Tin Biển Đông – 02/05/2020
Trung Quốc ngang ngược cấm đánh bắt cá ở Biển Đông – Tâm Tuệ
Ngày 1/5, Trung Quốc ngang ngược đơn phương tuyên bố lệnh cấm đánh bắt cá thường niên ở Biển Đông, bắt đầu từ trưa cùng ngày với sự giám sát của lực lượng hải cảnh và kiểm ngư nước này.
Tân Hoa xã phát đi lệnh cấm đánh bắt cá phi pháp nói trên bắt đầu được áp dụng từ 12h ngày 1/5 đến 12h ngày 16/8. Phạm vi cấm đánh bắt trải dài từ vùng biển phía bắc Biển Đông đến 12 độ vĩ bắc, bao gồm cả một phần vịnh Bắc bộ và quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Lực lượng hải cảnh Trung Quốc, 50.000 tàu cá sẽ dừng hoạt động đánh bắt trong thời gian 3,5 tháng và lực lượng này sẽ thực thi lệnh cấm một cách nghiêm ngặt theo cái gọi là quy định và luật pháp liên quan.
Lệnh cấm đánh bắt cá mùa hè phi lý là một phần trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm thúc đẩy phát triển ngành thủy sản bền vững và cải thiện sinh thái biển.
Trung Quốc gần đây liên tiếp có những hành động hung hăng và thói ‘bắt nạt’ trên biển Đông bị cộng đồng quốc tế chỉ trích dữ dội.
Trong một động thái đáng chú ý, hôm 28/4/2020, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, ông Daniel Kritenbrink đã công khai nói với truyền thông Việt Nam rằng Mỹ phản đối kịch liệt và lên án các hành vi ‘phi pháp, khiêu khích’ của Trung Quốc trên Biển Đông.
“Chúng tôi kịch liệt phản đối và lên án Trung Quốc lợi dụng việc các nước trong khu vực đang tập trung chống dịch để thúc đẩy những hành vi phi pháp và mang tính khiêu khích ở Biển Đông,” ông Krintenbrink nói hôm thứ Ba, khi trả lời phỏng vấn Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV).
TQ cảnh báo một tàu Mỹ tuần tra ở Biển Đông
Quân đội Trung Quốc ngày 28-4 nói nước này đang giám sát một tàu Mỹ, cho rằng con tàu trên đã “xâm nhập” vào cái mà Bắc Kinh gọi là Tây Sa ở Biển Đông, tức chỉ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Thông tin này do đại tá Li Huamin, phát ngôn viên Bộ tư lệnh Chiến khu Nam Bộ, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) – đưa ra.
Đài CGTN (Trung Quốc) dẫn lời ông Li cho biết quân đội Trung Quốc đang giám sát một tàu chiến Mỹ, được cho đã “xâm nhập vào vùng biển Trung Quốc ngoài khơi quần đảo Tây Sa” ở Biển Đông “mà không có sự cho phép”.
Li nói quân đội Trung Quốc đã cảnh báo và yêu cầu tàu Mỹ rút khỏi “Tây Sa”.
Tây Sa là cách Trung Quốc gọi quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam mà nước này chiếm đóng trái phép.
Trong bản tin vừa qua, CGTN cũng thuật lại lời ông Li rằng “hành động của Mỹ đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế liên quan và là một sự vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Trung Quốc”.
Theo tờ South China Morning Post (Hong Kong), con tàu Mỹ xuất hiện và bị Trung Quốc cảnh báo nêu trên là tàu khu trục mang tên lửa đẫn đường USS Barry.
Trước đó, truyền thông Đài Loan đưa tin USS Barry đi qua eo biển Đài Loan lần thứ hai trong tháng này. Trong cả hai lần đó, Trung Quốc đều cử tàu chiến của PLA bám theo.
Hồi tháng 1 năm nay, ông Li cũng từng chỉ trích Mỹ về việc “cố ý khiêu khích” trong mùa tết, sau khi tàu USS Montgomery đi qua khu vực Trường Sa.
