bộ khu vực Biển Đông Việt Nam. Trên đảo còn có đài kiểm báo, kênh đào và nhiều tiện nghi quân sự khác. (2) Qua các hình ảnh của tổ chức Image Sat International hôm 24/5/2018 cho thấy Trung Quốc đã triển khai 02 bệ phóng tên lửa HQ-9 ra bãi biển phía Bắc đảo Phú Lâm, đặt cạnh các hệ thống radar đe dọa an toàn hàng không khu vực. Tất cả đều được phủ lưới ngụy trang. Hệ thống phòng không HQ-9 có tầm bắn 77 km và có sức đe dọa bất cứ máy bay, cả quân sự và dân sự, hoạt động gần đó. Trước đó (2/2016), nhiều đơn vị HQ-9 cũng đã được Trung Quốc triển khai ra Hoàng Sa. Trung Quốc đặt Bộ chỉ huy toàn thể lực lượng quân trú phòng quần đảo Hoàng Sa trên đảo Phú Lâm. Căn cứ quân sự này kiên cố nhất trên Biển Đông. (3) Tạp chí National Interest của Mỹ đưa tin Trung Quốc đã triển khai trái phép hệ thống tên lửa chống hạm YJ-62 tới đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trước sức ép của dư luận, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi đã phải công khai thừa nhận rằng Trung Quốc đã bố trí tên lửa chống hạm YJ-62 ở đảo Phú Lâm. Như vậy sau hệ thống tên lửa phòng không HQ-9, Trung Quốc lại tiến hành thêm một bước leo thang gây căng thẳng bằng việc mang tên lửa đối hạm tầm xa tới bố trí tại đây. YJ-62 là tên lửa chống hạm tầm xa tốc độ cận âm thế hệ mới do Tập đoàn Khoa học và Công nghiệp Hàng không Vũ trụ Trung Quốc (CASIC) nghiên cứu chế tạo, chính thức được giới thiệu vào năm 2005. Tên lửa có chiều dài 6,1 m; đường kính thân 0,54 m; trọng lượng phóng 1,24 tấn; tầm bắn tối đa 400 km; tốc độ hành trình Mach 0,6 và tên tới Mach 0,8 khi bước vào giai đoạn công kích với độ cao bay 7 – 10 m; mang theo đầu đạn nặng 210 kg. Hệ thống dẫn đường của YJ-62 được kết hợp phương thức bay quán tính với sự tham chiếu qua GPS hoặc Bắc Đẩu trong giai đoạn đầu, đến khi tiếp cận mục tiêu nó sẽ chuyển qua dùng radar chủ động đặt trên tên lửa. Biến thể xuất khẩu của YJ-62 được định danh là C-602 có tầm bắn bị rút ngắn chỉ còn 280 km nhưng trọng lượng đầu đạn được tăng lên 300 kg. Phiên bản tên lửa hành trình tấn công mặt đất CM-602G có đầu đạn lớn nhất, lên tới 400 kg. Trong lực lượng phòng thủ bờ biển, mỗi xe mang phóng tự hành (TEL) mang theo 3 quả
YJ-62, còn trên các khu trục hạm Type 052C/D là 8 quả đặt trong 2 cụm 4 ống phóng xiên bố trí ở giữa tàu. Ngoài ra máy bay ném bom H-6K cũng được trang bị YJ-62. (4) Trung Quốc đã đưa máy bay chiến đấu J-11 đến đảo Phú Lâm. Đây là loại máy bay tiêm kích thế hệ thứ 4, cũng là máy bay chủ lực của không quân TQ và được coi là phiên bản mô phỏng của máy bay Nga Sukhoi Su-27SK. Theo những hình ảnh vệ tinh mới của ImageSat International (ISI) công bố cho thấy, Trung Quốc cũng đã triển khai máy bay không người lái công nghệ tàng hình ra đảo Phú Lâm. cho thấy một máy bay không người lái do thám tầm xa mang tên Harbin BZK-005 có mặt ở đảo Phú Lâm. Máy bay này có thể hoạt động trong 40 giờ. (5) Trung Quốc thường xuyên tổ chức các cuộc tập trận quân sự tại đảo Phú Lâm. Gần đây nhất, vào tháng 5/2018, Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã công bố đoạn video cho thấy máy bay ném bom chiến lược H-6K đã cất hạ cánh từ một trên những hòn đảo ở Biển Đông. Chiếc H-6K này đã tiến hành các cuộc không kích mô phỏng chống lại lực lượng hải quân đối phương giả định. Trước đó, mạng Tin tức Trung Quốc cho biết khoảng 20 tàu thuyền của các cơ quan chức năng biển của Trung Quốc và tàu của ngư dân, binh lính đóng trái phép trên đảo Phú Lâm đã tổ chức diễn tập. Cuộc diễn tập chia làm ba phần, gồm diễn tập biên đội tàu thủy; giả định xử phạt tàu đánh cá Trung Quốc vi phạm qui định đánh bắt ở biển và xử phạt tàu nước ngoài mà Trung Quốc cho rằng xâm phạm vùng biển nước này cho là thuộc chủ quyền của mình; diễn tập các hoạt động cứu hộ khẩn cấp trong trường hợp có người rơi xuống biển. Ngoài ra, theo Tân Hoa xã cho biết tàu tiếp tế giao thông “Tam Sa số 1” đã được đưa đến đảo Phú Lâm. Đây là tàu tiếp tế cỡ lớn do Trung Quốc đóng sau khi tuyên bố thành lập trái phép cái gọi là thành phố Tam Sa hai năm về trước. Chiếc tàu này có thể chở đến 456 người và được trang bị sân bay trực thăng cùng hàng loạt chức năng khác nhằm phục vụ mục đích tiếp tế cho quân và dân Trung Quốc đang đồn trú và cư ngụ trái phép ở các khu vực thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Đáng chú ý, thời gian qua, Trung Quốc lại có hành động khiêu khích luật pháp quốc tế khi tìm cách xây dựng “căn cứ dịch vụ hậu cần trọng điểm quốc gia” tại đảo Phú Lâm, đảo Cây và đảo Duy Mộng, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Theo đó, Thị trưởng của “Tam Sa” Trương Quân nganh nhiên cho biết, Trung Quốc đang lên kế hoạch xây dựng các công trình trọng điểm năm 2019, trong đó có mục tiêu xây dựng căn cứ dịch vụ hậu cần trọng điểm quốc gia” tại đảo Phú Lâm, đảo Cây và đảo Duy Mộng của Việt Nam. Theo Trương Quân, “Tam Sa” cần lên kế hoạch cẩn thận cho sự phát triển chung của các đảo và các rạn san hô dựa trên các chức năng khác nhau của chúng, có tính đến mối quan hệ bổ sung giữa các đảo; nhấn mạnh kế hoạch phát triển sẽ tiếp nối thông qua bài phát biểu của Chủ tịch Tập Cận Bình năm 2018 và một chỉ thị của Chính quyền Trung ương ban hành vào tháng 4/2018 nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đặc khu Hải Nam.
Tại quần đảo Trường Sa, sau khi Trung Quốc hoàn tất quá trình bồi đắp đảo nhân tạo phi pháp trên quần đảo Trường Sa, tổng diện tích bồi đắp các đảo hoàn toàn nhân tạo trên các đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc chiếm đóng phi pháp đã lên tới khoảng 13,21 km2 (tập trung chủ yếu trên 3 đá Vành Khăn, Su Bi và Chữ Thập). Tại đá Chữ Thập, Trung Quốc sử dụng các máy hút bùn, nạo vét các rặng san hô xung quanh, đã tạo ra một hòn đảo nhân tạo dài hơn 3.000 m và rộng từ 200 – 300 m đủ rộng để xây dựng được đầy đủ cả đường băng lẫn bãi đỗ máy bay của một sân bay hoàn chỉnh; xây càu tàu và nhiều công trình quân sự trên đá Chữ Thập. Đến năm 2018, sau khi hoàn tất quá trình bồi đắp đảo nhân tạo trên đá Chữ Thập, thì diện tích đảo nhân tạo này lên tới khoảng 2,77 km2, đứng thứ 3 về diện tích trong các đảo hoàn toàn nhân tạo trên Biển Đông và cũng lớn thứ 4 trong tất cả các đảo nhân tạo lẫn đảo, đá tự nhiên thuộc 2 quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa. Tại đá Su Bi, Trung Quốc bắt đầu cải tạo quy mô lớn đá Xu Bi kể từ tháng 3 năm 2015. Đến ngày 5/2018, diện tích Su Bi đạt khoảng 4,14 km2, xây dựng gần 400 tòa nhà có khả năng là các công trình quân sự, có năng lực phục vụ từ 1.500 – 2.400 binh lính đồn trú. Tại đá Vành Khăn, Trung Quốc đã cải tạo đá này thành đảo nhân tạo có diện tích lên đến 5,66 km2, biến đá này thành đảo nhân tạo có diện tích lớn nhất trên Biển Đông và lớn nhất trong các đảo, đá tự nhiên lẫn nhân tạo tại hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa. Trung Quốc cũng tiến hành cải tạo, bồi đắp đá Châu Viên lên tới khoảng 0,31 km2; đá Gạc Ma lên tới khoảng 0,11 km2; đá Tư Nghĩa lên tới khoảng 0,081 km2; đá Ga Ven lên tới khoảng 0,14 km2.
Trung Quốc cũng liên tục triển khai phi pháp vũ khí tấn công và phương tiện quân sự tới quần đảo Trường Sa. Dựa vào các hình ảnh vệ tinh chụp được cho biết Trung Quốc đã điều tàu hộ vệ trang bị tên lửa hành trình Type 054 ra Đá Chữ Thập ở Trường Sa; triển khai (bất hợp pháp) tên lửa tên lửa hành trình chống hạm YJ-12B và các tên lửa đất đối không tầm xa HQ-9A hoặc HQ-9B trên đá Vành Khăn, đá Su Bi và đá Chữ Thập; âm thầm kích hoạt và thử nghiệm các thiết bị tác chiến điện tử được lắp đặt trên các đá Vành Khăn, Chữ Thập; lắp đặt các thiết bị gây nhiễu thông tin và radar trên các đá Vành Khăn, Chữ Thập; lắp đặt các thiết bị liên lạc và ăng ten cảm biến tại góc phía Đông Bắc đá Chữ Thập; điều máy bay vận tải quân sự Shaanxi Y-8 tới đá Su Bi, máy bay vận tải quân sự Y-7 tới đá Vành Khăn…
Sau ba năm, tình hình căng thẳng ở Biển Đông vẫn tiếp diễn, ô nhiễm môi trường biển ngày càng trầm trọng
Về an ninh hàng hải: Cùng với tần suất các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên thực địa đang ngày càng gia tăng, nhất là việc Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động tập trận bắn đạn thật trên Biển Đông, triển khai vũ khí sát thương trên các thực thể nhân tạo ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã đe dọa nghiêm trọng đến an ninh và tự do hàng hải trong khu vựu.
