Tin Biển Đông – 09/11/2018
Âm mưu thực sự của TQ ở Biển Đông:
Từ ý đồ chiến lược đến hành động phi pháp
Trong những năm gần đây, Trung Quốc liên tục sử dụng nhiều chiêu trò đánh lừa cộng đồng quốc tế rằng Bắc Kinh muốn độc chiếm Biển Đông nhằm phục vụ các lợi ích kinh tế như dầu khí, đánh bắt cá, bảo vệ môi trường… Nhưng đây có thể chỉ là những lý do bề mặt nhằm che giấu những ý định và lợi ích sâu xa của Trung Quốc. Bản chất âm mưu thực sự của Trung Quốc đều liên quan việc triển khai chính sách quốc phòng để phá vỡ vòng bao vây, kiềm tỏa của Mỹ và đồng minh trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong đó, Biển Đông được coi là “con bài chiến lược” của Trung Quốc để đối phó với Mỹ và đồng minh.
Âm mưu chiến lược của Trung Quốc trên Biển Đông:
(1) Trung Quốc tìm cách đảm bảo tự do hàng hải trên Biển Đông cho lực lượng hải quân, đặc biệt là lực lượng tàu ngầm chiến lược và tàu sân bay. Đây là lý do chính của việc Trung Quốc nhất quyết muốn biến Biển Đông thành một khu vực bất khả xâm phạm nhằm thực hiện những mưu đồ chiến lược quân sự của Bắc Kinh.
(2) Biến Đài Loan thành vùng lãnh hải thực sự tự do hoàn toàn để tàu bè Trung Quốc có thể tự do tiến ra biển khơi, ít nhất là trong thời bình, hoặc trong các cuộc khủng hoảng cấp thấp, xa hơn nữa là trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh thứ hai có vẻ như đã bắt đầu hình thành.
(3) Bố trí tàu ngầm chiến lược đến các vị trí nằm có thể sử dụng tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) tấn công tới Mỹ. Việc Trung Quốc tìm cách bố trí kế hoạch trên xuất phát từ một số yếu tố sau: Quan hệ Trung – Mỹ không dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Quan hệ giữa hai nước chủ yếu vẫn là ngờ vực ngay cả khi cả hai đang cố gắng hết sức để duy trì đối thoại, kể cả trong lĩnh vực quốc phòng, nhằm tránh những sự cố có thể biến thành xung đột; Trung Quốc luôn coi Mỹ là một kẻ thù tiềm tàng, ngược lại Mỹ cũng không hề tin tưởng vào những hành xử hòa bình của Trung Quốc trong tương lai; Các nước làng giềng với Trung Quốc đều lo ngại sâu sắc trước sức mạnh quân sự đang tăng lên của Trung Quốc. Nhật Bản gần đây liên tục điều chỉnh chính sách quốc phòng, sửa đổi Hiến pháp, tăng cường sức mạnh quân sự và hiện diện ở Biển Đông. Các nước ASEAN vì các lợi ích xung đột hiện nay ở Biển Đông, đều lo sợ rằng Trung Quốc sẽ áp đặt các giải pháp đơn phương bằng vũ lực để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, khiến các nước liên quan trực tiếp tới tranh chấp như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei hoặc những nước đang tỏ ra thực sự quan ngại như Indonesia và Singapore đang cố gắng kháng cự lại tham vọng bá quyền của Trung Quốc bằng cách tìm kiếm giải pháp hòa bình cho tình hình mà không phải từ bỏ những lợi ích riêng ở khu vực. Tình hình này tạo ra sự chia rẽ giữa các quốc gia Đông Nam Á có liên quan và Trung Quốc đang cố gắng tận dụng điều này để tạo lợi thế. Trung Quốc đã phần nào thành công vì đã chia rẽ được ASEAN trong vấn đề Biển Đông.
(4) Cố tình vận dụng sai các quy định của luật pháp quốc tế nhằm tìm cách biện minh, xâm chiếm chủ quyền trên Biển Đông. Bằng cách tuyên bố chủ quyền dựa vào “đường chín đoạn”, Trung Quốc đang dựng lên một lý lẽ để bao biện cho những tham vọng của mình đối với khu vực. Trung Quốc áp dụng sai quy định về vẽ đường cơ sở thẳng cho quần đảo Hoàng Sa (của Việt Nam). Hành động này của Trung Quốc vừa vi phạm các quy định của UNCLOS (Điều 121 về quy chế các đảo) và vừa xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc sử dụng vũ lực xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam).
(5) Tìm cách đánh lừa cộng đồng quốc tế về yêu sách chủ quyền theo “đường 9 đoạn”. Trung Quốc coi “đường 9 đoạn” là đường trung tuyến giữa phần lãnh thổ là đảo của Trung Quốc với các quốc gia tiếp giáp trên Biển Đông, coi khu vực trong “đường 9 đoạn” là vùng đặc quyền kinh tế hoặc lãnh hải của Bắc Kinh. Ngoài ra, Bắc Kinh cũng coi khu vực này là “vùng nước lịch sử”, viện cớ rằng “đường 9 đoạn” đã tồn tại hơn sáu mươi năm và không quốc gia nào tỏ ý phản đối sự tồn tại của đường này kể từ khi Cục Địa lý thuộc Bộ Nội vụ, Cộng hòa Trung Hoa sau này, dưới sự lãnh đạo của Quốc Dân Đảng, in Bản đồ vị trí các đảo Biển Nam Trung Hoa (Nanhai zhudao weizhi tu) vào năm 1947. Trung Quốc cố tình vận dụng sai các quy định của luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS để diễn giải, lừa bịp cộng đồng quốc tế về cái gọi là “chủ quyền hợp pháp” của Bắc Kinh ở Biển Đông nhằm: Cho phép
Trung Quốc cấm hải quân nước ngoài đi vào khu vực biển này vì, trong trường hợp này phần biển trong “đường 9 đoạn” sẽ được coi là vùng lãnh hải của Trung Quốc; cấm hải quân nước ngoài đi vào khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, nhờ đó tàu ngầm, tàu chiến của Trung Quốc có thể hoạt động tự do ở Biển Đông; gia tăng khả năng kiểm soát tình hình eo biển Đài Loan; ngăn cản Mỹ và các nước đồng minh hiện diện quân sự ở Biển Đông.
(6) Thông qua độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc sẽ củng cố lực lượng quốc phòng để thực hiện ý đồ thống nhất với Đài Loan. Từ trước đến nay, Trung Quốc vẫn luôn coi Đài Loan là lợi ích cốt lõi và là một phần không thể tách rời của Trung Quốc. Chính vì vậy, Bắc Kinh đang củng cố và triển khai tổng hợp các biện pháp (từ quân sự, ngoại giao, kinh tế, chính trị…) để có thể thống nhất với Đài Loan khi thời cơ đến. Không những vậy, Đài Loan còn có vị trí địa chiến lược quan trọng, nó là nới giao nhau giữa Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trung Quốc muốn rời một trong hai vùng biển này để tiến ra Thái Bình Dương đều phải đi qua các eo biển khác ngang qua các đảo rải rác trong khu vực. Trong số này, một số eo biển khá rộng, như Eo biển Okinawa-Miyako rộng khoảng 150 dặm. Tuy nhiên phần lớn các eo biển đều hẹp. Do đó trong thời gian khủng hoảng hoặc chiến tranh, tất cả các lối đi này đều dễ dàng bị chặn hoặc mai phục nếu có đủ số lượng tàu ngầm và các phương tiện hải quân khác. Đây là vấn đề hải quân Trung Quốc đang phải đối mặt khi muốn tiến ra đại dương. Trong thời bình, lực lượng hải quân Trung Quốc không thể di chuyển mà không bị phát hiện khi đi qua các chuỗi đảo nhỏ này. Trên thực tế, việc thống nhất Đài Loan còn sẽ giúp hải quân Trung Quốc có vùng lãnh hải an toàn thực sự bởi vùng nước của Đài Loan khi đó sẽ thuộc toàn quyền kiểm soát của Bắc Kinh: về phía Bắc Đài Loan vùng nước này kéo dài tới quần đảo Điếu Ngư, về phía Nam vùng nước bao trùm nửa Eo biển Bashi. Nhờ vậy Hải quân Trung Quốc có thể tự do đi lại trên Thái Bình Dương qua những vùng nước nay đã thuộc lãnh hải của Trung Quốc. Nếu những tuyến đường này được lưu thông tự do trong thời bình thì trong bối cảnh chiến tranh sẽ không ngăn được các lực lượng thù địch dùng chiến lược phong tỏa để cấm các phương tiện hải quân Trung Quốc ra vào các vùng nước tự do của Thái Bình Dương.
