Tin Biển Đông – 09/06/2020
Lộ rõ chân tướng sự gây hấn của TQ ở biển Đông
Chuyên gia cho rằng các tàu Trung Quốc đang áp dụng chiến thuật ngày càng gây hấn, có nguy cơ gây ra xung đột mới với các nước trong khu vực biển Đông như Malaysia và Indonesia.
Greg Polling, giám đốc Sáng kiến Minh bạch hàng hải châu Á (AMTI), thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) có trụ sở ở Washington, nói vai trò của các quốc gia kể trên trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, khi các tàu Trung Quốc đang mở rộng phạm vi hoạt động trong khu vực, chủ yếu bắt nguồn từ việc xây dựng các đảo nhân tạo của Bắc Kinh ở biển Đông.
“(Các đảo) cung cấp bàn đạp cho các tàu Trung Quốc, biến Malaysia và Indonesia thành các quốc gia ở tiền tuyến”, ông Polling, được CNN dẫn lời, nói. “Ngày nào cũng có hơn 10 tàu hải cảnh (Trung Quốc) lượn lờ quanh quần đảo Trường Sa và khoảng một trăm tàu đánh cá, sẵn sàng lên đường”.
Các yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh ở biển Đông không có cơ sở, căn cứ theo luật pháp quốc tế, và bị tòa án quốc tế năm 2016 phát quyết là không hợp lệ.
Mặc dù vậy, từ năm 2015, chính phủ Trung Quốc bắt đầu tăng cường tham vọng lãnh thổ bằng cách xây dựng các đảo nhân tạo trên các rạn san hô và bãi cạn ở biển Đông, sau đó quân sự hóa chúng bằng các đường băng, bến cảng và các trạm radar.
“Những đảo này được trang bị thiết bị giám sát và radar, họ nhìn thấy mọi thứ diễn ra ở biển Đông”, ông Polling nói. “Trước đây, Trung Quốc không biết bạn đang khoan thăm dò ở đâu. Bây giờ chắc chắn họ biết”.
Các chuyên gia nói Bắc Kinh đã xây dựng một đội tàu bảo vệ bờ biển và tàu cá, có thể được triển khai ở biển Đông để quấy rối tàu của các nước khác hoặc đi lại trong các khu vực nhạy cảm về chính trị.
Cuộc đối đầu với Malaysia không phải là hành động gây hấn đầu tiên của Trung Quốc trong khu vực trong năm 2020.
Đầu tiên là cuộc đối đầu ở quần đảo Natuna thuộc cực nam của biển Đông, hiện do Indonesia quản lý nhưng Trung Quốc cũng đòi chủ quyền bằng “đường chín đoạn” mơ hồ. Tàu thuyền của cả hai nước đã tham gia vào cuộc đối đầu, khởi phát khi các tàu cá Trung Quốc bắt đầu hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia.
Indonesia đã triển khai máy bay chiến đấu F-16 và tàu hải quân và đích thân Tổng thống Joko Widodo bay tới khu vực này, trong một động thái phô diễn diễn sức mạnh khác thường.
Thay đổi chính sách ngoại giao
Bắc Kinh có một lịch sử lâu dài quấy rối tàu của các quốc gia khác ở biển Đông, chủ yếu là Việt Nam và Philippines và đôi khi là Malaysia và Indonesia.
Trước đây, các nhà ngoại giao Trung Quốc chơi trò “vừa đấm vừa xoa” đối với các bên bị quấy rầy, nhưng các chuyên gia nói rằng đại dịch coronavirus và sự trỗi dậy của cái gọi là ngoại giao “chiến binh sói” từ Bắc Kinh đã loại bỏ các “áp- tô- mát”(giúp ngắt mạch điện khi quá tải) trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực.
“Điều thay đổi là họ đã thực sự tháo găng tay ra khỏi nắm đấm ngoại giao. Các tuyên bố gần đây (của Trung Quốc) rất thô lỗ và không có ý xây dựng”, ông Polling nói.
Các chuyên gia cho rằng sự gia tăng các hành động gây hấn của Bắc Kinh trong khu vực một phần do đại dịch coronavirus đã giáng một đòn nặng nề vào nền kinh tế Trung Quốc và làm tổn hại danh tiếng quốc tế của nước này.
