Tin Biển Đông – 07/04/2020

Cac Bai Khac

No sub-categories

Tin Biển Đông – 07/04/2020

Giới chuyên gia: Mỹ tăng cường

vũ khí đối phó với TQ trên Biển Đông

Để đối phó, ngăn chặn và kiềm chế các hoạt động phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông, Mỹ không chỉ bố trí các loại hình tàu chiến hiện đại mà còn điều thêm máy bay trực thăng không người lái MQ-8B Fire Scout.

Trong tháng 3/2020, trang thông tin thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ công bố hình ảnh trực thăng không người lái MQ-8B Fire Scout cùng tàu chiến cận bờ USS Gabrielle Giffords (thuộc lớp Independence) hoạt động trên Biển Đông. Điều này cho thấy, việc kết hợp giữa tàu tên lửa tấn công hải quân loại mới kết hợp cùng máy bay trực thăng không người lái được xem là một cặp đôi “sát thủ” trên biển mà Mỹ đang triển khai ở Biển Đông giữa bối cảnh Trung Quốc có nhiều động thái gây căng thẳng. Tàu USS Gabrielle Giffords được Hải quân Mỹ cho biết đang triển khai luân phiên đến Bộ tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, thực hiện các hoạt động tác chiến, tập trận, thăm cảng trên toàn khu vực và hoạt động cọ sát với hải quân các đồng minh và đối tác nhằm mang đến ổn định và an ninh hàng hải – những trụ cột chính của một Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và cởi mở. USS Gabrielle Giffords có lượng giãn nước hơn 3.100 tấn, chiều dài khoảng 115 m và bán kính hoạt động từ 1.100 – 1.700 km. USS Gabrielle

Giffords là tàu chiến đầu tiên được trang bị tên lửa tấn công trên biển (NSM) mới của Mỹ do hãng Raytheon phát triển.

Tiến sỹ Satoru Nagao (Viện Nghiên cứu Hudson, Mỹ) cho biết ban đầu, tàu chiến cận bờ được Mỹ phát triển để thực thi các nhiệm vụ như chống cướp biển, chống khủng bố… hay ứng phó với các tàu chiến nhỏ của Vệ binh cách mạng Iran thời hậu Chiến tranh lạnh. Theo hình thức này, khi kết hợp cùng nhóm tác chiến tàu sân bay, tàu chiến cận bờ có nhiệm vụ xác định mục tiêu, để nhóm tác chiến triển khai tấn công. Tuy nhiên, bắt đầu thập niên 2000 thì tình hình đã thay đổi, sự trỗi dậy của Trung Quốc và nhất là các hoạt động của nước này ở Biển Đông, khiến Washington gần đây triển khai tàu chiến cận bờ đến Biển Đông bởi loại tàu này phù hợp với tính chất của vùng biển này. Tuy nhiên, so với chiến hạm của Trung Quốc, thì tàu chiến cận bờ của Mỹ không thể tương xứng về hỏa lực. Bởi tàu chiến cận bờ lớp Independence lẫn lớp Freedom đều chủ yếu dựa vào các hệ thống pháo với loại pháo mạnh nhất cũng chỉ 57 mm. Về tên lửa thì lớp Independence chỉ mang tên lửa AGM-114 Hellfire tầm bắn khoảng 10 km dùng để tấn công tàu chiến hoặc mục tiêu cố định. Lớp Freedom có thêm tên lửa phòng không tầm ngắn RIM-116 (một số tàu lớp Independence cũng mang tên lửa loại này). Thế nhưng, tương quan hỏa lực nay đã đổi khác, bởi Mỹ bắt đầu tăng cường vũ khí cho chiến hạm cận bờ (thuộc các lớp Independence và Freedom) khi mang theo máy bay trực thăng không người lái MQ-8B Fire Scout và tên lửa đột kích hải quân thế hệ mới (NSM), giúp cải thiện tình hình đáng kể.

Đây là loại tên lửa đối hạm hiện đại, thậm chí có nhiều ưu điểm so với tên lửa Harpoon vốn đã có hơn 40 năm đồng hành cùng nhiều lớp tàu chiến Mỹ. Cụ thể, nếu Harpoon nặng 700 kg thì NSM chỉ 407 kg nên có thể trang bị cho nhiều loại tàu chiến hơn. Bên cạnh đó, tuy có khối lượng đầu đạn chỉ 100 kg tức thua mức 248 kg của Harpoon, nhưng NSM lại có cơ chế nổ và công nghệ điện tử tiên tiến hơn để tối đa hóa độ chính xác và sức công phá. Giai đoạn cuối của NSM cũng được tinh chỉnh về mặt công nghệ để cập nhật kịp thời mục tiêu và gia tăng tính chính xác. Trong một số trường hợp, NSM có tầm bắn lên đến 300 hải lý (hơn 550 km) tức không thua kém, thậm chí vượt cả Harpoon. Tuy nhiên, tầm bắn hiệu quả hiện nay của NSM vào khoảng 100 hải lý (khoảng 185 km) với tầm bay gần như sát mặt nước để dễ dàng vượt qua các hàng phòng thủ tên lửa được lắp trên các tàu chiến. Theo một bài phân tích của chuyên gia quân sự trên chuyên san The National Interest, NSM nằm trong nhóm 5 tên lửa đối hạm đủ sức đánh chìm hầu hết các loại tàu chiến nổi.

Bên cạnh đó, khả năng tác chiến của NSM còn mạnh mẽ hơn khi kết hợp cùng máy bay trực thăng không người lái MQ-8B Fire Scout. Xét về hỏa lực, MQ-8B Fire Scout chỉ được trang bị các loại tên lửa tầm ngắn như Hellfire, bom dẫn đường cỡ nhỏ, tên lửa tấn công mặt đất. Tuy nhiên, dòng máy bay này lại sở hữu hệ thống điện tử tối tân, nhất là các bộ cảm biến, radar hải quân cực nhạy cả ban ngày lẫn ban đêm. Hệ thống radar trên MQ-8B Fire Scout có tầm bao phủ với bán kính khoảng 80 km. Nhờ đó, khi phối hợp với NSM, MQ-8B Fire Scout có thể đóng vai trò trinh sát từ xa để “chỉ điểm” về hệ thống vũ khí trên tàu chiến, rồi chuyển dữ liệu để khai hỏa NSM. Với sức mạnh này, tàu chiến cận bờ lớp Independence có thể “đụng độ” với tàu chiến cỡ lớn của đối phương. Sự thay đổi về sức mạnh, lại có tính linh hoạt cao, nên tàu chiến cận bờ đang được Mỹ sử dụng trong các nhiệm vụ mà trước đây thường được tiến hành bởi tàu khu trục hoặc tàu tuần dương. Điển hình là việc thực thi tự do hàng hải (FONOP) áp sát các thực thể, đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang chiếm giữ trái phép trên Biển Đông.

Được biết, Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3.5 triệu km2, từ vĩ độ 3° đến 26° Bắc và từ kinh độ 100° đến 121° Đông. Ngoài nguồn tài nguyên thiên nhiên biển phong phú, phục vụ cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh (thủy sản, khoáng sản, dầu khí, băng cháy…). Biển Đông còn nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, châu Âu – châu Á, Trung Đông – châu Á. Không những vậy, khu vực châu Á – Thái Bình Dương là một khu vực đang phát triển, có thị trường lớn; hàng hóa xuất khẩu chủ yếu là nông sản, may mặc, thủ công mỹ nghệ… qua các nước châu Âu, châu Mỹ; nhập khẩu thiết bị kỹ thuật công nghệ cao từ các nước phát triển. Trong quá trình vận chuyển hàng hóa, các nước thường sử dụng đường biển vì nó có ưu điểm về kinh tế so với các loại hình vận chuyển khác. Trong khu vực, một số nước có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào tuyến đường biển. Đối với một số nước trên thế giới như Mỹ, Ấn Độ, Australia…, thị trường xuất nhập khẩu của những nước này chủ yếu là Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản; hàng hóa vận chuyển từ khu vực Trung Đông, Ấn Độ Dương đều phải qua khu vực Biển Đông. Vì vậy, nếu xảy ra xung đột ở vùng biển này, các loại tàu biển phải chạy dọc theo đường mới hoặc vòng qua phía Nam Australia, khi đó cước phí vận tải tăng mạnh, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế của các nước. Ngoài ra, tự do hàng hải trong khu vực Biển Đông còn có ý nghĩa lớn về mặt quân sự đối với Mỹ và các nước đồng minh, vì: Đồng minh của Mỹ trong khu vực châu Á – Thái Bình

Dương (Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Australia, Philippines, Singapore) đều có mối liên hệ mật thiết với Biển Đông; Tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực nhằm kiềm chế Trung Quốc; Có tuyến đường ngắn nhất để Mỹ chuyển quân từ Hạm động Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương đến Trung Đông, Tây Á (từ Biển Đông chạy qua eo Malacca); Đảm bảo an ninh hàng hải cho các tàu thương mại của Mỹ và các nước đồng minh.