(7) Ngoài ra, âm mưu độc chiếm các nguồn tài nguyên, khoáng sản, hản sản ở Biển Đông cũng là một trong những mục đích quan trọng của Bắc Kinh để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong nước. Biển Đông là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của Trung Quốc cũng như các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippines, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5 – 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 7 – 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới. Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney – Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa sông Châu Giang. Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước khai thác và sản xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan … trong đó Indonesia là thành viên của OPEC. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 – 20 năm tới. Ngoài ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác được coi là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
Các bước triển khai cụ thể của Trung Quốc:
(1) Đảm bảo cho chiến lược tiền diên phòng ngự (forward defense) bằng cách dựa vào đường xanh kéo dọc theo chuỗi đảo Mariana do Lưu Hoa Thanh, cố Tư Lệnh Hải Quân Quân đội Nhân dân Trung Quốc (PLAN) vạch ra năm 1985. Nhờ đó có thể đưa các phương tiện hải quân vào phạm vi gần nhất có thể tiếp cận lãnh thổ Mỹ, đặc biệt là tàu ngầm có tên lửa đạn đạo (SSBN).
(2) Ngăn hải quân Mỹ và các nước đồng minh tiến tới quá gần lãnh thổ của Trung Quốc. Để ngăn hải quân Mỹ tiến tới lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả Đài Loan, Trung Quốc đang bắt đầu tăng cường năng lực chống xâm nhập cùng với các phương tiện như tàu ngầm tấn công hạt nhân và phát triển lực lượng tàu sân bay hùng hậu. Khả năng chống xâm nhập này phụ thuộc vào việc sử dụng tên lửa diệt tàu sân bay DF-21C có tầm hoạt động trong vòng 1.500 km, được dùng để phát hiện mục tiêu di động bằng hệ thống dò tìm cảm biến quan sát vượt tầm nhìn để định vị và theo dõi chuyển động của tàu đang di chuyển. Tuy nhiên điều đó chưa đủ. Trên thực tế, để đảm bảo chiến lược tiền diên phòng ngự bằng cách dựa vào đường xanh và sau đó là đưa các phương tiện hải quân tiến xa ra khỏi Trung Quốc và tới gần lãnh thổ Mỹ, Trung Quốc cần những con đường an toàn tiến ra biển khơi. Đây là một trong các lý do Trung Quốc muốn biến Biển Đông thành một thánh địa, để có thể đảm bảo triển khai đội tàu ngầm một cách an toàn từ Tam Á tới phần sâu nhất của Biển Đông.
(3) Tăng cường phát triển lực lượng hải quân. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đặc biệt chú trọng phát triển lực lượng hải quân. Trung Quốc hiện có khoảng 700 tàu chiến các loại, trong đó có 02 tàu sân bay, 29 tàu tuần dương, 49 tàu khu trục, 34 tàu hộ vệ, 68 tàu ngầm tấn công và hơn 100 tàu tên lửa; đáng chú ý các tàu mặt nước lớn của Trung Quốc đều có khả năng triển khai tên lửa tấn công và một số chiếc có còn khả năng chiến khai cả vũ khí hạt nhân chiến thuật; một số tàu chiến của Trung Quốc được đánh giá là có tính năng ưu việt so với mặt bằng chung của các nước, như: Tàu khu trục lớn nhất châu Á Type 055; tàu đổ bộ Type 071 (dài 210 m và độ choán nước 25.000 tấn); 4 tàu ngầm hạt nhân Type 094 lớp Tấn (lượng giãn nước 11.000 tấn) là khả năng tấn công hạt nhân, mỗi tàu được trang bị 12 tên lửa đạn đạo JL-2 và tên lửa chống tàu. Không quân của Hải quân Trung Quốc có 346 máy bay (đứng thứ hai trên thế giới về số lượng, đứng sau Mỹ). Hiện lực lượng này có khoảng 30 máy bay ném bom chiến lược Tây An H-6, có khả năng mang được tên lửa hành trình chống tàu mặt nước tốc độ cận âm; 8 máy bay cảnh báo sớm KJ-200, 5 máy bayY-8 ELINT được trang bị các khí tài trinh sát điện tử, 3 máy bay bay tuần tra chống ngầm tầm xa Y-8MPA trang bị các hệ thống radar trinh sát mặt nước, hệ thống định vị thủy âm tìm kiếm tàu ngầm, 32 máy bay vận tải hạng trung Y-8 (có thể chở 96 lính thường hoặc 82 lính dù hoặc 20 tấn hàng hóa); 20 máy bay J-15, 20 máy bay chiến đấu J-10, 24 máy bay chiến đấu Su-30MK2, 24 máy bay chiến đấuJ-11BH,120 máy bay chiến đấu JH-7 và JH-7A; 48 máy bay J-8II, 35 máy bay J-7D/E (loại cũ, tính năng hạn chế, sản xuất từ những năm 1970); 26 trực thăng vận tải kiêm nhiệm vụ tuần tra biển Z-8… Ngoài ra, Trung Quốc hiện có tàu sân bay Liêu Ninh mới được đưa vào sử dụng từ năm 2012 và mới hạ thủy tàu sân bay nội địa đầu tiên. Hiện nhóm tàu sân bay Liêu Ninh đang sử dụng một tàu khu trục Type-052D, 2 tàu khu trục Type-052C, 2 tàu hộ vệ tên lửa Type-054, 2 tàu ngầm hạt nhân chiến lược, một tàu hộ tống Type-056 và tàu cung cấp Type-903. Tàu Liêu Ninh hiện mới được trang bị phi đội 24 máy bay chiến đấu J-15.
(4) Tăng cường tập trận, tuần tra phi pháp trong khu vực. Trong những năm gần đây, Trung Quốc liên tục gia tăng tần suất, quy mô các cuộc tập trận bắn đạn thật phi pháp ở Biển Đông. Trong những lần tập trận này, Trung Quốc thường huy động một lượng lớn tàu chiến, máy bay chiến đấu, binh sỹ tham gia nhằm thị uy và đe dọa, cảnh cáo Mỹ và các nước đồng minh trong vấn đề Biển Đông.
(5) Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận quy mô lớn chưa từng thấy, huy động các thiết bị điện tử chặn sóng radar, tên lửa hạm đối không HQ-9B, tên lửa chống hạm (ACBM) YJ-12B, máy bay ném bom, máy bay tiêm kích J-11, pháp cao xạ, radar… đến các đảo đang tranh chấp trong khu vực. Với việc làm này, Trung Quốc bất chấp sự quan ngại, phản đối của cộng đồng quốc tế để thúc đẩy quân sự hóa ở Biển Đông, từng bước thực hiện âm mưu thôn tính Biển Đông.
(6) Cải tạo phi pháp các thực thể đang chiếm đóng trái phép ở Biển Đông. Tại quần đảo Hoàng Sa, lợi dụng tình trạng kiểm soát trên thực tế toàn bộ quần đảo này. Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều hoạt động quân sự phi pháp như xây đường băng trên đảo Phú Lâm có chiều dài 2.000m và sau đó là điều máy bay chiến đấu, bố trí tên lửa đất đối không HQ-9 ra đảo Phú Lâm; xây dựng trái phép căn cứ trực thăng quân sự trên đảo Quang Hòa. Tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hoạt động đáng chú ý nhất là kể từ năm 2014 Trung Quốc đã đẩy nhanh tiến độ xây dựng và cải tạo đá Tư Nghĩa, đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Xu Bi. Cụ thể:
Đá Tư Nghĩa: Trung Quốc cải tạo Đá Tư Nghĩa thành khu vực rộng 62.710m2; xây dựng kiên cố nhiều công trình như các công sự ven biển, bốn pháo phòng thủ, cầu cảng, cơ sở quân sự đa cấp, trạm radar, bãi đáp trực thăng, hải đăng.
