Tin Biển Đông – 01/11/2018
Biển Đông: Trung Quốc
mở các trạm khí tượng ở Trường Sa
Theo báo Đài Loan Taiwan News, Tổng cục Khí tượng Trung Quốc ( CMA ) hôm nay, 01/11/2018 vừa thông báo là các trạm khí tượng thủy văn của nước này trên quần đảo đang tranh chấp Trường Sa chính thức đi vào hoạt động. Các trạm quan trắc khí tượng này được đặt trên Đá Chữ Thập, Đá Su Bi và Đá Vành Khăn, những đảo hiện do Trung Quốc kiểm soát, nhưng Việt Nam cũng khẳng định chủ quyền.
Theo thông báo của Tổng cục Khí tượng Trung Quốc, các trạm khí tượng thủy văn ở Trường Sa là một cơ sở quan trọng để nâng cao khả năng quan sát khí tượng thủy văn trên biển ở vùng Biển Đông, nhất là giúp dự báo sớm những hiện tượng thời tiết.
Trong khi đó, bộ Môi Trường Trung Quốc thông báo là công trình xây dựng trạm quan sát khí quyển “ Nam Sa” ( Trường Sa ) đã hoàn tất. Trạm này được trang bị các công cụ để đo các loại khí phát thải gây hiệu ứng lồng kính trong khu vực. Nói chung, theo bộ Môi Trường Trung Quốc, các trạm quan sát khí tượng sẽ cung cấp những thông tin kịp thời và đáng tin cậy về chất lượng không khí cho toàn bộ các quốc gia ven Biển Đông.
Theo nhận định của Taiwan News, mặc dù Bắc Kinh khẳng định những trạm quan sát nói trên là nhằm phục vụ cho việc bảo vệ môi trường, những hành động của Trung Quốc trên thực tế cho thấy bảo vệ hệ sinh thái ở Biển Đông không phải là mối quan tâm hàng đầu của họ. Tờ báo Đài Loan nhắc lại rằng trong phán quyết năm 2016, Tòa án Trọng tài Thường trực, có trụ sở tại La Haye, đã cáo buộc Trung Quốc gây nhiều tổn hại cho các rạn san hô ở Biển Đông qua việc xây các đảo nhân tạo nhằm mục đích quân sự.
Mặt khác, theo Taiwan News, việc quan sát khí tượng, nhất là tại một khu vực mà thời tiết thay đổi thất thường như Biển Đông, là một thành tố quan trọng của quốc phòng, tức là các trạm quan sát khí tượng nói trên cũng sẽ phục vụ cho các chiến dịch quân sự của Trung Quốc trong vùng.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20181101-bien-dong-trung-quoc-mo-cac-tram-khi-tuong-o-truong-sa
Mỹ cảnh báo viễn cảnh tồi tệ,
TQ lập tức đáp trả
Các quan chức hàng đầu của Mỹ và Trung Quốc tuần vừa rồi đã phát đi hàng loạt cảnh báo vừa mang tính ám chỉ vừa có cả thẳng thừng về viễn cảnh chiến tranh. Diễn biến này gây lo ngại không ít cho cộng đồng quốc tế vốn luôn mong muốn hòa bình.
“Chiến tranh Mỹ-Trung sẽ bùng lên trong 10 đến 15 năm nữa”
Cựu Chỉ huy Lực lượng Lục quân Mỹ ở Châu Âu hôm 24/10 đã đưa ra cảnh báo về một viễn cảnh xấu, theo đó ông này cho rằng “có rất nhiều khả năng” xảy ra một cuộc xung đột vũ trang giữa Mỹ và Trung Quốc ở Thái Bình Dương.
“Tôi cho rằng, trong 15 năm nữa, một cuộc chiến tranh ở Thái Bình Dương là không tránh khỏi, nhưng có rất nhiều khả năng là chúng tôi sẽ chiến tranh với Trung Quốc”, Trung tướng mới nghỉ hưu của Mỹ – ông Ben Hodges cho biết tại cuộc họp giữa các chuyên gia quốc phòng trong khuôn khổ Diễn đàn An ninh Warsaw ở thủ đô của Ba Lan ngày hôm qua.
Ông Hodges kêu gọi các nước Châu Âu nỗ lực hơn “vì an ninh riêng” của họ, giải thích rằng Washington phải “đối mặt với mối đe dọa Trung Quốc” ở Thái Bình Dương.
