Tin Biển Đông – 06/03/2020
Hạm đội tàu sân bay Mỹ tiến vào Biển Đông:
Thực hiện cam kết đảm bảo hòa bình, ổn định
trong khu vực
Trang mạng Hải quân Mỹ (03/3) cho biết Hạm đội tác chiến tàu sân bay Theodore Roosevelt của Hải quân Mỹ đã đến Biển Đông, với sự tháp tùng của Biên đội tàu khu trục số 23.
Theo trang Navy.mil của hải quân Mỹ, nhóm tác chiến tàu sân bay (CSG) Theodore Roosevelt đang thực hiện sứ mệnh tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Dựa trên hình ảnh từ Hải quân Mỹ, USS Theodore Roosevelt đang di chuyển trong đội hình hộ tống nhiều hơn thường lệ, với ít nhất một tuần dương hạm và 5 tàu khu trục. Tất cả tàu hộ tống đều được trang bị tên lửa dẫn đường, với mỗi tàu mang theo gần 100 tên lửa. Theo phân tích của trang Popular Mechanics, một nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ thường bao gồm một hàng không mẫu hạm, một tàu tuần dương và 2 – 3 tàu khu trục. Trong đó, tuần dương hạm đóng vai trò chính trong việc hình thành lá chắn bảo vệ tàu sân bay, đặc biệt xử lý các mối đe dọa trên không. Di chuyển gần đó trong lòng biển là một tàu ngầm tấn công hạt nhân để bảo vệ CSG trước những mối đe dọa dưới nước.
Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (CVN-71) thuộc lớp Nimitz có độ choán nước toàn tải hơn 117.000 tấn chạy bằng năng lượng hạt nhân. Tàu dài khoảng 332 m, có thể mang theo tổng cộng 90 máy bay bao gồm nhiều loại khác nhau. Đặc biệt, USS Theodore Roosevelt cũng được Mỹ dùng để thử nghiệm “siêu máy bay” X-47B là dòng máy bay không người lái vũ trang tối tân chuyên dụng cho tàu sân bay.
Trong khi đó, có thông tin cho rằng hạm đội tàu sân bay USS Theodore Roosevelt của Hải quân Mỹ cùng đội hộ tống bao gồm một tuần dương hạm và năm khu trục hạm đang thực hiện hành trình vượt Thái Bình Dương, sẽ cập cảng Đà Nẵng từ 5-9/3/2020. Trong chuyến thăm lần này, ngoài biên đội tàu sân bay USS Theodore Roosevelt còn có liên đội máy bay số 11 của Không quân Hải quân Mỹ. Trước đó, Tư lệnh Hải quân Mỹ, Đô đốc John Richardson (16/5/2019) cho biết, Mỹ đang trao đổi, thảo luận với phía Việt Nam về việc tàu sân bay của Mỹ sẽ thăm Việt Nam thời gian tới. Đô đốc John Richardsonnhấn mạnh Mỹ đánh giá cao quan hệ đối tác với Việt Nam và vai trò của ASEAN đối với hòa bình và ổn định tại khu vực; đồng thời cho biết phía Mỹ “đang làm việc với chính phủ Việt Nam và hy vọng chuyến thăm sẽ sớm diễn ra”, khẳng định hợp tác hải quân là một phần trong “quan hệ đối tác đang lên” giữa hai nước.
