Tin Biển Đông – 13/11/2018
Trung Quốc nói không tìm cách bành trướng,
làm bá chủ Biển Đông
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường hôm 13/11 cho biết Trung Quốc muốn Bộ quy tắc về ứng xử ở Biển Đông (gọi tắt là COC) được hoàn tất trong vòng 3 năm nữa, đồng thời nói nước này không tìm cách bành trướng, làm bá chủ khu vực.
Đây là lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra một thời hạn cụ thể để hoàn tất COC với ASEAN sau hơn 10 năm đàm phán.
Phát biểu tại Singapore ngay trước thềm Thượng đỉnh ASEAN, Thủ tướng Lý Khắc Cường nói rằng Trung Quốc hy vọng việc tham vấn COC sẽ được hoàn tất trong thời hạn 3 năm để có thể tiến tới hòa bình và ổn định lâu dài trên Biển Đông.
Thủ tướng Trung Quốc cũng nói thêm là Trung Quốc không và sẽ không tìm cách bành trướng, làm bá chủ mà chỉ muốn có mối quan hệ hòa hợp với các quốc gia láng giềng.
Hồi tháng 8 vừa qua, ASEAN và Trung Quốc cho biết hai phía đã đạt được những thỏa thuận ban đầu để hướng tới COC trong tương lai.
Tuy vậy, nhiều nhà phân tích quốc tế cho rằng những đề nghị của Bắc Kinh trong COC đưa ra cho ASEAN chỉ nhằm mục đích mở rộng ảnh hưởng của nước này ở khu vực và giảm thiểu ảnh hưởng của Mỹ.
Trung Quốc là nước đòi chủ quyền phần lớn khu vực Biển Đông. Ngoài Trung Quốc, các nước khác đòi chủ quyền trong khu vực bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan.
Trong những năm qua, Trung Quốc đã gia tăng các hoạt động xây lấp các đảo nhân tạo và triển khai vũ khí quân sự ra Biển Đông gây lo ngại về tình trạng quân sự hóa vùng nước tranh chấp.
Trung Quốc nói nước này chỉ xây dựng và triển khai vũ khí ra các vùng thuộc chủ quyền của nước này.
Hội Luật quốc tế Trung Quốc: Phê bình phán quyết
của Tòa Trọng tài trong vụ Philippines kiện
TQ về vấn đề Biển Đông
Ngày 15/5/2018, Hội Luật quốc tế Trung Quốc công bố tài liệu “Phê bình phán quyết của Tòa Trọng tài trong vụ Philippines kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông”, dài hơn 500 trang bằng tiếng Anh và tiếng Trung. Tài liệu trên là tập hợp các công trình nghiên cứu của hơn 70 chuyên gia luật quốc tế Trung Quốc. Nội dung chính của tài liệu trên là các lập luận thiếu cơ sở pháp lý nhằm chỉ trích từng câu, chữ của Phán quyết Trọng tài, đồng thời bao biện cho yêu sách chủ quyền phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông.
Một số lập luận pháp lý trong tài liệu của Hội Luật quốc tế Trung Quốc
Về thẩm quyền của Tòa Trọng tài: Tài liệu lặp lại những lập luận được đưa ra tại “Tài liệu lập trường của Trung Quốc” công bố năm 2014 trong đó cho rằng: (1) Bản chất của vụ kiện do Philippines khởi xướng là các tranh chấp về chủ quyền các thực thể ở Trường Sa. Vấn đề chủ quyền không thuộc phạm vi điều chỉnh của UNCLOS nên cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS không có thẩm quyền giải quyết; (2) Cơ chế trọng tài quốc tế cần sự đồng thuận của cả hai phía trong tranh chấp, việc Philippines đơn phương tiến hành khởi kiện là trái với luật quốc tế và vụ kiện không có giá trị với Trung Quốc; (3) Tuyên bố ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (DOC), Hiệp ước Hợp tác hữu nghị Đông Nam Á (TAC), các tuyên bố chung, biên bản cuộc họp, trao đổi, tham vấn giữa hai quốc gia… quy định các bên chỉ sử dụng duy nhất phương pháp đàm phán để giải quyết vấn đề Biển Đông. Việc Philippines đơn phương khởi kiện là phá vỡ cam kết với Trung Quốc và các nước ASEAN; (4) Giữa Trung Quốc và Philippines chưa có trao đổi cụ thể, thực chất về tranh chấp, vậy nên “nghĩa vụ trao đổi quan điểm” – một điều kiện tiền đề để vận dụng cơ chế tài phán của UNCLOS – chưa được hoàn thành, do đó Philippines không thể sử dụng biện pháp trọng tài. (5) Vì Trung Quốc đã tuyên bố loại trừ thẩm quyền của Tòa theo Điều 298 UNCLOS nên Trung Quốc không phải tham gia vào vụ kiện và không bị ràng buộc vào quyết định của Tòa Trọng tài. Đây là các lập luận cũ, đơn thuần là cách giải thích gượng ép, bó buộc tất cả mọi vấn đề trên biển vào vấn đề chủ quyền nhằm loại bỏ khả năng sử dụng các cơ chế tài phán nhằm làm sáng tỏ tranh chấp và đã bị Tòa Trọng tài bác bỏ trong phán quyết. Tài liệu trên cũng chỉ trích phán quyết chia tách các vấn đề của tranh chấp Biển Đông bằng cách trích dẫn một cách chắp nối kết luận của Tòa Công lý quốc tế (ICJ) trong một số vụ việc, nhưng bối cảnh áp dụng của các vụ việc được trích dẫn không có liên quan đến tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc.