Vì vậy, từ trước đến nay, Mỹ luôn giữ quan điểm phản đối các tuyên bố chủ quyền, hành động gây hấn và phát triển quân sự của Trung Quốc. Thái độ của Mỹ về tranh chấp tại Biển Đông tương đối nhất quán: Trung lập trong tranh chấp về chủ quyền và ủng hộ tự do lưu thông hàng hải; phản đối các hành động bá chiếm, tự phân định ranh giới các vùng biển; kêu gọi các nước tuân thủ luật pháp quốc tế, phản đối việc đe doạn sử dụng hoặc sử dụng vũ lực của bất kỳ bên nào, phản đối bất kỳ sự can thiệp trái phép nào vào các hoạt động kinh tế; kêu gọi Trung Quốc và các nước ASEAN tuân theo tinh thần của tuyên bố chung về ứng xử Biển Đông (DOC) và tự kiềm chế. Tuy nhiên, trước những thái độ tự do lưu thông hàng hải của các nước trên thế giới. Mỹ đã có những phản ứng cứng rắn hơn và có những biện pháp kiềm chế Trung Quốc (tăng cường hiện diện quân sự trong khu vực Biển Đông, tiến hành tập trậ với các nước trong khu vực…) và tăng cường điều tàu chiến, máy bay tuần tra trong vùng biển này.

http://biendong.net/bi-n-nong/33960-gioi-chuyen-gia-my-tang-cuong-vu-khi-doi-pho-voi-tq-tren-bien-dong.html

 

Giới chuyên gia: Các nước cần chung tay

bảo vệ hòa bình, ổn định trên Biển Đông

Để bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực, các nước cần tuân thủ các quy định luật pháp quốc tế, thúc đẩy xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), Trung Quốc cần tôn trọng chủ quyền của các nước trong khu vực, chấm dứt ngay lập tức các hoạt động phi pháp trên Biển Đông.

Tuân thủ luật pháp quốc tế

Trước hết, các bên liên quan tranh chấp cần tuân thủ các nguyên tắc nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc, UNCLOS cùng các văn kiện, tuyên bố khác trong quan hệ giữa các quốc gia; tuân thủ nguyên tắc không sử dụng vũ lực, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán giữa các bên trực tiếp liên quan, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; kiềm chế trong việc thực hiện các hành vi có thể gây phức tạp hoặc gia tăng tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình ổn định, kể cả việc không đưa người đến ở trên những đảo, đá, bãi ngầm chưa có người ở.

Thứ hai, các bên liên quan cần đẩy mạnh các biện pháp xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa thông qua các hoạt động chung, như: nghiên cứu đại dương, hợp tác nghề cá, bảo vệ môi trường, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển, khắc phục hậu quả thiên tai, phòng, chống cướp biển, chống khủng bố, tuần tra chung, tập trận chung; nghiêm cấm các hành động làm gia tăng xung đột, tranh chấp ở Biển Đông. Ngoài ra, tranh chấp Biển Đông là vấn đề lâu dài, phức tạp, các bên liên quan không chủ quan, nóng vội trong đàm phán phân định biển để có thể tận dụng hết mọi khả năng cũng như cơ hội mà mình có được.

Thứ ba, cần thúc đẩy xây dựng COC: Xây dựng COC là việc làm cấp thiết, đem lại lợi ích không chỉ cho ASEAN và Trung Quốc mà cho tất cả các nước ở trong và ngoài khu vực. Tuy COC không thể là phương tiện để giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ hay phân định ranh giới biển ở Biển Đông, nhưng COC sẽ tiếp tục là một công cụ xây dựng lòng tin nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, tin cậy lẫn nhau và khuyến khích hợp tác sử dụng và quản lý Biển Đông một cách hòa bình, tối ưu trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS; các biện pháp thực hiện trong khuôn khổ COC sẽ không gây phương hại đến quá trình giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và vùng biển. Các bên tham gia ký kết COC phải là toàn bộ thành viên của ASEAN và Trung Quốc, có thể xem xét việc tham gia của các quốc gia có lợi ích liên quan và COC phải là văn bản pháp lý tạo khuôn mẫu cho quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan trong bối cảnh ở Biển Đông đang tồn tại nhiều tranh chấp do lịch sử để lại và nhu cầu sử dụng biển của các quốc gia trong khu vực và quốc tế đang tăng lên; phát huy được vai trò chủ đạo của ASEAN trong vấn đề an ninh trên Biển Đông. Nội dung của COC và việc triển khai thực hiện COC phải tuân thủ nguyên tắc của UNCLOS, Hiệp ước thân thiện và hợp tác giữa các quốc gia Đông Nam Á (TAC), SEANWFZ, 5 nguyên tắc cùng chung sống hòa bình, kế thừa các quy định trong DOC và Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC, các nguyên tắc phổ biến của luật quốc tế đã được thừa nhận; phải thiết lập các nguyên tắc chung về việc không sử dụng bạo lực, tránh đe dọa, ngăn ngừa xung

đột, đồng thời giúp giải quyết những va chạm xung quanh việc khai thác và đánh bắt trên biển, đảm bảo an toàn trên biển. Phạm vi áp dụng của COC phải được xác định rõ bao gồm tất cả các đảo và vùng nước bên ngoài ranh giới 200 hải lý tính từ đường cơ sở, lãnh hải của các quốc gia ven biển và các đảo ở Biển Đông. Cần phân định rõ khu vực tranh chấp và không tranh chấp, xác định rõ những hoạt động được phép và không được phép thực hiện tại khu vực tranh chấp; đặc biệt là tôn trọng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển, quyền tự do và an ninh hàng hải, an ninh hàng không tại Biển Đông phù hợp với quy định của UNCLOS.

Thứ tư, các bên liên quan cần thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao, tăng cường mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau để có thể thông cảm và tạo điều kiện thuận lợi cùng nhau đi đến thống nhất chung; cần thỏa thuận các điều khoản là chế tài ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia ký kết nhằm giúp các điều ước đó thực hiện và có ý nghĩa cũng như giá trị thật sự trên thực tế.

Thứ sáu, Trung Quốc cần từ bỏ chủ trương vô lý và chấm dứt các hoạt động làm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông; thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp quốc tế cũng như các tuyên bố, hiệp định ký kết với các nước liên quan. Trong đó, Trung Quốc phải từ bỏ ngay chủ trương về việc chỉ tiến hành đàm phán song phương trực tiếp với từng nước liên quan; Trung Quốc phải thừa nhận quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam, Trung Quốc đã tiến hành chiếm đóng phi pháp và Trung Quốc phải tiến hành đàm phán với Việt Nam để giải quyết tranh chấp.

Thứ bảy, các nước ASEAN cần đoàn kết, thống nhất trong nội bộ khối trước khi tiến hành đàm phán với Trung Quốc để có lập trường thống nhất, đủ nặng buộc Trung Quốc phải tuân thủ các hiệp định, tuyên bố đã ký kết với ASEAN, trong đó có DOC và TAC; nhanh chóng thúc đẩy việc đàm phán và ký kết COC mang tính ràng buộc pháp lý nhằm góp phần giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

Thứ tám, các nước lớn có lợi ích ở Biển Đông cần tích cực can thiệp sâu hơn vào tranh chấp Biển Đông, có các biện pháp cụ thể kiềm chế các hoạt động phi pháp của Trung Quốc nhằm làm thay đổi nguyên trạng ở Trường Sa và buộc Trung Quốc phải tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế.

Giải pháp đối với Việt Nam

Giới chuyên gia nhận định, để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ở Biển Đông, Việt Nam cần tiếp tục khẳng định chủ quyền của đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Việc tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trước hết, trên hết và chủ yếu là sự thể hiện thông qua vai trò, hành động cụ thể của Nhà nước và hoạt động quản lý nhà nước đối với vùng lãnh thổ đặc biệt quan trọng này. Theo quy định tại Điều 121 của Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) năm 1982 về quy chế pháp lý của đảo, quần đảo có vùng biển riêng, việc quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa không chỉ được hiểu là quản lý phần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam mà còn phải quản lý các vùng nước xung quanh quần đảo này.

Thứ hai, Việt Nam cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện các thể chế pháp lý về quản lý nhà nước đặc thù liên quan đến quần đảo Hoàng Sa. Do cơ chế quản lý về biển, đảo theo ngành, lĩnh vực trong điều kiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển, đảo của nước ta còn thiếu đồng bộ và chồng chéo nên hiệu lực thi hành pháp luật yếu, tổ chức triển khai thiếu phối hợp giữa các ngành, các cấp, kể cả việc quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Do vậy, cần khẩn trương rà soát, xây dựng, ban hành các thể chế đặc thù, điều chỉnh riêng đối với các vấn đề liên quan đến các hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, như: Quản lý, khai thác, sử dụng, phát huy tài nguyên biển, nhất là khai thác khoáng sản, dầu khí, thủy sản; các hoạt động vận tải biển, hàng hải, hoạt động du lịch, nghiên cứu khoa học biển…; Các hoạt động tự quản nhằm bảo vệ ngư dân, hoạt động bán vũ trang, bảo vệ trật tự an toàn, tự do hàng hải và bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam; Các thể chế kêu gọi hợp tác quốc tế về kinh tế, quốc phòng an ninh, ngăn ngừa các nguy cơ cướp biển, xâm hại môi trường; hoạt động cứu hộ cứu nạn, cứu trợ nhân đạo và các hiểm họa phi truyền thống khác.

Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Biên soạn giáo trình thống nhất, đưa nội dung cơ bản về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào sách giáo khoa và chương trình giảng dạy ở các cấp, bậc học. Đồng thời, biên soạn tài liệu phổ biến những kiến thức cơ bản về lịch sử chủ quyền, thực trạng chủ quyền, chủ trương, giải pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông để tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân.

Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động khai thác, phát huy tiềm năng kinh tế biển, hỗ trợ và bảo vệ ngư dân bám biển gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông.

Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện các luận cứ khoa học, chuẩn bị nguồn lực trong vấn đề giải quyết tranh chấp trên Biển Đông liên quan đến quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa bằng các giải pháp pháp lý. Giải pháp pháp lý, trực tiếp là việc lựa chọn Tòa án quốc tế về Luật biển là phương thức giải quyết tranh chấp bắt buộc, vừa là quyền và cũng là nghĩa vụ của các quốc gia thành viên UNCLOS 1982. Theo đó, cần khẩn trương chuẩn bị nguồn lực, bao gồm cả nhân lực chuyên gia, tài liệu, nguồn lực vật chất khác, kinh nghiệm và các mối liên hệ với tổ chức quốc tế liên quan để chuẩn bị hành trang đầy đủ, tối ưu cho việc sẵn sàng lựa chọn giải pháp pháp lý trong tương lai. Có chính sách thu hút, đào tạo, cử tuyển nhân tài trên lĩnh vực luật quốc tế, luật biển để tham gia vào chương trình đào tạo chuyên sâu, các diễn đàn học thuật, các diễn đàn tranh tụng pháp lý quốc tế, tăng cường chính sách hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu trong và ngoài nước về các lĩnh vực liên quan đến biển, trước hết là luật biển và quan hệ quốc tế để chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho quốc gia. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tăng cường các hoạt động bổ trợ cho các giải pháp pháp lý như giao lưu, trao đổi học thuật về Biển Đông. Tập trung đầu tư nguồn lực để tạo dựng một diễn đàn học thuật có uy tín và mang tầm vóc khu vực, quốc tế, có sức hút mạnh mẽ đối với giới học thuật và chính khách quốc tế về Biển Đông để thúc đẩy các nỗ lực giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, đàm phán, thương lượng và thông qua Tòa án quốc tế. Đồng thời, trên cơ sở diễn đàn này, chủ động và nỗ lực thu hút các quốc gia có tranh chấp, các cường quốc có lợi ích trên biển và các đối tác đối thoại tiến đến một định chế ứng xử trên Biển Đông nhằm thiết chế hóa, điều chỉnh quan hệ và hành vi các bên trên Biển Đông phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

Thứ sáu, tăng cường năng lực các lực lượng hỗ trợ, thực thi pháp luật và dân quân tự vệ trên vùng biển Hoàng Sa. Từ kinh nghiệm đấu tranh chống Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 và tàu khảo sát Hải Dương 8 trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, Việt Nam cần đầu tư trang bị phương tiện, củng cố lực lượng thực thi pháp luật trên biển để duy trì thường xuyên các hoạt động bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên biển, bảo vệ ngư dân, duy trì trật tự pháp luật trên biển, bảo vệ các tổ chức, cá nhân hoạt động hợp pháp, như hoạt động vận tải biển, thăm dò, khai thác dầu khí, điều tra nghiên cứu khoa học biển.

http://biendong.net/bien-dong/33959-gioi-chuyen-gia-cac-nuoc-can-chung-tay-bao-ve-hoa-binh-on-dinh-tren-bien-dong.html

 

Một số phân tích về âm mưu, thủ đoạn của TQ

khi ngăn cản trái phép ngư dân Việt Nam trên Biển Đông

Việc tàu Hải Cảnh Trung Quốc cố tình đâm chìm tàu cá và bắt giữ trái phép ngư dân Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa là cách để giới cầm quyền Trung Quốc thực hiện âm mưu “độc chiếm Biển Đông”, từng bước phục vụ âm mưu, ý đồ phát triển kinh tế, khẳng định yêu sách “chủ quyền” và nguồn cung thực phẩm cho 1,4 tỷ dân đói khát.

Vùng biển giàu tiềm năng

Trải rộng từ vĩ độ 3 lên đến vĩ độ 26 Bắc và từ kinh độ 100 đến 121 Đông, Biển Đông là một biển nửa kín. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi 8 nước khác là Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Tiềm năng của vùng biển này là nguồn sống phong phú của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Với vị trí, địa lý và khí hậu đặc biệt đã tạo cho vùng biển Đông sự đa dạng sinh học cao so với các nước trên thế giới, cả về cấu trúc thành phần loài, hệ sinh thái và nguồn gen. Khác biệt về điều kiện tự nhiên từ Bắc đến Nam như sự thay đổi nhiệt độ theo vĩ tuyến, mức độ trao đổi môi trường với các vùng xung quanh, hình thái thềm lục địa… đã tạo nên những nét đặc trưng của các hệ sinh thái giữa các vùng biển ở Việt Nam.

Cho đến nay, trong vùng biển này đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Trong đó có khoảng 6.000 loài động vật đáy, 2.038 loài cá, trên 100 loài cá kinh tế, hơn 300 loài san hô cứng, 653 loài rong biển, 657 loài động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94 loài thực vật ngập mặn, 225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 12 loài thú biển và 5 loài rùa biển. Nguồn tài nguyên sinh vật biển quan trọng đã mang đến những ưu thế cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh. Trữ lượng hải sản đánh bắt khoảng 3 – 3,5 triệu tấn, cơ cấu hải sản rất phong phú, có giá trị kinh tế cao có thể khai thác được hàng năm. Trong khu vực, có các nước

đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippines.

Dân Trung Quốc đói khát hải sản

Theo ước tính, thì năm 2012 Biển Đông chiếm khoảng 12% sản lượng đánh bắt cá của thế giới, trị giá 21,8 tỷ USD. Nhưng với sự tham gia hoạt động đánh bắt cá ngày một nhiều của các nước trong khu vực. Thì sản lượng đánh bắt cá và nguồn trữ lượng cá năm 2015, đã giảm khoảng 70 – 90%, so với năm 1950. Riêng lượng cá chưa khai thác gần bờ có xu hướng giảm nhất, hiện nay giảm xuống chỉ còn từ 5 đến 30%. Vì nguồn lợi thủy sản chiếm vị trí quan trọng chiến lược đối với Trung Quốc, ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế, đời sống và khẩu phần ăn của người dân nước này. Nên từ những năm 90 của thế kỷ trước, Trung Quốc phải tính tới việc ra lệnh cấm các nước đánh bắt cá đối với khu vực Biển Đông. Có thể nói, Trung Quốc vừa là nguồn cung, cũng vừa là thị trường lớn nhất vê tiêu thụ cá trên thế giới. Nước này có tới 9 triệu ngư dân (chiếm ¼ ngư dân của thế giới), nếu tính gộp tất cả các ngành nghề liên quan tới ngư nghiệp, đánh bắt thủy sản, thì mỗi năm đã đóng góp cho ngân sách nước này khoảng 330 tỷ USD, tương đương 3,5% GDP Trung Quốc. Không những vậy, Trung Quốc còn là nước có đội tàu cá đông nhất thế giới (khoảng 450.000 tàu cá), trong đó khoảng 200.000 tàu đánh cá đại dương. Hàng năm, số tàu cá Trung Quốc khai thác, đánh bắt khoảng 71 triệu tấn cá ở khu vực Biển Đông. Theo số liệu thống kê, Trung Quốc là nước đứng đầu thế giới về tốc độ phát triển nghề cá. Năm 1980, khi châu Á chiếm 43% sản lượng cá thế giới, Trung Quốc mới chỉ chiếm 7%. Đến năm 2013, châu Á chiếm 68% thì Trung Quốc đã chiếm 32%, mang lại cho nền kinh tế nước này 289 tỷ USD.

