Tin Biển Đông – 04/06/2018
Đảo Hải Nam : Tiền đồn quân sự
Trung Quốc khống chế Biển Đông
Đảo Hải Nam có vị trí chiến lược đối với Trung Quốc trong vùng Biển Đông. Tại thành phố Tam Á, phía nam hòn đảo rộng 34.000 km2, Trung Quốc lập một căn cứ quân sự hùng hậu nhằm cân bằng với sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình Dương, đặc biệt phải kể đến đội tầu ngầm (tấn công quy ước và hạt nhân) thuộc Hạm Đội Nam Hải. Đảo Hải Nam còn hỗ trợ về mặt hậu cần và quân sự cho các đảo và đá bị Trung Quốc kiểm soát ở Biển Đông, trong đó có 7 hòn đảo nhân tạo ở Trường Sa, nằm cách Hải Nam hơn 1.000 km.
Ngoài vai trò chiến lược về mặt quân sự, tháng 04/2018, chủ tịch Trung Quốc nâng tầm của Hải Nam lên một bậc khi quyết định biến hòn đảo thành vùng tự do thương mại. Chưa đầy một tháng sau, chính quyền địa phương đã khởi công ba dự án công nghiệp lớn trong khu vực Hainan Resort Software Community và đưa ra chính sách đãi ngộ nhằm thu hút một triệu tài năng, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Theo chính sách mới, công dân 59 nước được miễn visa du lịch với thời hạn lưu trú tối đa là 30 ngày với điều kiện đặt tour qua các hãng lữ hành.
Nằm cách bờ biển Việt Nam khoảng 300 km, chiến lược thay đổi trên đảo Hải Nam có tác động như thế nào đối với Việt Nam và các nước trong khu vực, cũng như trong chiến lược đòi chủ quyền trên gần toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc ? Ban tiếng Việt đài RFI đã đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Mathieu Duchâtel, chuyên gia về Trung Quốc, trợ lý giám đốc chương trình châu Á của Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại Châu Âu (European Council on Foreign Relations).
T.S. Mathieu Duchatel_Hai Nam
RFI : Đảo Hải Nam có vị trí chiến lược như nào đối với miền bắc Việt Nam và trong vùng ?
Mathieu Duchâtel : Đảo Hải Nam dĩ nhiên là có một vị trí chiến lược theo hai hướng. Trước hết, bởi vì đảo là tiền đồn, vừa là của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc, đặc biệt là Hải Quân và Không Quân nhằm phô trương sức mạnh Trung Hoa ở Biển Đông, vừa là của lực lượng dân quân, đóng chủ yếu ở bên bờ đông của đảo, giúp Trung Quốc duy trì sự hiện diện quan trọng ở Biển Đông. Chính vì vậy, đảo Hải Nam là một tiền đồn thực sự quan trọng đối với Trung Quốc.
Tiếp theo, yếu tố quan trọng nhất khi chúng ta chú ý một chút đến cách tiếp cận của Trung Quốc về vấn đề tranh chấp lãnh hải, chính là ý đồ răn đe hạt nhân của Trung Quốc vì tại căn cứ hải quân Du Lâm (Yulin), nằm ở phía nam đảo Hải Nam, có đội tầu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) đang tìm lối ra vùng biển sâu để có thể trú ẩn, xây dựng sức răn đe hạt nhân và khả năng tấn công của Trung Quốc.
Đây là một chi tiết thường ít được nhắc đến khi nói về vấn đề hàng hải ở Đông Nam Á, nhưng đây lại là yếu tố hoàn toàn mang tính quyết định để hiểu được cách tiếp cận của Trung Quốc và những gì mà nước này đang tiến hành, có nghĩa là các công trình xây dựng tiền đồn quân sự trên đảo Phú Lâm, ở quần đảo Hoàng Sa và trên các đá Chữ Thập, đá Xu Bi, đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa, vừa để bảo vệ đội tầu ngầm vừa để đảm bảo sự hiện diện hải quân ở trong vùng.
RFI : Trung Quốc sử dụng căn cứ hải quân ở đảo Hải Nam như thế nào ?
Mathieu Duchâtel : Điều quan trọng đối với tôi chính là đội tầu ngầm mang tên lửa đạn đạo vì đây là yếu tố vô cùng quan trọng đối với mọi chính sách quốc phòng của Trung Quốc. Điều cần chú ý là Trung Quốc đã đưa ra chương trình trong những năm 1960 và cố đóng được một tầu ngầm tấn công có năng lực đáng tin cậy. Để thực hiện được điều này, yếu tố đầu tiên là tầu phải có khả năng ra khỏi căn cứ mà không bị theo dõi, một cách kín đáo và có thể ẩn trong đại dương, mà không bị tầu ngầm, hoặc máy bay tuần tra hàng hải của Mỹ phát hiện.
Dù nếu không bị phát hiện, nhưng để có khả năng răn đe hạt nhân một cách tin cậy, tầu ngầm đó phải có khả năng bắn được các tên lửa liên lục địa. Tuy nhiên, về điểm này, Trung Quốc vẫn chưa phát triển được một cách khả quan, ví dụ theo những gì chúng tôi được biết, loại tên lửa JL-2 mà nước này đang phát triển chưa đạt hiệu quả. Còn tên lửa JL-3 thế hệ mới vẫn chưa hoạt động.
Điểm lý thú có thể nhận thấy trong sự năng động này, đó là Trung Quốc có căn cứ quân sự ở phía nam đảo Hải Nam, cùng với nhiều tầu ngầm tấn công, nhưng lại chưa có khả năng răn đe hạt nhân mà nước này vẫn tìm kiếm.
Vì thế, Trung Quốc đang trong giai đoạn tăng tốc hiện đại hóa. Đây cũng là một cách giải thích cho những hoạt động của Trung Quốc ở phía nam đảo Hải Nam, ở các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc cần bảo vệ căn cứ hải quân và đội tầu ngầm này để sớm trang bị được khả năng răn đe dưới đại dương, hiện vẫn còn thiếu. Đó là một yếu tố vô cùng quan trọng trong cách tiếp cận của Trung Quốc ở Biển Đông. Điều này giải thích một phần những công trình xây dựng quân sự mà chúng ta thấy được tiến hành với nhịp độ rất nhanh.