Điểm mới trong lập luận phản bác thẩm quyền là việc chỉ trích Tòa Trọng tài về các vấn đề liên quan đến thủ tục tố tụng. Trước hết, Nghiên cứu lập luận Tòa vi phạm nguyên tắc “non ultra patia” khi mở rộng kết luận ra ngoài phạm vi yêu cầu của Philippines. Chỉ trích của phán quyết đưa ra vấn đề là mặc dù Philippines chỉ đưa ra yêu cầu kết luận về quy chế pháp lý với một số cấu trúc, Tòa Trọng tài đã ra kết luận với tất cả các cấu trúc của Trường Sa. Trên thực tế, Philippines đã rất tinh tế khi yêu cầu Tòa Trọng tài kết luận Bãi Cỏ Mây và Bãi Vành Khăn là bãi cạn lúc nổi lúc chìm và thuộc thềm lục địa của Philippines. Yêu cầu này đòi hỏi trước hết Tòa Trọng tài nghiên cứu các đặc điểm tự nhiên của Bãi Cỏ Mây và Vành Khăn để kết luận hai cấu trúc này là bãi cạn lúc nổi lúc chìm. Đồng thời, Tòa Trọng tài phải xem xét vị trí địa lý của hai cấu trúc và xác định hai cấu trúc có thuộc vùng biển của bất kỳ cấu trúc nào khác hay chỉ nằm trên thềm lục địa của Philippines. Để giải quyết nhiệm vụ này việc xem xét và kết luận quy chế pháp lý của tất cả các cấu trúc của Trường Sa là cần thiết. Chính vì vậy, việc Tòa đưa ra kết luận về quy chế pháp lý của các cấu trúc vẫn nằm trong phạm vi yêu cầu của Philippines.
Tài liệu cũng cho rằng Tòa vi phạm vấn đề thủ tục tố tụng khi cho phép Philippines bổ sung, điều chỉnh yêu cầu khởi kiện nhiều lần. Đây là chỉ trích thiếu căn cứ bởi Điều 5 của Phụ lục VII của UNCLOS đã quy định rằng trừ phi các bên có thỏa thuận khác, thủ tục tố tụng của Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS sẽ do Trọng tài tự quyết định nhằm đảm bảo các bên có đầy đủ cơ hội được trình bày và đại diện trước Tòa. Trong mọi giai đoạn của quá trình tố tụng, Tòa Trọng tài đã gửi các thông báo và luôn để ngỏ khả năng cho Trung Quốc tham dự. Tuy nhiên, Trung Quốc luôn tự từ bỏ quyền của mình trong quá trình tố tụng bằng nguyên tắc không tham gia quá trình tố tụng, không công nhận thẩm quyền của Tòa và không thực hiện phán quyết.
Về nội dung phán quyết: Tài Liệu chỉ trích từng kết luận của Tòa Trọng tài dựa trên cách giải thích sai lệch về luật quốc tế đối với quyền lịch sử và quy chế pháp lý của Trường Sa. Đối với quyền lịch sử, Tài liệu vẫn dựa trên cái gọi là thực tiễn trước khi có UNCLOS để khẳng định về sự tồn tại của quyền lịch sử và danh nghĩa lịch sử. Đáng chú ý, Nghiên cứu dẫn lại một loạt các tài liệu về hoạt động của người dân Trung Quốc tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa để khẳng định sự tồn tại của quyền lịch sử của Trung Quốc tại Biển Đông. Tuy nhiên, các tài liệu này chủ yếu chỉ dẫn các “bằng chứng” về thực tiễn đánh cá, thu thập sản vật hoặc sinh sống tại Hoàng Sa và Trường Sa, không bao gồm các thực tiễn liên quan đến tài nguyên dầu mỏ và khí đốt. Từ đó, việc Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử rộng lớn đối với tài nguyên sinh vật và phi sinh vật biển là thiếu cơ sở pháp lý.