Về vấn đề môi trường sinh thái: Hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông đã gây ra những hậu quả thảm khốc đối với môi trường sinh thái. Theo tính toán của các chuyên gia, Bắc Kinh xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa và Hoàng Sa đã tàn phá tới 160km2 rạn san hô và phá hủy gần 60km2 san hô vòng ở các khu vực xung quanh. Ông John McManus, Đại học Miami nhận định khoảng 10% diện tích san hô tại quần đảo Trường Sa và 8% diện tích san hô ở Hoàng Sa đã bị xóa sổ hoàn toàn do hoạt động của Trung Quốc gây ra. Bên cạnh đó, hoạt động khai thác hải sản ồ ạt, bất hợp pháp, mang tính hủy diệt của ngư dân Trung Quốc ở các cùng chồng lấn trong khu vực Biển Đông đã gây ra suy giảm hệ sinh thái biển và nguy cơ tuyệt chủng nhiều loài sinh vật. Theo tài liệu của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington D.C. (Mỹ) công bố tháng 9/2017, tổng lượng cá ở Biển Đông đã suy giảm khoảng 70-95% kể từ những năm 1950 và tỷ lệ đánh bắt đã giảm 66-75% trong 20 năm qua; hiện ở Biển Đông có thể chỉ còn 5% lượng cá so với thập niên 1950 và quá trình phục hồi các nguồn cá ở Biển Đông hiện nay rất thấp.
Ngoài ra, cùng với việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo và đưa lượng lớn binh lính ra đồn trú phi pháp ở Biển Đông cũng gián tiếp tác động, phá hủy môi trường sinh thái. Theo đánh giá của các chuyên gia, trong quá trình Trung Quốc đưa quân ra đồn trú, sinh hoạt đã thải các kim loại nặng, chất ô nhiễm hữu cơ bền (POPs) và nước thải có thể chứa các kim loại nặng hoặc chất ô nhiễm hữu cơ bền trực tiếp ra biển mà không được xử lý gây những tác động rất nghiêm trọng tới môi trường và các hệ sinh thái biển. Không những vậy, việc xây dựng các công trình phi pháp ở Trường Sa và Hoàng Sa của Trung Quốc cũng làm thay đổi trường sóng và dòng chảy tại các khu vực biển gần bờ, tác động xấu tới hệ sinh thái biển cũng như làm thay đổi điều kiện đáy biển và cán cân bùn cát, trực tiếp phá hủy hệ sinh thái biển.
Philippines kiện Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ra Tòa án quốc tế
Cựu Ngoại trưởng Albert del Rosario và bà Conchita Carpio Morales, nguyên là lãnh đạo cơ quan chống tham nhũng của Philippines (3/2019) đã đệ đơn kiện Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ra trước Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), đề nghị Tòa truy tố ông Tập Cận Bình về tội ác chống nhân loại do những hành động “tàn bạo” của Bắc Kinh ở Biển Đông và trong lãnh hải Philippines.
Theo đó, ông Albert del Rosario và bà Conchita Carpio Morales đã đệ đơn kiện nhân danh người dân Philippines và nhân danh hàng trăm ngàn ngư dân Philippines “bị bách hại” do việc Trung Quốc xây các đảo nhân tạo và chiếm đóng các đảo vùng Biển Tây Philippines (Biển Đông). Trong đơn kiện, ông del Rosario và bà Morales cho biết: “Với việc thực hiện kế hoạch chiếm Biển Đông một cách có hệ thống, chủ tịch Tập Cận Bình và các quan chức khác của Trung Quốc đã phạm các tội ác nằm trong thẩm quyền xét xử của Tòa, đó là gây những tác hại nặng nề, thường xuyên và hàng loạt đối với môi trường của các quốc gia trong khu vực, không chỉ gây tổn hại cho các ngư dân, mà còn cho cả thế hệ hiện nay và thế hệ tương lai của các nước”
Ông Del Rosario và bà Conchita Carpio Morales cũng nhấn mạnh rằng các hoạt động của Bắc Kinh trong tuyến đường thủy bị tranh cãi làm suy yếu an ninh lương thực và năng lượng của các quốc gia ven biển ở Biển Đông, trong đó có Philippines, cho rằng điều này thuộc thẩm quyền của ICC vì Quy chế Rome tuyên bố rằng “các tội phạm nghiêm trọng nhất đối với cộng đồng quốc tế nói chung không được bỏ qua và phải đảm bảo việc truy tố hiệu quả của họ”. Ông Del Rosario và bà Conchita Carpio Morales cũng kêu gọi ICC tiến hành kiểm tra sơ bộ để “xuất hiện các tội ác của Trung Quốc không chỉ chống lại người dân Philippines, mà còn chống lại người dân của các quốc gia khác, mà tội phạm đã được cộng đồng quốc tế biết đến”. Được biết, ông Del Rosario đã nhiều lần kêu gọi chính phủ Philippines nộp đơn khiếu nại chống lại sự xâm lược của Bắc Kinh ở Biển Đông, một phần trong đó là Biển Tây Philippines. Đơn kiện của hai cựu quan chức Philippines nêu rõ Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và các quan chức khác của Trung Quốc đã phạm các tội ác chống nhân loại như thế nào, trong đó có lời khai của các ngư dân Philippines, bị mất phương tiện sinh sống do các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông.
Cộng đồng quốc tế hợp lực đối phó với Trung Quốc
Mỹ thường xuyên đưa ra các tuyên bố chính thức (Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng…) phản đối các hoạt động phi pháp của Trung Quốc; triển khai nhiều kế hoạch tuần tra đảm bảo tự do hàng hải, hàng không trong khu vực; cử tàu sân bay, tàu chiến, máy bay trinh sát, máy bay ném bom B-52 áp sát khu vực 12 hải lý xung quanh các đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Trường Sa và một số đảo, đá ở Hoàng Sa; tăng cường phối hợp với các nước trong khu vực tiến hành tập trận, giao lưu hải quân nhằm nâng cao năng lực tác chiến, khả năng sẵn sàng chiến đấu, ứng phó với những tình huống bất ngờ có thể xảy ra trên biển; tích cực triển khai chính sách viện trợ kinh tế, vũ khí (tàu chiến, máy bay, súng…) cho một số nước trong khu vực, như Philippines, Indonesia, Singapore, Việt Nam, Malaysia…, nhằm hỗ trợ những nước này nâng cao năng lực tuần tra, giám sát và bảo vệ hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông. Ngoài ra, các cơ quan luật pháp của Mỹ đã đưa ra nhiều dự luật kêu gọi trừng phạt những hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Cụ thể:
Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ (6/5) đã điều hai tàu khu trục trang bị tên lửa dẫn đường USS Preble và USS Chung Hoon tuần tra tự do hàng hải trong phạm vi 12 hải lý quanh Đá Gaven và Đá Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trước đó, ngày 07/1, Hải quân Mỹ đã cử tàu khu trục trang bị tên lửa hành trình lớp Arleigh Burke USS McCampell tuần tra đảm bảo tự do hàng hải (FONOPS) trong khu vực 12 hải lý quanh đảo Cây, Lincoln và Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam nhằm thể hiện thái độ cứng rắn và quyết tâm chống lại các tuyên bố chủ quyền phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông, cũng như đáp trả các tuyên bố khiêu khích mới đây của Trung Quốc. Người phát ngôn Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ Rachel McMarr (07/1) cho biết, hoạt động tuần tra trên nhằm thách thức các tuyên bố chủ quyền phi lý của Bắc Kinh và “bảo vệ quyền tiếp cận những tuyến đường hàng hải trong khuôn khổ luật pháp quốc tế”; cho biết “các lực lượng của Mỹ hoạt động trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương một cách thường xuyên, trong đó có Biển Đông và mọi chiến dịch đều được thực hiện đúng với luật pháp quốc tế, thể hiện quyết tâm của Mỹ hoạt động tại vùng trời, vùng biển và bất kỳ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép. Điều này được áp dụng với Biển Đông và nhiều nơi khác trên thế giới”. Ngày 11/2, Hạm đội 7 đã cử hai tầu khu trục hạm có gắn tên lửa hành trình USS Spruance và USS Preble tuần tra vùng 12 hải lý bãi đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hiện đang bị Trung Quốc chiếm giữ, bồi đắp phi pháp thành đảo nhân tạo. Ngôn phát ngôn Hạm đội 7 Mỹ Trung tá Clay Doss cho biết, hoạt động của hai tàu khu trục trên tuân thủ luật pháp quốc tế nhằm đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông và thách thức những tuyên bố quá đáng về chủ quyền trên biển của Trung Quốc; nhấn mạnh “tất cả các hoạt động này đều tuân thủ luật pháp quốc tế và chứng thực rằng Mỹ sẽ bay, dong buồm và hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép không chỉ ở Biển Đông mà còn ở các nơi khác trên toàn cầu”.
Về dự luật trừng phạt Trung Quốc, Thượng nghị sĩ Cộng hòa Marco Rubio và Thượng nghị sĩ Dân chủ Benjamin Cardin cho biết, Dự thảo luật của lưỡng đảng đã củng cố thêm nỗ lực của Mỹ và các đồng minh trong việc đối phó với hoạt động quân sự hóa trái phép và nguy hiểm của Trung Quốc tại các khu vực tranh chấp mà nước này đang chiếm đóng trên Biển Đông. Dự thảo luật này tái khẳng định cam kết của Mỹ trong việc duy trì khu vực (Biển Đông
và Hoa Đông) cởi mở và tự do đối với tất cả các nước, đồng thời buộc chính phủ Trung Quốc phải chịu trách nhiệm vì hành vi gây hấn và cưỡng ép trong khu vực. Việc giới thiệu lại dự luật này được lưỡng đảng Mỹ tại Thượng viện và Hạ viện đánh giá là “rất đúng lúc” trong bối cảnh các hoạt động của hải quân Mỹ tại Biển Đông và Biển Hoa Đông thời gian gần đây với nhiệm vụ thực thi “ các hoạt động tự do hàng hải” tại khu vực này nhưng luôn vấp phải sự phản đối mạnh mẽ từ phía Trung Quốc và trong một số trường hợp đã có xảy ra một số vụ chạm trán với hải quân Trung Quốc. Được biết, Dự luật trên từng được giới thiệu hồi năm 2017, tuy nhiên chưa được chuyển từ Ủy ban Đối ngoại Thượng viện lên Thượng viện. Theo quy định của Mỹ, Thượng viện và Hạ viện Mỹ phải thông qua Dự luật này trước khi chuyển lên Tổng thống Mỹ ký thành luật chính thức. Dự luật hiện tại nhận được sự ủng hộ từ 13 thượng nghị sĩ Dân chủ và Cộng hòa, nhiều hơn hẳn so với số lượng ủng hộ hồi năm 2017. Đây có thể là dấu hiệu cho thấy sự gia tăng trong lập trường phản đối Trung Quốc tại Quốc hội Mỹ.