Mỹ xem việc điều tàu chiến tuần tra ở Biển Đông là hoạt động tự do hàng hải (FONOPS).
http://biendong.net/bi-n-nong/34439-tq-canh-bao-mot-tau-my-tuan-tra-o-bien-dong.html
Chiến thuật “khó đoán” của Mỹ ở Biển đông
Hai máy bay ném bom chiến lược siêu thanh B-1B Lancer đã thực hiện nhiệm vụ ở Biển Đông vào ngày 29.4. Đây là một phần trong chiến thuật “khó dự đoán” của quân đội Mỹ.
Hai máy bay ném bom B-1B cất cánh từ căn cứ không quân Ellsworth, bang South Dakota (Mỹ), thực hiện nhiệm vụ trên Biển Đông rồi quay trở lại căn cứ, theo trang Pacific Air Forces ngày 30.4. Chuyến bay này kéo dài 32 giờ.
Hồi tuần rồi, một máy bay ném bom B-1B hôm 22.4 đã thực hiện chuyến bay kéo dài 29 giờ tới khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để bay diễn tập cùng 6 máy bay chiến đấu F-16 (Mỹ) và các chiến đấu cơ F-2, F-15 của Nhật Bản ở ngoài khơi Nhật Bản rồi quay trở lại căn cứ.
“Đây là nhiệm vụ nhằm đảm bảo cam kết với đồng minh và ngăn chặn đối thủ, cùng lúc thực hiện mô hình triển khai lực lượng linh động”, ông Lincoln Coleman, chỉ huy Phi đội ném bom thứ 37, cho biết.
Chiến thuật mới của Mỹ
Trả lời phỏng vấn đài CNN, ông Timothy Heath, chuyên gia quốc phòng của tổ chức nghiên cứu chính sách Rand Corp (Mỹ), cho biết các nhiệm vụ liên tiếp và bất ngờ là một phần chiến thuật “không thể đoán trước được hoạt động” của Lầu Năm Góc hay còn gọi là mô hình triển khai lực lượng linh động. Mục tiêu của chiến thuật mới là không để cho đối thủ dự đoán được việc triển khai lực lượng cố định hoặc luân phiên.
Ông Heath chỉ ra một động thái tương tự hôm 17.4, khi đó Không quân Mỹ bất ngờ rút các máy bay ném bom B-1, B-2 và B-52 khỏi đảo Guam ở Thái Bình dương. Động thái này chấm dứt chương trình Máy bay ném bom hiện diện thường trực ở Guam.
Tuy nhiên, năm ngày sau đó, máy bay ném bom B-1B bất ngờ quay trở lại Thái Bình Dương, diễn tập với chiến đấu cơ Nhật Bản ngoài khơi bờ biển Nhật Bản. “Như vậy, dù máy bay ném bom không còn hiện diện ở Guam nhưng luôn sẵn sàng xuất kích. Tương tự, các lực lượng của Mỹ cũng có khả năng thực hiện những nhiệm vụ liên tiếp và bất ngờ ở Biển Đông, không giống mô hình trước đây vốn có thể dự đoán được”, chuyên gia Heath nói.
Nhà phân tích Carl Schuster, cựu đại tá Hải quân Mỹ, cho biết chiến thuật “khó dự đoán” cũng thể hiện rõ khi tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường USS Barry hôm 28.4 bất ngờ thực hiện nhiệm vụ tuần tra đảm bảo tự do hàng hải gần các đảo bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp ở quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố đã triển khai lực lượng để cảnh báo và xua đuổi khu trục hạm Mỹ USS Barry khỏi vùng biển gần Hoàng Sa ngày 28.4. Tuy nhiên, ngay ngày hôm sau (tức 29.4), Trung Quốc chắc chắn rất bất ngờ khi hai máy bay ném bom chiến lược B-1B xuất hiện ở Biển Đông và tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường USS Bunker Hill thì tuần tra gần Trường Sa, theo ông Schuster.
Điều này cho thấy sự thay đổi chiến thuật của Mỹ, với những cuộc tuần tra đảm bảo tự do hàng hải được thực hiện liên tiếp ở Biển Đông. Trước đây, những cuộc tuần tra như thế này thường xảy ra cách nhau vài tuần hoặc hơn.
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo hôm 23.4 đã lên án Trung Quốc lợi dụng thế giới tập trung ứng phó đại dịch Covid-19 để tiếp tục thực hiện hành vi khiêu khích ở Biển Đông.