“Việc duy trì một trụ cột châu Âu mạnh mẽ là lợi ích của Mỹ và giới lãnh đạo Mỹ biết rõ điều đó. Thậm chí kể cả không có nước châu Âu nào chi một đồng euro ra cho mục đích phòng thủ thì sự ổn định và an ninh châu Âu vẫn là lợi ích của Mỹ”, ông Hodges nhấn mạnh bên lề diễn dàn an ninh.
Ông Hodges từng là một Chỉ huy của quân đội Mỹ ở châu Âu cho đến năm ngoái và hiện đang là một nhà nghiên cứu chiến lược làm việc cho Trung tâm Phân tích Chính sách Châu Âu (CEPA) ở Washington.
Lời cảnh báo trên được đưa ra trong bối cảnh cuộc đối đầu Trung-Mỹ cũng đang nóng bỏng từng ngày. Mối quan hệ Mỹ-Trung đang căng thẳng cao độ vì cuộc chiến thương mại, vì vấn đề Đài Loan, Biển Đông và vì lời cáo buộc của Tổng thống Trump về việc Trung Quốc can thiệp vào cuộc bầu cử sắp tới của Mỹ…
Trung Quốc chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh
Sau lời cảnh báo thẳng thừng của vị cựu tướng Mỹ, Trung Quốc đã ngay lập tức có câu trả lời bằng việc Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã ra lệnh cho giới tướng lĩnh quân đội Trung Quốc “chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh”.
“Rất cần thiết để tăng cường nhiệm vụ… và tập trung cho các hoạt động chuẩn bị sẵn sàng cho việc phải chiến đấu trong một cuộc chiến tranh”, Chủ tịch Trung Quốc đã phát biểu như vậy trên đài truyền hình trung ương CCTV trong một cuộc kiểm tra Quân khu phía Nam ở tỉnh Guangdong gần đây.
“Chúng ta phải tăng cường các cuộc tập trận về khả năng sẵn sàng chiến đấu, các cuộc tập trận chung và các bài tập đối đầu nhằm tăng cường năng lực của các binh sĩ cũng như chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh”, Chủ tịch Tập Cận Bình nói.
Quân khu Phía Nam chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động ở Biển Đông – một trong những vùng biển nóng nhất thế giới hiện giờ.
Biển Đông là nơi đang chứng kiến những cuộc tranh chấp quyết liệt giữa Trung Quốc và một loạt nước láng giềng xung quanh. Trung Quốc lâu nay đã gây ra sự bất bình trong khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung khi tìm cách độc chiếm Biển Đông – một khu vực vốn có vai trò vô cùng quan trọng với thế giới. Trung Quốc gần đây đã gây ra một làn sóng phản đối dữ dội và quyết liệt chưa từng có của các nước láng giềng trong khu vực cũng như của cộng đồng thế giới vì việc nước này đang tích cực đẩy mạnh các hoạt động bồi đắp, cải tạo, xây dựng trái phép và giờ là quân sự hóa ở Biển Đông.
Trong một động thái làm đẩy cao căng thẳng ở Biển Đông, Trung Quốc mới đây đã cho triển khai các tên lửa đất đối không, đất đối hạm và hệ thống làm nhiễu điện tử đến các cấu trúc mà nước này đã xây dựng trái phép thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Hành động quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc ngay lập tức bị phản ứng. Mỹ tăng cường thực hiện “chiến dịch tự do hàng hải” để thể hiện sự phản đối với đòi hỏi chủ quyền tham lam của Trung Quốc ở Biển Đông cũng như các hành động phi pháp của Trung Quốc ở vùng biển này gần đây.
Cùng với đó, Mỹ và Trung Quốc cũng đang căng thẳng với nhau về vấn đề Đài Loan.
Phát biểu tại lễ khai mạc Diễn đàn Xiangshan ở thủ đô Bắc Kinh hồi cuối tuần vừa rồi, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Wei Fenghe đã cảnh báo, “vấn đề Đài Loan liên quan đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Nó động chạm đến lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Trong vấn đề này, sẽ cực kỳ là nguy hiểm để liên tục thách thức giới hạn cuối cùng của Trung Quốc. Nếu ai đó cố tìm cách chia tách Đài Loan ra khỏi Trung Quốc, quân đội Trung Quốc sẽ hành động bằng bất kỳ giá nào”.