Trước đây, Trung Quốc xác định vùng đánh bắt cá của ngư dân chủ yếu là bốn biển Bột Hải, Hoàng Hải, Đông Hải (biển Hoa Đông) và Nam Hải (Biển Đông). Tuy nhiên, gần đây do biển Bột Hải và Hoàng Hải đã cạn kiệt cá, cần giảm việc đánh bắt để tái tạo nguồn cá, Trung Quốc đã đẩy mạnh đánh bắt cá tại biển Hoa Đông và Biển Đông. Một báo cáo do tiến sĩ Rashid Sumaila và tiến sĩ William Cheung thuộc Đại học British Columbia, Canada công bố hồi năm ngoái cho thấy có đến 55% số tàu cá của toàn thế giới đang hoạt động ở Biển Đông, trong đó đội tàu cá của Trung Quốc và Đài Loan chiếm đa số. Đồng thời, Trung Quốc cũng điều chỉnh nhiều chủ trương, chính sách liên  quan việc khai thác, đánh bắt hải sản. Theo Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 của Trung Quốc về ngư nghiệp, Bắc Kinh đề ra mục tiêu cao đối với sản xuất cá. Từ năm 2016, đạt 73 triệu tấn vào năm 2020 và tiến đến đạt 77 triệu tấn vào năm 2024; tăng xuất khẩu lên 5,4 triệu tấn vào năm 2024. Theo tiến sĩ Euan Graham (Đại học Công nghệ Nanyang – Singapore), hiện Trung Quốc đã cấp phép cho trên 500 tàu cá hoạt động tại vùng biển Trường Sa. Năm ngoái, nước này cũng đưa vào khai thác tàu chế biến hải sản trực tiếp trên biển với tải trọng 32.000 tấn có khả năng xử lý 2.000 tấn hải sản mỗi ngày và hoạt động liên tục 9 tháng.

Thủ đoạn kiểm soát nguồn hải sản ở Biển Đông của Trung Quốc

Đầu tiên, Trung Quốc cho rằng Bắc Kinh có “quyền đánh cá truyền thống” và “vùng nước lịch sử”ở Biển Đông để hợp thức hóa âm mưu độc chiếm hải sản trong khu vực. Trong nhiều năm trở lại đây, Trung Quốc liên tục cho rằng “Bắc Kinh có quyền từ xưa và chủ quyền lịch sử đối với các bãi ngầm, bãi đá ở Biển Đông”, và rằng “Biển Đông là ngư trường truyền thống của ngư dân Trung Quốc”, đồng thời phản bác lại các tuyên bố chủ quyền của các nước đối với vùng biển này. Tuy nhiên, Trung Quốc không đưa ra được bằng chứng thuyết phục và các lập luận liên quan yêu sách “chủ quyền” trên, cố tình mập mờ trong việc giải thích cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ bản chất yêu sách chủ quyền của mình.

Thứ hai, ban hành trái phép “Lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm”. Từ năm 1999 đến nay, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc đều đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông. Phạm vi mà Lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến khu vực biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực vịnh Bắc Bộ và bãi cạn Scarborough, đã bao trùm lên một phần vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Dù biết vi phạm luật pháp quốc tế, Trung Quốc cố tình đưa ra lệnh cấm đánh cá nhằm: (1)  Để thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc áp dụng và phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp để “giành lấy sự công nhận trên thực tế” yêu sách chủ quyền phi pháp trên Biển Đông. Trung Quốc muốn thông qua việc cố tình giải thích và áp dụng sai các quy định của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, đặc biệt là UNCLOS để tìm cách hợp thức hóa yêu sách “đường lưỡi bò” ở Biển Đông. (2) Thông qua việc đưa ra quy định cấm đánh bắt cá hàng năm, Trung Quốc muốn phản biện lại phán quyết của Tòa Trọng tài (7/2016) bằng cách chứng minh “Trung Quốc là nước đang kiểm soát hiện hữu, lâu dài ở Biển Đông” và các thực thể địa lý (bị Tòa tuyên bố không phải đảo) đó hoàn toàn “thích hợp cho con người ở và có đời sống kinh tế riêng”. (3) Trung Quốc muốn thông qua lệnh cấm đánh bắ cá mặc cả, răn đe, hăm dọa, mua chuộc các quốc gia, các công ty, các cá nhân đang thực

hiện các dự án đầu tư khai thác tài nguyên trong phạm vi hoàn toàn nằm trong các vùng biển hợp pháp của các quốc gia ven Biển Đông.

Thứ ba, sử dụng lực lượng chấp pháp đàn áp, bắt giữ trái phép tàu cá của Việt Nam. Trung Quốc thường xuyên duy trì các loại tàu quân sự, chấp pháp, máy bay tuần tra bắt giữ tàu cá trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Liên quan các vụ việc tấn công ngư dân Việt Nam, riêng trong năm 2018, đã xảy ra nhiều vụ tàu của ngư dân Việt Nam đã bị các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc xua đuổi, tấn công khi hoạt động đánh bắt ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa.

Thứ tư, Trung Quốc còn tìm cách xua đuổi ngư dân vào tránh bão, nhằm “răn đe” ngư dân không được đi vào “vùng biển của Trung Quốc”. Trong năm 2018, Văn phòng ủy ban Quốc gia ứng phó sự cố, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn thông tin (18/6/2018) cho biết do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, 20 tàu cá cùng 100 ngư dân của tỉnh Quảng Ngãi đã trú tránh ở rìa Nam Tây Nam đảo Bạch Quy (thuộc quần đảo Hoàng Sa) thì bị tàu của Trung Quốc xua đuổi, không cho cập bờ tránh bão.

Thứ năm, thông qua cơ quan ngoại giao để bao biện cho các hoạt động phi pháp của Trung Quốc. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng (3/1/2019) cho rằng các quốc gia láng giềng trên thế giới có tranh chấp về nghề cá là việc “bình thường” và tàu hải cảnh của Trung Quốc nhiều lần xua đuổi, tấn công tàu cá của Việt Nam ở khu vực Hoàng Sa cũng là điều “bình thường”. Cái cớ mà Lục Khảng đưa ra để biện hộ cho hành xử ngang ngược của lực lượng hải cảnh của Trung Quốc là thi hành “lệnh nghỉ đánh bắt cá” để nuôi dưỡng, phát triển nghề cá hải dương.

Hành động của Trung Quốc vi phạm cả luật quốc tế lẫn thỏa thuận song phương, đa phương.

Đầu tiên, lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm (phi pháp) là quyết định vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Sau khi sử dụng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc áp dụng nhiều thủ đoạn, để hợp thức hóa “chủ quyền lịch sử” đối với khu vực này, như xây dựng các căn cứ quân sự kiên cố; ồ ạt đưa quân, dân ra quần đảo để tạo lập các đơn vị hành chính “thành phố Tam Sa”; công bố văn bản pháp lý quy định hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng các vùng biển và thềm lục địa bao lấy toàn bộ quần đảo; thường xuyên  ra các lệnh, quyết định hành chính, lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm là một ví dụ điển hình.

Thứ hai, phạm vi của Lệnh cấm đánh cá vi phạm các quy định của UNCLOS 1982, Việt Nam (12/11/1982) đã công bố Tuyên bố về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam, nên Việt Nam hoàn toàn có quyền xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của mình. Phạm vi mà Lệnh cấm đánh cá của Trung Quốc trong phạm vi từ 12 độ vĩ Bắc đến khu vực biển giao giữa tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông, bao gồm cả khu vực vịnh Bắc Bộ và bãi cạn Scarborough, đã bao trùm lên một phần vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam. Không những vậy, tại phán quyết của Toà Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS (7/2016), Toà đã khẳng định việc áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá năm 2012 tại một khu vực lớn tại Biển Đông, mà không loại trừ EEZ của Philippines và không giới hạn áp dụng với các tàu mang cờ Trung Quốc, là sự vi phạm Điều 56 UNCLOS về quyền chủ quyền đối với tài nguyên sinh vật biển trong EEZ của Philippines (đoạn 716, phán quyết 2016). Việc tiếp tục đơn phương tuyên bố áp dụng lệnh đánh bắt cá trong phạm vi rộng tại Biển Đông vào năm 2017, năm 2018, sau khi phán quyết Tòa Trọng tài có hiệu lực, cho thấy sự thách thức của Trung Quốc đối với quy định của pháp luật quốc tế hiện hành. Ngoài ra, phạm vi lệnh cấm đánh cá còn vi phạm quy chế của vùng chồng lấn nằm ở cửa vịnh Bắc Bộ. Hiện nay, giữa Việt Nam và Trung Quốc đang đàm phán phân định vùng chồng lấn này. Theo quy định của UNCLOS và theo thực tiễn quốc tế, trong khi đàm phán phân định vùng chồng lấn, các bên liên quan không được phép đơn phương tiến hành bất kỳ một hoạt động nào. Việc Trung Quốc đơn phương ra lệnh cấm đánh cá ở vùng chồng lấn là trái với quy định của UNCLOS, bất chấp thông lệ quốc tế và hoàn toàn đi ngược lại cam kết chính trị của hai bên.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng vi phạm mục a, mục b, Khoản 1, Điều 98 của UNCLOS về Nghĩa vụ giúp đỡ. Điều 98 quy định “Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mang cờ của nước mình, trong chừng mực có thể làm được mà không gây nguy hiểm nghiêm trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay cho hành khách trên tàu, phải: a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang gặp nguy khốn trên biển; b) Hết sức nhanh chóng đến cứu những người đang bị nguy cấp nếu như được thông báo những người này cần được giúp đỡ, trong chừng mực mà người ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng phải xử lý như thế; c) Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va, giúp đỡ chiếc tàu kia, đoàn thủy thủ và hành khách của nó và, trong phạm vi có thể, cho chiếc tàu đó biết tên và cảng đăng ký của tàu mình, và cảng gần nhất mà tàu mình sẽ cập bến”.