Đá Ga Ven: Trung Quốc đã xây dựng tại phía Tây đá Ga Ven một bãi lớn bằng bê tông, một bến tàu cùng nhiều ụ súng, radar và các thiết bị thông tin liên lạc khác. Từ khoảng thời gian giữa tháng 4 và tháng 8/2014, Trung Quốc đã đào một kênh tại trung tâm của đá Ga Ven để lấy đất bồi thành một hòn đảo hình chữ nhật với kích thước xấp xỉ 300m x 250m. Phần mở rộng có diện tích 114.000m2, tính đến ngày 19/3/2015. Trên đá này, Trung Quốc xây dựng kênh tiếp cận, bệ súng phòng không, thiết bị liên lạc, tháp phòng thủ, cơ sở quân sự, bãi đáp trực thăng và đê chắn sóng.
Đá Gạc Ma: Ban đầu, các công trình xây dựng của Trung Quốc tại Gạc Ma chỉ là vài kết cấu hình “bát giác” xây trên cọc gỗ. Đến năm 1989, tại đây đã xuất hiện thêm hai tháp xi măng tròn, một ngôi nhà hai tầng cũng bằng xi măng, một ăng ten liên lạc vệ tinh cao 2,5m và liền kế bên một cột ăng-ten cao 2,4m. Đến thời điểm đầu năm 2013, các công trình nhân tạo trên đá Gạc Ma chỉ là một bãi nhỏ bằng bê tông được trang bị một số phương tiện thông tin liên lạc UHF/VHF, trạm radar, súng phòng không cùng với một bến tàu. Từ cuối năm 2013, các hình ảnh vệ tinh đã cho thấy sự hiện diện của tàu Tian Jing Hao tại khu vực đá Gạc Ma, mở đầu cho các hoạt động biến đá Gạc Ma này thành đảo nhân tạo. Đá Gạc Ma có diện tích xây dựng năm 2012 khoảng 4.128m2, nay Trung Quốc đã xây dựng lên 10,9ha (109.000m2), bao gồm sáu công trình khác nhau với một khu vực cảng. Đảo này sẽ trở thành khu căn cứ quân sự tổng hợp, có thể đốn các tàu tải trọng lên tới trên 5.000 tấn, có đường băng dài 1,6km đủ cất và hạ cánh các loại máy bay chiến đầu.
Đá Chữ Thập: Trước năm 2014, trên đá Chữ Thập chỉ có một trạm đồn trú của lính thủy đánh bộ của Trung Quốc, cũng với một số thiết bị radar giám sát, một nhà trồng rau, một sân bay trực thăng, một số bệ súng và pháo cùng hệ thống súng phóng lựu chống biệt kích DP-65. Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động cải tạo đảo tại đây từ tháng 8/2014. Ảnh vệ tinh tháng 6/2015 cho thấy, phần diện tích được Trung Quốc cải tạo trên đá Chữ Thập đã lên tới 2,79km2 (2.790.000m2), trở thành đảo nhân tạo lớn nhất Trường Sa. Nơi đây, sẽ trở thành một căn cứ hải lục, không quân hoàn chỉnh của Trung Quốc.
Đá Châu Viên: Trước năm 2013, các công trình nhân tạo được Trung Quốc xây dựng trên đá Châu Viên chỉ bao gồm căn cứ và một hệ thống khí tài được gia cố có khả năng chịu được sức gió lên đến 130 km/giờ. Căn cứ này có thể sử dụng làm nơi neo đậu cho các tàu tuần tra cỡ nhỏ của Trung Quốc. Ngày 13/9/2014, truyền thông nhà nước của Trung Quốc công bố hình ảnh chụp các công trình được xây dựng trên đá Châu Viên tương tự như những gì Trung Quốc xây dựng trên đá Gạc Ma. Diện tích phần cải tạo trên đá Châu Viên được mở rộng tới 119.711m2, tính đến ngày 14/3/2015. Những công trình xuất hiện tại đây gồm kênh tiếp cận, đê chắn sóng, bãi đáp trực thăng, các tòa nhà hỗ trợ, cơ sở quân sự, ăng-ten liên lạc vệ tinh, radar. Các hình ảnh vệ tinh cho thấy, nhiều công trình vẫn đang tiếp tục được xây dựng.
Đá Xu Bi: Trước đây, Trung Quốc đã cho xây dựng một bãi đáp trực thăng, một đồn gác nhỏ làm bằng bê tông để quân đội luân phiên đóng dân tàu hải quân tiến vào vùng biển bên trong. Đến tháng 5/2012, Trung Quốc cho xây thêm một radar hình vòm đặt trên đỉnh của tòa nhà bốn tầng được xây kiên cố tại đây. Phần đất cải tạo trên đảo được mở rộng đáng kể từ tháng 7/2014. Tới ngày 17/4/2015, hoạt động bồi đắp ở đá Xu Bi đã mở rộng lên tới 2,27km2 (2.270.000m2); truyền thông Trung Quốc đã khẳng định, kích thước của đá Xu Bi đã tăng thêm 1,8km2 (1.800.000m2). Trung Quốc hiện đã xây dựng trên đá Xu Bi các công trình gồm có: kênh tiếp cận, cầu cảng, các thiết bị thông tin liên lạc, radar, đê chắn sóng gia cố,
bãi đáp trực thăng, cơ sở quân sự và có khả năng Trung Quốc sẽ xây một đường băng dài khoảng 3.300m, có thể tiếp nhận được hầu hết các loại máy bay chiến đấu của lực lượng Trung Quốc.
Đá Vành Khăn: Cho tới cuối năm 2014, các công trình nhân tạo duy nhất tại bãi đá này chỉ gồm một trạm gác, một đồn quân sự với các tàu chiến và các tàu tuần tra biển của Trung Quốc. Ngày 05/02/2015, Trung Quốc bắt đầu cho tàu nạo vét các đảo. Chỉ sau vài tháng, Trung Quốc đã biến đá Vành Khăn trở thành một đảo nhân tạo có diện tích 2,42 km2 (2.420.000m2), tính đến ngày 13/4/2015. Hiện Trung Quốc vẫn đang đẩy nhanh tốc độ mở rộng đảo nhân tạo trên đá Vành Khăn, với sự hiện diện của tàu chiến đổ bộ, có khả năng chứa 500-800 quân tuần tra quanh đó.
Kết luận:
Về bản chất, Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông nhằm chiếm trọn khu vực có vị trí địa chiến lược quan trọng và nguồn tài nguyên phong phú phục vụ phát triển trong nước. Để đạt được âm mưu trên, Trung Quốc đã, đang và sẽ không từ bất kỳ thủ đoạn nào, dù cho thủ đoạn đó vi phạm luật pháp quốc tế và bị cộng đồng quốc tế lên án. Hành động này của Trung Quốc đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với tất cả các nước có lợi ích hợp pháp ở Biển Đông, cần đoàn kết, phối hợp chặt chẽ ngăn chặn các hành động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông.
Mỹ cương quyết
không để TQ lộng hành trên Biển Đông
Trao đổi với giới truyền thông, Đô đốc John Richardson, Tư lệnh Hải quân Mỹ (1/11) dự đoán những vụ chạm trán với tàu chiến Trung Quốc trên Biển Đông sẽ tiếp diễn, nhấn mạnh hạn chế tối đa tính toán sai lầm tránh dẫn đến các sự cố chiến lược.