Có nhiều ý kiến cho rằng Hạm đội tác chiến tàu sân bay Theodore Roosevelt sẽ thăm Việt Nam diễn ra ngay sau khi Tổng thống Philippines cho hay đã chính thức thông báo với Mỹ về khả năng chấm dứt Thỏa thuận Thăm viếng Quân sự (VFA), được ký từ năm 1988. Quyết định này của Philippines làm dấy lên lo ngại của các nước trong khu vực Đông Nam Á về sự thiếu vắng hiện diện quân sự của Mỹ trên Biển Đông trong khi Trung Quốc ngày càng lấn lướt. Theo Giáo sư Carl Thayer, Mỹ sẽ đàm phán riêng với Philippines để ngăn chặn việc chấm dứt VFA. Thỏa thuận này cung cấp cơ sở pháp lý cho việc triển khai tạm thời các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ tại Philippines. Tàu sân bay Mỹ và các tàu chiến lớn khác thường xuyên đến Philippines. Nhiều khả năng Việt Nam chấp thuận chuyến thăm của hàng không mẫu hạm Mỹ trước khi có động thái nói trên của Philippines. Nhưng nếu quan hệ với Philippines xấu đi đến mức VFA bị chấm dứt, thì điều này sẽ nâng cao tầm quan trọng của việc Hoa Kỳ tiếp cận các cảng tại Việt Nam một cách thường xuyên nhằm củng cố sự hiện diện của họ trên Biển Đông. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi chính sách cho phép tàu nước ngoài cập cảng mỗi năm. Hoa Kỳ sẽ tăng cường nỗ lực vận động hành lang với Việt Nam để bảo đảm mục tiêu này. Bên cạnh đó, Giáo sư Carl Thayer cho rằng, trong hàng loạt tài liệu chính sách chiến lược, Mỹ đã xác định Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chính. Năm 2019, Hoa Kỳ gay gắt hơn, cáo buộc Trung Quốc bắt nạt và đe dọa ở Biển Đông. Chuyến thăm Đà Nẵng của tàu sân bay USS Theodore Roosevelt cho thấy Mỹ đang thực hiện một trong ba mũi nhọn trong chiến lược quân sự, bao gồm: hiện diện thường xuyên của tầu tuần tra hải quân Mỹ, hiện diện thường xuyên của máy bay ném bom, và tự do hoạt động hàng hải. Ngoài ra, Bộ Tư lệnh Ấn
Độ-Thái Bình Dương Mỹ cũng có chính sách lâu dài là tiến hành các cuộc tuần tra thường xuyên và liên tục ở Biển Đông, nhằm chứng minh rằng Mỹ sẽ bay và đưa tàu tới khu vực Biển Đông nơi luật pháp quốc tế cho phép. Đây là một thách thức trực tiếp đối với Trung Quốc nhằm tìm cách đẩy các quốc gia nước ngoài ra khỏi vùng biển nằm trong đường yêu sách “đường chín đoạn” do họ tự vạch ra.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều tàu hải quân Mỹ cập cảng Cam Ranh của Việt Nam. Trước đó, theo Chương trình Đối tác Thái Bình Dương, nhiều tàu quân sự của Hải Quân Mỹ đã ghé thăm Khánh Hòa, như tàu bệnh viện USNS Mercy của Hải quân Mỹ đã cập cảng Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa vào tháng 5/2018; tàu vận tải đổ bộ USNS Fall River thăm Cam Ranh vào tháng 5/2017; tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS John S. McCain (DDG 56) lớp Arleigh Burke của Hải quân Mỹ do Đoàn Ủy ban Quân lực Thượng viện Mỹ do thượng nghị sĩ John McCain dẫn đầu đã cập cảng Cam Ranh vào tháng 6/2017; tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Mustin (DDG 89) lớp Arleigh Burke của Hải quân Mỹ cũng ghé thăm Cam Ranh vào tháng 12/2016; đặc biệt, vào năm 2012, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta thăm tàu USNS Richard E. Byrd khi neo đậu tại Cam Ranh. Bên cạnh đó, Mỹ cũng đã tích cực hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực đảm bảo an ninh hàng hải. Mỹ (5/2017) đã bàn giao tàu tuần duyên tải trọng cao USCGC Morgenthau cho Cảnh sát biển Việt Nam qua Chương trình bán trang bị quốc phòng dư thừa (EDA). Sau khi được biên chế vào Cảnh sát biển Việt Nam, tàu được đổi tên thành CSB 8020. Trong tháng 3/2019, Mỹ cũng đã chuyển giao 6 xuồng cao tốc Metal Shark cho Vùng 2 Cảnh sát biển Việt Nam tại Quảng Nam. Động thái trên là một bước tiến quan trọng nữa trong việc mở rộng hợp tác an ninh giữa Việt Nam và Mỹ. Nó còn thể hiện sự hợp tác ngày càng sâu sắc trong lĩnh vực thực thi luật hàng hải, hoạt động tìm kiếm và cứu hộ trên biển, hợp tác trợ giúp nhân đạo hàng hải trong vùng lãnh hải và đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Tàu sân bay Mỹ thăm Việt Nam
mang thông điệp gì từ Washington?
Trả lời Thanh Niên ngày 5.3, khi diễn ra lễ đón tàu sân bay Mỹ USS Theodore Roosevelt tại Đà Nẵng, các chuyên gia quốc tế đã đưa ra những nhận định nhằm cùng giải mã thông điệp của Washington trong sự kiện lần này.