Trên thực tế, quyền lịch sử mới chỉ tồn tại rất hạn chế qua yêu sách biển của một vài quốc gia. Theo đó, quyền lịch sử là các quyền được yêu sách dựa trên lịch sử sử dụng biển lâu dài của quốc gia ven biển và phải được các quốc gia hữu quan công nhận. Trong những điều kiện chặt chẽ này, quyền lịch sử cũng mới chỉ được Tòa thừa nhận với phạm vi hạn chế ở quyền đánh cá. Tại Biển Đông, yêu sách quyền lịch sử cho vùng nước nằm trong đường chín đoạn chưa từng nhận được sự công nhận của các quốc gia hữu quan. Trong phán quyết, Tòa Trọng tài cũng đã phân tích tòan diện và rút ra kết luận rằng nếu Trung Quốc đã từng có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các vùng biển ở Biển Đông thì những quyền đó đã bị xóa bỏ khi Công ước có hiệu lực do các quyền này không phù hợp với hệ thống các vùng biển của Công ước, vì vậy không có căn cứ pháp lý nào để Trung Quốc yêu sách các quyền lịch sử đối với tài nguyên tại vùng nước nằm trong “đường 9 đoạn”, Trung Quốc chỉ có các quyền theo quy định của UNCLOS.
Về quy chế pháp lý của Trường Sa: Tài liệu cho rằng toàn bộ tất cả các cấu trúc gần Trường Sa được gộp lại thành quần đảo Trường Sa và nó “thuộc chủ quyền của Trung Quốc”. Đồng thời, vùng biển của “quần đảo” Trường Sa theo quy định của “tập quán quốc tế”, tương tự quy chế của quốc gia quần đảo, tức là có đường cơ sở bao quanh tất cả các cấu trúc xa nhất của quần đảo và từ đó xác định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho cả quần đảo. Tài liệu cũng cố tình bỏ qua lịch sử đàm phán UNCLOS, phương án áp dụng đường cơ sở quần đảo cho nhóm đảo xa bờ đã được đề xuất nhưng cuối cùng đã được các nước thành viên trong đó có Trung Quốc nhất trí loại bỏ. Các thực tiễn ít ỏi, thiếu nhất quán và bị phản đối sau khi UNCLOS có hiệu lực không đủ để hình thành một tập quán quốc tế về việc áp dụng đường cơ sở thẳng kiểu quần đảo cho nhóm đảo xa bờ của quốc gia lục địa. Từ các lập luận về quyền lịch sử và quy chế của Trường Sa, Tài liệu tiếp tục cho rằng các hoạt động bất hợp pháp của Trung Quốc ở Biển Đông là các hoạt động “bảo vệ chủ quyền và thực thi quyền tài phán”. Tuy nhiên, do quyền lịch sử của Trung Quốc bị bác bỏ và các cấu trúc của Trường Sa không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, phần lớn Biển Đông là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước ven biển, theo đó, Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán.
Liên quan vấn đề ô nhiễm môi trường biển: Tài liệu ngụy biện cho rằng Tòa lập luận về hành động gây tổn hại cho hệ sinh thái không đồng nhất với ô nhiễm môi trường biển. Đồng thời, cho rằng hành động của tàu thực thi pháp luật với các tàu của Philippines không vi phạm Quy tắc phòng ngừa đâm va trên biển (COLREGs) mà nhằm trấn áp hành vi vi phạm quyền qua lại không gây hại tại Bãi Cỏ Mây.
Liên quan tiến trình tố tụng: Tài liệu một lần nữa ngụy biện khi cho rằng “không chấp nhận” và “không tham gia” khác với “không có mặt”. Từ đó, Tòa không thể sử dụng tố tụng khi một bên không có mặt với việc không chấp nhận và không tham gia của Trung Quốc. Đồng thời, Tại liệu cũng cố tình chỉ trích vai trò của Chủ tịch Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS), thẩm phán Shunji Yunai, khi cho rằng việc bổ nhiệm trọng tài thiếu tính đại diện. Trong khi đó quyền quyết định của Chủ tịch ITLOS đã được quy định rõ trong Phụ lục VII và chính việc Trung Quốc từ chối không bổ nhiệm trọng tài đã làm phát sinh quyền của Chủ tịch ITLOS trong việc bổ nhiệm trọng tài đại diện cho Trung Quốc và các trọng tài viên còn lại.