http://biendong.net/goc-nhin-moi/24495-my-canh-bao-vien-canh-toi-te-tq-lap-tuc-dap-tra.html
Bản tin Biển Đông ngày 29/10/2018
Tập Cận Bình thúc giục quân đội Trung Quốc sẵn sàng cho chiến tranh
Ngày 27/10, China Daily đưa tin, ngày 25/10, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có chuyến thị sát đến Bộ Tư lệnh Quân khu phương Nam Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), kêu gọi phát triển Bộ Tư lệnh mạnh mẽ và hiệu quả để tăng cường khả năng chiến thắng trong chiến đấu; thúc giục các binh sĩ nâng cao năng lực chỉ huy, chiến đấu và phối hợp để bảo vệ tốt hơn sự ổn định và nhân dân gần biên giới phía Nam đất nước. Bộ Tư lệnh Quân khu phương Nam là một trong năm Bộ Tư lệnh của PLA, phụ trách 6 tỉnh phía Nam và khu vực Biển Đông. Ông Tập phát biểu “các đồng chí đang làm nhiệm vụ ở tuyến đầu, đóng vai trò then chốt trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lợi ích trên biển của quốc gia”, bày tỏ hy vọng các binh sĩ có thể “hoàn thành các nhiệm vụ thiêng liêng và cao quý này”. Chủ tịch Tập Cận Bình đề nghị các binh sĩ chú ý đến tình hình luôn thay đổi, nâng cao khả năng phân tích và đánh giá sắc bén, cân nhắc và tối ưu hóa các kế hoạch phản ứng cho các tình huống phức tạp khác nhau, tăng cường đào tạo chiến đấu thực tế và cải tiến bộ máy chỉ huy để bảo đảm truyền đạt chỉ đạo hiệu quả, do đó tăng cường khả năng PLA chiến thắng trong chiến tranh hiện đại.
Trung Quốc thua Philippines trước Tòa, liệu có thắng thông qua hoạt động khai thác chung?
Ngày 29/10, nhân chuyến thăm Philippines của Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, Rappler đăng bài viết phân tích khả năng được mất nếu Philippines và Trung Quốc đạt được thỏa thuận khai thác chung ở Biển Đông. Đây là vấn đề chính được mọi người kỳ vọng trong chuyến thăm lần này của ông Vương Nghị – diễn biến mới nhất trong chuỗi các cuộc gặp qua lại giữa Manila và Bắc Kinh nhằm đẩy mạnh vấn đề khai thác chung. Một số chuyên gia cho rằng, khai thác chung là cách để Trung Quốc giành lại phần thắng sau khi thua Philippines trước Tòa Trọng tài vụ kiện Biển Đông. Chuyến thăm của ông Vương Nghị tới Philippines này là lần thứ hai trong năm nay phải chăng là để dọn đường cho chiến thắng của Trung Quốc? Dự kiến, Ngoại trưởng Vương Nghị sẽ có cuộc gặp với Ngoại trưởng Philippines Teodoro Locsin Jr. và quản lý kinh tế của Tổng thống Duterte để trao đổi về các vấn đề liên quan. Trước đây, cựu Ngoại trưởng Philippines Alan Cayetano từng phát biểu bày tỏ lo ngại về vấn đề thăm dò và khai thác chung, cho biết Manila theo đuổi tỷ lệ phân chia lợi nhuận Philippines – Trung Quốc là 60-40. Ông Cayetano cho rằng, để đạt được một thỏa thuận tương tự như Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông, Philippines sẽ phải “gác các đòi hỏi về lãnh thổ và quyền chủ quyền sang một bên nhưng không từ bỏ”, đồng thời “hãy hợp tác trước và nói về ai sở hữu cái gì, ai có quyền tài phán sau”. Do vậy, sẽ rất đáng lưu ý để theo dõi người kế nhiệm của ông Cayetano, Ngoại trưởng Teodoro Locsin Jr. sẽ nói gì về vấn đề này trong cuộc gặp với người đồng cấp Trung Quốc.