Trong khi đó, các nước đồng minh của Mỹ (Anh, Pháp, Nhật Bản, Australia…) đều đưa ra những tuyên bố, hành động thể hiện sự đồng thuận và ủng hộ chính sách của Mỹ liên quan vấn đề Biển Đông, nhất là hoạt động tuần tra, đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông và thách thức yêu sách “chủ quyền” phi pháp của Trung Quốc. Một số nước trong khu vực cũng tăng cường sức mạnh quân sự, đặc biệt là đầu tư cho hải quân để nâng cao năng lực phòng thủ và ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Nhìn chung, ba năm sau phán quyết của Tòa Trọng tài, diễn biến tình hình Biển Đông vẫn tiếp tục căng thẳng. Những nội dung mang tính lịch sử của phán quyết đã không được Trung Quốc, một trong năm nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc tuân thủ. Bắc Kinh vẫn dựa trên sức mạnh quân sự và kinh tế để chèn ép, bắt nạn những nước nhỏ trong khu vực, tìm cách củng cố “chủ quyền” ở Biển Đông, bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế và đi ngược lại luật pháp quốc tế.
TQ và âm mưu viện dẫn sai các quy định
luật pháp quốc tế nhằm củng cố yêu sách
“chủ quyền” ở Biển Đông
Để tìm cách độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã, đang cố tình viện dẫn sai các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) một cách có lợi cho Bắc Kinh.
Viện dẫn sai các quy định của UNCLOS
Trung Quốc với sự thèm khát tài nguyên cũng như với sức mạnh của một cường quốc đang trỗi dậy, đã và đang tiến hành những bước đi nhằm hiện thực hóa tham vọng chủ quyền và lãnh thổ của mình. Ngoài các kiểu “sức mạnh cứng” thường thấy từ quân sự, bán quân sự cho đến ngoại giao và kinh tế, Bắc Kinh còn sử dụng các định chế pháp luật như một thứ “quyền lực mềm” nhằm nâng cao tiếng nói cũng như tính “hợp pháp” của mình tại các khu vực tranh chấp.
Một trong những cơ sở chính để Trung Quốc có thể xác định chủ quyền của mình tại các vùng tranh chấp đó chính là khái niệm về “vùng nước lịch sử”. Khái niệm này không được đề cập trong UNCLOS, tuy nhiên nó được xác định thông qua thông lệ cũng như tập quán quốc tế. Theo đó, “vùng nước lịch sử” có các đặc điểm như sau: “1. Là vùng biển có cấu tạo địa lý đặc biệt, ăn sâu vào đất liền hoặc là một bộ phận gắn liền với lục địa; 2. Ở cách xa đường hàng hải quốc tế; 3. Có ý nghĩa quan trọng đặc biệt về chiến lược, quốc phòng, an ninh, kinh tế,… đối với quốc gia ven biển; 4. Về mặt lịch sử, quốc gia ven biển đã chiếm hữu, khai thác, sử dụng từ lâu đời mà không có nước nào phản đối. Chế độ pháp lý của vùng nước lịch sử là tương đương với chế độ pháp lý của nội thủy”.
Bắc Kinh đã dựa vào Điều 4 ở trên. Theo Phó phòng Chính sách Đối ngoại thuộc Vụ Châu Á của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Zheng Zhenhua thì “những hòn đảo trong khu vực đã có người Trung Quốc sinh sống từ thời Đông Hán (năm 23 tới năm 220 sau Công nguyên)” và
rằng “người Trung Quốc đã thiết lập một kiểu chính phủ “giống với hiện tại” từ thời Tống (năm 420 tới năm 478 sau Công nguyên) “như là một bằng chứng cho chủ quyền không thể chối cãi của Trung Quốc” đối với những khu vực mà nước này yêu sách tại biển Đông. “Các quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi Nam Sa) đã nằm dưới quyền tài phán của khu vực hành chính mà nay thành tỉnh Quảng Đông”. Về chi tiết “không có nước nào phản đối”, Bắc Kinh cho rằng từ năm 1947 và qua suốt những năm của thập niên 1960, không có quốc gia nào, bao gồm cả Hoa Kỳ, “từng nêu câu hỏi hoặc nghi ngờ về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Với những luận điệu trên đây, về thực chất Trung Quốc vẫn không có bất cứ một dẫn chứng cụ thể nào để chứng minh cho lập luận của mình, đặc biệt là về dẫn chứng lịch sử. Họ dựa vào những câu nói trong các tác phẩm lịch sử cổ để lại. Tuy nhiên, ngôn từ trong những tác phẩm đó rất mơ hồ và nhiều khi cũng bị làm cho sai lệch về ý nghĩa hay thêm thắt câu chữ, khiến cho người không am hiểu dễ bị lầm tưởng. Về viện dẫn không có nước nào phản đối, trên thực tế, ngày từ Hội nghị San Francisco tháng 9/1951, không một quốc gia tham gia hội nghị nào đồng ý trao trả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc cả và kể từ khi “đường lưỡi bò” được Bắc Kinh đưa ra thì ngay sau đó Việt Nam và một số nước ASEAN như Philippines và Indonesia đều đã gửi công hàm phản đối lên Liên Hiệp Quốc. Điều này trái ngược hoàn toàn với viện dẫn trước đó của Trung Quốc. Ngoài ra, khái niệm “vùng nước lịch sử” cũng hoàn toàn không nằm trong các khái niệm của UNCLOS mà Trung Quốc đã tham gia.
Không chỉ đưa ra các tuyên bố đầy mâu thuẫn và không có cơ sở vững chắc, Trung Quốc còn tận dụng những kẽ hở và sự không rõ ràng trong UNCLOS để tuyên bố chủ quyền của mình. Theo những nội dung quy định trong UNCLOS về lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) mà Việt Nam cũng như các nước khác đã thông qua, nếu các quốc gia khác muốn thực hiện “quyền đi lại không gây hại” trên lãnh hải của quốc gia ven biển thì cần xin phép, còn đối với EEZ thì các quốc gia khác được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, cùng một số quyền hợp pháp khác theo đúng quy định của UNCLOS mà không cần phải xin phép, trừ các hành động không được cho phép theo luật định như khai thác tài nguyên hay nghiên cứu khoa học…
Tuy nhiên, trong tham vọng bành trướng của mình, Trung Quốc đã cố tình yêu sách về chủ quyền với EEZ như đối với lãnh hải. Cụ thể, Trung Quốc đã tước đi quyền tự do hàng hải của các quốc gia khác trên vùng đặc quyền kinh tế rộng 880.000 km2 của nước này khi tuyên bố các quốc gia khác cần phải xin phép Trung Quốc để được thực hiện “quyền tự do hàng hải” qua vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Đây là hành động vi phạm các điều luật của UNCLOS một cách nghiêm trọng và là nguyên nhân của vụ va chạm giữa tàu Impeccable của Mỹ và tàu Trung Quốc vào năm 2009.
Trong khi yêu sách về chủ quyền với EEZ đã xâm phạm tới quyền tự do hàng hải của các nước khác thì việc Trung Quốc cố tình diễn giải sai lệch về chế độ các đảo lại đe dọa cướp đi các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của các quốc gia khác tại biển Đông. Cùng với việc tuyên bố chủ quyền với các đảo và quần đảo trong “vùng nước lịch sử”, Trung Quốc còn yêu sách cho tất cả đảo, đá và quần đảo của mình có đầy đủ chế độ của lãnh thổ đất liền.
Theo đó, tất cả đảo, đá và quần đảo của Trung Quốc đều có lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế EEZ mà không phân biệt đảo, đá đó phù hợp quy định chế độ đảo của UNCLOS hay không. Theo UNCLOS, chỉ những đảo phù hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng mới được hưởng chế độ pháp lý của đảo như lãnh thổ đất liền. Còn về quần đảo thì UNCLOS không diễn giải. Nhưng điểm đáng lo ngại ở đây là nếu trong vùng đặc quyền kinh tế của các đảo đó có một đảo khác thì đảo này sẽ thuộc chủ quyền của Trung Quốc và lại tiếp tục được hưởng chế độ pháp lý đảo như lãnh thổ đất liền. Việc “nối chủ quyền” này đã dẫn tới kết quả là không chỉ những đảo của các nước khác nằm trong khu vực 200 hải lý xung quanh các đảo của Trung Quốc sẽ bị Trung Quốc coi là đảo của mình một cách trắng trợn, hơn thế nữa ranh giới “đường lưỡi bò” cũng sẽ được mở rộng hơn 80% Biển Đông và thậm chí chỉ cách một số bờ biển của các nước Philippines, Việt Nam… vài chục km.
Cùng với yêu sách chủ quyền trên EEZ như ở trên thì sau này, nếu Trung Quốc chiếm được Biển Đông thì các yêu sách này sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho các nước khác. Lúc đó, bất cứ một quốc gia nào đi qua biển Đông sẽ phải xin phép Trung Quốc và biết đâu, với tham vọng vô bờ bến của mình, Trung Quốc sẽ còn thu phí hàng hải trên biển Đông. Không chỉ dừng lại ở đó, nếu Trung Quốc và các nước trong khu vực xung đột thì thậm chí Trung Quốc có thể cấm các nước này lưu thông qua EEZ của mình và biển Đông sẽ bị khóa chặt. Các tuyến giao thông hàng hải của Việt Nam và các nước khác qua biển Đông sẽ phải đóng cửa và thậm chí là cả đường hàng không.
Trung Quốc có thể diễn giải sai lệch về chế độ các đảo là do Điều 121 của UNCLOS chỉ quy định về đảo chứ không có quy định về quần đảo. Thứ hai là do sự thiếu thống nhất của các nước về việc xác định thế nào là bãi đá và thế nào là đảo. Có thể thấy rằng có nhiều điểm mâu thuẫn giữa chính luật nội địa của Trung Quốc và luật pháp quốc tế, cũng như giữa những tuyên bố và hành động của Bắc Kinh.