Ông Pompeo đã chỉ rõ những hành động phi pháp của Bắc Kinh ở Biển Đông trong tháng 4, bao gồm: thành lập hai đơn vị hành chính cấp quận – huyện bất hợp pháp để kiểm soát quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam; xây trạm nghiên cứu trên Đá Chữ Thập và Đá Xu Bi ở Trường Sa; điều đội tàu dọa dẫm và ngăn chặn láng giềng thăm dò, khai thác tài nguyên ngoài khơi.
http://biendong.net/bi-n-nong/34455-chien-thuat-kho-doan-cua-my-o-bien-dong.html
Có thượng tôn pháp luật mới có hòa bình, ổn định ở Biển Đông
Chỉ có tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), tôn trọng chủ quyền hợp pháp của các bên liên quan ở Biển Đông thì mới có hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở vùng biển có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ với khu vực châu Á-Thái Bình Dương mà cả thế giới này.
“Cái lý không có chân” của Trung Quốc trên Biển Đông
Các quốc gia, tổ chức và dư luận ở khu vực cũng như trên thế giới đang ngày càng quan tâm, bày tỏ lo ngại sâu sắc trước những hành vi gây căng thẳng trên Biển Đông thời gian qua của Trung Quốc.
Đó là việc Trung Quốc thông báo thành lập những cái gọi là “quận Tây Sa” (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) và “quận Nam Sa” (tức quần đảo Trường Sa của Việt Nam) tại “thành phố Tam Sa”. Đây là việc làm vi phạm nghiêm trọng chủ quyền hợp pháp của Việt Nam, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982), đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cùng với đó, Trung Quốc còn khiến các quốc gia ASEAN hết sức lo ngại khi triển khai nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 tới hoạt động tại khu vực phía Nam Biển Đông về phía vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia. Sau việc nhóm tàu khảo sát Hải Dương xâm phạm nghiêm trọng vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam suốt gần 3 tháng từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 10-2019, việc Trung Quốc triển khai nhóm tàu này xuống sâu phía Nam Biển Đông làm dấy lên lo ngại rằng Bắc Kinh đang leo thang trong việc tiến hành các hoạt động nhằm độc chiếm vùng biển này theo yêu sách phi lý và phi pháp “đường lưỡi bò” (còn gọi là “đường lưỡi bò 9 đoạn” hay “đường 9 đoạn”).
Những hành vi gây căng thẳng, đe dọa hòa bình và ổn định gần đây của Trung Quốc được cho là Bắc Kinh đang lợi dụng việc các quốc gia khu vực và thế giới đang dốc sức phòng chống đại dịch Covid-19 để đẩy mạnh các hoạt động nhằm hiện thực hóa tham vọng “đường lưỡi bò”.
Điều này càng thấy rõ hơn khi Trung Quốc vừa cơ bản kiểm soát được đại dịch xuất phát từ chính quốc gia này, vào ngày 23-3-2020, Trung Quốc đã gửi công hàm lên Liên hợp quốc phản hồi tài liệu của Philippines để cho rằng, Bắc Kinh “có chủ quyền với quần đảo Nam Sa và vùng biển gần kề”, rằng họ “có quyền chủ quyền và quyền tài phán với các vùng biển liên quan, với đáy biển và lòng đất”. Trung Quốc còn cho rằng mình “có quyền lịch sử” ở Biển Đông, dựa trên “bằng chứng lịch sử và pháp lý”.
Có thể nói, những lý lẽ cũng như cái gọi là bằng chứng mà Trung Quốc đưa ra để đòi chủ quyền ở Biển Đông theo yêu sách “đường lưỡi bò” không có gì mới, chẳng qua lặp lại những gì mà họ đã công bố trước đây. Và tất cả những lý lẽ, “chứng cứ” này đều đã bị bác bỏ theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982 vốn được xem là Hiến pháp của toàn thế giới về đại dương.
Chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông không thể chối cãi và bác bỏ
Chính vì thế, ngày 30-3, Phái đoàn thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc đã gửi công hàm lên Liên hợp quốc để phản hồi hai công hàm mà Trung Quốc đưa ra ngày 12-12-2019 và ngày 23-3-2020. Trong đó, Việt Nam phản đối các yêu sách của Trung Quốc tại các công hàm trên, khẳng định các yêu sách này vi phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông.