Quan hệ an ninh ASEAN, Trung Quốc nhảy vọt
Ngày 28/10, Hoàn Cầu Thời báo đăng bài viết của tác giả Ge Hongliang, nghiên cứu viên tại Viện Charhar, Giám đốc Trường Nghiên cứu ASEAN thuộc Đại học các dân tộc Quảng Tây, Trung Quốc, đánh giá về mối quan hệ an ninh giữa ASEAN và Trung Quốc. Bài viết cho rằng cuộc tập trận chung trên biển giữa ASEAN và Trung Quốc vừa qua là dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh và các nước Đông Nam Á đã nâng cấp quan hệ quân sự và quốc phòng, tiến thêm một bước vững chắc trong bảo đảm an ninh ở Biển Đông. Vấn đề bảo đảm an ninh tại khu vực này đã từ lâu là một trong những nội dung trọng tâm giữa ASEAN và Trung Quốc. Để hoạt động tập trận chung lần đầu tiên này được diễn ra, hai bên đã phải vượt qua nhiều khó khăn, có cả các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Hoạt động này được coi là kết quả của sự nâng cấp trong quan hệ quân sự. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đạt nhiều tiến triển trong hợp tác quốc phòng với các nước, trong đó có Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Philippines, Myanmar. Việc hợp tác sâu hơn có thể góp phần tạo sự thay đổi trong quan điểm của ASEAN về hợp tác an ninh khu vực. Trước đây, ASEAN từng ngần ngại phát triển quan hệ quốc phòng với các nước khác. Nhưng nay, khi cộng đồng an ninh ASEAN đang có đà phát triển, việc làm sâu sắc mối quan hệ quốc phòng với các quốc gia khác vì một trật tự an ninh khu vực ổn định là điều bắt buộc đối với các nước thành viên ASEAN. Hơn nữa, tại khu vực Biển Đông, ngày càng có sự phát triển không đồng đều và bất ổn gia tăng. Đối với các nước ASEAN, sự cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ đang xói mòn vai trò trung tâm của ASEAN trong các vấn đề khu vực, dẫn đến nhiều nguy cơ tiềm ẩn. Đối với Bắc Kinh, chính sách diều hâu của Washington về Biển Đông cũng khiến hai nước có thêm nhiều mâu thuẫn. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đang tìm kiếm một vai trò lớn hơn ở Biển Đông và đưa ra trách nhiệm lớn hơn để bảo vệ an ninh của chính mình.
Bài viết cho rằng, trước thành công của cuộc tập trận chung đầu tiên giữa ASEAN và Trung Quốc, cần phải nhận ra rằng các nước có nhiều việc phải làm để bảo đảm an ninh ở Biển Đông và vẫn còn nhiều thách thức ở phía trước. Và cũng cần lưu ý rằng ASEAN sẽ tiến hành thêm nhiều cuộc tập trận với các nước khác ngoài khu vực, kể cả Mỹ.
http://biendong.net/diem-tin/24489-ban-tin-bien-dong-ngay-29-10-2018.html
Các cơ chế giải quyết tranh chấp của Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 ở Biển Đông
Trong bối cảnh tình hình tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đang ngày càng có nhiều diễn biến mới, khiến tình hình căng thẳng trong khu vực ngày càng gia tăng và chiến thắng của Philippines trong vụ kiện Trung Quốc ở Biển Đông đã mở ra một chương mới trong việc tìm kiếm biện pháp pháp lý giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Tất cả các nước liên quan tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đều là thành viên tham gia Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), vì vậy, theo các quy định của UNCLOS, tất cả các nước liên quan, bao gồm Trung Quốc có nghĩa vụ thực hiện các quy định của UNCLOS.
Những lựa chọn về Trọng tài hay Tòa án
Quy tắc “mặc định” trong UNCLOS là nếu có tranh chấp giữa hai quốc gia về việc giải thích hay áp dụng bất kỳ điều khoản nào của Công ước, thì sẽ phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc theo Mục 2 của Phần 15. Đầu tiên các quốc gia có nghĩa vụ phải trao đổi quan điểm để cố gắng giải quyết tranh chấp bằng cách tuân theo các thủ tục được quy định tại Mục 1 của Phần 15. Tuy nhiên, khi việc áp dụng Mục 1 không thể giúp giải quyết tranh chấp, thì tranh chấp đó có thể được đơn phương đệ trình lên các tòa có thẩm quyền theo mục này theo yêu cầu của bất kỳ bên nào trong tranh chấp.
Tòa án hay tòa trọng tài có thẩm quyền xét xử vụ tranh chấp sẽ phải phụ thuộc một phần vào việc liệu các bên tranh chấp có thực hiện quyền lựa chọn thủ tục giải quyết tranh chấp hay không. Theo Điều 287, một quốc gia có quyền tự do lựa chọn, bằng văn bản tuyên bố, một hay nhiều hơn trong số bốn thủ tục giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước. Các quốc gia có quyền lựa chọn giữa hai phương pháp phân xử và hai phương pháp trọng tài. Các lựa chọn gồm: phân xử trước Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ); phân xử trước tòa ITLOS; trọng tài theo Phụ lục 7 của UNCLOS; hoặc trọng tài đặc biệt theo Phụ lục 8 của UNCLOS. Sự lựa chọn thủ tục có thể được thực hiện khi quốc gia ký kết, phê duyệt hoặc tham gia Công ước UNCLOS, hoặc bất kỳ thời điểm nào sau đó.