RFI : Sự kiện oanh tạc cơ Trung Quốc diễn tập hạ cánh ở đảo Phú Lâm có liên quan đến căn cứ hải quân trên đảo Hải Nam hay không ?
Mathieu Duchâtel : Tôi cho rằng việc oanh tạc cơ chiến lược hạ cánh trên đảo Phú Lâm mang một ý nghĩa khác. Sự kiện đó mang ý nghĩa răn đe, không phải đối với Hoa Kỳ mà là với các nước trong khu vực đang có tranh chấp với Bắc Kinh, như Việt Nam, Philippines.
Loại oanh tạc cơ H-6K này được truyền thông giới thiệu rất nhiều là một loại oanh tạc cơ nguyên tử, điều này là đúng ! Và có khả năng tấn công đến tận đảo Guam, điều này cũng đúng ! Nhưng tôi không cho rằng Bắc Kinh muốn phô trương khả năng hạt nhân của loại oanh tạc cơ H-6K mà thực ra, muốn chứng tỏ với khu vực rằng Trung Quốc có khả năng tấn công quy ước, ví dụ đến những thực thể ở Trường Sa do các nước khác kiểm soát.
Ngược lại, những hoạt động mà Trung Quốc đang tiến hành ở các đá Xu Bi, Vành Khăn, Chữ Thập, như lập hệ thống phòng không, chống hạm, đúng là nhằm mục đích bảo vệ đội tầu ngầm hạt nhân và ngăn chặn điều cản trở nhất đối với Trung Quốc, có nghĩa là cách giám sát, chủ yếu là từ phía Mỹ, các hoạt động hàng hải và tầu ngầm mà Trung Quốc luôn tự cho mình là nạn nhân.
RFI : Đảo Hải Nam có vai trò như thế nào trong chiến lược đòi chủ quyền của Trung Quốc trong khu vực ?
Mathieu Duchâtel : Trung Quốc có một logic là làm chuyện đã rồi về mặt hành chính trong khu vực. Có nghĩa là nói với các nước láng giềng trong khu vực và cộng đồng quốc tế, theo kiểu : « Hãy nhìn đây, tôi thực sự quản lý hành chính vùng này. Khu vực này nằm dưới quyền quản lý hành chính trực tiếp của chúng tôi ! »
Thành phố Tam Á (Sanya) được hình thành theo kiểu đó và là hình ảnh phản chiếu cho cộng đồng quốc tế thấy rằng Trung Quốc đã quản lý vùng này. Vì vậy, Hải Nam đóng một vai trò quan trọng.
RFI : Khi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình quyết định biến đảo Hải Nam thành một khu vực tự do thương mại, ông muốn đưa ra chiến lược gì ?
Mathieu Duchâtel : Có một điểm rất quan trọng là tất cả những gì liên quan đến kinh tế, đặc biệt là kinh tế biển, Hải Nam từng là một tỉnh đầu tầu trong chương trình cải cách của Đặng Tiểu Bình. Năm 2018, nhân dịp 30 năm thành lập tỉnh Hải Nam, ông Tập Cận Bình thông báo xây dựng một vùng tự do thương mại hướng đến lĩnh vực biển. Ông thậm chí còn nói là Hải Nam sẽ trở thành viên ngọc trai của Trung Quốc.
Như vậy, ông Tập biến Hải Nam thành biểu tượng của chính sách mở cửa của Trung Quốc và đặc biệt nhấn mạnh vào lĩnh vực du lịch. Hiện Hải Nam có cả một kế hoạch thu hút khách du lịch nước ngoài lưu lại lâu hơn trên đảo, như không cần visa, thời hạn lưu trú dài hơn so với những thành phố khác của Trung Quốc. Người ta nhận thấy có sự tăng tốc trong tiến trình mở cửa ở Hải Nam. Vì là một hòn đảo, Hải Nam không dính với phần còn lại của Trung Hoa lục địa nên có thể dễ dàng thử nghiệm hơn những chính sách theo hướng mở cửa.
Cũng cần chú ý là tất cả những gì liên quan đến kinh tế biển như vận tải hàng hải, chuyên chở container, du lịch biển, đánh bắt hải sản, tất cả những gì liên quan đến sinh vật biển, sử dụng sản vật biển để bào chế thuốc… đang phát triển rất mạnh. Đó là những lĩnh vực mà Trung Quốc chú trọng và đảo Hải Nam đóng một vai trò thực sự quan trọng.
Đây cũng là một thách thức chính trị, cạnh tranh giữa các tỉnh miền nam Trung Quốc, như Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang… để trở thành tỉnh dẫn đầu về ngành kinh tế biển. Ở điểm này, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thật sự lựa chọn Hải Nam làm tiền đồn để phát triển một nền kinh tế hướng đến tự do trao đổi nhiều hơn, mở cửa hơn với những chính sách ưu đãi để phục vụ tiến trình quốc tế hóa của đảo. Những chính sách này rất có lợi cho sự phát triển của Hải Nam.
RFI : Du lịch Hải Nam phát triển mạnh có gây tác động đến Việt Nam và các nước khác trong vùng không ?
Mathieu Duchâtel : Có, tôi nghĩ là sẽ có tác động vì Trung Quốc đã phát triển du lịch ở quần đảo Hoàng Sa mà nước này chiếm từ Việt Nam và đang quản lý hành chính. Thông qua hình thức du lịch, Trung Quốc tìm cách củng cố quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20180604-dao-hai-nam-tien-don-quan-su-trung-quoc-khong-che-bien-dong
James Mattis: ‘Sẽ còn hậu quả cho Trung Quốc’
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis vừa phát biểu tại Đối thoại An ninh Quốc phòng IISS Shangri-La lần thứ 17 ở Singapore.