Lo ngại về việc sức mạnh có vẻ đang tuột dốc, giới cầm quyền Trung Quốc, theo các chuyên gia, đang đặt nhiều kỳ vọng vào các luận điệu và chương trình nghị sự mang tính dân tộc chủ nghĩa để giải quyết vấn đề của họ.
Bắc Kinh rất muốn thúc đẩy một câu chuyện rằng Mỹ đang mất dần vai trò cường quốc toàn cầu để củng cố sự kiểm soát của họ đối với khu vực, Ian Storey, thành viên cao cấp tại Viện ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore nói.
Cho đến nay, Malaysia và Indonesia đã cố gắng không để chuyện biển Đông ảnh hưởng đến mối quan hệ với Trung Quốc, nhưng với việc Bắc Kinh gia tăng gây hấn, thời của “ngoại giao âm thầm” có thể đã hết.
http://biendong.net/goc-nhin-moi/35163-lo-ro-chan-tuong-su-gay-han-cua-tq-o-bien-dong.html
Ngăn Trung Quốc đòi chủ quyền phi pháp ở Biển Đông
Là một cường quốc nằm bên bờ Thái Bình Dương, Nga có những lợi ích chiến lược lâu dài tại Biển Đông – vùng biển trọng yếu hàng đầu của đại dương rộng lớn nhất thế giới này – nên không muốn bất cứ cường quốc nào dùng sức mạnh để biến Biển Đông thành “ao nhà”.
Sự ngang ngược phi lý của Trung Quốc
Trang mạng Infox.ru của Nga mới đây đã đăng bài viết “Biển Đông dậy sóng vì Covid-19” trong đó nhấn mạnh, Trung Quốc đã sử dụng cả hành động quân sự lẫn chính trị để tiếp tục gây sức ép lên các quốc gia láng giềng trong bối cảnh toàn cầu đang đối phó với đại dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona (Covid-19) gây ra. Bài báo bày tỏ lo ngại cho rằng, nếu đạt được mục đích thì trong tương lai không xa, Trung Quốc có thể làm thay đổi toàn bộ môi trường địa chính trị ở khu vực Đông Nam Á.
Tác giả bài báo đã vạch rõ sự ngang ngược phi lý của Trung Quốc khi đòi hỏi chủ quyền đối với 80% diện tích Biển Đông, tương đương hơn 2,2 triệu km2, hoàn toàn phớt lờ lợi ích của các quốc gia láng giềng trong khu vực. Không chỉ giàu tài nguyên thiên nhiên, Biển Đông còn là một trong những tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới; hàng năm, giá trị hàng hóa được vận chuyển qua vùng biển này lên tới 3.400 tỷ USD.
Bài báo vạch rõ, ngoài việc nhắm tới các mục tiêu chiến lược quân sự thuần túy, Trung Quốc còn có tham vọng kiểm soát tuyến hàng hải với các dòng chảy thương mại phục vụ cho không chỉ chính Trung Quốc mà còn các quốc gia Đông Á khác như Nhật Bản và Hàn Quốc, cũng như khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Tuy nhiên, tác giả bài báo nhấn mạnh, những yêu sách của Bắc Kinh đối với Biển Đông không phù hợp với các chuẩn mực của luật pháp quốc tế, trước hết là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) được chính Trung Quốc phê chuẩn năm 1996, cũng như phán quyết của Tòa trọng tài thường trực (PCA) đưa ra ngày 12-7-2016 trong vụ kiện Trung Quốc của Philippines, mà theo đó khẳng định rằng Trung Quốc không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào đối với những tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Thế nhưng, bất chấp tất cả, Trung Quốc thời gian qua vẫn liên tiếp có những động thái hung hăng và ngang ngược về cả chính trị và sức mạnh hòng đòi chủ quyền phi pháp ở Biển Đông. Về chính trị, Trung Quốc có hàng loạt việc làm vi phạm chủ quyền hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông, trong đó có những bước leo thang mới như thành lập những cái gọi là “quận Tây Sa” (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) và “quận Nam Sa” (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam) tại cái gọi là “thành phố Tam Sa”; công bố cái gọi là danh xưng tiêu chuẩn của 25 đảo và rạn san hô cùng 55 thực thể ở Biển Đông mà phần lớn những đảo, rạn san hô và thực thể này nằm trong hai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam.