Giới luật gia Trung Quốc vẫn đang tìm cách ngụy biện và phản bác phán quyết của Tòa Trọng tài
Việc Hội Luật quốc tế Trung Quốc công bố và in ấn, phát hành Tài liệu trên thể hiện góc nhìn sai lệch của học giả Trung Quốc với luật quốc tế. Tuy nhiên, hành động này của giới luật gia Trung Quốc là nhằm tìm mọi lập luận để bảo vệ cho lập trường chính thức của Trung Quốc, bảo vệ các yêu sách thiếu cơ sở pháp lý của Trung Quốc tại Biển Đông.
Thông qua Tài liệu trên cho thấy tham vọng kiểm soát Biển Đông bằng cách tiếp tục duy trì đồng thời hai cơ sở pháp lý là quyền lịch sử trong vùng nước bên trong “đường lưỡi bò” và quy chế quốc gia quần đảo cho các nhóm đảo xa bờ. Về quyền lịch sử, nghiên cứu cho thấy, trái với một số nhận định và trông đợi của quốc tế sau phán quyết, các học giả Trung Quốc không từ bỏ “đường lưỡi bò”, không muốn giải thích “đường lưỡi bò” phù hợp với luật pháp quốc tế mà vẫn đang tìm cách giải thích, biện minh cho “đường lưỡi bò” trên cơ sở cái gọi là thực tiễn tồn tại trước UNCLOS.
Với việc giải thích phạm vi quyền lịch sử và quy chế pháp lý của các quần đảo như lập luận trong Tài liệu, Trung Quốc sẽ có thể tuyên bố đường cơ sở quần đảo cho Trường Sa và Trung Sa (bao gồm cả Bãi cạn Scarborough); đồng thời, mở rộng phạm vi các hành động bất hợp pháp vào sâu trong các vùng biển của các quốc gia ven biển. Tuy nhiên, các hành động như vậy sẽ trái với nghĩa vụ ràng buộc của Trung Quốc trong việc thực thi phán quyết, trái với các quy định của UNCLOS và không nằm trong phạm vi loại trừ của Điều 298 về các ngoại lệ của cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS. Vì vậy, các quốc gia bị xâm phạm quyền lợi hợp pháp trên biển vẫn có lựa chọn sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS để phản bác các hành động vi phạm pháp luật quốc tế của Trung Quốc tại Biển Đông và bảo vệ quyền lợi của mình tại Tòa Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS.
Giới chuyên gia quốc tế và khu vực nhận định Tài liệu không mang tính học thuật và được Chính phủ Trung Quốc hậu thuẫn
Nhìn chung, sau khi Hội Luật quốc tế Trung Quốc công bố Tài liệu trên, giới chuyên gia, học giả khu vực và quốc tế đưa ra nhiều cái nhìn khác nhau. Đa phần giới học giả phương Tây nhận định, Tài liệu không mang tính học thuật khách quan mà chủ yếu nhằm biện minh cho quan điểm của chính phủ Trung Quốc, được Bộ Ngoại giao Trung Quốc hậu thuẫn; lên án cho rằng học giả cần nghiên cứu độc lập với quan điểm của chính phủ nước họ, có thể ủng hộ hay phản đối phụ thuộc vào có phù hợp với luật quốc tế hay không. Điều quan trọng là không nhậm nhèm giữa vai trò học giả độc lập và luật sư cho chính phủ.
Trong khi đó, giới chuyên gia Trung Quốcbao biện cho rằng đây là cách để giới học giả Trung Quốc bảo vệ lợi ích quốc gia ở Biển Đông, và rằng đây là việc bình thường ở mọi nơi.
Canada và cách tiếp cận trong vấn đề Biển Đông:
Kiên quyết bảo vệ tự do hàng hải trong khu vực
Trong những năm gần đây, Canada đã có sự điều chỉnh chính sách liên quan vấn đề Biển Đông. Trước đây, để không làm ảnh hưởng quan hệ song phương với Trung Quốc, Canada thường hạn chế can thiệp và đưa ra những tuyên bố cụ thể về vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, kể từ khi Trung Quốc gia tăng các hoạt động cải tạo đảo nhân tạo (phi pháp) và tiến hành quân sự hóa trên các thực thể này, Canada đã tích cực can dự và thể hiện quyết tâm bảo vệ tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông.