Cam kết với khu vực
TS Swee Lean Collin Koh (chuyên gia quốc phòng thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam, Singapore):
Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh tình hình Biển Đông vẫn đang diễn biến phức tạp, Trung Quốc có một loạt hành động gây quan ngại nhằm vào nhiều nước thuộc ASEAN như VN, Malaysia, Indonesia.
Trong khi đó, chính quyền của Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte lại vừa hủy Thỏa thuận Lực lượng thăm viếng (VFA) song phương với Mỹ.
Từ những thực tế trên, Washington cần có biện pháp nhấn mạnh việc Mỹ tiếp tục cam kết đối với an ninh và hòa bình trong khu vực thông qua sự hiện diện quân sự.
Vì thế, việc tàu sân bay USS Theodore Roosevelt hiện diện ở Đông Nam Á, cập cảng Đà Nẵng, là tín hiệu cho sự nhấn mạnh trên, đồng thời răn đe Bắc Kinh.
Bên cạnh đó, diễn biến này còn thể hiện vai trò quan trọng của VN trong quan hệ giữa Mỹ với khu vực.
Biểu tượng quan trọng
PGS Stephen Robert Nagy (Đại học Cơ Đốc giáo quốc tế – Nhật Bản; học giả tại Quỹ Châu Á – Thái Bình Dương – Canada): Việc Mỹ điều tàu sân bay tiếp tục thăm viếng VN là một biểu tượng quan trọng để nhấn mạnh quan hệ hợp tác giữa hai nước. Đây cũng là động thái minh chứng cho sự sẵn sàng, khả năng Mỹ can dự vào tình hình Biển Đông.
Các nước khác ở Đông Nam Á chắc chắn cũng muốn có những chuyến thăm tương tự. Hơn thế nữa, các thành viên ASEAN còn muốn Mỹ có thêm nhiều sáng kiến hợp tác không chỉ gói gọn trong chủ đề hải quân, điển hình như hợp tác phát triển thương mại, cam kết ngoại giao…
Điều động tàu sân bay là cách thể hiện tốt nhất
TS Satoru Nagao (Viện Nghiên cứu Hudson, Mỹ): Những tháng gần đây, dù phải đối mặt với nhiều khó khăn để giải quyết dịch Covid-19, nhưng Trung Quốc vẫn liên tục có nhiều hành động gây bất ổn trên Biển Đông, biển Hoa Đông và rộng hơn là ở cả Ấn Độ Dương.
Điều này có nghĩa ngay cả khi đang nhận sự giúp đỡ từ các nước lân cận, nhưng Trung Quốc dường như không từ bỏ sách lược lâu nay.
Vì vậy, Mỹ cần có động thái cụ thể nhằm thể hiện cam kết đóng góp vào sự ổn định của khu vực này.
Và việc điều động tàu sân bay đến khu vực là cách thể hiện tốt nhất.
ADMM+ và vấn đề An ninh hàng hải ở Biển Đông:
Những hạn chế trong việc thiết lập
một chuẩn mực chung cho các nước
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã thông qua Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) để từng bước để thiết lập một chế độ an ninh hàng hải có thể quản lý và phòng tránh các tình huống bất ngờ và tính toán sai lầm ở Biển Đông.
ADMM+ và việc thiết lập chế độ an ninh hàng hải
Là một phần của việc thúc đẩy hợp tác thực tế trong 6 lĩnh vực ưu tiên, ADMM+ đã thành lập Nhóm làm việc chuyên gia ADMM+ (EWG) về an ninh hàng hải vào năm 2011. Tuy nhiên, hợp tác thực tế thông qua EWG về an ninh hàng hải đã tập trung vào vấn đề an ninh phi truyền thống (NTS). Các hoạt động tập trận chung đã được thiết lập và cho ra mắt Cổng thông tin chia sẻ thông tin cộng đồng an ninh hàng hải ADMM+. Do đó, các bài tập huấn luyện an ninh hàng hải ADMM+ đã tập trungvề phát triển các kỹ năng để giải quyết các mối đe dọa của NTS như thử nghiệm thông tin liên lạc, hoạt động trên tàu, điều động tàu, tuần tra an ninh hàng hải và chống khủng bố trên biển.