Thứ tư, việc Trung Quốc đơn phương tuyên bố áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm cho thấy Trung Quốc vi phạm Điều 5 của DOC. Điều 5 quy định: “Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự tự chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và sự ổn định, kiềm chế không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những hòn đảo hiện không có người sinh sống, trên các rặng đá ngầm, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và những yếu tố khác và phải được xử lý những khác biệt của mình bằng phương pháp có tính xây dựng. Trong khi chờ đợi sự dàn xếp hòa bình cho các tranh chấp về lãnh thổ và quyền thực thi pháp luật, các bên liên quan tiến hành tăng cường những nỗ lực nhằm tìm kiếm các phương cách xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau trong tinh thần hợp tác và hiểu biết, bao gồm: Tổ chức các cuộc đối thoại và trao đổi quan điểm một cách thích đáng giữa các quan chức phụ trách quân sự và quốc phòng. Bảo đảm đối xử công bằng và nhân đạo đối với tất cả mọi người đang gặp hiểm nguy hoặc tai họa. Thông báo trên cơ sở tự nguyện cho các bên liên quan khác về mọi cuộc tập luyện quân sự liên kết/hỗn hợp sắp diễn ra”.

Thứ năm, vi phạm các quy định, thỏa thuận song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp ở Biển Đông đã được ghi nhận và nhắc lại nhiều lần trong các văn kiện song phương và khu vực. Năm 2002, ASEAN và Trung Quốc đã ký kết DOC.

Phản ứng của Việt Nam.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhiều lân tuyên bố Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như các quyền hợp pháp với các vùng biển Việt Nam được xác định phù hợp với UNCLOS; nhấn mạnh Việt Nam kiên quyết phản đối và bác bỏ quyết định đơn phương này của Trung Quốc vì đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế trong đó có UNCLOS và các văn bản pháp lý quốc tế liên quan, đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông DOC ký giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002, không phù hợp với xu thế phát triển quan hệ hai nước trong bối cảnh hiện nay, không có lợi cho duy trì hòa bình ở khu vực.

Hội Nghề cá Việt Nam cũng nhiều lần có công văn gửi các Bộ, ngành liên quan phản đối hành động đơn phương này từ phía Trung Quốc. Theo Hội Nghề cá Việt Nam, hành động đơn phương han hành Quy chế cấm đánh bắt cá của Trung Quốc trên Biển Đông gây cản trở sản xuất trên biển của ngư dân, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và vùng biển vịnh Bắc bộ, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược lại DOC; không phù hợp với xu thế phát triển của quan hệ hai nước trong bối cảnh hiện nay, không có lợi cho duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực; nhấn mạnh Hội Nghề cá Việt Nam kịch liệt phản đối hành động đơn phương và không có giá trị pháp lý của phía Trung Quốc. Quyết định trên của phía Trung Quốc là vô giá trị.

http://biendong.net/bien-dong/33966-mot-so-phan-tich-ve-am-muu-thu-doan-cua-tq-khi-ngan-can-trai-phep-ngu-dan-viet-nam-tren-bien-dong.html

 

Chuyên gia Việt Nam ‘kinh hãi’

vì hành vi Trung Quốc ở Biển Đông

Trung Quốc không vì đại dịch Covid-19 mà tạm quên hay lơ là lợi ích của nước này trên Biển Đông, cũng như những lợi ích được cho là ‘cốt lõi’ và giấc mộng Trung Hoa của họ, ý kiến từ một số nhà quan sát, phân tích thời sự, chính trị và bang giao Việt – Trung bình luận với BBC News Tiếng Việt hôm 06/4/2020 từ Việt Nam.

Mỹ ‘bênh Việt Nam, lên án Trung Quốc’ vụ chìm tàu ở Hoàng Sa

Cựu binh Gạc Ma: ‘Nhắc đến Trung Quốc chỉ có căm giận’

TQ lại lấn át ở Biển Đông, VN còn trông đợi Mỹ được không?

Các nhà quan sát nhận định về các phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc liên quan tới một vài đụng độ, diễn biến trên Biển Đông mới đây so với quan điểm từ phía Việt Nam.

PGS. TS. Phạm Quý Thọ: Các tuyên bố, phát ngôn của Trung Quốc mấy lần đưa ra đều mâu thuẫn nhau và họ hình như đang giấu giếm ý đồ gì khác.

Theo tôi, Việt Nam đã phản ứng kịp thời và đúng mực, còn Trung Quốc đang lợi dụng đại dịch Covid-19, khi Mỹ đang bận chống dịch, để gây căng thẳng như phép thử quan hệ.

Thạc sỹ Hoàng Việt: Cách trả lời của giới chức Trung Quốc là cách trả lời nguỵ biện của một kẻ ỷ vào sức mạnh, và không cần biết đến thiện chí, luật lệ là gì.

Cách trả lời của Trung Quốc cũng giống như nhiều lần Trung Quốc thể hiện trong quan hệ quốc tế: thô lỗ, và bất cần ai, bất cần lý do, miễn đạt được mục đích của họ là được.

Cách thể hiện như vậy của Trung Quốc cho thấy thực chất trong quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng này.

Nó không giống như các khẩu hiệu đẹp đẽ mà hai bên cùng đưa ra mà như Cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có lần đề cập là “tình hữu nghị viển vông”.

Về thông tin về khai thác bang cháy của Trung Quốc trên Biển Đông, cho đến nay, chúng ta chỉ được biết qua các tuyên bố của Trung Quốc, chứ thực hư thì khó biết. Phía Trung Quốc thì dùng các tuyên bố “thực thực, hư hư” của mình để che giấu các dã tâm của mình.

Cũng có thể Trung Quốc muốn sử dụng thông tin khai thác băng cháy để “thúc đẩy” chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc khi lòng tin của người dân xáo trộn, cùng với các “đấu đá nội bộ”, hướng các khó khăn trong nước ra bên ngoài. Ngoài ra, Trung Quốc cũng sử dụng nó như là cái cớ biện minh vì sao Trung Quốc cần biển Đông.

Nhưng nói chung, các thông tin mà từ phía Trung Quốc đưa ra cần phải được kiểm tra, thẩm định và đánh giá kỹ lưỡng mới có thể kết luận được.

Tiến sỹ Nghiêm Thúy Hằng: Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh và người phát ngôn Hải cảnh Trung Quốc Trương Quân đều tuyên bố tàu cá Việt Nam QNG 90617 TS tự đâm vào mũi tàu hải cảnh 4301 của Trung Quốc ở Hoàng Sa nên bị chìm.

Dù giọng điệu vô cùng quen thuộc qua các năm nhưng mức độ tráo trở đổi trắng thay đen, vừa ăn cướp vừa la làng của phía người có trách nhiệm nhà cầm quyền Trung Quốc khiến nhiều người dân Việt Nam kinh hãi và phẫn nộ, trong đó có tôi.

Tàu gỗ của ngư dân Việt Nam sao có thể đâm vào tàu vỏ sắt của hải cảnh Trung Quốc theo kiểu tự sát để rồi “tự chìm” và để phía Trung Quốc “ nhân đạo” vớt lên?

Phía người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam thì vẫn lặp lại những tuyên bố quen thuộc’ nhưng theo tôi lần này cần nhấn mạnh thêm việc Hải Cảnh Trung Quốc vi phạm “Công ước phòng tránh nguy cơ va đụng trên biển” mà Trung Quốc cũng là một quốc gia thành viên và việc Hải Cảnh Trung Quốc xâm phạm lãnh hải và vùng tài phán của Việt Nam nhưng lại áp đặt luật của Trung Quốc, yêu cầu và ép buộc ngư dân Việt Nam ký biên bản bằng tiếng Trung Quốc, không mời phiên dịch giải thích rõ nội dung.

Với việc làm trái qui định này, Hải cảnh Trung Quốc sai cả pháp luật của Trung Quốc, luật Việt Nam lẫn thông lệ quốc tế, những biên bản vi phạm trái pháp luật như vậy hoàn toàn không có giá trị pháp lý.

Hành vi này khiến tôi nhớ đến câu chuyện do Trung Quốc cố tình khiêu khích và bịa đặt Việt Nam xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc hàng nghìn lần lăm 1979 để tạo cớ gây chiến tranh biên giới, ‘dạy cho Việt Nam một bài học’.

Điều này nói lên thực chất mối quan hệ hai nước vẫn đang là vừa hợp tác vừa đấu tranh, tồn tại một số những khác biệt trong đó có những khác biệt động đến lợi ích cốt lõi của hai nước, đó chính là vấn đề lãnh hải và tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông.