Một số tuyên bố, hành động cụ thể của Canada liên quan vấn đề Biển Đông
Tư lệnh Blair Saltel, chỉ huy tàu hộ vệ HMCS Calgary của Canada (8/11/2018) cho biếtCanada đã triển khai chiến hạm HMCS Calgary đến Tây Thái Bình Dương để tập trận chống tàu ngầm chung với Nhật Bản và Mỹ. Hiện tàu Calgary neo đậu tại một căn cứ hải quân gần thủ đô Tokyo của Nhật Bản cùng với tàu cung ứng Asterix. Cả 2 tàu này đều rời khỏi Canada từ tháng Bảy để tham gia sứ mệnh đi qua biển Hoa Đông tới Australia và tiến vào Biển Đông. Trước khi trở về Canada, tàu hộ vệ HMCS Calgary sẽ tới Sasebo, phía tây Nhật Bản để tham gia thêm một đợt tập trận chiến tranh chống ngầm mới. Theo Đại tá Blair Saltel, Canada hy vọng mỗi năm có thể triển khai 1 hoặc 2 tàu chiến tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau với nhiều đồng minh khác nhau trong khu vực Biển Đông.
Tuyên bố chung trong chuyến thăm Canada của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (10/6/2018), Việt Nam và Canada nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, ủng hộ việc duy trì trật tự dựa trên pháp luật trên biển và đại dương, bao gồm Biển Đông. Cách tiếp cận này dựa trên luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS); ủng hộ bảo đảm tự do hàng hải, hàng không, thương mại và việc sử dụng đại dương vì các mục đích hòa bình, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển; khẳng định ủng hộ giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông, bao gồm tôn trọng đầy đủ tiến trình ngoại giao và pháp lý và phù hợp với luật pháp quốc tế; nhấn mạnh vai trò quan trọng của ASEAN trong cấu trúc khu vực, ủng hộ những nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN thượng tôn pháp luật, vững mạnh và thịnh vượng và hoan nghênh những sáng kiến của ASEAN nhằm duy trì hòa bình, an ninh và chống đối đầu ở khu vực như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Trong tuyên bố chung đưa ra sau Hội nghị Ngoại trưởng và An ninh G7 tại Canada (28/4/2018), Ngoại trưởng các nước G7, trong đó Canada là một thành viên quan trọng, đã bày tỏ quan ngại sâu sắc về tự do hàng hải và việc tuân thủ luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Tuyên bố chung tái khẳng định cam kết thúc đẩy hợp tác quản lý hàng hải quốc tế để duy trì trật tự hàng hải dựa trên luật định của luật pháp quốc tế và quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) nhằm xây dựng lòng tin và đảm bảo an ninh; đồng thời quản lý và giải quyết hòa bình các tranh chấp mà không đe dọa sử dụng vũ lực hoặc có hành động cưỡng chế, phù hợp với luật pháp quốc tế thông qua các cơ chế giải quyết tranh chấp đã được công nhận và cơ chế trọng tài; tái khẳng định cam kết của G7 đối với tự do đi lại trên biển, bao gồm tự do tàu thuyền và máy bay, và các quyền khác, bao gồm các quyền và thẩm quyền của các quốc gia ven biển trong sử dụng các vùng biển theo đúng luật pháp quốc tế. Liên quan trực tiếp đến vấn đề Biển Đông và Hoa Đông, các Ngoại trưởng G7 nhấn mạnh “sự phản đối mạnh mẽ đối với bất kỳ hành động đơn phương nào làm leo thang căng thẳng và suy yếu ổn định khu vực cũng như trật tự dựa trên luật pháp quốc tế, chẳng hạn như đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, cải tạo đất đai quy mô lớn, xây dựng các tiền đồn và sử dụng chúng cho mục đích quân sự”. Các Ngoại trưởng G7 kêu gọi “tất cả các bên tuân thủ các nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế và thực hiện đầy đủ và hiệu quả các cam kết trong Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) một cách toàn diện”. Các Ngoại trưởng G7 nhấn mạnh tầm quan trọng của các cuộc đàm phán đang diễn ra đối với một bộ quy tắc ứng xử hiệu quả, đồng thời hoan nghênh một thỏa thuận không vi phạm quyền của các bên theo luật quốc tế, hoặc không làm ảnh hưởng đến quyền của bên thứ ba. Theo các Ngoại trưởng G7, để đảm bảo ổn định trong khu vực, những nỗ lực ngoại giao như vậy sẽ dẫn đến việc phi quân sự hóa các điểm tranh chấp và duy trì một Biển Đông hòa bình, cởi mở theo luật pháp quốc tế. Các Ngoại trưởng G7 coi phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa Trọng tài Thường trực Liên hợp quốc là cơ sở hữu ích cho những nỗ lực tiếp theo để giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Bên cạnh đó, các Ngoại trưởng G7 tái khẳng định quan tâm đối với việc phá hủy các hệ sinh thái biển ở Biển Đông đe dọa sự bền vững và trữ lượng cá trong khu vực. G7 cam kết sẽ thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm tăng cường bảo vệ môi trường biển và tăng cường hợp tác quốc tế hơn nữa về an ninh, an toàn hàng hải, bảo vệ và quản lý bền vững môi trường biển.