Việt Nam một lần nữa nêu rõ có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế. Việt Nam khẳng định UNCLOS 1982 – công ước mà Trung Quốc cũng là một thành viên tham gia ký kết, là cơ sở pháp lý duy nhất, quy định toàn diện và triệt để về phạm vi quyền được hưởng vùng biển giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Theo đó, vùng biển của các cấu trúc luôn nổi tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa phải được xác định phù hợp với điều 121(3) của UNCLOS 1982; các nhóm đảo tại Biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, không có đường cơ sở được vẽ bằng cách nối liền các điểm ngoài cùng của các cấu trúc xa nhất; các bãi ngầm, hoặc cấu trúc lúc chìm lúc nổi không phải là đối tượng thụ đắc lãnh thổ và không có vùng biển riêng.
Việt Nam phản đối các yêu sách ở Biển Đông vượt quá những giới hạn được quy định tại UNCLOS 1982, trong đó có yêu sách quyền lịch sử, các yêu sách này đều không có giá trị pháp lý. Lập trường nhất quán của Việt Nam về các vấn đề này đã được khẳng định trong nhiều văn bản lưu hành tại Liên hợp quốc và các đệ trình, tuyên bố gửi các cơ quan quốc tế liên quan.
Trên thực tế, Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình ở Biển Đông, đồng thời chủ trương giải quyết các tranh chấp tại vùng biển này thông qua đàm phán hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982; kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông; đặcbiệt không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực.
Dư luận quốc tế những ngày qua cho rằng những phản ứng của Việt Nam là nhất quán và phù hợp. Điều đó cho thấy Việt Nam đang chọn hướng đi dựa trên sức mạnh của dân tộc với truyền thống đấu tranh bảo vệ chủ quyền hàng nghìn năm, đồng thời Việt Nam thể hiện trách nhiệm với các quốc gia có yêu sách chủ quyền, các nước có lợi ích kinh tế ở Biển Đông, luôn đề cao việc giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông.
Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam lên tiếng với các nước, các tổ chức quốc tế để nhận diện rõ âm mưu, tham vọng nguy hiểm, phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông, bởi vì Biển Đông không chỉ có lợi ích của Việt Nam mà Biển Đông có lợi ích của toàn cầu. Do đó, trách nhiệm giữ được tự do hàng hải, hàng không cũng như hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông không chỉ là trách nhiệm của riêng Việt Nam mà còn đối với cả cộng đồng quốc tế, trong đó có Trung Quốc.
Chỉ có thượng tôn pháp luật mới có hòa bình và thịnh vượng ở Biển Đông; mọi toan tính dùng lý lẽ và chứng cứ phi pháp để che đậy cho hành động cường quyền, sức mạnh nhằm hiện thực hóa tham vọng biến vùng biển chung này thành “ao nhà” đều là mối đe dọa đối với lợi ích sống còn của các quốc gia khu vực và những cường quốc thế giới liên quan.
Chuyên gia Anh: TQ chủ đích đảo ngược luật pháp quốc tế trên Biển Đông
Chuyên gia Bill Hayton nhận định, Trung Quốc ngày càng phớt lờ dư luận quốc tế, thực hiện các bước đi gây nguy hiểm cho khu vực.
Trong vòng 1 tháng, Trung Quốc liên tục có những hành vi gây hấn ở Biển Đông như đâm chìm tàu cá Việt Nam, điều tàu khảo sát địa chất Hải Dương 8 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam và ngang nhiên thành lập đơn vị cái gọi là “quận Tây Sa” và “quận Nam Sa” (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) trên Biển Đông.
Trả lời VTC News, ông Bill Hayton, chuyên gia hàng đầu về Biển Đông của Viện Nghiên cứu Quốc tế Hoàng gia Anh (Chatham House) nhận định, đây là những “bước phát triển” hết sức nguy hiểm của Trung Quốc đối với an ninh khu vực.
“Bắc Kinh không quan tâm đến chỉ trích từ cộng đồng quốc tế. Việc gia tăng động thái gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông ẩn chứa nhiều hiểm nguy, đe dọa đối với khu vực”, chuyên gia Bill Hayton phân tích.