Mỹ: TQ ‘uy hiếp láng giềng’ ở Biển Đông
Bắc Kinh tấn công bình luận ‘vô trách nhiệm’ của Mỹ
BBC giới thiệu trích đoạn phần trả lời câu hỏi của ông James Mattis tại Diễn đàn này ngày 2/6, theo bản dịch của Sứ quán Mỹ ở Hà Nội.
Hỏi: Khi chúng ta nói về mối hợp tác chiến lược trong khu vực này, tất nhiên chúng ta cũng đối phó với cách biệt về năng lực. Xin cho chúng tôi biết Hoa Kỳ có những chiến lược nào để giải quyết những cách biệt này về năng lực trong số những quốc gia tại khu vực này không.
BỘ TRƯỞNG MATTIS: Chúng tôi thường xuyên nhìn thấy cách biệt ông đề cập đến thực sự tách chúng tôi ra khỏi các đồng minh, đối tác, những quốc gia đang đối đầu với khủng bố chẳng hạn, hay những mối đe dọa khác vượt khỏi phạm vi quốc gia. Và những gì quý vị cần làm là khi ở vị trí của chúng tôi, quý vị cần điều chỉnh mọi thứ từ việc huấn luyện đến các cơ hội liên lạc, cho đến các cơ hội giáo dục và dùng giáo dục và huấn luyện là con đường chính để san bằng cách biệt này.
Tôi nghĩ những gì chúng tôi thấy trong tương lai như tôi hướng dẫn, thông qua chiến lược quân sự cho quân đội Hoa Kỳ và tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, quý vị sẽ thấy chúng tôi có nhiều khả năng san bằng cách biệt hơn từ phía chúng tôi. Lúc trước thì chúng tôi tránh xa – đây là cách chúng tôi làm kinh doanh. Giờ đây chúng tôi sẽ bước đến bên quý vị để hỏi thăm công việc ra sao? Và đây là những gì chúng tôi biết – dù có chiến đấu chống khủng bố hay trong những hoạt động hàng hải và chia sẻ những bài học này theo cách có thể hiểu thấu, chúng tôi giúp quý vị bằng những năng lực hàng đầu này nếu đó là những gì tạo sự cách biệt và giúp quý vị ưu tiên lấy chủ quyền cho quý vị.
Do đó, chúng tôi tin rằng chúng ta có thể san bằng cách biệt và thực sự muốn có chính trị và sự khôn ngoan quân sự để san bằng cách biệt này hay không. Chúng ta hiểu có thể san bằng cách biệt – tất cả chúng ta đều nhận biết điều này. Tôi khá tin tưởng là chúng ta có thể san bằng nó khi tiến tới. Chúng ta không thấy quân đội nào ở đây không thể lớn mạnh, mà chúng ta không thể đồng hành hợp tác với họ. Chúng ta có thể vượt qua cách biệt.
Hỏi:Mỹ đã đổi tên Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương thành Đồng Minh Hoa Kỳ-Thái Bình Dương. Thưa ông, tôi muốn biết, điều này có ý nghĩa gì?
BỘ TRƯỞNG MATTIS: Để tượng trưng, tôi đã được hỏi về điều này vài lần vào tối qua và sáng nay. Điểm mấu chốt là chúng ta sẵn sàng điều chỉnh tên tư lệnh để phản ánh trọng tâm chính xác hơn.
Ngay lúc này, khi nhìn vào vai trò của Ấn Độ Dương với nền dân chủ lớn nhất thế giới có tiến bộ kinh tế tại Ấn Độ, chúng ta cần nhận biết tầm quan trọng đáng kể đó đối với Ấn Độ Dương, đối với tiểu lục địa Ấn Độ, và chắc chắn đối với chính Ấn Độ. Do đó tôi muốn chắc chắn rằng cái tên này thực sự phản ánh thực tế. Và thực tế đang thay đổi. Thế giới luôn chuyển động và đó là tất cả ý nghĩa của việc này.
Giờ đây, bên trong điều này, có những điều đang tiến triển, như tôi đã đề cập trong bài phát biểu chuẩn bị sẵn, rằng chúng ta thực sự đối mặt với sân khấu chính. Tôi không công bố những điều này. Thí dụ, chúng ta thay thế những tàu quân sự thế hệ thứ ba bằng những tàu quân sự thế hệ thứ năm, chúng ta đưa thêm tàu chiến tốt nhất cho tư lệnh của hạm đội thuộc Bộ Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong năm ngoái hoặc cách đây hai năm, và chúng ta sẽ tiếp tục đặt ưu tiên vào khu vực này và giờ đây định nghĩa đúng là Bộ Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Hỏi: Cách đây vài năm, Hoa Kỳ đưa tàu tên lửa Antietam và – tàu phá tên lửa Higgins đến vùng của lãnh hải Trung Quốc. Và tôi nghĩ đây là vi phạm luật pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, về vùng lãnh hải, và khu vực tiếp giáp. Và đây cũng rõ ràng khiêu khích đến an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc.
Tôi nghĩ rằng đây là quân sự hóa ở Biển Hoa Nam dưới bức màn tự do hàng hải. Do đó tôi muốn biết ý kiến của ông về điều này.
BỘ TRƯỞNG MATTIS: Vâng, Trung tướng, tôi nghĩ nó là sự bất đồng căn bản giữa cách các tòa án quốc tế nhìn vào những vùng biển này. Đối với chúng tôi, những vùng biển này là vùng biển quốc tế tự do và mở rộng cửa. Tất cả chúng ta đang nói về một Thái Bình Dương tự do và mở rộng cửa, một Châu Á-Thái Bình Dương tự do và mở rộng cửa, một Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và mở rộng cửa. Tự do có nghĩa là tự do cho tất cả các quốc gia, lớn hay nhỏ, qua lại không phận quốc tế, vùng biển quốc tế.
Theo truyền thống, về mặt lịch sử, và theo điều luật, đây không phải là quan điểm xét lại. Đây là quan điểm truyền thống. Đây là quan điểm đã có sẵn, và chúng ta có các tòa án quốc tế củng cố điều này, họ độc lập với chúng ta, rằng chúng ta không – chúng ta không kiểm soát nó, nó theo (N Kloss?), và do đó khi chúng ta thấy những loại diễn giải luật quốc tế này, thì chúng ta sẽ hành động theo đó.