Đồng thời với đó, Trung Quốc dùng sức mạnh của hải quân, hải cảnh (cảnh sát biển)… để “bắt nạt” các bên khác trong khu vực ở Biển Đông, trong đó hành động nguy hiểm bị cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ là cho tàu hải cảnh đâm chìm tàu cá của Việt Nam… Đồng thời, Trung Quốc có những hành gi gây căng thẳng, gây hấn trên các vùng biển mà các nước thành viên ASEAN là Philippines, Malaysia, Indonesia tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Giải quyết tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình
Tất cả những việc làm ngang ngược và phi lý trên của Trung Quốc trong bối cảnh đại dịch hoành hành tại khu vực cũng như trên thế giới đều chỉ hướng tới một cái đích duy nhất là áp đặt chủ quyền phi pháp ở Biển Đông. Điều này không chỉ đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh và hợp tác ở Biển Đông mà còn đe dọa lợi ích của tất cả các bên liên quan, từ các quốc gia nằm quanh Biển Đông tới các cường quốc thế giới có lợi ích chiến lược tại vùng biển này, nhất là các cường quốc Thái Bình Dương như Mỹ, Nga…
Ai cũng thấy rất rõ nguy cơ hiển hiện là nếu Trung Quốc áp đặt được sức mạnh của họ, biến Biển Đông thành “ao nhà” thì Bắc Kinh sẽ đặt lợi ích sống còn, lợi ích chiến lược của tất cả các bên liên quan khác trong tầm khống chế, kiểm soát của họ. Với các cường quốc, nếu để Biển Đông nằm trong sự kiềm tỏa của Trung Quốc sẽ chẳng khác nào giúp Bắc Kinh thêm sức mạnh, lợi thế để ganh đua cạnh tranh ra toàn Thái Bình Dương cũng như trên toàn cầu.
Trước đó, trang mạng “Tin tức quốc gia” của Nga trong bài viết “Trung – Mỹ đối đầu: Cuộc chiến giành quyền kiểm soát Biển Đông” hồi tháng 5 vừa qua bày tỏ sự lo ngại về việc Trung Quốc có tham vọng kiểm soát toàn bộ Biển Đông thông qua kế hoạch xây “hàng không mẫu hạm không thể đánh chìm” tiếp theo ở bãi cạn Scarborough cũng như hàng loạt căn cứ quân sự với hạ tầng đi kèm có khả năng tiếp nhận máy bay và tàu chiến được xây dựng trên cơ sở bồi đắp các thực thể thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Bắc Kinh chiếm đóng trái phép.
Sau khi xây dựng hệ thống các căn cứ quân sự ở trung tâm Biển Đông và thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ), Trung Quốc hoàn toàn có khả năng mở rộng sức mạnh quân sự ra toàn tiểu khu vực và nếu Bắc Kinh áp đặt được quyền kiểm soát đối với vùng biển này thì tự do hàng hải ở Biển Đông, nơi hàng năm có lưu lượng hàng hóa trị giá lên đến hàng nghìn tỷ USD đi qua, sẽ bị đe dọa.
Trong khi đó, Nga trong rất nhiều năm tuyên bố giữ lập trường trung lập trong cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông nhưng cũng không hề muốn các tuyến hàng hải quốc tế ở Biển Đông bị một quốc gia nào đó kiểm soát. Hiện, xuất khẩu dầu của Nga từ cảng Kozmino ở vùng Viễn Đông sang Đông Nam Á phải đi qua Biển Đông.
Trong đó, xuất khẩu sang Malaysia chiếm 6,5%, Thái Lan 5,7%, Philippines 5,3% và Singapore 4,5% tổng lượng xuất khẩu của Nga. Việc hội nhập vùng Viễn Đông của Nga với châu Á – Thái Bình Dương do đó phụ thuộc nhiều vào việc đảm bảo tự do hàng hải ở Thái Bình Dương nói chung, Biển Đông nói riêng. Bên cạnh đó, Việt Nam – đối tác chiến lược toàn diện của Nga – và Nga đang có các dự án lớn về năng lượng đang triển khai trên thềm lục địa của Việt Nam.