Tương tự, ADMM+ vẫn chưa áp dụng các sáng kiến ADMM có thể tạo thành chế độ an ninh hàng hải ở Biển Đông, trên nền tảng sau: 1) Cơ sở hạ tầng truyền thông trực tiếp ASEAN (ADI). 2) Hướng dẫn của ASEAN về tương tác hàng hải (AGMI). 3) Hướng dẫn của ASEAN về các cuộc gặp gỡ quân sự trên không (AGAME). ADI cung cấp các liên kết liên lạc trực tiếp song phương (DCL) có thể được các bộ trưởng quốc phòng ASEAN sử dụng để ngăn chặn hoặc xoa dịu những hiểu lầm và giải thích sai. AGMI cung cấp các hướng dẫn áp dụng cho các tàu hải quân (bao gồm cả các thiết bị phụ trợ của hải quân như tàu ngầm) và máy bay hải quân đi thuyền và bay trên biển. Nó kết hợp Quy tắc về các cuộc gặp gỡ bất ngờ trên biển (CUES) và khuyến khích sử dụng Hệ thống nhận dạng tự động, trong số những người khác. Trong khi đó, AGAME khuyến khích liên lạc và nhận dạng giữa các máy bay cũng như kiềm chế không can thiệp vào các hoạt động của các quốc gia khác trong việc thực hiện quyền tự do hàng hải và hàng không trên biển. Mặc dù các hướng dẫn này sẽ được thực hiện trên cơ sở tự nguyện và không ảnh hưởng đến các yêu sách lãnh thổ và hàng hải, tuy nhiên, chúng vẫn cung cấp các quy tắc, quy tắc và quy trình chuẩn cho phòng ngừa và quản lý xung đột trong Biển Đông
Các rằng buộc về cấu trúc
Mỹ là quốc gia chi tiêu quốc phòng lớn nhất trong số các quốc gia ADMM+ trong giai đoạn 2010 – 2018 với chi tiêu quốc phòng trung bình là 643,86 tỷ USD, gấp hơn ba lần so với Trung Quốc, quốc gia chi tiêu lớn thứ hai có chi tiêu quốc phòng trung bình là 188,86 tỷ USD. Theo sau là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và Nhật Bản với 71,9 tỷ USD, 53,36 tỷ USD và 50,21 tỷ USD. Mỹ và Trung Quốc cũng có GDP hiện tại cao nhất năm 2018 với lần lượt 20,54 nghìn tỷ USD và 14,03 nghìn tỷ USD. Theo sau họ là Nhật Bản, Ấn Độ và Nga với 4,971 nghìn tỷ USD, 2,72 nghìn tỷ USD và 1,66 tỷ USD. Đáng chú ý, ngoại trừ New Zealand, tất cả các quốc gia đối tác đều có năng lực sản xuất lớn hơn các quốc gia ADMM. Do đó, các nước đối tác, đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ, có tỷ lệ cao hơn trong việc sử dụng lực lượng hải quân của mình để thực hiện chỉ huy trên biển nhằm đảm bảo dòng chảy thương mại liên tục trong thời gian hòa bình và tránh phá hoại kinh tế qua hải quân phong tỏa trong thời gian chiến tranh.
Những ràng buộc về thể chế
Chương trình “Hành động Viêng Chăn” (2004), mà ADMM + hỗ trợ, nhấn mạnh rằng Cộng đồng An ninh Chính trị ASEAN (APSC) theo nguyên tắc bảo mật toàn diện. Khái niệm này thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau mạnh mẽ của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của khu vực. Điều này có nghĩa là khi các quốc gia đối tác như Trung Quốc đồng ý với các điều khoản của ADMM+, về cơ bản họ đã hỗ trợ hợp tác khu vực trên cơ sở an ninh toàn diện hơn là an ninh quân sự. Về một lưu ý liên quan, hợp tác an ninh hàng hải ADMM+ ban đầu đã tập trung vào các vấn đề NTS phù hợp với sự chú ý lớn hơn của ASEAN đối với việc thúc đẩy khả năng phục hồi khu vực. Về vấn đề này, chế độ an ninh hàng hải gần đây được thiết lập ở cấp độ ADMM. Hơn nữa, ASEAN không giống như Liên hợp quốc theo nguyên tắc đa số phiếu hoặc EU dựa trên quy mô dân số. Do đó, là một nền tảng do ASEAN dẫn đầu, ADMM+ không có cơ chế bỏ phiếu. Quyết định được xác định thông qua sự đồng thuận của tất cả các thành viên. Nó cũng quan sát Khung ASEAN + X có nghĩa là cấu hình và thành phần duy nhất mà nó chính thức công nhận là ADMM+ là của 10 quốc gia ASEAN cùng với 8 đối tác đối thoại của họ. Về vấn đề này, sự đồng thuận trong ADMM+ tương đương với sự nhất trí. Nguyên tắc đồng thuận này tương đương với sự nhất trí là có vấn đề và có tác dụng đối với nhược điểm của các quốc gia ADMM vì nó cung cấp cho mỗi quốc gia đối tác có quyền phủ quyết chống lại bất kỳ sáng kiến nào được đề xuất ở cấp độ ADMM. Do đó, năm 2015, ADMM+ đã không đưa ra tuyên bố chung do bất đồng giữa Mỹ và Trung Quốc về việc đưa vào một nội dung liên quan đến Biển Đông.