Chúng ta không tìm kiếm tự do hàng hải chỉ cho nước Mỹ. Chúng ta muốn tự do hàng hải – tự do cho tất cả các quốc gia lớn nhỏ, cần qua lại những vùng biển này cho thịnh vượng riêng của họ vì họ có lý do rõ ràng.
Do đó chúng tôi không xem đây là quân sự hóa bằng cách qua lại những nơi trước đây là vùng biển quốc tế. Chúng ta xem đây chỉ là sự tái khẳng định trật tự dựa theo quy tắc. Và chúng tôi – tôi – xin nhắc lại, sẽ đến Bắc Kinh để thảo luận thêm về điều này theo lời mời của chính phủ ông vào cuối tháng.
Nhưng tôi hiểu sự bất đồng, không phải là bất đồng chúng tôi chưa nghiên cứu và chúng tôi nghĩ điều thích hợp là chúng ta phải mở rộng cửa những vùng biển này cho tất cả các quốc gia.
Hỏi: Tôi nghĩ ông đã rõ ràng tạo được thỏa thuận về những nguyên tắc về trật tự dựa theo quy tắc, tự do hàng hải, vào năm nay, năm ngoài và lúc nào đó, ông biết đó, giữa phần lớn các đồng minh đã đến đây. Tôi có thắc mắc về việc – có nên trộn lẫn các ẩn dụ, nhưng tàu chiến đã đi.
Nói cách khác, thiết lập quân sự để phản đối đã được xây dựng và lắp đặt xong trên các quần đảo – chúng không còn đi nơi nào khác. Rồi vai trò của Trung Quốc – dù Trung Quốc muốn sử dụng chúng ra sao vẫn tiếp tục. Ông có nghĩ rằng điều này đúng không? Rằng tàu chiến đã nhổ neo, và ông sẽ phải đối phó ra sao với điều này?
BỘ TRƯỞNG MATTIS: Tôi nghĩ rằng đối phó với nó là điều thực tế, tôi nghĩ Trung Quốc sẽ bị hậu quả khi bỏ lơ cộng đồng quốc tế. Chúng tôi tin tưởng vào khía cạnh không uy hiếp về cách các quốc gia nên hòa thuận với nhau, họ cần lắng nghe nhau.
Chẳng có gì sai khi cạnh tranh, chẳng có gì sai khi có vị trí vững mạnh, nhưng khi chứng kiến những gì họ đã làm tại Biển Đông, thì sẽ có hậu quả.
Tôi cho ông biết là cho đến – nếu ông hỏi tôi cách đây hai tháng, tôi đã nói là chúng ta vẫn cố gắng duy trì quan điểm hợp tác với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, với Trung Quốc. Chúng tôi mời họ tham gia RIMPAC và vào cuộc diễn tập hải quân lớn nhất thế giới để duy trì kênh liên lạc quân sự cởi mở và minh bạch giữa chúng ta.
Nhưng khi ông nhìn vào những gì Chủ tịch Tập nói trong Vườn hoa hồng Nhà Trắng năm 2015, họ sẽ không thiết lập quân sự trên quần đảo Trường Sa, rồi sau đó chúng tôi đã thấy những gì xảy ra cách đây bốn tuần, đã đến lúc phải có hậu quả cho điều này. Việc thực tập hải quân lớn nhất thế giới sẽ không có Hải quân Trung Quốc tham gia.
Nhưng đây chỉ là một hậu quả tương đối nhỏ, và tôi tin rằng có nhiều hậu quả lớn hơn trong tương lai khi các quốc gia không tin tưởng vào báo cáo từ các nước láng giềng của họ, khi họ tin rằng các quốc gia láng giềng bị nợ nầng thật nhiều rồi loại bỏ quyền tự do hành động chính trị là cách giao thiệp với họ.
Cuối cùng rồi thì những điều này không đưa đến kết quả tốt đẹp lắm, ngay cả về mặt tài chính (tờ cho vay?) hoặc về sức mạnh (tờ cho vay?). Đó là một nền tảng không vững chắc khi chúng ta cứ tưởng thiếp lập quân sự là cho người khác thừa nhận vị thế của mình trên thế giới, và… tăng cường thêm. Thật sự là không phải vậy. Nền tảng này sẽ không được thế giới thừa nhận vì nó không tốt lắm.
Những hậu quả sẽ tiếp tục tiếp diễn, đối với Trung Quốc, nếu họ không tìm được cách hợp tác nhiều hơn với tất cả các quốc gia nào cũng quan tâm đến điều này.James Mattis
Rồi quý vị phải tự hỏi tại sao các hành động quân sự làm mất mặt chính trị lại được một quốc gia thực hiện. Giá trị để thực hiện các hoạt động quân sự là gì? Thứ nhất, chúng ta dư biết không ai sẽ chiếm cứ những nơi này. Chắc chắn chúng ta có thể giải quyết tranh chấp theo cách hòa bình. Nếu chỉ đơn giản sử dụng vũ khí để làm những gì các tòa án quốc tế không tán thành, thì không phải là cách hợp tác lâu dài cho vai trò phục vụ khu vực quan trọng cho tương lai của Trung Quốc và chúng tôi tôn trọng điều đó, đây còn là tương lai của nhiều quốc gia khác nữa.
Vì vậy, những hậu quả sẽ tiếp tục tiếp diễn, đối với Trung Quốc, nếu họ không tìm được cách hợp tác nhiều hơn với tất cả các quốc gia nào cũng quan tâm đến điều này.
Hỏi: Một là – vào cuối tháng Tư, như tôi nhớ, ông cho biết vấn đề quân đội Mỹ ở bán đảo Triều Tiên sẽ được đàm phán nếu dàn xếp hòa bình giữa nam và bắc có tiến bộ. Vậy có nghĩa đây cũng là lựa chọn cho Hoa Kỳ rút hoặc giảm quân sự tại bán đảo Triều Tiên trong trường hợp – quý vị biết đấy, nếu có tiến bộ giữa Nam và Bắc tại các cuộc đàm phán hòa bình?