Mỹ tiếp tục gia tăng các hoạt động tuần tra đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông
Đô đốc John Richardson cho biết: “Chúng ta nhìn thấy rõ Trung Quốc đang mở rộng hoạt động một cách chiến lược. Không có gì bất ngờ trước sự gia tăng các hoạt động hàng hải trong khu vực, đặc biệt là những hoạt động của hải quân Trung Quốc”; đồng thời nhấn mạnh Hải quân Mỹ cũng duy trì sự hiện diện thường xuyên trên vùng biển, nên sẽ “tiếp tục xảy ra các trường hợp hải quân 2 nước chạm trán”. Ông John Richardson cho rằng các bên cần tuân thủ đúng quy trình liên lạc giữa các lực lượng hải quân, duy trì tính chuyên nghiệp và tránh rủi ro trên biển, đảm bảo sự đi lại an toàn trên vùng biển quan trọng; tái khẳng định lập trường của Mỹ trong việc duy trì một khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở và tự do, trong đó ASEAN là tổ chức đóng vai trò quan trọng đối với sự ổn định của khu vực. Liên quan Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC), ông Đô đốc John Richardson cho rằng việc đàm phám COC hiện nay có những diễn biến rất tích cực, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc duy trì các tuyến đường an toàn trên vùng biển quốc tế; nhấn mạnh Mỹ hoan nghênh việc ASEAN cân nhắc cho các bên không ký kết tăng cường tham gia cùng với các nước thành viên COC, đồng thời đánh giá cao việc mở rộng giám sát không chỉ các hoạt động trên biển mà còn trên vùng trời Biển Đông và khẳng định Mỹ sẽ tiếp tục theo dõi những tiến triển đối thoại và kỳ vọng về các bước tiến mới. Liên quan kế hoạch diễn tập chung trên biển Mỹ – ASEAN 2019, Đô đốc Richardson cho biết mọi thứ vẫn đang trong giai đoạn lên ý tưởng và chưa có thông tin chi tiết, khẳng định Mỹ rất trông chờ cuộc diễn tập chung sắp tới, cho rằng đây là cơ hội để thể hiện sự toàn diện trong chính sách của ASEAN trong khu vực, sẵn sàng tiếp cận những đối tác không phải là quốc gia thành viên.
Trước đó, trong một cuộc họp báo tại Manila (Philippines), Đô đốc John Richardson (29/10) cho biết Mỹ sẽ tiếp tục chương trình tuần tra đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông, nhấn mạnh những hoạt động tuần tra như thế thể hiện lập trường của Mỹ chống lại những “tuyên bố chủ quyền biển phi pháp” trong khu vực.
Hoạt động của Mỹ ở Biển Đông là phù hợp các quy định luật pháp quốc tế
Các quan chức Hải quân đã cho biết việc Mỹ đưa tàu tuần tra đi vào khu vực 12 hải lý xung quanh các đảo, đá Trung Quốc đang chiếm đóng phi pháp là cần thiết để khẳng định lập trường của Mỹ rằng các đảo nhân tạo do Trung Quốc bồi đắp phi pháp không thể được coi là lãnh thổ có chủ quyền với vùng lãnh hải xung quanh; đồng thời khẳng định luật pháp quốc tế cho phép tàu quân sự quyền “qua lại tự do” trong các vùng biển quốc tế mà không cần thông báo. Ngoài ra, Biển Đông là khu vực có liên quan trực tiếp đến lợi ích quốc gia của Mỹ, vì vậy dựa trên các quy định của luật pháp quốc tế cũng như luật pháp của Mỹ, việc Washington tiến hành các kế hoạch tuần tra đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông là hợp pháp, cụ thể: (1) Mỹ tiến hành hoạt động trong vùng biển quốc tế nhằm thực thi quyền tự do biển cả, đây được xem là quyền đương nhiên của bất kỳ quốc gia nào. Ngoài ra, Biển Đông vốn tồn tại như một con đường giao thông huyết mạch, do đó, việc tuần tra, đảm bảo tự do hàng hải, hàng không trong khu vực là bảo vệ lợi ích chính đáng, hiển nhiên của Mỹ, cũng như các quốc gia khác có tuyến đường hàng hải đi qua Biển Đông. (2) Biển Đông không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích quốc gia của Mỹ, nó còn là khu vực có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một số nước đồng minh của Mỹ (Philippines, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia…). Nên việc tuần tra, kết hợp với các cuộc tập trận với các nước đồng minh là để củng cố mối quan hệ liên minh quân sự và thực hiện các cam kết, hiệp ước song phương với các nước đồng minh. Mỹ đã ký các Hiếp ước phòng thủ (30/8/1951) và Hiệp định hợp tác quốc phòng tăng cường (EDCA, 2014) với Philippines. Căn cứ vào hai Hiệp định này Mỹ hoàn toàn hợp pháp khi tiến hành hoạt động quân sự ở vùng biển thuộc quyền tài phán của Philiipines tại Biển Đông. (3) Tính chất và mức độ tiến hành các hoạt động quân sự đều nằm trong khuôn khổ an toàn, an ninh biển không đe dọa đến lợi ích của quốc gia khác. Dù cho Trung Quốc luôn bày tỏ quan ngại về sự xuất hiện thường xuyên của Mỹ ở Biển Đông sẽ làm căng thẳng thêm tình hình và mang tính chất đối đầu với quốc gia này. Tuy nhiên, đó chỉ là nhận định từ một phía Trung Quốc và không có cơ sở xác đáng cho lập luận này. Do đó, hoạt động quân sự mà Mỹ đang tiến hành ở Biển Đông nằm trong giới hạn của luật pháp quốc tế.
Mỹ tăng cường hiện diện và can dự ở Biển Đông nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia của Mỹ
Lợi ích của Mỹ tại Biển Đông nằm trong lợi ích đa dạng và trải rộng của Mỹ tại Đông Á/Tây Thái Bình Dương với tư cách là một cường quốc khu vực và toàn cầu. Trong một báo cáo gần đây, lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ bao gồm: (1) Bảo vệ lãnh thổ Mỹ, người dân Mỹ, đồng minh và lợi ích của Mỹ; (2) Ổn định khu vực và loại bỏ bất kỳ cường quốc vượt trội hay nhóm cường quốc nào sẽ đe dọa hay cản trở cơ hội hay lợi ích của Mỹ; (3) Phát triển khu vực và thúc đẩy tự do thương mại và mở cửa thị trường; (4) Đảm bảo một thế giới ổn định, an toàn và phi hạt nhân; (5) Thúc đẩy các giá trị toàn cầu, như quản lý tốt, dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo; (6) Đảm bảo tự do hàng hải, điều kiện tiên quyết để ổn định khu vực và bảo vệ lợi ích của Mỹ. Những lợi ích này luôn được duy trì cho dù chính quyền Mỹ có thay đổi. Mỹ gia tăng dính líu vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng là để phục vụ các lợi ích kể trên.
Tự do hàng hải là lợi ích then chốt và cũng là lợi ích kinh tế và an ninh quan trọng nhất đối với Mỹ. Biển Đông là tuyến đường thương mại quan trọng nhất và Mỹ coi tuyến đường này là vùng nước quốc tế cho phép tàu thuyền quân sự và thương mại tự do qua lại. Một phân tích của Mỹ nêu “Mối đe dọa đối với tự do hàng hải qua biển Đông sẽ phá vỡ nghiêm trọng đến kinh tế khu vực. Sự tăng trưởng của kinh tế và an ninh của Mỹ phụ thuộc vào việc duy trì tự do hàng hải với cả tàu buôn và tàu quân sự”. Mỹ luôn ủng hộ tự do hàng hải trên thế giới, bao gồm cả Biển Đông và có lợi ích tại các tuyến đường biển trong khu vực và do đó quan tâm đến việc giải quyết hòa bình tranh chấp tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và các vùng khác.
Không những vậy, Biển Đông được xác định là một trong 10 vùng biển có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới và là khu vực có tuyến đường giao thông quan trọng trong hệ thống phòng thủ của Mỹ nhằm đối phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống như chống hải tặc và khủng bố, đặc biệt tại eo biển Malacca. Hiện Mỹ duy trì các căn cứ quân sự tại Nhật Bản và Philippines nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đồng minh Nhật Bản và Philippines, từ đó củng cố lợi ích và khẳng định vị thế của Mỹ ở Biển Đông.