Nếu hai bên (hai quốc gia) của một tranh chấp chọn ra được cùng một thủ tục, thì tranh chấp đó sẽ được dẫn chiếu tới thủ tục đó. Nếu các bên tranh chấp không lựa chọn cùng một thủ tục, hay nếu một bên không đưa ra sự lựa chọn, thì tranh chấp sẽ được đưa lên trọng tài theo Phụ lục 7, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Các quốc gia yêu sách chủ quyền các điểm đảo ở Biển Đông đều không đưa ra lựa chọn theo Điều 287. Do đó, nếu như hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc của Mục 2 Phần 15 được viện dẫn trong tranh chấp giữa hai quốc gia yêu sách liên quan đến Biển Đông, thì tranh chấp đó sẽ tự động được xét xử bằng trọng tài theo Phụ lục 7 của UNCLOS.
Luật áp dụng và tính chung thẩm của các phán quyết
Tòa án hay tòa trọng tài giải quyết tranh chấp có thẩm quyền do tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng một điều khoản của UNCLOS. Tuy nhiên, để giải quyết tranh chấp thì tòa lại không bị giới hạn bởi việc chỉ áp dụng các điều khoản của UNCLOS. Điều 293 của UNCLOS quy định rằng tòa có thẩm quyền sẽ áp dụng Công ước và các quy định khác của luật quốc tế không trái với Công ước. Dù tranh chấp có được đưa dẫn chiếu tới một trong hai phương pháp phân xử tại tòa hay một trong hai phương pháp trọng tài, thì phán quyết được đưa ra bởi tòa hay trọng tài có thẩm quyền cũng sẽ là chung thẩm, và các bên tranh chấp có nghĩa vụ phải tuân thủ nó.
Quốc gia là một bên trong tranh chấp được dẫn chiếu đến theo Mục 2 Phần 15 cũng có thể yêu cầu các biện pháp tạm thời để (a) duy trì các quyền tương ứng của các bên; hoặc (b) ngăn chặn các nguy cơ đối với môi trường biển. Điều kiện tiên quyết duy nhất là tòa ITLOS phải xác định rằng, tòa trọng tài được hình thành sẽ có thẩm quyền prima facie (hiển nhiên) để xét xử vụ việc. Những biện pháp tạm thời đó có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Ngay cả khi tranh chấp được dẫn chiếu tới tòa trọng tài thì quốc gia là bên tranh chấp vẫn có thể yêu cầu các biện pháp tạm thời từ ITLOS trong khi chờ sự thành lập của tòa trọng tài.
Những tranh chấp chịu sự điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc
Chỉ ngoại trừ một số ít những hạng mục các tranh chấp được miễn trừ, tất cả các tranh chấp khác giữa các quốc gia thành viên của UNCLOS về việc giải thích hay áp dụng điều khoản của UNCLOS đều chịu sự điều chỉnh của hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc theo UNCLOS. Liên quan đến các điều khoản được đề cập trong bài viết này, các tranh chấp về các vấn đề sau đây sẽ phải được giải quyết bởi tòa án quốc tế: (a) Tranh chấp về tính phù hợp của đường cơ sở thẳng của Quốc gia với điều 7 của UNCLOS; (b) Tranh chấp về việc liệu các đường cơ sở có thể được vẽ từ các quần đảo giữa biển khơi như Trường Sa hay Hoàng Sa hay không; (c) Tranh chấp về việc một thực thể có phải là đảo theo Điều 121 hay đảo nửa chìm theo Điều 13; (d) Tranh chấp về việc một thực thể có phải là đảo theo Điều 121 hay đảo nhân tạo theo Điều 60; (e) Tranh chấp về việc một hòn đảo có phải là đảo đá mà không có khả năng duy trì sự sống con người hay có đời sống kinh tế riêng theo Điều 121(3) hay không; (f) Tranh chấp về việc một quốc gia có can thiệp một cách bất hợp pháp vào các quyền chủ quyền và tài phán của quốc gia khác trong vùng EEZ của Quốc gia đó theo Điều 56 và 77 hay không; (g) Tranh chấp về việc luật và các quy định trong nước của một quốc gia về các hoạt động thăm dò ở vùng EEZ hoặc thềm lục địa của mình có phù hợp với UNCLOS hay không.