Việc Trung Quốc cản trở các hoạt động hàng hải, hàng không quốc tế trong phạm vi 12 hải lý xung quanh các bãi đá nửa nổi nửa chìm hoặc chìm hoàn toàn dưới mặt nước biển khi thủy triều lên mà họ bồi lấp thành đảo nhân tạo (bất hợp pháp) ở Trường Sa đang vi phạm các quy chế dành cho các thực thể, cấu tạo trên biển theo Phần III của UNCLOS bởi các cấu trúc này không được hưởng bất cứ quy chế nào về các vùng biển. Theo đó, Trung Quốc đã vi phạm các Khoản 3, Khoản 5, Khoản 7, Khoản 8 thuộc Điều 60 của UNCLOS quy định đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của quốc gia ven biển trong việc tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng các công trình trên biển.
Trung Quốc cũng đã phớt lờ Điều 123 UNCLOS về trách nhiệm của các quốc gia ven biển hợp tác với nhau trong việc sử dụng các quyền và thực hiện nghĩa vụ của họ. Ba là, Trung Quốc vi phạm Điều 129, Điều 193, Điều 196 UNCLOS về nghĩa vụ chung cho tất cả các quốc gia trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Trung Quốc còn vi phạm Điều 208 UNCLOS về ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển.
Sự ngụy biện nguy hiểm của giới học giả Trung Quốc
Những năm gần đây Mỹ, Nhật Bản cùng với các nước ven Biển Đông như Philippines, Việt Nam và Malaysia đã nhiều lần tuyên bố “phải căn cứ theo luật quốc tế, trong đó có “Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển” (UNCLOS) để giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông”; “Trung Quốc phải tuân thủ quy tắc luật quốc tế”, “đường đứt đoạn theo chủ trương của Trung Quốc không phù hợp với UNCLOS”, thậm chí có một số người gọi là học giả còn đề xuất “phải lấy UNCLOS làm căn cứ để giải quyết vấn đề Biển Đông”. Những cách nói như trên thoạt nghe có vẻ khác nhau nhưng trên thực tế dụng ý và mục đích là như nhau, đó là chỉ trích chủ trương của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông là không phù hợp với luật quốc tế, yêu cầu Trung Quốc từ bỏ yêu sách chủ quyền ở Biển Đông.
Giới chuyên gia, học giả Trung Quốc cho rằng không thể dùng UNCLOS để chứng minh chủ quyền lãnh thổ hoặc giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ; cho rằng nhận định vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ hoặc giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ phải căn cứ theo các quy tắc và nguyên tắc trong luật quốc tế ở rất nhiều phương diện chứ tuyệt đối không phải quy định trong một công ước nào đó. Đây là một kiến thức thông thường hết sức rõ ràng trong lý luận và thực tiễn về luật pháp quốc tế. Căn cứ luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp lãnh thổ ít nhất bao gồm những quy tắc và nguyên tắc theo luật quốc tế như quy tắc có được lãnh thổ, quy tắc xác định thời gian, quy tắc xác định ngày tháng then chốt, quy tắc không truy ngược quá khứ, nguyên tắc cấm phản ngôn và quy tắc quyền lợi mang tính lịch sử.
Một điều hết sức cần thiết phải chỉ rõ là những quy tắc nói trên đều không phải là quy định trong UNCLOS. Xét từ quy định trong bản thân UNCLOS thì trong Lời nói đầu của Công ước đã chỉ rõ là “trong điều kiện tính đến chủ quyền của tất cả các nước, xây dựng một trật tự pháp luật về biển…”. Như vậy có nghĩa là trật tự biển được xây dựng theo yêu cầu của công ước nói trên là xuất phát từ một tiền đề, đó là không thay đổi chủ quyền quốc gia đã có.
Ngoài ra, dù không nói đến lịch sử lâu dài, chỉ cần nói đến tình hình từ khi thành lập nước Trung Quốc mới, ngay từ năm 1958 Trung Quốc đã “quy định cả bốn quần đảo ở Biển Đông với các đảo khác vào trong phạm vi lãnh thổ của Trung Quốc”. Sau đó, trong “Luật lãnh hải và vùng giáp ranh Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” và trong những lần tuyên bố ngoại
giao, Trung Quốc luôn nhấn mạnh “chủ quyền” của mình đối với các đảo Biển Đông, trong đó có quần đảo Trường Sa và đảo Hoàng Nham, hơn nữa đến nay vẫn chưa bao giờ từ bỏ. Trên thực tế, năm 2009 Philippines thông qua Dự luật số 2699 (gọi là “Dự luật về vấn đề liên quan đến điểm cơ bản về lãnh hải”) là hành động “có tật giật mình” của kẻ gian, vì Philippines thấy mình căn bản không có cơ sở pháp luật để chủ trương “quần đảo Kalayaan” và đảo Hoàng Nham thuộc chủ quyền của mình nên mới phải cho ra đời dự luật mới này để lấp đi chỗ khuyết thiếu nghiêm trọng này. Nhưng nếu chiểu theo luật pháp quốc tế thì cách làm luật nói trên của Philippines rõ ràng không có được tính hợp pháp, dự luật nói trên cũng tuyệt đối không thể có hiệu lực. Còn nước bảo hộ của Philippines là nước Mỹ lại không có bất cứ ý kiến bình luận gì đối với việc làm như vậy của Manila.
Không những vậy, một trong những căn cứ của luật quốc tế trong việc phán đoán chủ quyền lãnh thổ là quy tắc thụ đắc lãnh thổ, song quy định này không có trong UNCLOS. Xét từ ý nghĩa lịch sử thì quy tắc thụ đắc lãnh thổ đã bao hàm rất nhiều quy tắc liên quan, bao gồm phát hiện, chiếm trước, chiếm lĩnh hữu hiệu và quản lý hữu hiệu. Nó đòi hỏi phải xuất phát từ nhiều góc độ và phương diện để phán đoán một quốc gia có chủ quyền đối với một phần lãnh thổ nào đó có hợp pháp hay không, mọi việc làm của quốc gia đó có hiệu lực theo luật quốc tế hay không. Từ các thời Tống, Nguyên, Thanh đến nay Trung Quốc đã trải qua nhiều thực tiễn qua các thời kỳ xã hội, qua nhiều triều đại, nhất là các đời chính phủ ở thời kỳ cận đại và hiện đại, đặc biệt bao gồm những thực tiễn về việc “phát hiện, chiếm trước, quản lý hữu hiệu, đã có được chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Biển Đông một cách hữu hiệu”. Mặt khác, việc nhận định chủ trương quyền lợi của các nước ở Biển Đông hoàn toàn không phải chỉ có UNCLOS, mà còn phải dựa vào một quy tắc quan trọng khác trong luật quốc tế là quy tắc xác định thời gian, nghĩa là một hành vi nào đó trong lịch sử chỉ cần phù hợp với luật quốc tế ở thời kỳ lúc đó, thì hành vi đó sẽ là hành vi hợp pháp hữu hiệu. Cùng với quá trình phát triển của những quy tắc liên quan trong luật pháp quốc tế, những hành vi liên quan đến những quy tắc này cũng phải đổi mới và phát triển theo. Hàng trăm năm trước đây người Trung Quốc đã “thông qua các phương thức phát hiện và chiếm hữu để có được quyền lợi sơ bộ đối với các đảo ở Biển Đông mà lúc đó chưa thuộc về bất cứ nước nào”. Sau đó chính phủ qua các nhiệm kỳ đã thông qua các phương thức “đặt tên” cho các đảo và công bố bản đồ tương ứng, “hoạch định” các đảo đó vào khu vực hành chính địa phương, đưa tàu ra tuyên bố chủ quyền và tuần tra, tổ chức và quản lý các hoạt động của xã hội đến Biển Đông đánh bắt cá, đối phó với các “hoạt động xâm phạm chủ quyền” của nước ngoài, xây dựng luật hiện đại, từng bước có được chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Trường Sa. Thực tiễn qua các thời đại ở Trung Quốc không chỉ hoàn toàn phù hợp với quy tắc thu đắc lãnh thổ lúc đó, mà cũng phù hợp với quy định lãnh thổ theo luật quốc tế cận đại và hiện đại. Vì thế, theo quy tắc về xác định thời gian thì việc “Trung Quốc có được chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Biển Đông là hợp pháp, hữu hiệu”.
Ngoài ra, luật quốc tế còn có quy định không truy ngược quá khứ để xác định chủ quyền lãnh thổ của một quốc gia. Ý nghĩa chính của nguyên tắc này là không thể dùng luật pháp của thế hệ sau để phán xét hành vi trước đây hợp pháp hay không hợp pháp. Đơn cử như yêu sách “đường 9 đoạn” của Trung Quốc, trước năm 1949 Chính phủ Quốc dân của Trung Quốc đã chính thức đặt tên và công bố bản đồ kèm theo “đường đứt đoạn” cho các bãi đảo ở Biển Đông, còn thông qua nhiều thực tiễn trên các phương diện về khai thác sử dụng tài nguyên như đưa tàu chiến đến Biển Đông tuyên bố chủ quyền, tổ chức và quản lý nghề cá, nhấn mạnh và củng cố chủ trương về quyền lợi ở Biển Đông. Sau năm 1949, Chính phủ Trung Quốc cũng kế thừa chủ trương của Chính phủ Quốc dân, vẫn tiếp tục đánh dấu “đường đứt đoạn” ở Biển Đông trên bản đồ chính thức của nhà nước, đồng thời cũng thông qua thực tiễn trong nhiều phương diện về lập pháp để nhấn mạnh và củng cố chủ trương về quyền lợi ở Biển Đông. Xét từ phương diện tài nguyên hiện hữu, nếu tính từ năm 1914 khi đường “đứt đoạn” ở Biển Đông bắt đầu xuất hiện thì “đường đứt đoạn” này đến nay đã được 104 năm, sớm hơn UNCLOS 84 năm, hoặc nếu chỉ tính từ khi Chính phủ Trung Quốc chính thức công bố năm 1947 thì đến nay cũng đã được 71 năm, sớm hơn thời gian có hiệu lực của UNCLOS 51 năm! Hơn nữa, “đường đứt đoạn” ở Biển Đông còn đề cập đến vấn đề về luật quốc tế khác phức tạp như quyền lợi mang tính lịch sử, vượt xa cả những nội dung được quy định trong UNCLOS. Vì thế tính hợp pháp của “đường đứt đoạn” ở Biển Đông tuyệt đối không đơn giản sử dụng UNCLOS để phán đoán và phủ nhận. Nói “Đường đứt đoạn ở Nam Hải của Trung Quốc không phù hợp với UNCLOS thì bản thân cách nói đó rõ ràng đã thiếu căn cứ theo luật pháp quốc tế, là hết sức sai lầm”.