Câu hỏi thứ hai là Tổng thống Trump tuyên bố rằng sẽ có một cuộc họp vào ngày 12 tháng 6 giữa ông Trump và (không nghe được) Kim Jong-Un, và ông ấy nói rằng ông không muốn đề cập đến áp lực tối đa nữa.
Vậy câu hỏi của tôi là, vấn đề quân sự còn trên bàn đàm phán hay không? Hoặc trong khi ông nói chuyện – Hoa Kỳ nói chuyện với Triều Tiên, có thể đã lấy việc này ra khỏi bàn đàm phán rồi? Cảm ơn ông.
BỘ TRƯỞNG MATTIS: Tôi chỉ cho quý vị biết rằng bất kỳ cuộc thảo luận nào về số lượng lính Mỹ tại Hàn Quốc đều phải theo – lời mời của Hàn Quốc và các cuộc thảo luận giữa Hoa Kỳ và Hàn Quốc – tách biệt và riêng rẽ với các cuộc đàm phán đang xảy ra với Triều Tiên. Họ có nêu vấn đề – nhưng nó sẽ không xuất hiện trong các cuộc thảo luận với Triều Tiên và như tất cả quý vị đều nhìn nhận; quân đội ở đó là do có vấn đề an ninh.
Rõ ràng, nếu các nhà ngoại giao có thể làm công việc của họ – nếu chúng ta có thể giảm mối đe dọa. Nếu chúng ta có thể khôi phục lại các biện pháp tạo lòng tin với một cái gì đó có thể kiểm chứng, thì tất nhiên những vấn đề này có thể được đàm phán sau đó giữa hai nền dân chủ có chủ quyền – Hàn Quốc và Hoa Kỳ. Nhưng vấn đề đó không nằm trên bàn hội nghị ở Singapore vào ngày 12.
Về lựa chọn quân sự, tôi nghĩ quý vị dư biết – và tôi đã bàn về điều này năm ngoái khi tôi đến đây. Tôi đã nói điều này trong mọi diễn đàn công cộng khi tôi được hỏi về vấn đề này. Đây là một vấn đề ngoại giao từ ngày 22 tháng 1 năm ngoái khi chúng tôi nhậm chức. Lãnh đạo ngoại giao đã lo liệu điều này. Nó đã được tăng cường ngoại giao tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc với ba – chỉ từ tháng Giêng năm ngoái – ba nghị quyết của Hội đồng Bảo an, nhất trí.
Nó đã được lãnh đạo ngoại giao Canada tổ chức các quốc gia gửi các Ngoại trưởng – đây là những quốc gia đã gửi phái đoàn đến bán đảo Triều Tiên theo lời kêu gọi của Liên Hợp Quốc năm 1950. Canada đã tổ chức hợp các bộ trưởng ngoại giao, không phải bộ trưởng quốc phòng, tại Vancouver, British Columbia trong cuộc thảo luận vào tháng 1 năm ngoái để tiếp tục nỗ lực ngoại giao nhằm giải quyết vấn đề này.
Chúng tôi vẫn giữ vững và xác nhận phải giải trừ hạt nhân, có thể kiểm chứng và không thể đảo ngược trên bán đảo nàyJames Mattis
Vì vậy, chúng tôi vẫn giữ vững và xác nhận phải giải trừ hạt nhân, có thể kiểm chứng và không thể đảo ngược trên bán đảo này, các nhà ngoại giao đang tham gia ngay tại New York. Các đội khác cũng đang tham gia ở Singapore và tất cả chúng ta đang đặt mọi hy vọng lên họ.
Hỏi:Ông đã đề cập đến Biển Đông khá rộng rãi trong bài phát biểu, thưa ông. Vì vậy, câu hỏi của tôi liên quan đến liên minh Mỹ-Philippine. Bởi vì trong năm 2014, Tổng thống Obama, khi ông ấy đến thăm Manila, đã được một nhà báo hỏi hai lần về các hòn đảo bị Philippines chiếm đóng và các tàu công cộng của Philippines ở Biển Đông có được Hiệp ước Quốc phòng Mỹ-Philippines năm 1951 nêu tên hay không. Và hai lần, ông ấy đã bỏ qua câu hỏi.
Khi Bộ trưởng Hillary Clinton được hỏi cùng một câu hỏi, bà nói rằng bà không thảo luận các hoàn cảnh giả định. Nhưng hãy để tôi hỏi cùng một câu hỏi cho ông, thưa ông, bởi vì tôi nghĩ câu trả lời cho câu hỏi này rất quan trọng để biết chính quyền Duterte sẽ tiến hành như thế nào chính sách an ninh hàng hải của họ.
Vì vậy, câu hỏi đặt ra là như thế này, các tàu công cộng của Philippines và các hòn đảo bị Philippines chiếm đóng ở Biển Đông có được nêu trong Hiệp ước Quốc phòng Mỹ-Philippines năm 1951 không?
BỘ TRƯỞNG MATTIS: Hãy để tôi cho quý vị biết rằng khi chúng tôi thảo luận về những vấn đề này, lý do tại sao các chánh khách quốc gia không muốn đưa ra câu trả lời cụ thể, do đây là những vấn đề phức tạp. Và khi quý vị bắt đầu trả lời: “có, không, đen, trắng” – chúng tôi đã được các tòa án quốc tế cho biết là không có đường chín vạch, và cũng không có cơ sở pháp lý cho điều này – chúng tôi theo đúng luật pháp quốc tế. Chúng tôi theo đúng các tòa án quốc tế. Chúng tôi lắng nghe mối quan tâm của mỗi quốc gia. Và nếu chỉ đơn giản trả lời theo cách quân sự hoặc phi quân sự là – không hiểu rõ vấn đề.