Những hạn chế và ngoại lệ về giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc
Mục 3 Phần 15 quy định về các ngoại lệ và hạn chế của hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc của Mục 2. Cụ thể, Điều 297 loại trừ hai loại tranh chấp khỏi hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc của Mục 2 Phần 15: (a) các tranh chấp liên quan đến các quyết định của quốc gia về nghề cá trong vùng EEZ của mình; và (b) các tranh chấp liên quan đến các quyết định cấp phép nghiên cứu khoa học ở vùng EEZ. Mục 3 Phần 15 cũng cho phép các quốc gia có quyền “không tham gia” vào hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc theo Mục 2 đối với một số loại tranh chấp. Điều 298 quy định rằng các quốc gia thành viên được lựa chọn việc chính thức tuyên bố với Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc rằng họ không chấp nhận giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc theo Mục 2 đối với các loại tranh chấp sau: (1) Những tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các điều 15, 74, và 83 liên quan đến phân định biên giới trên biển, hoặc những tranh chấp liên quan đến các vịnh, danh nghĩa lịch sử,… (2) Những tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, bao gồm các hoạt động quân sự của tàu thuyền và máy bay của chính phủ tham gia vào các hoạt động phi thương mại, và những tranh chấp liên quan đến các hoạt động thi hành pháp luật đối với việc thực thi các quyền chủ quyền hoặc tài phán được loại trừ khỏi thẩm quyền của tòa hay tòa trọng tài theo điều 297, khoản 2 hoặc 3; (3) Những tranh chấp mà Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang thực thi chức năng được giao phó bởi Hiến chương Liên Hợp Quốc, trừ khi Hội đồng Bảo an quyết định loại bỏ vấn đề đó khỏi chương trình nghị sự của mình hoặc kêu gọi các bên giải quyết bằng các biện pháp được quy định trong Công ước này.
Tác động của tuyên bố của Trung Quốc theo Điều 298
Ngày 25/08/2006, Trung Quốc đệ trình một tuyên bố: “Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào được quy định ở Mục 2 phần XV của Công ước này liên quan đến tất cả các loại tranh chấp được dẫn chiếu tại khoản 1(a)(b) và (c) của Điều 298 của Công ước”. Trung Quốc đã thực hiện quyền của mình theo Điều 298 và không tham gia vào quy chế giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc của Mục 2 Phần XV đối với các tranh chấp được dẫn chiếu tại Điều 298(1)(a), (b) và (c) của Công ước.
Đầu tiên, tuyên bố này loại trừ các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Điều 15, 74, và 83 về phân định biên giới trên biển. Do đó, nếu Việt Nam và Trung Quốc không thể thỏa thuận được về ranh giới EEZ gần quần đảo Hoàng Sa, thì không quốc gia nào được quyền viện dẫn đến hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc của UNCLOS. Vấn đề lúc đó sẽ là liệu ranh giới vùng EEZ có thể được dẫn chiếu tới các hình thức tham vấn không ràng buộc theo Phụ lục 5 hay không. Điều 298(1)(a) quy định như sau: Những tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến phân định biên giới trên biển, hoặc những tranh chấp liên quan đến các vịnh hoặc danh nghĩa lịch sử, với điều kiện là một quốc gia đã đưa ra tuyên bố về vấn đề này, khi tranh chấp phát sinh sau khi Công ước này có hiệu lực và trong trường hợp các bên không thể đi đến thỏa thuận trong khoảng thời gian hợp lý, khi có yêu cầu của bất kỳ bên nào trong tranh chấp, sẽ chấp nhận đệ trình vấn đề để được hòa giải theo Phụ lục 5, mục 2; tuy nhiên không thể thực hiện việc đệ trình này trong trường hợp một tranh chấp có liên quan đến việc xem xét một tranh chấp chưa được giải quyết khác về chủ quyền hoặc các quyền về lãnh thổ lục địa hoặc đảo có đất liền.
Tuyên bố của Trung Quốc loại trừ tất cả các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng các Điều 74 và 83, bao gồm tranh chấp về việc liệu một Quốc gia yêu sách có vi phạm nghĩa vụ theo Điều 74(3) và Điều 83(3) về việc cần có nỗ lực để tham gia vào các dàn xếp tạm thời có tính thực tiễn hay không, hoặc tranh chấp về việc liệu một quốc gia yêu sách có vi phạm nghĩa vụ không được có hành động đơn phương trong các khu vực có yêu sách chồng lấn gây khó khăn hoặc cản trở việc đi đến thỏa thuận cuối cùng về biên giới trên biển hay không. Tuy nhiên, nếu
một quốc gia yêu sách có hành động đơn phương ở khu vực tranh chấp như việc khoan để lấy dầu và khí, thì các bên yêu sách khác có thể viện dẫn đến hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc của UNCLOS bằng cách lập luận rằng hành động đơn phương đó là một sự lạm dụng Điều 300 của UNCLOS.