Thượng viện Canada (24/4/2018) đã thông qua bản kiến nghị của nghị sĩ đảng Bảo thủ chỉ trích hành vi gây hấn của Trung Quốc tại Biển Đông. Kiến nghị “lên án hành vi thù địch và leo thang” của Trung Quốc tại Biển Đông, đồng thời kêu gọi toàn bộ các bên liên quan đến những tranh chấp tại Biển Đông đảm bảo quyền tự do hàng hải và hàng không trong khu vực, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển. Ngoài ra, kiến nghị này còn kêu gọi chấm dứt các hoạt động xây dựng đảo nhân tạo và quân sự hóa trong khu vực, yêu cầu các nước tìm giải pháp hòa bình và tôn trọng những phán quyết của cơ quan phân xử quốc tế. Thượng nghị sĩ Bảo thủ Thanh Hai Ngo tuyên bố bằng cách thông qua bản kiến nghị, thượng viện Canada đã gửi đi thông điệp mạnh mẽ tới Trung Quốc rằng hành vi của quốc gia này trên Biển Đông là không thể chấp nhận và Thượng viện Canada cũng thúc giục Chính phủ đóng vai trò nguyên tắc đối với tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông trong giai đoạn hiện nay.
Trong buổi tiếp Bộ Trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch, Phó Chủ tịch Hạ viện Canada Bruce Stanton, Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng-An ninh của Hạ viện Stephan Fuhr, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại và thương mại quốc tế của Thượng viện Raynell Andreychuk, Thư ký đối ngoại của Thủ tướng Canada Pamela Goldsmith-Jones và Tổng Thư ký Thượng viện Charles Robert (5-6/12/2016) đều cho rằng tình hình an ninh tại châu Á-Thái Bình Dương về cơ bản là hòa bình và ổn định, các cơ chế hợp tác đa phương ngày càng phát triển, đóng góp tích cực vào duy trì hòa bình, an ninh chung; nhất trí cho rằng việc giải quyết các vấn đề xung đột, tranh chấp chủ quyền Biển Đông cần phải thông qua biện pháp hòa bình, trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, các tuyên bố chung giữa Trung Quốc và ASEAN như Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), các tuyên bố cấp cao khác của ASEAN về Biển Đông và tiến tới Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Sau khi Tòa Trọng tài ra phán quyết liên quan vị kiện của Philippines ở Biển Đông, Bộ trưởng Ngoại giao Canada Stéphan Dion (22/7/2016) tuyên bố Canada tin rằng các bên cần tuân thủ phán quyết của Tòa Trọng tài, dù có đồng tình với quyết định đó hay không; nhắc lại cam kết của Canada luôn hướng tới “duy trì luật pháp quốc tế và nỗ lực cho một trật tự dựa trên luật pháp quốc tế đối với các vấn đề tranh chấp trên biển”; đồng thời thể hiện quan ngại sâu sắc về những căng
thẳng trong khu vực đã bị đẩy lên trong những năm qua và có nguy cơ hủy hoại hòa bình và ổn định trong khu vưc. Ông Dion khẳng định và cho biết thêm rằng “điều quan trọng nhất là tất cả các nước cần kiềm chế, tránh ép buộc và có những hành động gây gia tăng căng thẳng”. Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Canada Harjit Sajjan có thái độ hòa dịu hơn khi không chỉ trích trực tiếp Trung Quốc, cho rằng Canada không đứng về bên nào trong tranh chấp ở Biển Đông, nhận địn có những cơ quan quốc tế chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông và đưa ra những quyết định trong khuôn khổ luật pháp và các bên cần phải tôn trọng những quyết định đó.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Canada Adam Austen cho biết, Canada vẫn lo ngại về căng thẳng trong khu vực liên quan đến các tranh chấp ở Biển Đông, nhấn mạnh điều thiết yếu là tất cả các quốc gia trong khu vực kìm chế và tránh sự cưỡng ép và các hành động sẽ làm leo thang căng thẳng.
Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện CanadaRaynell Andreychuck (25/6/2014)đánh giá cao sự kiềm chế của Việt Nam trước việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 ở Hoàng Sa và ủng hộ các biện pháp hòa bình giải quyết tình hình.
Nguyên nhân Canada tăng cường can thiệp vào vấn đề Biển Đông
Canada có thái độ cứng rắn trước những hành vi phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông là do: (1) Khu vực Biển Đông có vai trò đặc biệt quan trọng liên quan vấn đề tự do hàng hải trong khu vực cũng như trên thế giới. Nếu tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông không được giải quyết và khi xảy ra xung đột quân sự trong khu vực nó sẽ gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của nhiều nước. Canada cũng là một quốc gia buôn bán với các quốc gia châu Á Thái Bình Dương và cũng là một thành viên của TPP (Hiệp Định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương). Vì vậy, vấn đề Biển Đông có liên quan trực tiếp đến lợi ích và an ninh quốc gia của Canada. (2) Trung Quốc tiến hành các hoạt động đơn phương ở Biển Đông là vi phạm các quy định luật pháp quốc tế, Canada có trách nhiệm thông qua các hành động của mình để cảnh báo các nước trên thế giới thấy rõ âm mưu của Trung Quốc ở Biển Đông. (3) Canada là một quốc gia tôn trọng tự do dân chủ và luật pháp quốc tế nên Canada không thể là ngơ trước thực các quốc gia nhỏ như Indonesia, Philippines, Việt Nam có tranh chấp với Trung Quốc và bị Trung Quốc lấn lướt. Vì vậy, Canada phải có tiếng nói cùng với các đồng minh ngoại giao của mình ở khu vực Đông Nam Á.
Xu hướng chính sách của Canada liên quan vấn đề Biển Đông
Thời gian tới, Canada sẽ đóng vai trò ngoại giao nhiều hơn. Canada có ảnh hưởng với các quốc gia bạn trong vùng. Dù Canada không phải là một siêu cường như Mỹ, nhưng Canada có ảnh hưởng về ngoại giao nên Canada có thể dùng tiếng nói của mình để cùng thảo luận với các quốc gia khác. Nếu các quốc gia cùng đồng ý thì kêu gọi yêu cầu Trung Quốc ngồi xuống thảo luận về Biển Đông.
Trong khi đó, chuyên gia Dave Beitelman (Đại học Dalhousie) cho biết, Chính phủ Canada coi châu Á – Thái Bình Dương là khu vực ưu tiên hợp tác trọng điểm do có nhiều nền kinh tế đang nổi, trong đó Trung Quốc rõ ràng giữ vị trí quan trọng nhất. Không chỉ về kinh tế, Canada cũng đang tìm kiếm tư cách thành viên trong các thể chế có chức năng kiến tạo cấu trúc an ninh và kinh tế khu vực như Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+). Do vậy, Canada cần phải thay đổi chính sách “giữ im lặng” của mình trong vấn đề Biển Đông. Ottawa cần lên tiếng trước những thách thức nổi lên đang đe dọa ổn định ở khu vực, nơi Canada sắp có những lợi ích kinh tế và chiến lược to lớn. Những quan ngại trước đây cho rằng Canada không có lợi ích chiến lược thực sự ở Biển Đông, Canada không nên làm mếch lòng Trung Quốc (đối tác thương mại lớn thứ hai của Canada, sau Mỹ), hay Ottawa không có đủ năng lực thay đổi hành vi của Bắc Kinh… nên được xem xét lại. Trên thực tế, ổn định ở châu Á – Thái Bình Dương mang lại cho Canada những lợi ích cũng nhiều như như ổn định ở Đông Âu, nếu không muốn nói còn nhiều hơn. Vì thế, sự trỗi dậy của Bắc Kinh, ở chừng mực nào đó, sẽ ảnh hưởng đến các lợi ích của Canada. Trong bối cảnh đó, Canada cần mạnh mẽ thể hiện rõ quan điểm của mình trước một vấn đề quan trọng đang đe dọa ổn định ở một trong những vùng biển trọng yếu nhất của thế giới. Canada không nên quá né tranh nếu thực sự muốn trở thành một quốc gia bảo vệ chuẩn mực đạo đức chung và có niềm tin trách nhiệm như chính học thuyết giao giao mới của nước này.
Hành động đáp trả thiếu căn cứ của Trung Quốc
Bộ Ngoại giao Trung Quốc (25/4/2018) phản pháo rằng Khuyến nghị của Thượng viện Canada “không có tính ràng buộc” và việc Canada kêu gọi chấm dứt các hành động của Trung Quốc tại Biển Đông là “vô trách nhiệm và sẽ khuấy động rắc rối”. Cùng quan điểm trên, Đại sứ quán Trung Quốc tại Canada tuyên bố “lấy làm tiếc” về cuộc bỏ phiếu mà họ cho rằng gây ảnh hưởng xấu đến quan hệ song phương.