Mặc dù Tòa án trọng tài quốc tế đã ra phán quyết không công nhạn phần lãnh hải 12 hải lý gắn với các đảo trên Biển Đông, vùng biển ngư dân đánh bắt cá thuộc hải phận và quyền tài phán của Việt Nam theo luật Biển quốc tế nhưng Trung Quốc vẫn cố ý vi phạm, cố ý tạo vùng xám biến vùng biển không tranh chấp thành tranh chấp, nhận vơ ngư trường truyền thống bao đời nay của ngư dân Việt Nam là lãnh hải của mình, cố tình quên ông cha của họ bao đời khẳng định “Chân trời góc bể”, “Thiên nhai hải giác” điểm cực nam lãnh thổ của Trung Quốc nằm ở cực nam Đảo Hải Nam.

Có mâu thuẫn gì không?

BBC: Trung Quốc cùng lúc được cho là hỗ trợ, giúp đỡ, tặng trang thiết bị chống dịch Covid-19 cho Việt Nam, đây là khía cạnh và hoạt động bình thường về hợp tác, bang giao, nhân đạo, hay có mâu thuẫn gì không với các hành động của Trung Quốc liên quan chủ quyền, quyền chủ quyền hay tranh chấp trên Biển với Việt Nam cùng lúc, như đề cập ở trên?

PGS. TS. Phạm Quý Thọ: Có thể quan sát thấy về ngoại giao chính Việt Nam cũng từng làm điều đó trước.

Đối ứng lại, Việt Nam cũng hoan nghênh sự hỗ trợ vì mục đích nhân đạo và theo truyền thống bang giao láng giềng.

Thạc sỹ Hoàng Việt: Chuyện hỗ trợ này theo tôi là bình thường. Khi Trung Quốc bắt đầu đại dịch hồi tháng 1/2020, và ở trong đỉnh dịch, Việt Nam cùng nhiều quốc gia khác có viện trợ để giúp đỡ Trung Quốc, thì nay Trung Quốc viện trợ lại cũng là điều dễ hiểu.

Nó giống như quan hệ “có đi có lại mới toại lòng nhau”.

Đương nhiên trong mối quan hệ tương quan giữa hai nước Việt – Trung thì Việt Nam ở thế yếu hơn, khi muốn tỏ thái độ tốt với láng giềng của mình, nhưng ông láng giềng “to lớn” kia thì luôn chơi theo cách “trên cơ”, tức là muốn giành mối lợi riêng cho mình. Đặc biệt trong vấn đề biển Đông.

Chính vì vậy, Việt Nam luôn phải cẩn thận, dè chừng trước Trung Quốc về vấn đề này.

Tiến sỹ Nghiêm Thúy Hằng: Tôi nghĩ ở đây cần phân biệt người dân Trung Quốc, các cấp chính quyền Trung Quốc, cá nhân từng người chịu trách nhiệm tại các cơ quan hữu quan và chính phủ Trung Quốc.

Người dân Việt Nam luôn yêu quí, tôn trọng và gắn kết với người dân Trung Quốc bằng tình cảm láng giềng thân thiện, tối lửa tắt đèn có nhau, cảm thương người dân Vũ Hán gặp phải cơn hoạn nạn và vui mừng khi người dân Trung Quốc thoát khỏi dịch bệnh.

Trong khi Thủ tướng hai nước đang điện đàm nói chuyện về việc tương trợ giúp đỡ hữu nghị hợp tác thì Hải Cảnh và dân quân biển Trung Quốc thuộc tỉnh Hải Nam làm những việc trái đạo lý, đổi trắng thay đen chẳng khác nào quân cướp biển, ỷ mạnh hiếp yếu, rõ là vỗ mặt, thiếu tôn trọng lãnh đạo hai nước hoặc là quá thiếu thông tin.

Cá nhân bà Hoa Xuân Oánh cũng cần rút kinh nghiệm, nên kiểm tra thấu đáo các nguồn tin và thận trọng hơn trong phát ngôn, tránh làm tổn hại đến uy tín, danh dự và lòng tin của các nước nói chung và người dân Việt Nam nói riêng đối với Trung Quốc và Bộ Ngoại giao Trung Quốc.

‘Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn’

BBC: Hiện nay có tin Trung Quốc mua lương thực, thực phẩm, trong đó có nhập khẩu gạo, bên cạnh tiếp tục nhập khẩu dầu, trong lúc nhiều nước bán ra, điều này về an ninh lương thực và an ninh kinh tế, có thể thấy gì ở động thái của Trung Quốc? Riêng về lương thực, Việt nam có nên bán gạo cho Trung Quốc trong lúc đang chống dịch Covid-19 hay không và tại sao?

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt: Tôi thấy đang có những tranh luận khác nhau về việc xuất khẩu gạo hay không.

Có người cho rằng không nên xuất khẩu gạo vì an ninh lương thực, đặc biệt sau dịch Covid 19. Nhưng nhiều người cho rằng, chỉ cần dự trữ một lượng vừa đủ, còn thì nên xuất khẩu để giúp cho nông dân có thể bán gạo với giá cao và có vốn để chuẩn bị cho vụ mới. Đồng thời cũng cần giữ uy tín với các quốc gia đã có hợp đồng mua gạo từ Việt Nam.

Điều này thì dành cho các chuyên gia nông nghiệp đưa ra ý kiến.

Nhưng nếu đã bán thì bên mua là bên nào cũng vậy thôi, miễn được giá, có hợp đồng trước… thì bán thôi, chứ đâu nhất thiết là không bán cho Trung Quốc.

Chúng ta cảnh giác Trung Quốc thì đúng, nhưng không nên cảnh giác quá mức, cái gì dính đến Trung Quốc cũng là “nguy hiểm”.

Chúng ta cũng nên nhớ rằng Trung Quốc là một thị trường tiêu thụ lớn sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam.

PGS. TS Phạm Quý Thọ: Gạo là an ninh lương thực. Tôi nghĩ Việt Nam nên thận trọng và cảnh giác.

Thủ tướng không nên chiều theo ý kiến doanh nghiệp xuất khẩu vì lợi ích cục bộ.

Tiến sỹ Nghiêm Thúy Hằng: Trung Quốc có chính sách bảo toàn đất nông nghiệp để giữ an ninh lương thực , đảm bảo 95% lương thực có nguồn cung trong nước , chỉ có một số mặt hàng như bông hay đỗ tương là nhất thiết cần phải nhập từ nước ngoài. Tuy nhiên năm nay do dịch bệnh kéo dài, do dịch châu chấu và sâu keo phá hoại một số diện tích đất nông nghiệp nên có nguy cơ thiếu một số mặt hàng lương thực.

Theo đánh giá của cá nhân tôi, gạo không phải mặt hàng Trung Quốc thiếu và người dân Trung Quốc nhất là dân phía bắc thích ăn gạo hạt tròn nội địa chứ không thích gạo hạt dài của Việt Nam hay của Thái.

Tôi cho rằng việc nhập khẩu mua gạo ồ ạt chủ yếu chỉ phục vụ cho nhu cầu tích trữ lương thực vào các kho rồi sau đó một thời gian lại bán rẻ sang châu Phi để làm ngoại giao, gia tăng sức mạnh mềm, đổi lấy vị thế và ảnh hưởng hoặc tích trữ gạo tương tự với hành vi mua vét khẩu trang, đợi giá cao kiếm lời, không phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân lao động Trung Quốc

Việc đầu năm nay Việt Nam đã xuất nhiều gạo sang Trung Quốc và Trung Quốc mua với giá khá cao , số lượng đột biến so với cùng kỳ năm ngoái, không khó tính đòi hỏi như mọi khi là động thái khá bất thường.

Theo tôi, việc giữ giá gạo trong nước không lên quá cao, gây tác động xấu đến người dân trong nước, nhất là dân nghèo, giữ vững an ninh lương thực không để cho nguy cơ nạm đói xảy ra, giữ cho giá gạo thế giới không lên quá cao, ảnh hưởng đến người dân thế giới, nhất là người Việt khắp nơi trên thế giới sẽ là một hành động đẹp và có ý nghĩa, tăng thêm vị thế và thiện cảm của người dân các nước đối với Việt Nam.

Giá gạo hiện nay bán trong các siêu thị còn đắt gấp đôi gấp 3 giá xuất khẩu, sức mua và nhu cầu trong nước vẫn lớn, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh dân cần tích trữ trong nhà, tôi hoàn toàn ủng hộ chủ trương sáng suốt tạm thời ngừng xuất khẩu gạo của thủ tướng.

Sau khi có các con số chính xác về lượng gạo còn dư thừa thì nên điều tiết hợp lý, xuất đi những nước thực sự cần, thậm chí viện trợ nhân đạo để đổi lấy tình bạn.