Các ràng buộc địa chiến lược
Thông qua một cuộc khảo sát các tài liệu chính thức liên quan đến an ninh hàng hải của Mỹ, Trung Quốc, Nga và Ấn Độ, các mục tiêu chung sau đây có thể được nêu ra. Đầu tiên là mục tiêu thúc đẩy hiện đại hóa hải quân và không quân. Là một vấn đề nan giải về an ninh, cuộc chạy đua vũ trang của hải quân và không quân giữa bốn quốc gia được tạo điều kiện bởi sự ngờ vực lẫn nhau và mong muốn giành được lợi thế quân sự thông qua công nghệ vượt trội. Cuộc chạy đua vũ trang này cũng được thúc đẩy bằng cách cạnh tranh lợi ích trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo tự do hàng hải và an toàn, thực thi quyền chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đồng minh và đối tác Tuy nhiên, trung tâm của vấn đề bảo mật và mạng lưới các vấn đề này là sự suy giảm tương đối của Mỹ và sự trỗi dậy của Trung Quốc .
Một mục tiêu phổ biến khác là tăng cường sự hiện diện của không quân và hải quân và khả năng cơ động trong không gian hàng hải. Để theo đuổi các ưu tiên địa chiến lược của mình, các quốc gia này tìm cách thiết lập và duy trì sự hiện diện ở Ấn Độ Dương và Biển Đông để báo hiệu lợi ích của họ và tăng cường khả năng thực hiện các hoạt động trên biển và điều động lực lượng của họ trong các điều kiện khác nhau. Ví dụ, Trung Quốc đã mở rộngcác hoạt động hải quân của nó đến Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương và các hoạt động trên không của nó tới Biển Hoa Đông. Điều này phù hợp với lợi ích ngoài khơi của nó và đáp ứng các yêu cầu huấn luyện của hải quân và không quân. Mặt khác, Mỹ duy trì sự hiện diện trong Biển Đông thông qua quyền tự do hoạt động hàng hải để thách thức các yêu sách hàng
hải quá mức và ủng hộ sáng kiến biến lực lượng hải quân của mình thành một lực lượng nguy hiểm hơn có khả năng cơ động và sống sót trong điều kiện bất lợi. Việc mở rộng chân trời hoạt động của những người chơi hải quân tương đối mới trong khu vực, chẳng hạn như Trung Quốc, làm tăng nguy cơ gặp phải quân sự giữa tàu hải quân và máy bay quân sự.
Cuối cùng, răn đe thông qua lực lượng là một mục tiêu phổ biến khác trong số các chiến lược an ninh hàng hải của các nước lớn. Các mục tiêu của hiện đại hóa hải quân và không quân và tăng sự hiện diện của không quân và hải quân trong lĩnh vực hàng hải đều hỗ trợ cho mục tiêu răn đe cao hơn thông qua dự báo lực lượng. Mỹ tìm cách răn đe kẻ thù thông qua Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và cởi mở, Trung Quốc tìm cách răn đe và chống lại sự xâm lược để hỗ trợ trẻ hóa quốc gia, Nga tìm cách ngăn chặn sự xâm lược từ đại dương và biển, và Ấn Độ tìm cách răn đexung đột và ép buộc. Theo đó, các mục tiêu này được chuyển thành các hoạt động quân sự cụ thể trong lĩnh vực hàng hải thông qua việc thực hiện các cuộc tuần tra hàng hải đơn phương và chung và các cuộc tập trận quân sự. Tất cả những biểu hiện quan tâm đơn phương về răn đe này đều có mục tiêu dự định của họ, do đó làm suy yếu các biện pháp xây dựng lòng tin ở cấp độ đa phương.