Biện pháp và cách thức Mỹ tăng cường hiện diện, can dự vào vấn đề Biển Đông
Để tăng cường hiện diện và bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực Biển Đông, Mỹ đã sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau, cụ thể: (1) Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở Biển Đông. Từ năm 2009 đến năm 2018, Mỹ đã nhiều lần tổ chức diễn tập quân sự song phương cũng như đa phương quy mô lớn cạnh Biển Đông và khu vực vành đai Thái Bình Dương, chẳng hạn như cuộc diễn tập hợp tác huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trên biển với nhiều nước: Brunei, Idonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan. Bên cạnh đó tiến hành tập trận quân sự hỗn hợp vai kề vai với Philippines, đồng thời đã tổ chức cuộc diễn tập quân sự Vành đai Thái Bình Dương ở phạm vi rộng hơn với sự tham gia của 14 nước: Nhật Bản, Indonesia, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Hà lan, Peru…. (2) Mỹ tăng cường hoạt động đối ngoại, phản ứng mạnh mẽ hành động sai trái của Trung Quốc, bảo vệ đồng minh. Mỹ đã có cam kết rõ ràng với Philippines trong việc ủng hộ Philppines nâng cao năng lực phòng vệ chủ quyền biển đảo, thông qua các biện pháp cụ thể như cung cấp các trang thiết bị, vật tư thỏa đáng để góp phần nâng cao lực lượng quân sự của Philippines, nhất là đối với lực lượng hải quân. Ngoài ra, Mỹ sẽ tăng cường hợp tác trên biển với Việt Nam và nghiêm chỉnh tuân thủ cam kết bảo vệ hòa bình, phồn vinh và an ninh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời ám chỉ rất rõ sự quan tâm của Mỹ đối với căn cứ hải quân ở vịnh Cam Ranh. (3) Mỹ cũng tăng cường quan hệ kinh tế thương mại và hợp tác khai thác dầu khí trên biển với các nước tranh chấp liên quan. Mỹ cũng tăng cường hợp tác với các nước ngoài khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ để can thiệp vào tình hình Biển Đông. (4) Mỹ củng cố quan hệ với đồng minh và đối tác để bảo vệ lợi ích của mình, Mỹ củng cố quan hệ với đồng minh như Nhật Bản và Philippines để triển khai lực lượng quân sự, đảm bảo an ninh khu vực và vị thế tại Biển Đông. Mỹ đã đạt được một số thỏa thuận về đảm bảo hoạt động của quân đội Mỹ ở khu vực như tiếp tục sử dụng hai căn cứ Clark và Subic ở Philippines; quyền sử dụng các công trình quân sự của Thái Lan; thực hiện giai đoạn một Hiệp định xây dựng cảng nước sâu cỡ lớn cho quân đội Mỹ tại Singapore. Mỹ cũng khuyến khích các nước châu Á phát triển quan hệ an ninh đa phương. Để giải quyết với vấn đề tranh chấp tại quần đảo Trường Sa, Mỹ nhấn mạnh tầm quan trọng của liên minh quân sự với Philippines và ủng hộ nỗ lực xây lực cơ chế đa phương của ASEAN. (5) Mỹ ủng hộ và khuyến khích ASEAN hợp tác để giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông, duy trì ổn định trong khu vực. Mỹ đã phát triển một cơ chế hợp tác chính thức giúp hài hòa cả hai bên dựa trên luật quốc tế. Mỹ cũng dự định bắt đầu tiến trình tiến tới gia nhập Hiệp định Hữu nghị và Hợp tác của ASEAN, can dự vào tiến trình Thượng đỉnh Đông Á. Trong những năm qua, Mỹ cũng luôn ủng hộ những nỗ lực giữa các bên nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng con đường hòa bình theo tinh thần của UNCLOS 1982 và Tuyên bố ứng xử Biển Đông giữa Trung Quốc và ASEAN (DOC) 2002. Đặc biệt là Mỹ đang tích cực ủng hộ đàm phán ASEAN – Trung Quốc về việc đi tới ký kết Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC), nhấn mạnh rằng Bộ quy tắc cần đưa ra “khuôn khổ dựa trên các quy định có tính ràng buộc để ngăn chặn và quản lý tranh chấp”. Đồng thời, thông qua các cơ chế khu vực như Diễn đàn an ninh khu vực ARF, Hiệp ước TAC, ADMM+,… Mỹ đã đóng góp tiếng nói đối với việc duy trì an ninh khu vực tại Biển Đông. Trên lĩnh vực quân sự, việc Mỹ triển khai các hợp tác an ninh – quốc phòng với các quốc gia ASEAN đã giúp tăng cường khả năng đối trọng với Trung Quốc của những nước này. Trong những năm gần đây, Mỹ đã cùng các nước ASEAN tiến hành hơn 30 cuộc tập trận, tức hơn 2/3 các cuộc tập trận ở châu Á. (6) Mỹ vừa tăng cường quan hệ với Trung Quốc vừa tìm cách kiềm chế Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Mỹ vừa tranh thủ những cơ chế đối thoại, hợp tác với Trung Quốc nhằm xây dựng một giải pháp đa phương, lại vừa thực hiện các hoạt động do thám, nghiên cứu tại Biển Đông nhằm thăm dò sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Mỹ quan ngại tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông, ngân sách quân sự ngày càng tăng, các hoạt động kinh tế và quân sự để khẳng định chủ quyền trong khi phủ nhận chủ quyền của các nước khác. Nhưng đồng thời Mỹ tăng cường quan hệ với Trung Quốc, hợp tác khai thác dầu khí để bảo vệ lợi ích kinh tế, chống hải tặc để bảo vệ an toàn hàng hải ở Biển Đông. Mỹ còn muốn tăng cường hợp tác hải quân giữa Mỹ và Trung Quốc nhằm duy trì an ninh ở châu Á- Thái Bình Dương và Biển Đông.
Dự đoán một số biện pháp đối phó Trung Quốc của Mỹ trên Biển Đông
Trong những năm gần đây, Mỹ là một trong những nước thể hiện thái độ cứng rắn nhằm ngăn chặn các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông. Theo nhà nghiên cứu Sean R. Liedman thuộc Trung tâm nghiên cứu An ninh Mỹ mới, Mỹ có thể sử dụng 3 kịch bản tiến hành để đối phó với các hoạt động phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông thời gian tới: (1) Mỹ có thể “nhân nhượng” với Trung Quốc, mà trong đó Biển Đông không thực sự là vấn đề trung tâm trong quan hệ Mỹ-Trung nhằm mặc cả những lợi ích song phương. Theo những người ủng hộ kịch bản này, Mỹ rất cần đến Trung Quốc hợp tác trong các vấn đề quan trọng khác, như hạt nhân Iran, phi hạt nhân hóa Triều Tiên, biến đổi khí hậu, an ninh mạng, sở hữu trí tuệ, chính sách tiền tệ quốc tế, hay quan hệ với Đài Loan… Mặt khác, Washington cũng phải dè chừng Biển Đông nóng lên có thể kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan tại Trung Quốc. Về mặt quân sự, những người ủng hộ phương án này cho rằng các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp, cải tạo phi pháp, không đáng sợ. Nếu xung đột bùng nổ, quân đội Mỹ có thể dễ dàng vô hiệu hóa các đảo này nhanh chóng. Chiến lược của Mỹ trong trường hợp này sẽ là cảnh báo để ngăn chặn các hoạt động quân sự hóa tiếp theo, khuyến khích các cuộc đàm phán song phương để giải quyết bất đồng, hay hỗ trợ các cơ chế đa phương, bao hàm cả Trung Quốc và nhấn mạnh đến các hợp tác với Trung Quốc trong nhiều vấn đề lớn khác. Điểm nổi bật của kịch bản này là “tránh mọi nguy cơ đối đầu trực tiếp”. Tuy nhiên, điểm yếu lớn nhất của cách tiếp cận này, theo tác giả là sẽ làm cho luật pháp quốc tế ngày càng trở nên thui chột. Trong mọi đàm phán song phương với các láng giềng, bao giờ Trung Quốc cũng đứng ở thế mạnh và đây là điều Bắc Kinh luôn muốn áp dụng. Kịch bản này chắc chắn sẽ đi liền với viễn cảnh Bắc Kinh tiếp tục đẩy mạnh lấn tới mỗi khi có cơ hội. (2) Mỹ sẽ tìm cách duy trì nguyên trạng ở Biển Đông. Theo đó, Mỹ sẽ công nhân chủ quyền của tất cả các quốc gia ven bờ, dựa trên kiểm soát thực tế hiện nay. Kịch bản này nhiều người coi là “các bên cùng thắng”, việc đi lại trên Biển Đông được thực thi theo luật pháp quốc tế. Các biện pháp thực thi kịch bản bao gồm, tiến hành các cuộc tuần tra bảo vệ tự do hàng hải, trên biển và trên không. Cổ vũ sự tham gia của các quốc gia ngoài khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc… vào các hoạt động nói trên. Mọi hành động gây hấn mới của Trung Quốc sẽ bị ngăn chặn bằng vũ lực. Thực thi đầy đủ Hiệp ước phòng thủ chung với Philippines như đã cam kết. Bên cạnh các ưu điểm kể trên, theo tác giả kịch bản này có điểm bất lợi là rất có khả năng sẽ đi liền với việc kích thích hoạt động bồi đắp xây dựng tại tất cả các thực thể địa lý ở Biển Đông, trước ngày thỏa thuận chính thức có hiệu lực. Bên cạnh đó, việc thương thuyết để đạt được các thỏa thuận là không dễ dàng, và trong thời gian đó Trung Quốc có thể khai thác để giành nhiều lợi thế về chính trị. (3) Mỹ sẽ đẩy mạnh các hoạt động quân sự, ngăn cản Trung Quốc bành trướng trên Biển Đông. Theo đó, Mỹ sẽ buộc Trung Quốc phải trở lại tình trạng trước khi có các hành động lấn chiếm bất hợp pháp. Kịch bản này được đánh giá tuy khó thực hiện, nhưng phù hợp với tinh thần thượng tôn pháp luật quốc tế và Mỹ hoàn toàn có khả năng thực thi giải pháp triệt để này mà không buộc phải dùng các biện pháp quân sự. Một trong các biện pháp được nêu ra để thực thi, là trừng phạt có trọng điểm nhằm vào các doanh nghiệp Trung Quốc liên quan đến các thực thể địa lý mà Bắc Kinh chiếm giữ bất hợp pháp.