Nhìn chung, một bộ phận giới chuyên gia, học giả và truyền thông Trung Quốc cho rằng một số nước “không ngừng nhào nặn hoặc chỉ trích vấn đề mang tính hợp pháp trong chủ trương về quyền lợi ở Biển Đông của Trung Quốc”, kỳ thực là những biểu hiện giật mình vì chột dạ, dụng ý của họ là nhằm đẩy lệch góc nhìn, chuyển dịch tiêu điểm mâu thuẫn, nhưng làm như vậy vừa “không thể làm thay đổi được tính chất phi pháp trong yêu sách chủ quyền Biển Đông của họ, cũng vừa không thể phủ nhận được tính hợp pháp trong chủ trương của Trung Quốc”. Trong khi đó lập trường không nói và ít nói mà Trung Quốc áp dụng cũng tuyệt đối không có nghĩa là không có cơ sở pháp luật và căn cứ lịch sử. Tuy nhiên, để làm cho những người quan tâm một cách khách quan và thực lòng vấn đề Biển Đông có thể hiểu được tình hình chân thực và chuẩn xác, thay đổi và đề phòng tin đồn thất thiệt, Trung Quốc cần phải tích cực chủ động lợi dụng nhiều kênh, áp dụng nhiều phương thức tuyên truyền để cộng đồng quốc tế “hiểu rõ hơn về bản chất tranh chấp ở Biển Đông”. Hiệu quả tuyên truyền tích cực và hướng dẫn dư luận sẽ tốt hơn nhiều so với bị động đối phó trước những chỉ trích theo dụng ý riêng.
Không những vậy, giới chuyên gia, học giả và truyền thông Trung Quốc còn cho rằng UNCLOS chỉ là một phần cấu thành của luật pháp quốc tế, không thể thay thế các quy tắc khác trong luật quốc tế, lại càng không thể giản đơn đánh đồng “luật quốc tế” với UNCLOS theo cách đánh tráo khái niệm. Giới học thuật Trung Quốc còn ngang nhiên ngụy biện rằng UNCLOS không phải là căn cứ duy nhất của luật quốc tế để nhận định hoặc giải quyết vấn đề yêu sách chủ quyền lãnh thổ Biển Đông, cũng như nhận định hoặc phủ nhận tính hợp pháp trong “đường đứt đoạn” ở Biển Đông.
Thực trạng hoạt động quân sự
của Philippines ở Biển Đông
Philippines là một trong những nước có yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Trong những năm qua, Philippines đã triển khai nhiều hoạt động quân sự ở Biển Đông, trong đó việc cải tạo, đồn trú trái phép binh lính trên một số đảo, đá của Việt Nam.
Chính sách hoạt động quân sự của Philippines ở Biển Đông
Là một quốc gia quần đảo, Philippines đã áp dụng các quy định tại phần IV UNCLOS 1982 để xác định đường cơ sở của mình thông qua Đạo luật Cộng hòa số 9522 được ban hành năm 2009. Trong Đạo luật này, Philippines cũng tái khẳng định quy chế các đảo đá theo Điều 121 UNCLOS 1982 cho quần đảo Trường Sa như trong Sắc lệnh Tổng thống 1599. Chính sách quốc phòng của Philippines được quy định thành một đạo luật cụ thể có tên gọi “Đạo luật Quốc phòng” năm 1935.
Không những vậy, Philippines đã tham gia ký kết nhiều văn kiện và điều ước quốc tế liên quan vấn đề biển đảo như: Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, các nguyên tắc của luật biển quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, UNCLOS 1982, DOC năm 2002, Quy tắc quốc tế phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển năm 1972 (COLREGS 72) được sửa đổi bổ sung vào các năm 1981, 1987, 1989, 1993, 2001 và Bộ quy tắc về Tránh va chạm bất ngờ trên biển (CUES) 2014.
Đặc biệt là những thỏa thuận song phương với Trung Quốc: Sau năm 1995, Trung Quốc và Philippines đã cùng ký kết thỏa thuận song phương với nội dung không cho phép sử dụng sức mạnh quân sự trong giải quyết tranh chấp và kêu gọi đưa ra các biện pháp hòa bình theo các quy định trong UNCLOS 1982. Cũng trong năm 1995, Philippines và Việt Nam cũng thỏa thuận về Bộ Ứng xử chín điểm trong Tuyên bố chung của tham khảo song phương hàng năm lần thứ tư vào tháng 10.
Trong mối quan hệ liên minh quân sự, Philippnes đã ký kết với Mỹ “Hiệp ước phòng thủ chung” năm 1951 và Hiệp định hợp tác quốc phòng tăng cường (EDCA) năm 2014; Philippines đã ký với Nhật Bản Hiệp ước Quốc phòng năm 2016.
Chính sách hoạt động quân sự của Philippines ở Biển Đông có một số đặc điểm: Thứ nhất, Philippines là nước có liên minh quân sự với nước ngoài. Nước này có nền quân sự bị đánh giá là yếu nhất nhưng lại có liên minh quân sự với cả Mỹ và Nhật Bản. Việc liên minh quân sự này tạo điều kiện cho Mỹ và Nhật Bản hoạt động quân sự nhiều hơn trong khu vực Biển Đông.
Thứ hai, Philippines chọn giải quyết tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp tư pháp. Cụ thể là sử dụng thiết chế Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS 1982 về việc Trung Quốc đã giải thích và áp dụng sai UNCLOS 1982. Đây là một điểm sáng trong chính sách của Philippines đối với các tranh chấp tại Biển Đông thể hiện sự thiện chí giải quyết bằng biện pháp hòa bình hơn là sử dụng sức mạnh quân sự.
Tuy nhiên, chủ trương, chính sách của Philippines đối với vấn đề Biển Đông có những điểm chưa thỏa đáng, vi phạm trực tiếp đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, cụ thể: Philippines đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam khi ban hành luật điều chỉnh về Trường Sa tại điểm a mục 2 Đạo luật Cộng hòa số 9522 và Sắc lệnh Tổng thống 1599.
Thực trạng hoạt động quân sự của Philippines ở Biển Đông
Hoạt động chiếm giữ và xây dựng các thực thể địa lý: Philippines yêu sách chủ quyền 53 thực thể địa lý trong quần đảo Trường Sa. Hiện tại Philippines đang chiếm đóng và kiểm soát 10 thực thể địa lý: Bến Lạc (Đảo Dừa), Bình Nguyên, Loại Ta, Song Tử Đông, Thị Tứ, Vĩnh Viễn, An Nhơn, trong đó có ba bãi ngầm Cá Nhám, Công Đo, Cỏ Mây. Theo thông tin từ Bộ Quốc phòng Mỹ (Phụ lục số 07), vào năm 2013 một số tòa nhà tại bốn vị trí và xây dựng đường xá xung quanh đảo Thị Tứ.
Philippines cho rằng quần đảo Trường Sa là vô chủ trước khi họ thực hiện việc chiếm đóng. Tuy nhiên, quần đảo Trường Sa đã thuộc chủ quyền của Việt Nam trước khi Philippines đưa quân ra chiếm đóng. Do đó, sự chiếm đóng của Philippines cũng không hợp pháp và không thể là căn cứ để xác lập chủ quyền. Tuy nhiên, triển vọng giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình để phân định chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam và Philippines là rất cao. Có thể thấy rằng, trong cách đối đầu với Trung Quốc, Philipines đã chọn cách thức giải quyết bằng Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS 1982. Từ đó cho thấy, sự đối lập yêu sách chủ quyền giữa Việt Nam và Phillipines ít có khả năng đe dọa đến hòa bình và an ninh khu vực.
Hiện đại hóa quân đội: Quân đội Philippines trên thực tế được thành lập và phát triển dưới sự viện trợ và huấn luyện của Quân đội Mỹ. Mặc dù sau chiến tranh thế giới thứ II, Philippines giành được độc lập nhưng về mặt quân sự vẫn chịu sự chi phối của quân đội Mỹ. Ngày 30/8/1951, Mỹ và Philippines ký kết “Hiệp ước phòng thủ chung” cho phép Mỹ đóng quân tại Philippines, đồng thời thành lập căn cứ Không quân Clac và căn cứ Hải quân Subic. Khi giúp Philppines xây dựng quân đội, Mỹ đặc biệt chú trọng đến lực lượng không quân. Đáng chú ý là sự kiện viên chỉ huy lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ đóng tại Thái Bình Dương – Trung tướng Duane Thiessen đã có một trong những phát biểu mạnh mẽ nhất về Biển Đông khi khẳng định Mỹ và Philippines đã ký Hiệp ước phòng thủ chung và theo Hiệp ước này “chúng tôi sẽ tham gia vào các hoạt động bảo vệ lẫn nhau”. Ngày 09/5/2012, Mỹ tuyên bố tôn trọng Hiệp ước phòng thủ chung ký năm 1951 và chính thức cam kết sẽ bảo vệ Philippines khỏi các cuộc tấn công trên Biển Đông.
Năm 2011, đáp lại thái độ không thân thiện của Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế và nhóm đảo Trường Sa, Philippines đã dự thảo một chiến lược quốc phòng mới tập trung vào các chiến dịch an ninh nội bộ và phòng thủ lãnh thổ bên ngoài.
Tháng 9/2011, Tổng thống Aquino tuyên bố 4,95 tỷ pê-sô sẽ được phân bổ thêm vào ngân sách quốc phòng. Các quỹ này giành riêng cho việc mua bán một tàu tuần tra hải quân, sáu máy bay trực thăng và các trang thiết bị quân sự khác nhằm bảo vệ dự án dầu khí Malampaya. Năm 2012, Chính phủ Philippines bắt đầu thực hiện kế hoạch hiện đại hóa năm năm với tổng số tiền lên đến 40 tỷ pê-sô. Tháng 7/2012, Philippines tuyên bố Quỹ 1,8 tỷ USD do Mỹ tài trợ để mua một tàu khu trục nhỏ được tân trang lại, một máy bay C-130, máy bay trực thăng đa chức năng và trực thăng chiến đấu cũng như các trang thiết bị quân sự khác.
Theo thông tin từ tài liệu nội Bộ của Bộ Quốc phòng Philippines năm 2016, khoảng 130 tỷ peso (2,8 tỷ USD), tương đương 96% ngân sách quốc phòng đề xuất, sẽ được rót cho lực lượng vũ trang nước này. Số tiền trên dự kiến sẽ được đầu tư để mua sắm máy bay và tàu mới nhằm đẩy mạnh cuộc chiến chống khủng bố và tăng cường an ninh hàng hải của Philippines tại Biển Đông.