Các mục tiêu an ninh hàng hải của Mỹ, Trung Quốc, Nga và Ấn Độ phản ánh lợi ích cạnh tranh trong việc thiết lập quyền chỉ huy biển , như một trò chơi có tổng bằng không, đòi hỏi phải kiểm soát một không gian hàng hải và ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh làm điều tương tự. Do đó, các hoạt động quân sự của họ làm gia tăng căng thẳng trong môi trường an ninh khu vực, làm tăng sự không chắc chắn của quân đội và không thể đoán trước được, và góp phần vào sự ngờ vực lẫn nhau của họ đối với nhau.
Các mục tiêu an ninh hàng hải của họ cũng đi ngược lại và có nguy cơ làm suy yếu các mục tiêu của ADMM trong việc thiết lập một chế độ an ninh hàng hải. ADI, AGMI và AGAME thúc đẩy tính minh bạch và đều đặn, thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin thực tế, cũng như sử dụng các cơ chế quản lý khủng hoảng để tránh tính toán sai lầm trong hoạt động dẫn đến xung đột toàn diện. Tuy nhiên, như được chỉ ra trong các chiến lược hàng hải của họ, các quốc gia Plus hùng mạnh nhất đánh giá cao sự khó lường trong hoạt động và dự báo lực lượng để thiết lập chỉ huy trên biển nhằm hỗ trợ cho lợi ích an ninh tương ứng của họ. Về vấn đề này, trong khi có thể có một biểu hiện hỗ trợ đối với chế độ an ninh hàng hải này trong ADMM+, các quốc gia này có thể gặp khó khăn trong việc tuân thủ các quy tắc, quy tắc và quy trình chung trong các tình huống căng thẳng thực tế trên biển.
Tóm lại, thông qua việc so sánh các quyền lực tương đối của các quốc gia ADMM+, phân tích thể chế ADMM+ và xác định các mục tiêu chung trong chiến lược an ninh hàng hải của các quốc gia đối tác ADMM+ mạnh nhất, các phân tích trên đã xác định cấu trúc, thể chế và những hạn chế về địa chiến lược trong việc thiết lập chế độ an ninh hàng hải thông qua ADMM+. Những ràng buộc này nêu bật cách thức động lực học trong ADMM+ khác với động lực học trong ADMM và có thể giải thích tại sao mặc dù có biểu hiện quan tâm và hỗ trợ về nguyên tắc, ADMM+ đã không áp dụng các sáng kiến của ADMM trong việc thiết lập an ninh hàng hải chế độ.
Trung Quốc công bố báo cáo
‘hơn 300 tàu cá Việt Nam xâm nhập lãnh hải’
Sự kiện Trung Quốc công bố báo cáo về hành động “xâm nhập lãnh hải” của tàu cá Việt Nam vào đúng lúc tàu sân bay Mỹ USS Theodore Roosevelt đến Đà Nẵng là “có tính toán” và “có chủ ý”, theo nhận định của một chuyên gia với VOA.
Báo cáo của Viện Sáng kiến Nghiên cứu Tình hình Chiến lược Biển Đông (SCSPI) thuộc Đại học Peking, Trung Quốc, được truyền thông nước này đồng loạt đăng lên vào ngày 5/3 nói rằng có tổng cộng 311 tàu cá Việt Nam đã xâm nhập vào khu vực nội địa, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc vào tháng 2, với mục đích đánh bắt cá và làm gián điệp bất hợp pháp.
“Trong số đó, có 212 tàu đi vào vùng biển phía đông nam của đảo Hải Nam, bán đảo Lôi Châu và vùng biển gần Quảng Đông, và khoảng 90 tàu cá đã đi vào lãnh hải của Trung Quốc ở Vịnh Bắc bộ”, báo cáo của Trung Quốc nói.
Theo báo cáo này, hầu hết các tàu cá của Việt Nam tập trung hoạt động tại những khu vực gần các thủy lộ chính dành cho lực lượng hải quân và không quân của nước này tại hai tỉnh trên. “Thậm chí, một số tàu cá Việt Nam còn lọt vào tầm ngắm của các căn cứ quân sự Trung Quốc”, báo cáo nói thêm.