Ngoài ra, cùng với việc tiếp tục thường xuyên các cuộc tuần tra bảo vệ tự do hàng hải, hàng không, ngay bên trong khu vực 12 hải lý của các đảo, đá Trung Quốc chiếm đóng phi pháp, Mỹ sẽ tiếp tục thực hiện hàng loạt biện pháp pháp lý để gây áp lực với Bắc Kinh. Trong số đó, có việc tạo đồng thuận về ngoại giao quốc tế buộc Trung Quốc phải thực thi phán quyết về Biển Đông của Tòa Trọng tài Thường trực (12/7/2016); sử dụng lực lượng tuần duyên Mỹ cùng các quốc gia trong khu vực hỗ trợ việc thực thi quyền của ngư dân theo phán quyết của Tòa Trọng tài; tiếp tục hỗ trợ hải quân và tuần duyên các đối tác ven Biển Đông.
http://biendong.net/bi-n-nong/24636-my-cuong-quyet-khong-de-tq-long-hanh-tren-bien-dong.html
ASEAN và tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông:
Diễn biến và giải pháp
Tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông liên quan trực tiếp một bên là Trung Quốc, Đài Loan và bên còn lại là 4 nước ASEAN (Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei). Trong những năm gần đây, ASEAN đã đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối, hỗ trợ giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Biển Đông có vị thế và vai trò quan trọng trong ASEAN
Biển Đông nằm trong phạm vi địa chính trị của ASEAN và ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của các thành viên của Khối. Nó không chỉ là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị thế địa chiến lược quan trọng mà còn có những tuyến hàng hải thương mại đông đúc nhất thế giới, được bao quanh phần lớn là bởi các nước Đông Nam Á. Các tuyến thông thương hàng hải (SLOC) không chỉ đóng vai trò sống còn đối với nền kinh tế thế giới, mà còn đối với sự thịnh vượng kinh tế của tất cả thành viên ASEAN. Nguồn hải sản dồi dào của Biển Đông có ý nghĩa quan trọng đối với an ninh lương thực của hàng trăm triệu người dân trong khu vực. Tất cả các thành viên ASEAN mong muốn củng cố quan hệ tốt đẹp với ASEAN và mong muốn thấy được mối quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ. Vì vậy, hòa bình và ổn định ở Biển Đông có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích, an ninh và ổn định của khu vực nói chung và các nước ASEAN nói riêng. Từ những năm đầu mới thành lập, ASEAN đã đặc biệt coi trọng vai trò và vị thế của Biển Đông; chủ động tham gia vào việc thúc đẩy một giải pháp hòa bình và hợp tác cho tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Không những vậy, tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông liên quan trực tiếp đến 4 nước ASEAN và tất cả các nước ASEAN đều có lợi ích thiết thực, mang tính sống còn đối với khu vực này. Tất cả các nước có yêu sách ở Đông Nam Á muốn ASEAN đóng vai trò lớn hơn trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Kể từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh, Philippines luôn coi đàm phán ngoại giao là biện pháp tốt nhất để bảo vệ chủ quyền của mình và ASEAN là một trung tâm của ngoại giao nước này. Điều đó được thể hiện qua các nỗ lực của nước này để đạt được Tuyên Bố ASEAN về Biển Đông năm 1992 và DOC năm 2002. Tương tự, Việt Nam đã chọn gắn kết chủ động hơn với ASEAN trong việc quản lý xung đột.
Tình hình ở Biển Đông có ảnh hưởng quan trọng đến sự đoàn kết của ASEAN. Tuy khu vực Biển Đông kết nối đa số các quốc gia ở Đông Á về mặt địa lý và song nó cũng tạo ra những khác biệt về lợi ích của từng nước ASEAN. Các lĩnh vực khác biệt bao gồm mong muốn về mức độ tham gia và vai trò của Trung Quốc và Mỹ, phạm vi hợp tác trong vấn đề Biển Đông, và vai trò của chính ASEAN trong tranh chấp này. Một mặt, các nước ASEAN không có yêu sách thường không có lợi ích trực tiếp trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và rõ ràng không muốn làm xấu quan hệ với Trung Quốc, một đối tác kinh tế và chiến lược quan trọng. Trong thập kỷ vừa qua, ảnh hưởng của Bắc Kinh ở Đông Nam Á ngày càng tăng và nhiều nước đã hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, khiến nhiều nước không có lập trường mạnh mẽ trong việc phản đối các hành động cứng rắn ở Biển Đông hay trong quyết tâm thúc đẩy vai trò của ASEAN. Mặt khác, Việt Nam và Philippines là những nước có lợi ích sống còn trong việc duy trì hòa bình và chủ quyền ở Biển Đông. Cả hai nước đều xem ASEAN như một cơ chế đa phương hữu hiệu để giảm cẳng thẳng ở Biển Đông.
Đồng thuận ASEAN và tranh chấp Biển Đông
Tranh chấp Biển Đông đã được đẩy lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự ASEAN kể từ đầu năm 1990. Cho đến thời điểm đó, tổ chức ASEAN vẫn chỉ tập trung vào việc giải quyết vấn đề Campuchia, cuộc khủng hoảng 10 năm kể từ sự kiện Việt Nam (năm 1978) đưa quân vào Campuchia. Tuy nhiên, trong hai thập niên gần đầy, ASEAN đã và đang đứng trước thách thức lớn trong việc đạt được một sự đồng thuận mạnh mẽ về tranh chấp Biển Đông, nguyên nhân là do các quốc gia thành viên có những khác biệt về lợi ích. Đây là vấn đề nảy sinh phức tạp từ việc mở rộng số lượng thành viên ASEAN từ 6 lên 10 nước trong giai đoạn 1997 – 1999. Bốn thành viên (Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam) không chỉ có yêu sách lãnh thổ chồng lấn với Trung Quốc, mà có cả yêu sách chồng lấn lẫn nhau. Indonesia cũng là một bên tranh chấp vì vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đảo Natuna chồng lấn với “đường 9 đoạn” phi pháp của Trung Quốc. Singapore không phải là một bên yêu sách, nhưng với tư cách là một quốc đảo phụ thuộc vào dòng thương mại tự do bằng đường biển đối với sự thịnh vượng và sự phát triển trong tương lai, nước này đã nhiều lần tỏ ra quan ngại đối với nguy cơ tranh chấp có thể gây ra bất ổn khu vực. Trong khi đó, Campuchia, Lào, Myanma và Thái Lan không phải bên yêu sách và bản thân các quốc gia này cũng không bị ảnh hưởng trực tiếp từ tranh chấp này. Các nước này cũng có quan hệ kinh tế, chính trị và an ninh chặt chẽ với Trung Quốc ở những mức độ khác nhau và họ không muốn làm tổn hại mối quan hệ này bằng việc ủng hộ các sáng kiến về Biển Đông có thể phương hại đến lợi ích của Trung Quốc.