Ngày 19/4, Trung Quốc tiếp tục ngang ngược tuyên bố cái mà Bắc Kinh gọi là “tên tiêu chuẩn” cho 25 đảo và bãi đá cùng 55 thực thể địa lý dưới biển ở Biển Đông, trong đó có các thực thể nằm ở vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam và các nước ở Biển Đông.
Ông Bill Hayton cho rằng, Trung Quốc đang đảo ngược luật pháp quốc tế có chủ đích, khi nước này ngang ngược tuyên bố cái mà Bắc Kinh gọi là “tên tiêu chuẩn” các đảo và bãi đá, thực thể địa lý dưới biển ở Biển Đông.
Trung Quốc không biết điều này hay đang cố đảo ngược luật pháp quốc tế một cách có chủ đích?
Chuyên gia Bill Hayton, Viện Nghiên cứu Quốc tế Hoàng gia Anh
“Không có quốc gia nào có thể tuyên bố chủ quyền với các thực thể chìm dưới biển trừ khi chúng nằm trong phạm vi vùng 12 hải lý. Trung Quốc không biết điều này hay đang cố đảo ngược luật pháp quốc tế một cách có chủ đích?”, ông Bill Hayton nêu vấn đề.
“Trung Quốc đã thông qua Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS1982) vốn quy định rõ ràng về những gì mà các quốc gia có thể và không thể tuyên bố chủ quyền. Tuy nhiên, dường như Trung Quốc đang chống lại UNCLOS khi tuyên bố chủ quyền ở những nơi xa xôi như vậy”, chuyên gia nhấn mạnh.
Chuyên gia Bill Hayton cho rằng, Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện nhiều hành động phi pháp và khiêu khích ở Biển Đông trong thời gian tới. Bắc Kinh sẽ tiếp tục thực hiện các toan tính trên Biển Đông để thực hiện dã tâm kiểm soát vùng biển này.
“Trung Quốc sẽ thực hiện nhiều bước đi hơn để khẳng định yêu sách lãnh thổ của nước này ở Biển Đông. Đồng thời, Bắc Kinh cũng sẽ tìm cách củng cố quyền kiểm soát đối với các khu vực trên biển trong thời gian tới”, chuyên gia nhận định.
Bên cạnh đó, chuyên gia Biển Đông của Viện Nghiên cứu Quốc tế Hoàng gia Anh nhấn mạnh rằng, các nước nên tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982.
“Tất cả các quốc gia nên tuân thủ luật pháp quốc tế, khẳng định lợi ích của mình cũng như đảm bảo an ninh, duy trì hòa bình trong khu vực. Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982) cung cấp các quy tắc, yêu cầu các nước tuân thủ và thực thi trên thực tế một khi đã cam kết”, ông Bill Hayton cho hay.
Chung quan điểm, tiến sĩ James R. Holmes, chuyên gia về chiến lược tại Đại học Chiến tranh Hàng hải Mỹ (USNW) cho rằng, các động thái mới đây thêm một lần nữa chứng minh Trung Quốc không hề giấu diếm mục tiêu ở Biển Đông. Họ sử dụng nhiều công cụ để đạt được các mục tiêu đó.
“Mục đích của họ (Trung Quốc) như chúng ta đều biết là tìm kiếm, ra yêu sách chủ quyền phi pháp đối với vùng biển, vùng trời và một số thực thể trên đất liền nằm trong “đường 9 đoạn” mà Trung Quốc tự vẽ ra, bao quanh phần lớn Biển Đông. Họ tìm kiếm chủ quyền với cái đích cuối cùng là quyền lực, quyền sở hữu.
Bắc Kinh đang cố gắng áp đặt chủ quyền trong “đường 9 đoạn” mà họ tạo ra, với yêu sách ngang ngược về quyền sở hữu. Bắc Kinh muốn thực thi nó theo ý chí của mình và muốn các quốc gia khác tuân theo”, ông Holmes nhận xét.
Theo ông James, với nhiều khu vực ở Biển Đông, Trung Quốc tự coi mình có chủ quyền. Vin vào đó để ngang nhiên thực hiện các hành động trái phép như cho phép đánh bắt cá, thu hoạch tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển khác.
“Trong trường hợp lần này, Trung Quốc gửi tàu Hải Dương 8 tới thăm dò dưới đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam”, ông James nhận định.