“Hoạt động của các tàu này chỉ nhằm hai mục đích: Một là mục đích kinh tế, tức đánh bắt cá bất hợp pháp. Hai là mục đích an ninh quân sự, tức thực hiện hoạt động trinh sát, gián điệp”, báo cáo của Viện Nghiên cứu Trung Quốc khẳng định.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, một nhà nghiên cứu thuộc viện ISEAS Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, phủ nhận lập luận của báo cáo trên. Ông nói với VOA:
“Phân giới ở trong Vịnh Bắc bộ, hiệp định này đã ký từ trước và hai bên cùng tuân thủ, tức là họ đã vạch ra một cái vạch ở trên biển, bên này là của Trung Quốc và bên kia là của Việt Nam, vì có thềm lục địa nối với nhau, và đảo Hải Nam cũng có thềm lục địa. Thế thì việc thỉnh thoảng có tàu cá Việt Nam đi vào khu vực ấy là chuyện bình thường, không có chủ định gì cả. Ngược lại, phía Trung Quốc có rất nhiều tàu cá đi vào lãnh hải của Việt Nam đánh cá hoặc buôn lậu thì Việt Nam không bao giờ thèm thống kê. Người ta không cần. Người ta chỉ đuổi về thôi”.
“Nhưng chuyện khó hơn là ở khu vực quanh đảo Hoàng Sa. Hoàng Sa là của Việt Nam mà Trung Quốc đã chiếm năm 1974, và bây giờ Trung Quốc bảo một khu vực bao nhiêu hải lý xung quanh Hoàng Sa đó, mà Việt Nam cứ đưa tàu đánh cá vào khu vực đấy là họ bảo đi vào lãnh hải của họ. Chuyện này là chuyện vô lý mà không ai chấp nhận được”.
Báo cáo của Trung Quốc nói hoạt động của các tàu cá Việt Nam trong những năm gần đây “ngày càng tràn lan và gia tăng về số lượng”. Cụ thể, số lượng tàu cá Việt Nam có hoạt động xâm nhập như trên vào tháng 2 vừa qua đã tăng ít nhất là gấp đôi so với tháng trước đó.
“So với các hoạt động của Việt Nam tại vùng biển tranh chấp ở Biển Đông, tính chất của các hoạt động này thậm chí còn tồi tệ hơn. Nó hoàn toàn vi phạm chủ quyền và an ninh của Trung Quốc, làm suy yếu nghiêm trọng Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Công ước LHQ về Luật biển và các luật quốc tế khác liên quan”, báo cáo của Trung Quốc kết luận.
“Việt Nam luôn khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam. Và từ đó đến giờ, tàu cá của Việt Nam vẫn đi vào khu vực đó đánh cá. Trung Quốc thì đuổi rất nhiều lần nhưng tàu cá Việt Nam cũng được các tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển bảo vệ”, TS. Hà Hoàng Hợp dẫn chứng thực tế tranh chấp giữa hai nước trong nhiều năm qua.
Theo ông, ngoài kết luận phi lý về hành động “xâm nhập lãnh hải” của tàu cá Việt Nam, sự kiện Trung Quốc công bố báo cáo vào đúng thời điểm tàu sân bay USS Theodore Roosevelt của Mỹ đến Đà Nẵng cho thấy có một sự tính toán “đầy ý đồ” để “khớp các việc vào với nhau” của người Trung Quốc.
Ông phân tích:
“Một tuần trước, người Trung Quốc đã đưa hơn 140 tàu đến quây đảo Thị Tứ mà hiện nay người Philippines đang quản lý. Và bây giờ, Trung Quốc đang có mấy trăm tàu quây đảo Hoàng Sa lại, chủ yếu là tàu hải quân, tàu hải cảnh, và họ hiện nay xua hết tất cả tàu cá của Việt Nam ra khỏi chỗ đó. Họ làm như thế tức là họ chuẩn bị trên biển. Động tác như thế là để đáp lại việc tàu của Mỹ đến thăm cảng Tiên Sa”.
Theo nhà nghiên cứu này, không loại trừ khả năng sau khi tàu sân bay của Mỹ rút khỏi Việt Nam, Trung Quốc lại sẽ gây ra chuyện gì đó “tương tự như ở Bãi Tư Chính”. Nhưng TS. Hà Hoàng Hợp cho rằng Hà Nội “đã chuẩn bị cho tất cả các khả năng ấy”, nhất là trong bối cảnh mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ hiện đang có nhiều chuyển biến tích cực và mạnh mẽ hơn, hướng tới mức độ cao hơn mức “đối tác toàn diện”, lên mức độ “đối tác chiến lược”.