Thứ hai, tuyên bố của Trung Quốc loại trừ các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều khoản của UNCLOS liên quan đến các vịnh và danh nghĩa lịch sử. Do đó, một tranh chấp về việc giải thích Điều 10(6) về vịnh lịch sử sẽ được loại trừ. Tương tự như vậy, một tranh chấp về việc liệu “danh nghĩa lịch sử” của một bên có cần được xem xét đến trong việc phân định biên giới lãnh hải hay không cũng sẽ được loại trừ. Tuy nhiên, những tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Điều 15 về phân định lãnh hải vốn đã được loại trừ và UNCLOS cũng không có quy định nào khác về danh nghĩa lịch sử. Hơn nữa, mặc dù Điều 15 có nhắc đến danh nghĩa lịch sử, nhưng không đề cập gì đến các quyền lịch sử, và không có điều khoản nào trong UNCLOS liên quan đến các quyền lịch sử. Do đó, nếu Trung Quốc đưa ra lập luận về quyền theo luật quốc tế để thực hiện các quyền lịch sử ở vùng biển trong đường lưỡi bò, thì có thể sẽ phát sinh một tranh chấp về việc liệu những quyền đó có phù hợp với UNCLOS hay không, và tranh chấp đó sẽ không bị loại trừ bởi tuyên bố của Trung Quốc.
Thứ ba, tuyên bố của Trung Quốc loại trừ các tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự. Do đó, bất kỳ tranh chấp nào về việc Quốc gia có quyền thực hiện các hoạt động quân sự theo Điều 58 như thăm dò hay tập trận ở vùng EEZ của Trung Quốc hay không cũng sẽ được loại trừ khỏi hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc của UNCLOS. Bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến các hoạt động quân sự của Trung Quốc ở vùng biển của quốc gia khác cũng sẽ được loại trừ.
Thứ tư, tuyên bố trên loại trừ các tranh chấp liên quan đến các hoạt động cưỡng chế pháp luật đối với việc thực hiện các quyền chủ quyền và tài phán khỏi thẩm quyền của tòa theo Điều 297(2) hoặc (3). Trên thực tế, điều này chỉ loại trừ một số loại cưỡng chế pháp luật rất hạn chế, cụ thể là những hoạt động liên quan đến việc cưỡng chế các hoạt động đánh cá và nghiên cứu khoa học biển, vốn đã được loại trừ khỏi hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc theo Điều 297(2) và (3). Các tranh chấp liên quan đến các loại hoạt động cưỡng chế pháp luật khác, như những tranh chấp liên quan đến việc can thiệp vào các hoạt động thăm dò địa chấn hay việc bắt giữ các tàu thuyền đánh cá trong khu vực có yêu sách chồng lấn sẽ không được loại trừ bởi tuyên bố này.
Thứ năm, tuyên bố trên loại trừ các tranh chấp mà Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang thực hiện chức năng được giao phó bởi Hiến chương Liên Hợp Quốc, trừ khi Hội đồng Bảo an quyết định loại bỏ vấn đề khỏi chương trình nghị sự của mình hoặc kêu gọi các bên giải quyết bằng các biện pháp được nêu trong UNCLOS. Mục đích của ngoại lệ này là để tránh sự xung đột giữa thủ tục giải quyết tranh chấp được tiến hành theo Phần 15 của UNCLOS và hành động mà Hội đồng Bảo an có thể thực hiện khi thực thi nghĩa vụ của mình để bảo đảm hòa bình và an ninh quốc tế theo Chương VII của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Ví dụ, nếu xung đột vũ trang nổ ra giữa các Quốc gia yêu sách liên quan đến các đảo tranh chấp ở Biển Đông, thì vấn đề có thể được dẫn chiếu lên Hội đồng Bảo an. Trong trường hợp đó, một bên tranh chấp sẽ không được viện dẫn đến các thủ tục giải quyết tranh chấp trong UNCLOS đối với vấn đề này cho dù việc sử dụng vũ lực quân sự của một bên yêu sách có vi phạm UNCLOS đi chăng nữa.