Trong năm 2011-2012, Philippines đã nhận hai tàu cũ trong lực lượng bảo vệ bờ biển của Mỹ (Weather Endurance Cutters). Tàu đầu tiên được phân công tác chiến tại vùng biển quanh Palawan trong Tư lệnh Bộ Chỉ huy phía Tây (Western Command) với nhiệm vụ bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Philippines cũng đang chờ nhận được ba máy tấn công đa mục đích được sản xuất bởi Đài Loan và đặt mua tàu tuần duyên lớp Hamilton thứ ba của Mỹ. Philippines đã ký kết một thỏa thuận với Bộ Quốc phòng Italia để sở hữu trang thiết bị quân sự, có thể có tàu khu trục nhỏ và máy bay.
Philippines cũng đã mua từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Anh vũ khí quốc phòng. Tháng 9/2011, trong chuyến thăm Nhật Bản, Tổng thống Aquino và Thủ tướng Nhật Bản Noda đã thỏa thuận tăng cường mối quan hệ an ninh hàng hải thông qua việc tổ chức thường xuyên các cuộc thảo luận quốc phòng cấp cao và thúc đẩy hợp tác giữa các lực lượng bảo vệ bờ biển và các cơ quan liên quan đến quốc phòng. Thủ tướng Noda đồng ý tăng cường sự tham gia của Lực lượng phòng vệ bờ biển Nhật Bản để huấn luyện cho cơ quan đồng cấp của Philippines. Sau chuyến thăm của Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak tới Manila vào tháng 11/2011, Tổng thống Aquino tuyên bố rằng Philippines sẽ mua các trang bị quân đội từ Seoul. Bộ Quốc phòng cho biết hiện đang dự thảo danh sách bao gồm máy bay, máy bay trực thăng, thuyền các các trang thiết bị quân sự khác.
Philippines có tư cách là đồng minh trong liên minh quân sự. Đây là điểm khác biệt rõ rệt so với hai nước đã phân tích trước đó là Việt Nam và Trung Quốc. Với tư cách đồng minh với Mỹ này, tuy là quân đội Philipines không trực tiếp làm căng thẳng leo thang nhưng có thể dẫn đến sự can thiệp sâu và rộng của Mỹ vào vấn đề Biển Đông.
Trong khi việc hiện đại hóa quân đội là một nhu cầu bức thiết và nước này đang ráo riết thực hiện nhưng bảng tăng trưởng chi phí quốc phòng lại có chiều đi lên không nhiều. So với hai nước đã phân tích ở trên thì tốc độ gia tăng chi phí quốc phòng của Philippines là thấp nhất. Theo số liệu từ Viện Nghiên cứu Hòa bình quốc tế Stockholm (SPIRI) thì ngân sách quốc phòng của Philippines được thể hiện bằng biểu đồ như Phụ lục số 04a và Phụ lục số 04b. Chi phí quốc phòng của Philippines khi thể hiện các chi phí này bằng đơn vị USD thì còn thấy rằng chi phí quân sự năm 2014 đã có sự giảm nhẹ so với năm 2013 nhưng vẫn theo một chiều hướng chung là tăng qua các năm.
Năm 2016 – 2019, mua tàu chiến khủng của Hàn Quốc. Philippines đặt Hàn Quốc đóng mới 2 tàu chiến Jose Rizal và Antonio Luna với tổng kinh phí 16 tỉ peso (355 triệu USD), cùng hợp đồng cung cấp vũ khí cho 2 tàu trị giá 2 tỉ peso (46 triệu USD). Chiến hạm BRP Jose Rizal dự kiến sẽ bàn giao vào năm 2020, còn chiếc Antonio Luna là vào năm 2021. Hộ tống hạm BRP Jose Rizal thuộc lớp hộ tống hạm Incheon của Hàn Quốc nhưng nhỏ hơn về chiều dài cũng như lượng choán nước. BRP Jose Rizal dài 107 m, ngang rộng nhất 14 m, lượng choán nước đầy tải là 2.600 tấn (tàu hộ tống lớp Incheon có các thông số tương tự lần lượt là 114 m, 14 m, 3.200 tấn). BRP Jose Rizal trang bị đầy đủ vũ khí từ chống tàu nổi đến tàu ngầm, máy bay. Tàu được trang bị 1 pháo hạm Oto Melara 76 mm, các pháo phòng không cận chiến điều khiển từ xa Aselsan SMASH 30 mm; hệ thống 8 ống phóng thẳng đứng dùng phóng tên lửa phòng không, 2 dàn phóng (4 ống phóng/dàn) tên lửa diệt hạm tương đương loại Harpoon; các ống phóng ngư lôi; thiết bị định vị sóng âm (sonar) dùng dò tìm tàu ngầm đặt ở thân trước của tàu và có thêm loại cơ động kéo phía sau tàu (TASS)… Tàu trang bị các loại thiết bị điện tử hiện đại như radar dò tìm và khóa mục tiêu trên không và trên biển, các thiết bị quang điện tử và thiết bị chiến tranh điện tử khác. Tàu còn có sân đáp trực thăng với tải trọng tối đa 12 tấn, 2 xuồng cao su để thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt. Loại trực thăng trang bị cho tàu lớp Rizal sẽ là AgustaWestland AW-159 vừa trang bị cho hải quân, có khả năng săn ngầm. Tàu có thể hoạt động trong điều kiện sóng cấp 7, tức sóng cao 6-9 m. Tàu có tốc độ tối đa 46 km/giờ, hành trình tối đa 4.500 hải lý (8.300 km), hoạt động liên tục 30 ngày, với thủy thủ đoàn và sĩ quan là hơn 100 người.
Tư lệnh Hải quân Philippines, Phó Đô đốc Robert Empedrad cho biết đây sẽ là chiến hạm hùng mạnh nhất của hải quân Philippines khi trang bị các cảm biến cùng vũ khí có khả năng phát hiện và vô hiệu hóa các mối đe dọa từ trên không, trên mặt biển đến dưới lòng biển cũng như khả năng tác chiến điện tử. Theo đó, chiến hạm này được trang bị hệ thống điều hành tác chiến Naval Shield của tập đoàn Hanwha Systems (Hàn Quốc), hệ thống này tích hợp các cảm biến và vũ khí trên tàu để phân tích và đưa ra quyết định về việc đối phó các mối đe dọa nhắm đến con tàu. Hệ thống này có thể phát hiện và theo dõi khoảng 4.000 mục tiêu cùng lúc, được sử dụng trong Hải quân Hàn Quốc, Malaysia và Indonesia.
Người phát ngôn Hải quân Philippines Jonathan Zata cho biết, hai tàu chiến trên được trang tên lửa sẽ có nhiệm vụ hộ tống 2 tàu vận tải đổ bộ lớp Tarlac của Hải quân Philippines. Hai tàu đổ bộ này do Indonesia đóng, theo chuyển giao công nghệ từ Hàn Quốc, mỗi tàu có lượng choán nước hơn 11.500 tấn.
Theo Max Defense, tính đến năm 2017, hải quân Philippines có khoảng 100 tàu, trong đó số tàu chiến chủ lực chỉ 15 chiếc, gồm 3 chiếc lớp Hamilton (tàu tuần tra cũ do Tuần duyên Mỹ bàn giao), 1 tàu hộ tống lớp Cannon, 2 tàu lớp Rizal, 3 tàu lớp Jacinto (Hồng Kông bàn giao từ năm 1997), 5 tàu lớp Malvar, và 1 tàu lớp Cyclone. Chiếc tàu hộ tống lớp Cannon duy nhất là BRP Rajah Humabon (FF-11) có từ thời thế chiến 2, hiện dùng để huấn luyện và tuần tra biển chủ yếu trong khu vực Manila-Subic. Các tàu chiến của Philippines đa số cũ kỹ, 3 chiếc được xem lớn nhất là 3 tàu lớp Hamilton do Tuần duyên Mỹ bàn giao cũng đã trên 50 năm, vũ khí cũng chỉ có pháo 76 mm và pháo 20, 30 mm và nay được chuyển thành tàu tuần tra. Không có tàu nào được trang bị tên lửa diệt hạm. Năm 2017, Philippines được Hàn Quốc viện trợ 1 tàu hộ vệ săn ngầm lớp Pohang đã loại biên, và dự kiến nhận vào giữa năm 2019.
Philippines thời gian qua đã nỗ lực hiện đại hóa hải quân để đối phó các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông. Philippines đã đặt mua tàu chiến, máy bay, vũ khí… để nâng cấp lực lượng hải quân và lực lượng tuần duyên. Philippines cũng đặt Indonesia đóng 2 tàu vận tải quân sự cỡ lớn lớp Tarlac, bàn giao vào các năm 2016 và 2017. Giai đoạn 2, trong 5 năm tới Philippines sẽ chi tiêu 2,4 tỉ USD mua sắm tàu ngầm, đóng thêm 4 tàu hộ tống và 6 tàu tuần tra đa năng, mua máy bay chiến đấu, trực thăng, UAV, radar… Vừa qua, Nga lên tiếng chào hàng với Philippines loại tàu ngầm Kilo 636 tương tự loại đã cung cấp cho Hải quân Việt Nam.
Hoạt động quân sự của Philippines ở Biển Đông trong năm 2019
Tập trận với đồng minh: Từ 1-12/4, Mỹ và Philippines đã bắt đầu cuộc tập trận thường niên quy mô lớn “Vai kề vai” (Balikatan), trong đó có cuộc tập trận hải quân ngoài khơi bờ biển đảo Luzon đối diện với khu vực Biển Đông. Bộ Quốc phòng Philippines cho biết, khoảng 8.000 quân tham gia cuộc tập trận trên. Trong đó có 4.000 binh sĩ Philippines, 3.500 lính Mỹ cùng với 50 lính Australia và quan sát viên từ 7 quốc gia khác. Tương tự như năm ngoái, cuộc tập trận sẽ diễn ra chủ yếu ở khu vực phía Bắc của Philippines, tại nhiều khu vực thuộc các tỉnh Pampanga, Tarlac và Zambales. Phát biểu họp báo trước thềm cuộc tập trận, Trung tướng Gilbert Gapay, chỉ huy cuộc tập trận bên phía Philippines cho biết: “Cuộc tập trận không nhằm trực tiếp vào bất kỳ mối đe dọa hay quan ngại an ninh hiện hữu nào. Đây là cuộc tập trận bao quát nhằm tăng cường khả năng phối hợp lẫn nhau giữa các lực lượng Philippines và Mỹ”. Đây là cuộc tập trận chung lần thứ ba của quân đội hai nước kể từ khi Tổng thống Rodrigo Duterte lên cầm quyền với chủ trương đặt những mâu thuẫn cố hữu với Bắc Kinh về chủ quyền lãnh hải sang một bên để thu hút đầu tư và gia tăng trao đổi thương mại với Trung Quốc. Cuộc thao diễn quân sự 12 diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc liên tục điều tàu dân quân biển bao vây trái phép quanh khu vực đảo Thị Tứ, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, song hiện đang bị Philippines chiếm đóng trái phép.