Đây là lý do chúng ta cần ngoại giao. Ngoại giao là xem qua tất cả các quan điểm trái ngược để tìm mặt bằng chung. Và chúng ta phải cố gắng làm điều như vậy trên thế giới này. Những người đã và đang mặc đồng phục, họ đều nhận thức rõ ràng cái giá của chiến tranh, để phải có một cam kết, rằng “Vâng, khi nó hợp với tôi, thì tôi sẽ nghe các quốc gia khác . Nếu không, “Khi nó hợp với tôi, tôi sẽ nghe các tòa án quốc tế.”
Chúng ta thực sự muốn sống theo những quy tắc này, những quy tắc đã giúp Trung Quốc phục hồi, nhiều người từ tầng lớp đói nghèo đã nâng cao chất lượng cuộc sống của họ; những quy tắc này đã giúp Trung Quốc. Rồi đây sẽ là lý do cho Trung Quốc, tôi tin rằng, cuối cùng sẽ thấu hiểu nhu cầu và mong đợi của những người hàng xóm xung quanh họ.
Và hơn nữa, tôi sẽ chỉ nói với quý vị rằng nhiều lúc chúng ta bảo mật những nỗ lực này, và tôi – quý vị biết đấy, ý tôi là báo chí tự do và cởi mở ở đây, và tôi – tôi ủng hộ điều đó, nhưng đồng thời, quý vị thường có thể làm hầu hết công việc tốt của quý vị và thiết lập các điều kiện cho một con đường phía trước bằng cách không tự tuyên bố công khai, do mọi người thường tách riêng và xem xét từng từ, rồi không lâu quý vị sẽ bị lâm vào hoàn cảnh không cho phép ngoại giao tìm lối thoát.
Tôi không muốn thuyết giảng một lớp học công dân ở đây, nhưng chỉ muốn quý vị hiểu tại sao trong nhiều trường hợp, những người thực sự có trách nhiệm không bao giờ tuyên bố: “Chỉ có cách của tôi, còn không thì biến”, hoặc chỉ có một lựa chọn. Điều đó – rất có thể là một lập trường hiện tại, và chúng tôi sẵn sàng kề bên các đồng minh, nhưng đây là cuộc thảo luận giữa chính quyền hiện tại ở Manila và Washington DC, và nó không phải là một câu trả lời đơn giản như quý vị muốn tôi trả lời.
https://www.bbc.com/vietnamese/world-44354970
Mỹ dự trù gia tăng tuần tra Biển Đông
Hoa Kỳ đang xem xét việc gia tăng các cuộc tuần tra trên biển ở Biển Đông nhằm đáp lại việc Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa vùng này.
Theo hãng tin Reuters hôm nay, 04/06/2018, trích dẫn hai quan chức Mỹ, cùng các nhà ngoại giao châu Á và Tây phương, cho biết Lầu Năm Góc đang tính đến việc đẩy mạnh các chiến dịch bảo đảm tự do hàng hải, đưa tàu tuần tra đến gần các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp ở Biển Đông.
Việc đẩy mạnh các chiến dịch tự do hàng hải có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ tiến hành các cuộc tuần tra dài ngày hơn, huy động nhiều tàu hơn và các tàu này sẽ theo dõi sát hơn các thiết bị quân sự của Trung Quốc trong khu vực, trong đó có thiết bị gây nhiễu sóng và các radar quân sự tân tiến.
Các quan chức Mỹ cũng đang thúc đẩy các nước đồng minh và đối tác gia tăng tuần tra ở Biển Đông, một tuyến giao thương rất quan trọng của thế giới, trong bối cảnh Trung Quốc đang củng cố khả năng quân sự trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tuy nhiên, theo Reuters, một số nhà phân tích cho rằng các cuộc tuần tra trên biển chẳng có tác động gì đáng kể đối với những hành động của Bắc Kinh ở Biển Đông và những hoạt động này chỉ nhằm che lấp việc thiếu vắng một chiến lược ngăn chận thế áp đảo ngày càng rõ nét của Trung Quốc trong khu vực.
Vào tháng trước, Bắc Kinh lần đầu tiên đã điều động các oanh tạc cơ chiến lược đến đảo Phú Lâm, Hoàng Sa, để tham gia thao dượt quân sự, Việt Nam và Philippines đã lên tiếng phản đối. Trước đó, các ảnh vệ tinh của Mỹ chụp vào ngày 12/05 cho thấy Trung Quốc dường như đã triển khai tên lửa địa đối không và tên lửa diệt hạm trên đảo Phú Lâm.
Theo các tùy viên quân sự trong vùng, bước kế tiếp của Bắc Kinh có thể sẽ là lần đầu tiên triển khai chiến đấu cơ phản lực đến Trường Sa hoặc tuyên bố thiết lập vùng nhận dạng phòng không ADIZ ở Biển Đông. Theo hãng tin Reuters, các sĩ quan quân đội Việt Nam có mặt tại Singapore nhân diễn đàn Shangri-la cho biết họ đặc biệt lo ngại về khả năng Trung Quốc lập vùng nhận dạng phòng không, vì điều này sẽ đe dọa sự toàn vẹn không phận của Việt Nam.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20180604-my-du-tru-gia-tang-tuan-tra-bien-dong
Tàu chiến Pháp và Anh
sẽ đi vào Biển Đông thách thức Trung Quốc
Bộ trưởng Quốc phòng Pháp và Anh hôm 3/6 cho biết tàu chiến của những nước này sẽ đi vào Biển Đông thách thức sự hiện diện về quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở khu vực này. Tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng loan tin vào cùng ngày.
Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, bà Florence Parly phát biểu tại hội nghị Shangri-la ở Singapore rằng một nhóm tàu của Pháp đi cùng với trực thăng vào tàu của Anh sẽ đến thăm Singapore vào tuần tới trước khi đi vào vùng Biển Đông. Bà Parly cho biết dù Pháp không là nước đòi chủ quyền ở Biển Đông nhưng bằng việc thực thi quyền tự do hàng hải, Pháp cũng đặt mình vào một vị trí thường xuyên phản đối bất cứ những đòi hỏi chủ quyền không được công nhận ở các đảo, ý muốn nói đến những đòi hỏi về chủ quyền quá đáng của Trung Quốc với các đảo và bãi đá tại Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Anh Gavin Williamson có mặt tại hội nghị Shangri-la được tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng dẫn lời cho biết 3 tàu chiến của Anh sẽ đến khu vực Biển Đông trong năm nay để đối phó với ảnh hưởng xấu và duy trì trật tự theo luật về lâu dài. Bộ trưởng Quốc phòng Anh nói Anh cần phải làm rõ là các quốc gia cần chơi theo luật. và những nước không theo luật sẽ chịu hậu quả.