Tuy nhiên, đồng thuận chung giữa ASEAN liên quan vấn đề Biển Đông đã, đang và sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức do mâu thuẫn lợi ích giữa các nước. Việt Nam (quốc gia gia nhập ASEAN vào năm 1995) và Philippines đã nỗ lực đưa ra những tuyên bố thể hiện sự quan ngại nhằm ngăn cản thái độ kiên quyết từ phía Trung Quốc vào giai đoạn nửa cuối thập niên 1990 nhưng không thành công. Năm 1997, ASEAN đã coi một vụ đụng độ diễn ra giữa tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ là vấn đề song phương và đã không có hành động nào. Sự thống nhất của ASEAN về vấn đề này đã suy giảm trong giai đoạn khủng hoảng tài chính ASEAN 1997 – 1998. Khi Trung Quốc nâng cấp các công trình trên Đá Vành Khăn vào tháng 11/1998, Manila đã thất bại trong việc đưa ra một tuyên bố chung từ ASEAN nhằm phản đối động thái của Trung Quốc, và vào năm 1999, Malaysia đã bị Philippines chỉ trích khi nước này chiếm đóng Đá Erica và bãi Thám hiểm (tiếng Anh: Investigator Shoal). Sự gắn kết của ASEAN đã rơi vào căng thẳng do cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra. Tranh chấp Biển Đông không còn được coi là vấn đề ưu tiên, đặc biệt là đối với các quốc gia nhận được nguồn hỗ trợ tài chính từ Trung Quốc như Indonesia và Thái Lan. Hơn nữa, ASEAN càng khó đạt được đồng thuận về một loạt các vấn đề khi ASEAN kết nạp thêm thành viên Myanmar và Lào (năm 1997) và Campuchia (năm 1999).
Các nguyên tắc và việc quản lý xung đột ở Biển Đông của ASEAN
Sự tham gia của ASEAN trong việc quản lý tranh chấp ở Biển Đông dựa vào các nguyên tắc và cơ chế quản lý xung đột được xác định trong những văn kiện chủ chốt của ASEAN. Những văn bản này bao gồm Tuyên bố thành lập ASEAN năm 1967, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) năm 1976, Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (Bali Concord II) năm 2003, Đề cương xây dựng Cộng đồng Chính trị – An ninh ASEAN, và Hiến chương ASEAN. Liên quan cụ thể đến Biển Đông, hai văn kiện quan trọng là Tuyên bố về Biển Đông năm 1992 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên về Biển Đông năm 2002.
Xem xét các văn kiện này và thực tiễn ASEAN cho thấy một số nguyên tắc then chốt định hướng quan hệ nội khối và với bên ngoài của ASEAN cũng như các biện pháp quản lý xung đột. Trước hết, mục tiêu mang tính nguyên tắc của ASEAN là thúc đẩy hợp tác khu vực vì hòa bình và ổn định. Nguyên tắc này đã được nhắc lại trong mọi văn kiện quan trọng của ASEAN, trái ngược với tổ chức tiền thân ở khu vực, như Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO), thành lập năm 1954 với tư cách một liên minh phòng thủ. Điều 1 của Hiến Chương ASEAN chỉ rõ một trong những mục tiêu cơ bản của ASEAN là duy trì và thúc đẩy hòa bình, tăng cường hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa – xã hội rộng rãi hơn. Để đạt được kết quả này, giải quyết mọi vấn đề tranh chấp một cách hòa bình, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực là nguyên tắc cơ bản của ASEAN.
Hơn nữa, việc bảo đảm quyền tự quyết, chủ quyền, bình đẳng, và không can thiệp của các quốc gia luôn được Hiệp hội đặt lên hàng đầu. ASEAN bao gồm các thành viên có sự khác biệt lớn về trình độ phát triển kinh tế xã hội, văn hóa và tín ngưỡng, thể chế luật pháp và thể chế chính trị, và quy mô địa lý. Các nước này trong lịch sử đã phải đấu tranh chống lại các cường quốc bên ngoài khu vực để giành được độc lập. Do đó, những nguyên tắc trên được thông qua không chỉ để đảm bảo một môi trường an ninh tốt hơn cho tất cả các quốc gia mà còn thực sự thể hiện ước muốn chính trị của khu vực. Chủ quyền, bình đẳng, không tự vỗ ngực nhận mình là nước lớn còn nước khác là nước nhỏ mới là phù hợp với chuẩn mực quan hệ quốc tế nói chung và ASEAN nói riêng.
Trong quan hệ nội khối ASEAN, cách tiếp cận phi chính thức, tham vấn và đồng thuận được coi là trụ cột của “Phương cách ASEAN”. Điều này được nhấn mạnh trong TAC năm 1976, khẳng định rằng các thành viên “duy trì liên lạc và tham vấn thường xuyên với các nước khác về các vấn đề khu vực và quốc tế nhằm phối hợp quan điểm, hành động và chính sách với nhau”. Hiệp ước Bali II “tái khẳng định tầm quan trọng cơ bản của việc tôn trọng các nguyên tắc của… sự đồng thuận trong hợp tác ASEAN”. Phương cách ASEAN cũng ảnh hưởng đến cách tiếp cận của các nhà lãnh đạo ASEAN trong quan hệ của khu vực với các đối tác ngoài khu vực. ASEAN áp dụng chiến lược mở nhưng không liên minh an ninh với các nước bên ngoài. Kể từ khi tổ chức được thành lập năm 1967, khi căng thẳng ở Đông Nam Á lên cao, các nước sáng lập ASEAN đã có tầm nhìn về một Hiệp hội có tất cả 10 nước Đông Nam Á. Các nước bên ngoài Đông Nam Á cũng được hoan nghênh hợp tác với ASEAN để thúc đẩy hòa bình và ổn định của khu vực. TAC được để ngỏ cho tất cả các quốc gia tham gia và đến nay đã có nhiều cường quốc bên ngoài ký kết, trong đó có Trung Quốc (năm 2003), Nhật Bản (năm 2004), EU (năm 2009) và Mỹ (năm 2010).
ASEAN đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định ở Biển Đông
Tuyên bố chính thức đầu tiên về vấn đề Biển Đông “Tuyên bố ASEAN về Biển Đông” năm 1992 là dấu mốc thể hiện sự quan tâm của ASEAN. Kể từ đó, vấn đề Biển Đông trở thành chủ đề trọng tâm trong các chương trình nghị sự của ASEAN như xây dựng quan niệm giá trị và chuẩn mực, an ninh trên biển, hợp tác quốc phòng và ngăn ngừa xung đột. Biển Đông cũng là chủ đề nóng được ASEAN triển khai đối thoại về vấn đề an ninh khu vực với các nước như Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ. Vấn đề Biển Đông đã trở thành một phần quan trọng trong các cuộc đối thoại và tham vấn giữa ASEAN và Trung Quốc.
Năm 2002, với sự cố gắng, nỗ lực giữa ASEAN và Trung Quốc, hai bên đã thống nhất ký “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC). Đây là văn kiện chính trị đầu tiên mà ASEAN và Trung Quốc đạt được liên quan đến vấn đề Biển Đông và được coi là bước đột phá trong quan hệ ASEAN – Trung Quốc góp phần quan trọng trong việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
Năm 2010, ASEAN đã đưa ra tuyên bố chung bao gồm 56 điểm trên tất cả các lĩnh vực hợp tác, trong đó đề cập đến DOC.
Năm 2012, ASEAN đưa ra tuyên bố riêng 6 điểm về vấn đề Biển Đông, trong đó gồm: (1) Thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông – DOC năm 2002; (2) Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện DOC năm 2011; (3) Sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); (4) Tôn trọng hoàn toàn các nguyên tắc cơ bản của Luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS); (5) Tất cả các bên tiếp tục tự kiềm chế và không sử dụng bạo lực; (6) Giải quyết hoà bình các tranh chấp trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.
Năm 2017, vấn đề Biển Đông được đề cập trong tuyên bố chung của ASEAN dưới góc nhìn về tình hình quân sự hoá và cải tạo gia tăng tại khu vực này. Đồng thời, Chủ tịch ASEAN Phlippines cam kết, các tranh chấp hàng hải, việc phác thảo bộ khung cho COC sẽ được đưa ra bàn thảo tại hội nghị thượng đỉnh giữa các nước thành viên ASEAN và giữa ASEAN với Trung Quốc. Đến cuối năm 2017, ASEAN và Trung Quốc thống nhất thông qua Khung COC.