Trong khi đó giới truyền thông Trung Quốc tìm cách chỉ trích Canada tăng cường can thiệp trong vấn đề Biển Đông. Thời báo Hoàn Cầu (30/4/2018) cho rằng Canada phải áp dụng chính sách toàn diện và ổn định về Trung Quốc, đồng thời cảnh báo hành động của Canada sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa hai nước.
Tranh chấp Biển Đông: Trung Quốc hy vọng
đạt được bộ quy tắc ứng xử với ASEAN trong 3 năm tới
Trung Quốc đặt mục tiêu hoàn tất việc đàm phán một bộ quy tắc ứng xử trên vùng biển Đông có nhiều tranh chấp trong vòng 3 năm tới trong lúc Bắc Kinh tìm kiếm mối quan hệ bền vững với các nước láng giềng.
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đưa ra cam kết trên hôm 13/11 tại Singapore trước khi tham dự một hội nghị thượng đỉnh hàng năm của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), theo báo Nam Hoa Buổi Sáng của Hong Kong (SCMP).
Thủ tướng Trung Quốc nói một môi trường quốc tế hòa bình và ổn định là thiết yếu đối với Bắc Kinh để cải thiện các mối quan hệ và đạt được các hiệp định thương mại tự do với các nước láng giềng. Ông Lý nói thêm rằng Trung Quốc hy vọng hoàn tất các cuộc thương thảo cho một hiệp định thương mại đối tác kinh tế toàn hiện khu vực vào năm tới.
Thủ tướng Lý còn nói rằng một bộ quy tắc ứng xử giữa Trung Quốc và các quốc gia có tuyên bố chủ quyền (trên Biển Đông) – mà Trung Quốc hy vọng sẽ được đàm phán thành công trong 3 năm tới – sẽ có lợi cho việc duy trì và ổn định nền hòa bình trong khu vực.
“Trong khi tình hình trên Biển Nam Trung Hoa giờ đây đã ổn định, chúng tôi hy vọng tận dụng cơ hội này để thúc đẩy một tiến trình chắc chắn cho bộ quy tắc,” ông Lý nói.
“Trung Quốc và các nước ASEAN sẽ hưởng lợi từ tiến trình này, và nó cũng sẽ có lợi cho thương mại tự do và sau đó phục vụ lợi ích cho các bên liên quan,” theo Thủ tướng Trung Quốc.
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN diễn ra trong lúc các căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ tăng cao cũng như cả hai cường quốc đều tìm cách có được ảnh hưởng trong khu vực. Bị kẹt trong cuộc chiến thương mại với Mỹ, Trung Quốc đang nhắm mục tiêu đạt được các hiệp định thương mại với các nước trong khối Đông Nam Á.
Các tàu chiến của Mỹ và Trung Quốc cũng đã xuýt đâm vào nhau trên Biển Đông.
Cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ John Bolton hôm 13/11 nói rằng Mỹ phản đối các biện pháp quân sự đơn phương trong vùng biển có tranh chấp.
Những lời kêu gọi lập một bộ quy tắc ứng xử được đưa ra vào năm 1995 khi Trung Quốc chiếm rạn san hô Đá Vành khăn, một thực thể trên biển mà Philippines có tuyên bố chủ quyền. Trung Quốc không đồng ý tiến hành thảo luận về bộ quy tắc này cho tới tận năm 1999, và vác cuộc thương thảo sau đó dẫn tới một tuyên bố ứng xử không có tính ràng buộc pháp lý vào năm 2002.
Collin Koh, một chuyên gia về an ninh hàng hải của Đại học Kỹ thuật Nanyang ở Singapore, nói với SCMP rằng vẫn còn lâu mới có thể hoàn tất được bộ quy tắc ứng xử khi các nước ASEAN còn đang bàn cãi xem nó có nên ràng buộc về pháp lý hay không.
“Và dường như là một số, nếu không phải là tất cả, các nước thành viên ASEAN đã hạ giảm kỳ vọng vào bộ quy tắc ứng xử,” ông Koh nói. “Bản dự thảo thương thảo có nhiều điều khoản được đề xuất và do có nhiều bên tham gia bàn thảo, nó chắc chắn sẽ mất nhiều thời gian. Thực sự sẽ không ngạc nhiên nếu mất hơn ba năm để hoàn tất.”