Hôm 2/6 Bộ Trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis lên tiếng cáo buộc việc Trung Quốc triển khai vũ khí ra Biển Đông là có ý đe doạ và xâm lấn các nước khác.
Đáp lại những cáo buộc từ phía Mỹ, trung tướng Hà Lôi, đại diện đoàn Trung Quốc có mặt tại hội nghị nói rằng việc triển khai quân đội và vũ khí tới các đảo đá ở Biển Đông là nằm trong chủ quyền của Trung Quốc và được cho phép theo luật quốc tế. Ông này còn nói rằng những nhận xét vô trách nhiệm của bất cứ nước nào về vấn đề này là không thể chấp nhận.
Các hình ảnh vệ tinh hôm 12/5 của Chương trình sáng kiến minh bạch hàng hải Châu Á (AMTI) cho thấy Trung Quốc đã triển khai tên lửa chống tàu và đất đối không đến đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Hôm 18/5, Trung Quốc cũng thừa nhận đã triển khai máy bay ném bom đến Biển Đông.
Trước đó thông tin tình báo Mỹ cho biết Trung Quốc cũng đã triển khai tên lửa đất đối không và chống hạm tới 3 tiền đồn thuộc quần đảo Trường Sa.
Tờ Bưu Điện Hoa Nam buổi sáng hôm 3/6 trích nguồn tin giấu tên từ Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết để đối phó với hoạt động quân sự gia tăng của Trung Quốc ở Biển Đông, sắp tới Hoa Kỳ sẽ tăng cường hoạt động tuần tra trong chương trình tự do hàng hải ở Biển Đông như các chuyến tuần tra dài hơn, sử dụng nhiều tàu chiến hơn và giám sát gần hơn các thiết bị của Trung Quốc bao gồm hệ thống nhiễu sóng và hệ thống radar.
Hoa Kỳ cũng kêu gọi các đồng minh tăng cường sự hiện diện hải quân ở khu vực Biển Đông.
Việt Nam yêu cầu Trung Quốc và Philippines
ngừng leo thang căng thẳng ở Biển Đông
Việt Nam kêu gọi Philippines và Trung Quốc ngừng làm phức tạp hơn nữa tình hình ở các đảo đang tranh chấp tại Biển Đông, mà Manila gọi là Biển Tây Philippines.
Báo mạng Ngôi Sao Philippines loan tin vừa nêu vào ngày 4 tháng 6 dẫn lại phát biểu vào ngày 31/5 của Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu Philippines ngừng sửa chữa một đường băng cũ trên đảo Thị Tứ mà Philippines gọi là Pag-asa, một trong chín thực thể mà Manila đang kiểm soát trên quần đảo Trường Sa, nơi Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Theo Thông tấn xã Việt Nam, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã yêu cầu chính phủ Phi kiềm chế và tuân thủ tuyên bố ứng xử tại Biển Đông để ngăn chặn tình trạng ngày càng thêm căng thẳng.
Hà Nội cũng kêu gọi Bắc Kinh ngừng tiến hành các bài tập phòng cháy chữa cháy tại quần đảo Trường Sa từ ngày 9-12/5.
Phát biểu trong một buổi họp báo, bà Lê Thị Thu Hằng, Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng những hành động của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam. Đồng thời việc này đã chống lại thỏa thuận của hai nước về các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn giải quyết vấn đề biển, vi phạm Tuyên bố ASEAN – Trung Quốc về ứng xử của các bên trong Biển Đông.
Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Việt Nam còn yêu cầu tất cả các nước liên quan phải hành động theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển.
Việt Nam đã yêu cầu Trung Quốc rút thiết bị quân sự khỏi Biển Đông sau khi có thông tin Bắc Kinh đưa tên lửa hành trình chống hạm và tên lửa đất đối không đến ba căn cứ tại quần đảo Trường Sa.
Bên cạnh đó, Bắc Kinh cũng bị cáo buộc vi phạm chủ quyền của Hà Nội sau khi cho hạ cánh một máy bay ném bom trên đảo Phú Lâm, tiền đồn lớn nhất Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa, cũng là nơi Việt Nam đang tuyên bố chủ quyền.
Tại Đối Thoại Shangri-La diễn ra tại Singapore từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 3 tháng 6, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch đã nhắc đến chuyện Trung Quốc triển khai vũ khí và trang thiết bị quân sự ở Biển Đông. Ông cho rằng đây là một hành động vi phạm nghiêm trọng đến chủ quyền của các nước liên quan, vi phạm luật pháp quốc tế, đồng thời làm phức tạp tình hình, ảnh hưởng tiêu cực đến hòa bình, ổn định và an ninh khu vực.
Mỹ, Việt Nam và ‘thực tại mới’ trên Biển Đông
Hoa Kỳ đang xem xét việc tăng cường các cuộc tuần tra trên Biển Đông trước thách thức quân sự do Trung Quốc đặt ra đối với hải lộ quốc tế này, một động thái có thể làm tăng hơn nữa những sự đối đầu tại một khu vực vốn đã là một trong những điểm nóng, dễ có biến động nhất trên thế giới.
Hãng tin Reuters hôm 4/6 dẫn lời hai quan chức Mỹ và một số nhà ngoại giao Âu- Á cho biết Ngũ Giác Đài đang cân nhắc một chiến dịch chủ động hơn để khẳng định quyền tự do hàng hải gần các cơ sở do Trung Quốc xây dựng trên các đảo, đá đang trong vòng tranh chấp ở Biển Đông.