Năm nay theo dự tính của chuyên gia, Ấn Độ có thể sẽ thiếu và phải nhập khẩu đến 30% lương thực hoặc sẽ phải thay đổi cơ cấu bữa ăn, nhiều nước chắc chắn sẽ thiếu lương thực.

Chúng ta nên ‘tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”, phòng khi trái nắng trở trời dịch bệnh hay khô hạn không sản xuất được thì người dân vẫn có cái ăn và chúng ta vẫn có lương thực để trợ giúp cho các nước khác hoặc bán cho các nước khác nếu cần.

Có tạm quên Biển Đông và lợi ích ‘lõi’?

BBC: Có ý kiến cho rằng Trung Quốc không vì Covid-19 mà quên đi những mục tiêu chiến lược và lợi ích mà họ coi là cốt lõi, Biển Đông là một thí dụ, và Trung Quốc sẽ tiếp tục làm mọi việc để duy trì, đạt được những mục tiêu đó, quý vị có đồng ý hay không và bình luận thế nào?

PGS. TS. Phạm Quý Thọ: Đúng! Trung Quốc không khi nào từ bỏ Giấc mộng Trung Hoa, mà thực chất có thể coi là giấc mộng bá quyền và siêu cường, với các đại mục tiêu họ tự định ra cho giai đoạn một đến 2025 và giai đoạn hai đến 2049.

Chệch mục tiêu này ông Tập Cận Bình và chế độ của họ sẽ lung lay.

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt: Điều này hoàn toàn đúng.

Ngay khi Trung Quốc khốn đốn nhất khi bị dịch, họ vẫn không quên các mục tiêu chiến lược của họ. Thậm chí, họ còn muốn “tiên thủ hạ vi cường” ra tay trước để giành lợi thế. Các tranh cãi về nguồn gốc virus, rồi chính sách “ngoại giao khẩu trang” chẳng hạn, cho thấy Trung Quốc không hề giảm bớt các hành động hung hăng của họ.

Trên Biển Đông là rất rõ, các cuộc tập trận của Trung Quốc gần đây, các hoạt động xuất hiện đe doạ Đài Loan, các chuyến xâm phạm của lực lượng dân quân biển Trung Quốc cùng với sự kiện đâm chìm tàu cá Việt Nam gần đây, đã thể hiện rõ điều này.

Thậm chí, nhân các quốc gia ASEAN và Hoa Kỳ, châu Âu đang vất cả vì dịch bệnh, Trung Quốc có thể nghĩ rằng đây là cơ hội tốt của họ để họ tiếp tục gia tăng các hành vi như vậy tại khu vực Biển Đông này.

Tiến sỹ Nghiêm Thúy Hằng: Trung Quốc sẽ không bao giờ quên các mục tiêu chiến lược và các lợi ích cốt lõi, hệ tư tưởng Nho gia chính thống của Trung Quốc lúc nào cũng khắc cốt ghi tâm mục tiêu “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, từ người dân cho đến lãnh đạo Trung Quốc lúc nào cũng mơ đến lý tưởng bình thiên hạ, vượt qua chính mình, vượt qua người khác, đổi mới mỗi ngày nên vừa thoát dịch bệnh Trung Quốc đã lại hăm hở đe dọa “ giải phóng Đài Loan”, đâm tàu cảnh sát biển của Nhật Nản, đâm vỡ tàu cá của ngư dân Việt Nam như những gì vừa xảy ra.

Năm ngoái thì Trung Quốc cũng sản xuất hàng loạt vũ khí điện từ trang bị cho các tàu cá, tàu hải cảnh, sẵn sàng chiếu lade làm hỏng mắt phi công Úc.

Ước mơ làm giàu chính đáng, đổi đời, xây dựng xã hội khá giả toàn diện, xây dựng cộng đồng nhân loại chung vận mệnh của người dân Trung Quốc thì chúng ta nên ủng hộ, thế còn giấc mơ “bình thiên hạ”, tự biến mình từ một quốc gia “ lục địa” ngàn đời thành một “cường quốc biển” bằng cách tuyên bố chủ quyền trên hầu hết Biển Đông, cướp miếng cơm manh áo của các quốc gia hải đảo bao đời nay ăn nhờ biển, sống nhờ biển thì rõ là một cuồng vọng tham lam không chính đáng, phi đạo lý, không thể nào nhắm mắt ủng hộ được.

Vô can, là nạn nhân của thuyết âm mưu?

BBC: Cuối cùng, nhân việc Covid-19 đang diễn ra, quý vị thấy Trung Quốc có trách nhiệm gì không với quốc tế, khu vực về đại dịch này, hay họ hoàn toàn vô can và cũng chỉ là một nạn nhân, kể cả việc họ là “nạn nhân” của các thuyết âm mưu, hay các cáo buộc cho rằng họ đang tận dụng tình thế để tái lập một đại cục mới có lợi cho Trung Quốc trước thế giới, phương Tây và các đối thủ cạnh tranh chính trị, an ninh, kinh tài và ý thức hệ?

PGS. TS. Phạm Quý Thọ: Theo tôi Trung Quốc đang khoa trương đã kiểm soát được dịch. Hơn thế họ tuyên truyền xoá đi nguồn gốc bùng phát đại dịch từ Vũ Hán, đồng thời lại có động thái đánh lạc hướng dư luận phương Tây bằng cách hỗ trợ nhân đạo.

Tuy nhiên những nỗi đau do mất người thân, tổn thương vật chất và tinh thần sẽ luôn ám ảnh về sự che giấu thông tin và sự thật về sự nguy hiểm của virus corona có thể là hậu quả mà họ đang gánh chịu.

Nhà nghiên cứu Hoàng Việt: Thực ra, cái gọi là trách nhiệm của Trung Quốc, đúng hơn là họ tranh thủ thời cơ để thể hiện và củng cố các lợi ích của họ, trong đó có hình ảnh của Trung Quốc, nhiều hơn là trách nhiệm thực sự trước cộng đồng quốc tế.

Và đó cũng là cái mà các quốc gia như Việt Nam phải lo ngại.

Chứ nếu Trung Quốc thực sự có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế thì thái độ của cộng đồng quốc tế đã khác.

Nói gì thì nói, rõ ràng virus Corona đã bắt đầu từ Trung Quốc rồi lây lan đến toàn thế giới.

Trung Quốc thực sự nợ thế giới một lời xin lỗi, chứ không phải như Trung Quốc nói là thế giới phải mang ơn Trung Quốc.

Tôi xin trở lại các hành động trên Biển Đông của Trung Quốc gây ra sự căng thẳng và đe doạ cho rất nhiều quốc gia từ Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Philippines… Chưa kể ngay ở Việt Nam , thử điểm coi các dự án xây dựng mà có nhà thầu Trung Quốc thì chất lượng bê bối như thế nào thì chúng ta sẽ biết.

Tóm lại là cái mà cộng đồng quốc tế lo ngại là một Trung Quốc hùng mạnh nhưng bất chấp luật pháp quốc tế, phi trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế, chỉ biết được lợi ích của mình mà thôi.

TS. Nghiêm Thúy Hằng: Đây không phải lần đầu tiên dịch bệnh có liên quan đến chủng virus Corona xuất phát từ Trung Quốc và lây lan ra khắp thế giới.

Là người đã từng sống tại Trung Quốc suốt thời gian dịch Sars và quan sát các diễn tiến kinh tế, xã hội, văn hóa tại Trung Quốc trong tương quan với khu vực, tôi khẳng định dù Virus Corona có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo trong phòng thí nghiệm, dù việc phát tán lây lan là vô tình hay cố ý thì Trung Quốc đều phải chịu trách nhiệm lớn nhất và cao nhất với thế giới về sự phát tán lây lan của đại dịch nguy hiểm không tiền khoáng hậu.

Trách nhiệm đầu tiên là vấn đề bưng bít thông tin, không trung thực và minh bạch thông tin khi xảy ra dịch bệnh, đễ lỡ thời gian vàng trong khống chế vè phòng ngừa.

Đến một bác sỹ chuyên khoa mắt như Lý Văn Lượng còn biết virus SARS đã quay trở lại và cảnh báo với đồng nghiệp thì các chuyên gia từ phòng thí nghiệm trọng điểm Vũ Hán hay các chuyên gia dịch tễ không thể chối không biết nó chính là một chủng họ Corona.

Khi đã xác định là một chủng họ Corona thì cũng không thể giả vờ ngây thơ không biết nó có mức độ lây lan cao nhất, lây được từ người sang người, phát tán qua không khí, hơi thở, hệ thống máy lạnh và chất thải, tất cả những điều này đến người ngoại đạo như tôi còn biết suốt từ năm 2003, chuyên gia trong ngành không thể chối là không biết, không có lý do gì để thoái tác việc chậm chễ trong vận hành hệ thống báo động địch bệnh, để 5 triệu người Vũ Hán thoát lệnh phong tỏa, phát tán virus ra khắp thế giới.