Là quốc gia nằm bên bờ Thái Bình Dương, Nga quan tâm sâu sắc đến việc giải quyết các tranh chấp ở khu vực Biển Đông trên cơ sở nguyên tắc không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, và sự tôn trọng lẫn nhau của tất cả các bên liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông. Nhà Việt Nam học người Nga Vladimir Kolotov sau khi cho rằng hành động của Trung Quốc thời gian qua tại Biển Đông là phản tác dụng, làm leo thang tình hình căng thẳng và đe dọa sự ổn định ở khu vực Đông Á đã cho rằng, vấn đề Biển Đông cần được
giải quyết dựa trên luật pháp quốc tế. Với vai trò trung lập, Matxcơva có thể đóng vai trò trung gian nhằm tìm kiếm sự đồng thuận trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông.
http://biendong.net/bi-n-nong/35167-ngan-trung-quoc-doi-chu-quyen-phi-phap-o-bien-dong.html
Biển Đông: Trung Quốc đặt cáp ngầm
quanh Hoàng Sa vì mục tiêu quân sự
Mai Vân
Ảnh vệ tinh và dữ liệu định vị tàu thuyền mới đây đã phát hiện một chiếc tàu Trung Quốc có dấu hiệu như là đang đặt dây cáp dưới biển giữa các tiền đồn Trung Quốc tại vùng quần đảo Hoàng Sa. Theo hãng tin Mỹ BenarNews ngày 08/06/2020, giới chuyên gia cho rằng các dây cáp ngầm đó có thể được dùng vào mục tiêu quân sự, giúp Trung Quốc tăng cường khả năng phát hiện tàu ngầm.
Theo hãng tin Mỹ, chiếc tàu đặt dây cáp của Trung Quốc, xuất phát từ Thượng Hải, đã bắt đầu hoạt động trong khu vực Hoàng Sa từ gần hai tuần nay. Hình ảnh vệ tinh thương mại chụp vùng Hoàng Sa đã phát hiện chiếc tàu làm công việc có liên quan đến cáp ngầm dưới biển, mặc dù ảnh chụp từ không gian không thể xác định rõ đó là việc đặt cáp mới, hoặc sửa chữa, nâng cấp hệ thống cáp hiện có.
Dữ liệu theo dõi tàu thuyền, tuy nhiên, đã xác nhận được đó là chiếc Tian Yi Hai Gong đã đến Hoàng Sa vào ngày 28/05, và đã hoạt động ít nhất tại ba đảo đá khác nhau là đảo Cây (Tree Island), đảo Bắc (North Island) và đảo Phú Lâm (Woody Island). Sau đó con tàu đã di chuyển lên phía tây nam ngày 05/06, ghé các đảo Duy Mộng (Drumond), đảo Ba Ba (Yagong) và bãi Xà Cừ (Observation Bank). Vào sáng 08/06, chiếc tàu vẫn hoạt động ở phía đông bắc bãi Xà Cừ.
Tất cả các địa điểm trên đều là các tiền đồn quân sự của Trung Quốc ở vùng Hoàng Sa.
Lần gần đây nhất mà Trung Quốc bị phát hiện đặt cáp ngầm ở Hoàng Sa là vào năm 2016. Theo hãng tin Anh Reuters, đó là tuyến cáp ngầm nối căn cứ quân sự trên đảo Phú Lâm với đảo Hải Nam. Hai chuyên gia đã cho rằng hệ thống cáp quang ngầm nối liền các thực thể ở Hoàng Sa mà Trung Quốc chiếm đóng có thể nhằm mục đích quân sự.
Theo ông James Kraska, giáo sư tại trường Hải Chiến Hoa Kỳ, hệ thống cáp quang đó sẽ cho phép truyền tải các thông tin quân sự được mã hóa giữa các tiền đồn khác nhau của Trung Quốc, và sẽ kết nối với hệ thống cáp dưới biển đã được xây dựng dọc theo bờ biển phía đông Trung Quốc.
Một điều khác mà Trung Quốc có thể làm là thiết lập một mạng lưới phát hiện các âm thanh dưới nước, để phát hiện và theo dõi tàu của đối thủ, đặc biệt là tàu ngầm. Ông Bryan Clark, nghiên cứu viên cao cấp tại Học Viện Hudson, trụ sở tại Washington, cũng nghi ngờ rằng các dây cáp có thể được dùng vào việc giám sát dưới mặt nước.