Điều đó có nghĩa là Mỹ có thể thực hiện các cuộc tuần tra dài ngày hơn, tăng số tàu tham gia hoạt động tự do hàng hải, bám sát và theo dõi các cơ sở của Trung Quốc trong khu vực mà giờ đã bao gồm các thiết bị gây nhiễu điện tử và radar quân sự tiên tiến.
Cùng lúc, các quan chức Mỹ hối thúc các đồng minh và đối tác quốc tế hãy tăng cường các hoạt động hải quân di ngang qua tuyến đường biển huyết mạch này giữa lúc Trung Quốc đang củng cố các khả năng quân sự của họ tại cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một nhà ngoại giao phương Tây nói: “Những gì chúng ta vừa chứng kiến trong vài tuần qua chỉ là bước khởi đầu, các động thái mạnh mẽ đáng kể hơn đang được lên kế hoạch”.
Ngũ Giác Đài thông thường không bình luận về các hoạt động trong tương lai của họ nhưng một phát ngôn viên, Trung tá Christopher Logan, tuyên bố: “Chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc với các nước bạn, các đối tác và đồng minh để đảm bảo một khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở”.
Một lối tiếp cận cứng rắn hơn của Ngũ Giác Đài dường như đã bắt đầu. Reuters tường thuật về một cuộc tuần tra hồi tháng trước, trong đó lần đầu tiên hai tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ tiến gần tới các hòn đảo mà Trung Quốc tuyên bố thuộc chủ quyền của họ trên Biển Đông, ngay giữa lúc Tổng thống Donald Trump đang vận động Bắc Kinh hợp tác trong các vấn đề liên quan tới Bắc Hàn.
Trong khi chiến dịch này đã được lên kế hoạch từ nhiều tháng trước, và các hoạt động nhằm khẳng định quyền tự do hàng hải đã trở nên thường tình, đây là lần đầu hai tàu chiến Mỹ được sử dụng vào công tác khẳng định tự do hàng hải trên Biển Đông.
Mặt khác, Bộ Quốc phòng Mỹ mới đây đã rút lại lời mời các lực lượng Trung Quốc tham gia các cuộc tập trận đa quốc quy mô ở ngoài khơi Hawaii trễ hơn trong năm.
Giới chỉ trích nhận định các cuộc tuần tra để gọi là “khẳng định quyền tự do hàng hải” cho tới nay đã không thay đổi được cách ứng xử của Trung Quốc, và chỉ che đậy tình trạng quốc tế không có một chiến lược quy mô để đối phó trước sự bành trướng của Trung Quốc trong khu vực.
Mỹ cảnh cáo: Trung Quốc sẽ chịu “hậu quả”
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Jim Mattis hôm thứ Bảy 2/6 khuyến cáo tại Singapore rằng việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông giờ đã là một “thực tế”, tuy nhiên ông nói Bắc Kinh sẽ phải “đối mặt với những hậu quả”, mặc dù ông không xác định những hậu quả đó là gì.
Trả lời câu hỏi tại hội nghị an ninh Shangri-La liệu có quá trễ để ngăn chặn Trung Quốc? Ông Mattis nói: “Rốt cuộc thì những hành động đó sẽ không mang lợi lộc gì về cho Trung Quốc.”
“Rốt cuộc thì những hành động đó sẽ không mang lợi lộc gì về cho Trung Quốc.”
Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ về việc TQ quân sự hóa Biển Đông
Phát biểu bên lề hội nghị Shangri-La ở Singapore, ông Hà Lôi ( He Lei), Phó Giám đốc Học viện Khoa học quân sự Trung Quốc, tuyên bố Trung Quốc có quyền tiếp tục quân sự hóa các thực thể thuộc quyền kiểm soát của mình trong Biển Đông.
Ông nói: “Đưa vũ khí và triển khai quân đội tới đó là quyền chủ quyền và quyền hợp pháp của Trung Quốc. Bất kỳ quốc gia nào tìm cách gây ồn ào về điều này đều được chúng tôi coi là can thiệp vào các vấn đề nội bộ của chúng tôi.”
Các tùy viên quân sự khu vực nói họ đang chuẩn bị tinh thần để chờ các động thái tiếp theo của Trung Quốc, một số lo ngại Bắc Kinh có thể triển khai các máy bay chiến đấu tới quần đảo Trường Sa, lần đầu tiên họ làm điều này, hoặc tìm cách thực thi một khu nhận dạng phòng không (ADIZ) tương tự như đã làm tại biển Hoa Đông vào năm 2013.
Các quan chức quân sự Việt Nam nói họ đặc biệt quan ngại về nguy cơ Trung Quốc thành lập một khu nhận dạng phòng không ở Biển Đông, vì làm như vậy là xâm phạm không phận Việt Nam và đe dọa đến quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Trung tướng Nguyễn Đức Hải, Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, nói trong khi Việt Nam từ lâu vẫn mưu tìm các giải pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, “chúng tôi mở ngỏ tất cả mọi lựa chọn để bảo vệ chủ quyền và quyền toàn vẹn lãnh thổ của mình.”
Ông nói “Thành lập một ADIZ là một lựa chọn mà chúng tôi đã nghĩ đến và cũng có kế hoạch để đối phó.”
Việt Nam tuyên bố chủ quyền toàn bộ tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và là một trong những nước tích cực nhất đối đầu với tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên hầu hết Biển Đông.
Một chuyên gia an ninh tại Singapore nói trong khi áp lực gia tăng có thể làm chậm lại nỗ lực quân sự hóa của Trung Quốc, khó có thể ngăn chặn hành động đó của Trung Quốc.
Nói với Reuters, ông Tim Huxley nhận định: “Trung Quốc đã tạo ra một thực tế mới ở đó, và tình hình này khó có thể bị lật ngược.”
“Trung Quốc không làm như vậy để chọc giận Mỹ hoặc các nước láng giềng, họ làm như vậy để phục vụ các mục tiêu chiến lược dài hạn, cho dù mục tiêu đó là phóng đi sức mạnh quân sự của TQ, hoặc đảm bảo các nguồn cung cấp năng lượng.
https://www.voatiengviet.com/a/my-vietnam-va-thuc-tai-moi-tren-bien-dong/4423553.html