Sau cuộc tập trận “Vai kề vai”, Lực lượng tuần duyên của Mỹ và Philippines (15/5) tiến hành cuộc tập trận chung tại vùng biển gần bãi cạn Scarborough, khu vực tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc trên Biển Đông. Theo đài NHK của Nhật Bản, cuộc tập trận diễn ra vào ngày 15/5 ở khu vực gần bãi cạn Scarborough, phía Tây đảo Luzon. Đây là cuộc tập trận chung đầu tiên giữa Mỹ và Philippines ở gần bãi cạn này. Các quan chức Philippines cho biết, 3 tàu, gồm tàu tuần duyên Bertholf của lực lượng tuần duyên Mỹ và tàu tìm kiếm cứu hộ của lực lượng tuần duyên Philippines, đã tham gia cuộc tập trận mô phỏng chiến
dịch tìm kiếm và cứu hộ sau khi một tàu chở khách bị chìm. Phó Đô đốc Linda Fagan, chỉ huy chiến dịch tuần duyên Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương cho biết, cuộc tập trận này mở ra cho chúng tôi cơ hội tuyệt vời để chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm giữa hai nước. Theo Phó Đô đốc Fagan, “Tuần duyên Mỹ tự hào được phối hợp với các đối tác Thái Bình Dương của chúng tôi. Chúng ta cùng nhau nâng cao năng lực, tăng cường quản trị và an ninh biển, đồng thời thúc đẩy chủ quyền”. Theo Hạm trưởng John Driscoll, chỉ huy tàu Bertholf, cuộc tập trận đã cho thấy mối quan hệ đặc biệt giữa Mỹ và Philippines. Hai nước có thể phối hợp với nhau để “đảm bảo rằng các vùng biển luôn mở và tự do, tôn trọng luật pháp quốc tế và quy tắc hành xử trên biển, nơi các ngư dân có thể an toàn duy trì sinh kế, dù cho họ ở trên tàu chở hàng hay tàu cá”.
Giới chuyên gia và học giả nhận định, việc Mỹ và Philippines liên tục tiến hành tập trận chung ở Biển Đông nhằm khẳng định quan hệ đồng minh thân cận và Mỹ sẽ bảo vệ Philippines trước các cuộc tấn công của Trung Quốc; đồng thời tăng cường hợp tác quân sự song phương dựa theo Hiệp ước Phòng thủ chung ký cách đây gần 70 năm giữa hai nước. Theo Hiệp ước trên, Mỹ có trách nhiệm và nghĩa vụ đảm bảo an ninh, an toàn đối với hòa bình, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Philippines. Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo (1/3) trong phát biểu tại cuộc họp báo chung với người đồng cấp Philippines Teodoro Locsin ở Manila đã tuyên bố “Bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào nhằm vào lực lượng, máy bay hoặc tàu công vụ của Philippines ở Biển Đông sẽ kích hoạt trách nhiệm phòng thủ chung theo Điều 4 của Hiệp ước phòng thủ chung giữa hai nước”. Đây là lần đầu tiên một quan chức Mỹ công khai ý định của Washington về việc bảo vệ Philippines ở Biển Đông. Đáp lại, Ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin (16/4) tuyên bố Philippines có thể quay sang nhờ cậy Mỹ, đồng minh quân sự duy nhất của mình, nếu xảy ra một “hành động xâm lược rõ rệt” ở Biển Đông. Trước đó, ông Teodoro Locsin (8/4) khẳng định Mỹ sẽ là đồng minh quân sự duy nhất của nước này và “chúng ta không cần thêm ai khác”.
Tăng cường hợp tác quốc phòng với Nhật Bản. Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Takeshi Iwaya và Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana (17/4) đã nhất trí hợp tác thông qua các hoạt động huấn luyện chung và hợp tác trong lĩnh vực trang thiết bị quốc phòng, trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược. Tại hội đàm, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Takeshi Iwaya và Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana đã nhất trí tiếp tiếp tục cử Lực lượng phòng vệ Nhật Bản và quân đội Philippines cùng tham gia diễn tập chung với quân đội Mỹ trên Biển Đông. Nhật Bản cam kết cung cấp và hợp tác kỹ thuật trang thiết bị quốc phòng với Philippines, đồng thời hỗ trợ quân đội nước này xây dựng năng lực của cả ba lực lượng hải-lục-không quân. Hai bên cũng tái xác nhận việc tàu hộ vệ lớn nhất của Nhật Bản mang tên Izumo sẽ thăm cảng Subic của Philippines vào tháng 7/2019.Trước đó, trong cuộc gặp giữa Tham mưu trưởng Lực lượng phòng vệ mặt đất Nhật Bản Tướng Koji Yamazaki và Tham mưu trưởng Quân đội Philippines Macairog S. Alberto (4/3), hai bên đã thảo luận các vấn đề liên quan đến hợp tác quốc phòng và an ninh khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Philippines cho biết, ông Macairog S. Alberto và ông Koji Yamazaki đã thảo luận về an ninh khu vực, trong đó có tình hình Biển Đông, vấn đề chống khủng bố và các vấn đề khác cùng quan tâm. Ngoài ra, hai bên cũng thảo luận các vấn đề như ứng cứu nhân đạo và thảm họa, kế hoạch huấn luyện hậu cần chung và kế hoạch về việc Philippines mua thiết bị quốc phòng từ Nhật Bản vốn cần thiết cho hậu cần và hỗ trợ hậu cần.
Philippines có nhiều hoạt động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam
Thứ nhất, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte (6/4/2018) cho biết đã ra lệnh Lực lượng vũ trang Philippines (AFP) đóng quân và cắm cờ trên tất cả các đảo đang chiếm đóng ở Biển Đông, trong đó có đảo Pag-asa (đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam nhưng bị Philippines chiếm đóng trái phép).
Thứ hai, Bộ trưởng Quốc phòng Delfin Lorenzana cho biết, ông Duterte đã chấp thuận nâng cấp cơ sở hạ tầng ở Thị Tứ (xây một đường băng, một cảng và một bến tàu cho tàu thuyền trên đảo Thị Tứ) cùng 8 thực thể khác mà Philippines đang kiểm soát ở Biển Đông; nhấn mạnh Philippines sẽ xây dựng một số cơ sở hạ tầng trên các đảo như doanh trại dành cho nam giới, hệ thống cung cấp nước (đã được khử muối) và xử lý nước thải, máy phát điện, hải đăng, nhà tạm trú cho ngư dân. Trước đó, Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte
(3/2017) yêu cầu sửa chữa các cơ sở hạ tầng tại đảo Pag-asa, trong đó ưu tiên hàng đầu là sửa chữa đường băng trên đảo. Nghị sĩ Philippines Johnny Pimentel cũng cho biết Philippines sẽ chi 450 triệu peso (khoảng 9 triệu USD) để xây dựng cảng biển trên đảo Thị Tứ; đồng thời kêu gọi Chính phủ khởi động lại việc thăm dò dầu khí ở Biển Đông, xây dựng một trạm nghiên cứu và tìm cách cung cấp nguồn điện tái tạo trên đảo.
Thứ ba, tháng 7/2017, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana và Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Philippines Eduardo Ano ra thăm phi pháp đảo Thị Tứ. Trước đó, cựu Tổng Tham mưu trưởng quân đội Philippines Gregorio Pio Catapang cùng một số quan chức quân đội và nhà báo (11/5/2015) đến thăm đảo Thị Tứ nhằm củng cố tuyên bố “chủ quyền” của Philippines và cam kết sẽ bảo vệ lãnh thổ, đồng thời sẽ hỗ trợ phát triển du lịch và khai thách tài nguyên biển tại đây.
Thứ tư, một nhóm thanh niên Kalayaan Atin Ito gồm 50 thành viên (26/12/2015) đã đến đảo Thị nhằm phản đối yêu sách “chủ quyền” của Trung Quốc ở Biển Đông.
Thứ năm, từ năm 2001, Chính phủ Philippines đã triển khai đưa người dân ra sinh sống trên đảo Thị Tứ . Tuy nhiên, điều kiện sống khắc nghiệt khiến chỉ ít người Philippines còn ở lại trên đảo.
Kết luận:
Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mọi hành vi của quốc gia khác tại hai quần đảo này mà không được sự cho phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị.
Lợi dụng tình hình chính tranh ở Việt Nam đang diễn ra căng thẳng, Philippines (năm 1970) đã cử quân đội xâm chiếm 6 đảo, đá của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa, trong đó có đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta, đảo Bến Lạc (Đảo Dừa) và 3 đảo nữa. Trong những đảo Philipines chiếm phi pháp, Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì, Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba, Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa. Thứ ba, hành động của Philippines cũng đi ngược lại nhiều văn bản, thỏa thuận song phương, đa phương liên quan vấn đề Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam từng tuyên bố ‘trong khi chờ đợi tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài cho tranh chấp, các bên cần kiềm chế, không có các hành động làm phức tạp tình hình hay mở rộng tranh chấp, phù hợp với tinh thần và lời văn của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002”.
Philippines vốn là một quốc gia không có chủ quyền gì tại quần đảo Trường Sa vì Hiệp định Paris năm 1898 được ký kết giữa Tây Ban Nha và Hoa Kỳ đã xác định rõ: Lãnh thổ Philippines không bao gồm một đảo nào thuộc quần đảo Trường Sa. Philippines có ý đồ từng bước tranh chiếm quần đảo Trường Sa để mở rộng lãnh thổ của họ về phía Tây và làm cơ sở cho yêu sách của họ. Ngoài ra, Philippines đã nhiều lần có kế hoạch sửa chữa, nâng cấp cơ sở hạ tầng trên đảo Thị Tứ. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố ảnh hưởng, tác động khiến Philippines phải ngừng lại những tuyên bố, hành động phi pháp của họ ở Biển Đông.
http://biendong.net/bien-dong/28703-thuc-trang-hoat-dong-quan-su-cua-philippines-o-bien-dong.html
Biển Đông: ‘Giọt nước tràn ly’,
Philippines đổi chiến lược?