Năm 2018, ASEAN và Trung Quốc đã thống nhất một bản COC duy nhất tại cuộc gặp cấp cao về việc thực hiện DOC tổ chức ở Trường Sa, Hồ Nam – Trung Quốc.
Trung Quốc đang tìm mọi cách chi phối, chia rẽ ASEAN trong vấn đề Biển Đông
Thứ nhất, Trung Quốc không thay đổi quan điểm cho rằng, vấn đề Biển Đông không phải là vấn đề giữa Trung Quốc và ASEAN, Trung Quốc sẽ giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán song phương trực tiếp với nước liên quan; bao biện cho việc xây dựng, cải tạo phi pháp các thực thể ở Biển Đông (đá, bãi cạn) chỉ phục vụ mục đích dân sự như chống cướp biển, hỗ trợ tàu thuyền đi lại và ngư dân đánh bắt cá trong khu vực. Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhiều lần khẳng định vấn đề Biển Đông không liên quan đến ASEAN, Trung Quốc phản đối các nước sử dụng vấn đề Biển Đông để gây tổn hại cho “mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa Trung Quốc và ASEAN.”
Thứ hai, Trung Quốc sử dụng sức mạnh kinh tế và các khoản viện trở, đầu tư thương mại để mua chuộc, ép buộc một số nước phải nghe theo Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Ngân hàng xây dựng Trung Quốc – CCB (25/4) đã ký với Cơ quan Phát triển doanh nghiệp quốc tế Singapore bản ghi nhớ giữa CCB với các quốc gia ASEAN. Theo đó, CCB sẽ cung cấp 30 tỉ SGD (22,2 tỉ USD) cho các công ty hai nước thực hiện những dự án hạ tầng trong chiến lược “Một vành đai, Một con đường” nhằm tạo ảnh hưởng bao trùm khu vực rộng lớn từ Trung, Nam Á đến tận châu Âu của Trung Quốc. Trung Quốc cũng tăng cường đầu tư vào các nước, nhất là Campuchia. Theo con số chính thức được công bố, riêng trong năm ngoái, đầu tư của Trung Quốc vào Campuchia lên tới con số 1,9 tỉ USD, cao gấp hai lần tổng đầu tư của các nước ASAEN và 10 lần so với đầu tư của Mỹ vào Campuchia. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tích cực đẩy mạnh quan hệ hợp tác song phương nhiều mặt với các nước ASEA không có tranh chấp Biển Đông. Hiện nay Trung Quôc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN và các nước ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Trung Quốc. Theo Báo cáo của Hội đồng thương mại Trung Quốc – ASEAN, kim ngạch thương mại hai chiều giữa ASEAN và Trung Quốc trong năm 2014 đạt mức 480 tỷ USD, tăng 8,3% so với năm 2013. ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Trung Quốc, sau Liên minh châu Âu và Mỹ, chiếm hơn 11% tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc.
Thứ ba, đe dọa các nước ASEAN sẽ phải gành chịu “hậu quả nghiêm trọng” nếu có hành động chống lại Trung Quốc. Phát biểu tại Đối thoại thường niên giữa quan chức ngoại giao cấp cao ASEAN (SOM) – Trung Quốc ở Singapore, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân (28/4) cảnh báo, ASEAN ra tuyên bố chung về vụ kiện của Philippines với Trung Quốc là một “bước đi liều lĩnh”, khẳng định đây là động thái của các cường quốc bên ngoài (ám chỉ Mỹ và Nhật Bản) nhằm chống lại Trung Quốc và các nước “không nên đánh đổi quan hệ Trung Quốc – ASEAN lấy mối quan hệ với cường quốc bên ngoài”.
Thứ tư, sử dụng công cụ truyền thông đại chúng tích cực đưa tin, tuyên truyền về quan hệ tốt đẹp giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN, cho rằng một số nước ASEAN đã ủng hộ lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, đặc biệt là trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài Liên hợp quốc.
Thứ năm, biện minh cho các hành động lôi kéo, chia rẽ ASEAN. Phát biểu bên lề diễn đàn ASEAN SOM, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân (27/4) tuyên bố, mỗi nhà nước ASEAN đều có chủ quyền của mình và Trung Quốc không bao giờ muốn chia tách hiệp hội; khẳng định Trung Quốc luôn ủng hộ sự phát triển của ASEAN cũng như công nhận sự tăng trưởng của ASEAN là điều quan trọng đối với khu vực Đông Nam Á. Trung Quốc muốn thiết lập hòa bình và ổn định cũng như tự do hàng hải trong khu vực. Hy vọng rằng ASEAN sẽ đoàn kết và trở thành đối tác của Trung Quốc để thúc đẩy đối thoại. Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN phải kiềm chế những hoạt động có thể làm phức tạp hoặc leo thang căng thẳng ở Biển Đông, tuân thủ DOC đã ký kết.
Thứ sáu, Trung Quốc đang tiếp cận, phân hóa dần dần từng nước ASEAN. Malaysia (2015) dự định không đưa vấn đề Biển Đông vào Tuyên bố chung trong Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN, song do sức ép của Mỹ và Nhật Bản buộc Malaysia phải thay đổi quyết định. Thái Lan trong thời gian gần đây đã xa lánh phương tây, tăng cường các mối quan hệ quân sự với Trung Quốc, nhất là kể từ khi quân đội Thái Lan lên nắm quyền hồi năm ngoái. Thủ tướng Campuchia nhiều lần công khai ủng hộ lập trường của Trung Quốc cho rằng tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông không thể được giải quyết thông qua ASEAN mà cần phải giải quyết thông qua đàm phán song phương trực tiếp giữa Trung Quốc với từng nước tranh chấp.
Một số giải pháp nâng cao vai trò của ASEAN ở Biển Đông
Trước hết, cần phải tăng cường hội nhập ASEAN thông qua thúc đẩy các thể chế ASEAN và kết nối kinh tế như một cách nâng cao tính trung tâm của ASEAN trong các vấn đề khu vực. Để giữ cho Hiệp hội là động lực chính trong các vấn đề khu vực, hội nhập ASEAN phải được tăng tốc và sâu sắc hơn nữa. Về mặt này, các quốc gia thành viên có thể cần phải mở rộng biên giới cho hội nhập ASEAN liên quan đến chủ quyền. Về mặt kinh tế, các chính phủ có thể tăng cường kết nối khu vực thông qua quy chuẩn hóa và hài hòa hóa các công cụ kinh tế vĩ mô, bao gồm quy định, luật pháp, thủ tục hành chính.
Thứ hai, cần có một tiến bộ mang tính cách mạng ở thảo luận kênh II về vấn đề Biển Đông. Tổ chức nhiều hơn nữa các hội thảo quốc tế về vấn đề Biển Đông không có nghĩa là cố gắng “quốc tế hóa” vấn đề (mà trong đó tính quốc tế đã rất rõ ràng rồi) để tấn công một quốc gia đơn lẻ nào đó. Đó thực sự là một cách hay để nâng cao hiểu biết chung về vấn đề, tạo ra sự kết nối về thể chế giữa các nước, trao đổi kinh nghiệm và hiểu biết, và làm cho các lựa chọn chính sách của các quốc gia minh bạch hơn và có thể dự đoán được.
Thứ ba, ASEAN phải chủ động trong việc tham gia vào vấn đề Biển Đông. Lập trường của ASEAN về vấn đề Biển Đông đến nay vẫn còn khá mơ hồ, thụ động, và mang tính phản ứng. Trong khi an ninh và ổn định ở Biển Đông là tối quan trọng đối với Đông Nam Á và với ASEAN, với tư cách là một thực thể, tổ chức đã không dẫn đầu như một thể thống nhất độc lập để đối phó với căng thẳng. Các hoạt động quyết đoán hơn chỉ được thực hiện dưới áp lực của hai thành viên có nhiều ảnh hưởng nhất, là Việt Nam và Philippin khi tình hình đạt đến cấp độ sống còn.
Thứ tư, ASEAN cần đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Khối, tìm cách thúc đẩy đàm phán, sớm thông qua COC – thực chất, ràng buộc pháp lý với TQ.