Trách nhiệm thứ 2 nằm ở việc có những bằng chứng Trung Quốc ngăn trở chuyên gia Mỹ hay chưa tạo điều kiện thuận lợi cho chuyên gia CDC trợ giúp trong điều kiện khẩn cấp, có ý kiến còn cho rằng Trung Quốc gây ảnh hưởng đến người đứng đầu WHO, đưa ra những cảnh báo và thông tin thiếu chính xác, không phù hợp khiến các quốc gia lúng túng trong xử lý, không kịp thời phong tỏa biên giới hay lạc lối vào thuyết miễn dịch bầy đàn, đeo hay không đeo khẩu trang khiến nhiều nước vỡ trận, mất đi nhiều sinh mạng quí giá.

Tôi hy vọng Mỹ và Trung Quốc tiếp tục tỏ ra là các nước lớn có trách nhiệm, không tiếp tục đổ lỗi cho nhau và đoàn kết toàn nhân loại chống đỡ với kẻ thù vô hình nhưng vo cùng nguy hiểm, bảo vệ tính mạng quý giá của con người.

Tôi nghĩ chỉ khi đoàn kết hợp tác, chấp nhận sự khác biệt, tiết chế lòng tham, khống chế cuồng vọng, chúng ta mới thực sự chống đỡ được sự mất cân bằng sinh thái, biến đổi khí hậu, chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa cá nhân và tự do thái quá của con người hiện đại để thực sự xây dựng được một xã hội văn minh, hài hòa, một cộng đồng chung vận mệnh nơi mọi con người đều nhận ra vị thế và chân hạnh phúc của chính mình, sống một cuộc đời có ý nghĩa và ngập tràn niềm vui thay vì đâm đầu vào kiếm tiền và chạy theo những thứ danh lợi phù du, sống cân bằng hài hòa gắn kết hơn với thiên nhiên và các sinh vật khác.

Trong tiến trình lớn lao này của nhân loại, tôi tin những nước phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam sẽ có những vị thế và đóng góp không nhỏ cho văn minh nhân loại.

Trên đây là ý kiến được phát biểu trên quan điểm riêng của các nhà nghiên cứu đã trả lời phỏng vấn của BBC News Tiếng Việt, với PGS. TS Phạm Quý Thọ là chuyên gia kinh tế và chính sách công, Tiến sỹ Nghiêm Thúy Hằng là nhà nghiên cứu Trung Quốc học từ Đại học Quốc gia Hà Nội và Thạc sỹ Hoàng Việt, nhà nghiên cứu Biển Đông, giảng viên Đại học Luật, Đai học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-52190037

 

Việt Nam lần đầu phản đối Trung Quốc

lên LHQ, báo hiệu tiến trình pháp lý?

Khánh An-VOA

Việt Nam vừa gửi công hàm lên Liêp Hiệp Quốc để phản đối các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo nhận định của một chuyên gia với VOA, động thái này có thể là báo hiệu bước đầu cho một tiến trình pháp lý trong tương lai gần nếu như Hà Nội và Bắc Kinh không giải quyết được các tranh chấp trên bàn đàm phán đa phương.

Công hàm do phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc gửi cho Tổng thư ký LHQ Antonio Guterres nói rằng các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc “vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông”.

Khẳng định Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật Biển 1982 là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, công hàm của Việt Nam nói “vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với Điều 121 (3) của Công ước; các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất; các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng”.

Công hàm của Việt Nam được gửi đi sau khi hai quốc gia trong khu vực là Philippines và Malaysia đã có cùng động thái tương tự.

Bước “rất quan trọng”

Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, một nhà nghiên cứu an ninh và chính trị khu vực của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS- Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, việc gửi công hàm chính thức lên LHQ có thể xem là một bước “rất quan trọng” và “cần thiết” mà Hà Nội thực hiện sau hàng chục năm quốc gia láng giềng tiến hành hàng loạt các hoạt động làm thay đổi hiện trạng ở Biển Đông.

“Trước giờ Việt Nam gần như chưa bao giờ nói gì với LHQ về chuyện này cả, bởi vì hiển nhiên rằng LHQ đã giao cho Việt Nam quản lý phần Biển Đông này từ năm 1951, sau khi Nhật Bản và một số nước phải làm thủ tục từ bỏ tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông”, TS. Hà Hoàng Hợp nhận định với VOA.

Theo nhà nghiên cứu này, có thể coi việc gửi công hàm lên LHQ là bước đầu cho một vụ kiện của Việt Nam ra quốc tế để chống lại yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông.

Ông giải thích thêm: “Có thể hiểu được như vậy là bởi vì vào năm 2019, Đảng Cộng sản Việt Nam trong một hội nghị Trung ương đã bàn và quyết định rằng trong trường hợp không thể xử lý được bằng biện pháp đàm phán với Trung Quốc thì sẽ phải tiến hành khởi kiện Trung Quốc”.

Công hàm của Việt Nam chỉ mới được công bố vào ngày 7/4 mặc dù đã được gửi đi từ ngày 30/3, tức là trước khi xảy ra sự kiện mới nhất là tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm một tàu cá Việt Nam vào ngày 2/4, khiến Hà Nội ngay lập tức lên tiếng và gửi công hàm phản đối tới Bắc Kinh, trong khi phía Trung Quốc nói rằng tàu cá Việt Nam đánh bắt bất hợp pháp và vụ chìm tàu chỉ là tai nạn không thể tránh khỏi.

Vụ xung đột mới nhất cũng khiến cho Mỹ phải lên tiếng bênh vực Việt Nam và chỉ trích hành động gây căng thẳng của Trung Quốc đối với an ninh trong khu vực, đặc biệt trong bối cảnh cả thế giới đang lao đao vì dịch bệnh Covid-19, vốn xuất phát từ Trung Quốc.

Theo nhận định của TS. Hà Hoàng Hợp, việc Hà Nội công bố công hàm bằng phiên bản tiếng Việt sau khi xảy ra vụ đâm chìm tàu có thể là do “áp lực từ công chúng”.

“Đây là một vụ việc rất nghiêm trọng. Nó xảy ra sau ngày 30/3, là ngày mà cơ quan đại diện thường trực của Việt Nam ở LHQ gửi thư phản đối cho Tổng thư ký LHQ. Có lẽ vì lý do đó mà họ xem xét công bố thư này để cho người Việt Nam biết rằng họ đã có hành động như vậy”, TS. Hà Hoàng Hợp nói.

Tiếp theo là gì?

Dựa trên nội dung công hàm, TS. Hà Hoàng Hợp cho rằng có thể hướng đi pháp lý sắp tới của Hà Nội sẽ là đệ trình vụ kiện lên một cơ quan tài phán hoặc một tòa án của LHQ để chống lại yêu sách chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông, tương tự như Philippines đã thực hiện và giành phần thắng vào năm 2016.

Tuy nhiên, trước khi dẫn đến bước đi cuối cùng này, có thể Hà Nội sẽ thực hiện một số bước trước đó. TS. Hà Hoàng Hợp nói: “Tiếp theo đây thì Việt Nam sẽ gặp phía Trung Quốc để bàn xem có thể xử lý trên bàn đàm phán được không. Không phải song phương mà là đa phương”.

“Thứ hai là Việt Nam phải tổ chức cho ASEAN đàm phán với Trung Quốc về COC (Bộ quy tắc Ứng xử ở Biển Đông). Vì năm nay Việt Nam là chủ tịch luân phiên của ASEAN nên việc đó phải tiếp tục cho đến tháng 11”.

Nếu cuộc họp của ASEAN về COC không thể thực hiện được vào tháng 7 vì lý do dịch COVID-19, thì theo TS. Hà Hoàng Hợp, có thể khối các quốc gia Đông Nam Á sẽ tiến hành họp trực tuyến hoặc hoãn lại. Tuy nhiên cho đến nay, vẫn chưa có quyết định về việc này.

Vẫn theo nhà nghiên cứu này, phán quyết của Tòa trọng tài thường trực vào năm 2016 đối với vụ kiện của Philippines đã bác bỏ đường Lưỡi bò (đường 9 đoạn) mà Trung Quốc tuyên bố thuộc chủ quyền của mình trên Biển Đông, và phán quyết này không chỉ dành cho Manila mà “đó là một phán quyết phổ quát”.

“Nhưng Việt Nam hồi đó lấp lửng”, TS. Hà Hoàng Hợp nói.

Theo ông, đây chính là lúc mà Việt Nam “cần nói rõ” và có bước đi quyết định trong bối cảnh Trung Quốc đã làm thay đổi hiện trạng quá nhiều ở Biển Đông theo hướng quân sự hóa để chuẩn bị cho chiến tranh.

https://www.voatiengviet.com/a/vi%E1%BB%87t-nam-l%E1%BA%A7n-%C4%91%E1%BA%A7u-ph%E1%BA%A3n-%C4%91%E1%BB%91i-trung-qu%E1%BB%91c-l%C3%AAn-lhq-b%C3%A1o-hi%E1%BB%87u-ti%E1%BA%BFn-tr%C3%ACnh-ph%C3%A1p-l%C3%BD-/5363121.html