Trước sự việc tàu cá chở 22 ngư dân Philippines bị tàu Trung Quốc đâm chìm, Manila cần phải tạo ra những thay đổi chiến lược trong chính sách của nước này về biển Đông.
Trong một tuyên bố ngày 12-6, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana đã lên tiếng chỉ trích kịch liệt hành động “vô nhân đạo” của phía Trung Quốc.
Theo đó, tàu của Trung Quốc đã tông chìm và sau đó bỏ mặc một tàu cá Philippines cùng 22 ngư dân trên tàu gần khu vực bãi Cỏ Rong xung quanh quần đảo Trường Sa của Việt Nam tối hôm 9-6.
Rất may mắn là một tàu cá của Việt Nam đang hoạt động trong khu vực đã phát hiện và phối hợp với quân đội Philippines để đưa người bị nạn về nơi an toàn.
“Chúng tôi lên án mạnh mẽ hành động hèn hạ của tàu cá Trung Quốc và các thuyền viên trên đó, những người đã bỏ rơi các thuyền viên Philippines. Đây không phải là hành động của những người có trách nhiệm và thiện chí”, dẫn lời Bộ trưởng Delfin Lorenzana.
“Chúng tôi kêu gọi một cuộc điều tra chính thức về vụ việc và các động thái ngoại giao ngay lập tức để tránh vụ việc này lặp lại”, ông nói thêm.
Tại thủ đô Manila, hàng trăm người dân đã đổ xuống đường biểu tình, mang theo những băng rôn, biểu ngữ bày tỏ phản đối hành động của Trung Quốc và yêu cầu chính quyền Tổng thống Rodrigo Duterte phải có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền quốc gia và có thái độ cứng rắn hơn với nhà cầm quyền Bắc Kinh.
“Chúng tôi không thể đánh cá với sự hiện diện đáng sợ của Trung Quốc trong khu vực. Đã có báo cáo về sự quấy rối trực tiếp của người Trung Quốc đối với ngư dân Philippines và thậm chí sự hiện diện của tàu chiến Trung Quốc tại Bãi cạn Scarborough, nhưng chúng tôi vẫn không nghe thấy bất kỳ sự lên án nào từ chính quyền tổng thống Duterte” – Một ngư dân tham gia biểu tình trả lời phỏng vấn của tờ The New York Times.
Đã đến lúc Philippines phải cứng rắn
Theo Giáo sư Jay Batongbacal, Giám đốc Viện Hàng hải và Luật biển thuộc ĐH Philippines, sự việc mới đây cần phải được xem là “giọt nước tràn ly”; và chính quyền nước này cần phải nhanh chóng bắt đầu có những hành động thiết thực và cứng rắn đáp trả Trung Quốc nhằm tránh để lại tiền lệ về sau.
“Chính quyền Philippines không nên để sự việc này trôi qua mà không xem xét hoặc cân nhắc chính sách của mình về khu vực biển Đông. Đây là trường hợp mới nhất về hành động đe doạ các nước láng giềng của Trung Quốc, và nếu cứ để Trung Quốc tiếp tục làm thế, chúng ta có thể sẽ sớm thấy Trung Quốc thường xuyên tông vào và buộc ngư dân của ta rời khỏi biển Đông , giống như cách mà họ đã làm với ngư dân Việt Nam ở vùng biển của Việt Nam”, dẫn lời ông Batongbacal.
“Điều cần nhất là phải đưa ra những thay đổi và điều chỉnh; nếu không có thay đổi, thì Trung Quốc sẽ coi đây là một tín hiệu cho thấy việc làm này có thể lặp lại mà không gặp phải nguy cơ nhận lấy phản ứng bất lợi từ Philippines”, ông nói thêm.
Ông cũng đề xuất Manila nên gửi một công hàm yêu cầu Bắc Kinh phải điều tra, công bố một bản báo cáo về vụ việc cũng như biện pháp trừng phạt và răn đe cụ thể đối với tàu Trung Quốc bị cáo buộc.
“Rõ ràng là đã có sự vi phạm đối với Quy tắc phòng tránh tàu thuyền đâm va trên biển (COLREGS) và những luật lệ quốc tế về hàng hải, cũng như việc đã từ chối giúp đỡ tàu, thuyền đang gặp nạn”, Jay Batongbacal nhấn mạnh.
Ngoài ra, hành vi bỏ mặc tàu Philippines sau khi đâm chìm cũng đã đủ quy kết tàu Trung Quốc vào tội “cố ý gây tai nạn” vì theo ông Batongbacal, “một con tàu đang di chuyển trên biển không thể nào đâm vào một con tàu đang neo đậu cả. Chỉ có thể là tàu Trung Quốc đã cố ý làm như vậy mà thôi”.
Ông Rodrigo Duterte giữa vòng xoáy Mỹ-Trung
Được biết, kể từ khi nhậm chức Tổng thống Philippines vào tháng 6-2016, ông Rodrigo Duterte đã luôn tỏ rõ mong muốn đạt được một mối quan hệ chiến lược và nồng ấm với chính quyền Bắc Kinh.
Tờ South China Morning Post cho biết năm 2019 đánh dấu chuyến thăm Trung Quốc lần thứ tư của ông Duterte chỉ trong vòng chưa đầy ba năm nhằm dự Diễn đàn cấp cao hợp tác quốc tế “Vành đai và Con đường” lần thứ hai, nhiều hơn bất kỳ người tiền nhiệm nào trước đó.
Thậm chí, trước những căng thẳng gần đây giữa hai nước về các vấn đề chủ quyền trên khu vực biển Đông, Tổng thống Duterte vẫn nhất mực kiên định với lập trường nồng ấm với Trung Quốc của mình mặc cho những chỉ trích và phản đối ngày càng gia tăng trong nước.
Theo tờ Biz News Asia, một trong những lí do nổi bật để giải thích cho thái độ bất thường của ông Duterte với Trung Quốc là ở việc ông cho rằng đây là cách để Philippines bảo vệ những lợi ích kinh tế của mình ở những khu vực đang tranh chấp ở biển Đông.
Theo đó, miễn là việc hợp tác với Bắc Kinh và cùng nhau phát triển những khu vực này sẽ đem lại một phần lợi nhuận cho nước này, thì Manila sẽ tạm thời không phải lo lắng về những cuộc đối đầu không mong muốn, nhất là khi trong số các nước khu vực Đông Nam Á, Philippines chưa bao giờ là một quốc gia có thế mạnh về quốc phòng.
Bên cạnh đó, những nghi ngại về sự không rõ ràng trong cam kết hỗ trợ quân sự của Mỹ cho Philippines cũng là một lí do đẩy ông Duterte lại gần hơn Trung Quốc hơn.
“Nhiều năm qua, nhà cầm quyền Philippines đã bày tỏ sự bất lực trước trước thái độ do dự của Washington trong việc xác định liệu một cuộc tấn công của bên thứ ba vào những khu vực đang tranh chấp đang được Philippines quản lý ở biển Đông có nằm trong điều khoản của Hiệp ước phòng thủ chung hai nước hay không”, Biên tập viên tạp chí The Diplomat, ông Ankit Panda giải thích.
Được biết, Philippines là đồng minh quân sự đầu tiên của Mỹ tại khu vực châu Á với Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philippines ký kết vào năm 1951.
Tái định hình đồng minh Mỹ- Philippines đối trọng Trung Quốc?
Theo các chuyên gia, sự việc 22 ngư dân bị đâm chìm mới đây trong chuỗi những xung đột mới nhất với Trung Quốc chỉ trong năm 2019 có thể sẽ châm ngòi cho sự hồi sinh của liên minh chiến lược Manila-Washington. Cụ thể, Philippines có thể sẽ quay lại trở thành một mắt xích quan trọng của chiến lược kiềm chế Trung Quốc trong khu vực của Mỹ.
Bên cạnh đó, hồi tháng 3-2019, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trong cuộc gặp với người đồng cấp Philippines Teddy Locsin tại Manila lần đầu tiên đã lên tiếng trấn an và xóa tan những nghi ngờ nói trên của đồng minh. Đồng thời, ông Pompeo cũng tái khẳng định cam kết của Mỹ vào hoà bình và ổn định khu vực.
“Những hoạt động quân sự và cải tạo đảo của Trung Quốc ở biển Đông đã đe doạ chủ quyền, an ninh và kinh tế của Philippines, cũng như là của Mỹ . Do biển Đông là một phần của Thái Bình Dương, bất kỳ cuộc tấn công vũ trang nào vào lực lượng, máy bay hoặc tàu của Philippines ở Biển Đông sẽ khởi động nghĩa vụ phòng thủ lẫn nhau theo Điều 4 của Hiệp ước phòng thủ chung của chúng ta”, ông Mike Pompeo khẳng định.
Trong lần đụng độ gần đây nhất giữa hai nước ở các khu vực tranh chấp vào tháng 4-2019 khi gần 275 tàu dân quân biển Trung Quốc bị phát hiện di chuyển gần đảo Thị Tứ (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam hiện đang do Philippines kiểm soát trái phép), Tổng thống Rodrigo Duterte bất ngờ lên tiếng cứng rắn cảnh báo Bắc Kinh “rời khỏi đảo Thị Tứ ” và tuyên bố “Nếu các người động vào đây […] Tôi sẽ cho lính của tôi tử thủ”.
Theo ông Ankit Panda, phát ngôn này của Tổng thống là một điều “bất ngờ” và “không giống tích cách của ông cho lắm”. Tuy nhiên, mọi nỗ lực chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc ở biển Đông từ Philippines đều đáng được hoan nghênh, mặc dù những nỗ lực này có thể được duy trì trong lâu dài hay không vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Hiện tại, Philippines đang chuẩn bị cho cuộc bầu cử cuộc bầu cử sẽ diễn ra vào tháng 7-2019 để tìm người thay thế chủ tịch Hạ viện Gloria Arroyo sắp hết nhiệm kỳ, và chắc chắn các vấn đề chủ quyền ở biển Đông sẽ là chủ đề chiếm thế thượng phong trong chiến dịch vận động của các ứng cử viên sắp tới.
Bên cạnh đó, cùng với sự đảm bảo và lập trường nhất quán của Mỹ, đơn cử như cuộc tập trận chung Balikatan 2019 giữa quân đội Philippines, Mỹ và Úc hồi tháng 4-2019, khu vực Đông Nam Á có thể lai một lần nữa trông thấy Manila và Washington sát cánh bên nhau trong tương lai gần.
http://biendong.net/bi-n-nong/28711-bien-dong-giot-nuoc-tran-ly-philippines-doi-chien-luoc.html