Cuối cùng, cũng cần lưu ý rằng các ngoại lệ của Điều 298 không mang tính “tự phán xét”, một bên tranh chấp không thể tự xác định là những ngoại lệ có được áp dụng trong vụ việc hay không. Điều 288(4) nêu rõ rằng trong trường hợp xảy ra tranh chấp về thẩm quyền của tòa, thì vấn đề này sẽ được giải quyết thông qua phán quyết của tòa đó.
Ý kiến tư vấn của ITLOS
Không có quy định nào trong UNCLOS hay trong Quy chế tòa ITLOS cho phép các quốc gia thành viên hay các thể chế được thành lập theo UNCLOS được yêu cầu ý kiến tư vấn của tòa ITLOS đối với các câu hỏi pháp lý. Tuy nhiên, Quy tắc của Tòa này, được thông qua vào năm 1996 theo Điều 16 của Quy chế, cho Tòa thẩm quyền được đưa ra các ý kiến tư vấn trong một số tình huống nhất định. Điều 138 của Quy chế quy định như sau: (1) Tòa có thể đưa ra ý kiến tư vấn về một vấn đề pháp lý nếu như có một thỏa thuận quốc tế liên quan đến các mục đích của Công ước cho phép việc đệ trình lên Tòa một yêu cầu cho ý kiến tư vấn. (2) Một yêu cầu cho ý kiến tư vấn sẽ được chuyển đến Tòa bởi bất kỳ cơ quan nào được ủy quyền từ hoặc phù hợp với thỏa thuận xin ý kiến tư vấn từ Tòa. (3) Tòa sẽ áp dụng các điều 130 đến 137 theo nguyên tắc mutatis muntadis (với sự thay đổi cần thiết và chi tiết).
Địa vị và cơ sở pháp lý của Điều 138(1) đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các quan chức chính phủ và thẩm phán của các tòa. Thẩm quyền tư vấn của Tòa được dựa trên Điều 21 của Quy chế Tòa, trong đó quy định rằng thẩm quyền của Tòa bao gồm tất cả các tranh chấp và đơn được đệ trình lên tòa và tất cả các vấn đề được quy định rõ ràng trong các thỏa thuận khác trong đó trao thẩm quyền cho Tòa. Mặc dù có một số mối lo ngại đã được nêu lên về việc liệu Tòa có vượt quá quyền hạn của mình trong việc cho phép thẩm quyền tư vấn theo Điều 138(1) của Quy tắc hay không, nhưng giới bình luận đã kết luận rằng các phản hồi đối với việc cho phép tòa ITLOS có quyền đưa ra ý kiến tư vấn trong một số tình huống nhất định phần lớn là tích cực.
Nếu một cơ quan yêu cầu ý kiến tư vấn theo Điều 138(1), thì sẽ khó để cho Quốc gia nào phản đối thẩm quyền của Tòa trong việc đưa ra ý kiến tư vấn. Trong bất kỳ trường hợp nào, ngay cả khi có thể đưa ra sự phản đối, thì Điều 288(4) của UNCLOS vẫn có quy định rằng trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền của tòa, thì vấn đề đó sẽ được giải quyết bằng phán quyết của tòa đó. Do đó, bản thân Tòa sẽ có quyền quyết định về thẩm quyền được trao cho mình theo Quy tắc của Tòa.
Theo Điều 138(1) của Quy tắc, Tòa có thể cho ý kiến tư vấn nếu như ba yêu cầu sau đây được đáp ứng. Đầu tiên, cần phải có sự thỏa thuận giữa các quốc gia liên quan đến các mục đích của UNCLOS. Đây có thể là một thỏa thuận đa phương, một thỏa thuận khu vực hoặc thậm chí là thỏa thuận song phương, miễn sao thỏa thuận đó liên quan đến mục đích của Công ước.
Thứ hai, thỏa thuận đó phải quy định cụ thể về việc đệ trình yêu cầu cho ý kiến tư vấn từ Tòa. Thỏa thuận quốc tế đó phải quy định về việc ai sẽ có quyền yêu cầu ý kiến tư vấn và định ra các thủ tục để đưa ra yêu cầu đó. Thỏa thuận này cũng có thể quy định rằng các quốc gia thành viên của thỏa thuận sẽ được thành lập một cơ quan và ủy quyền cho cơ quan đó yêu cầu ý kiến tư vấn nếu thấy rằng ý kiến tư vấn sẽ hỗ trợ được việc thực hiện các chức năng và mục tiêu của mình.
Thứ ba, ý kiến tư vấn phải là về một vấn đề pháp lý. Điều này được hiểu là một vấn đề pháp lý liên quan đến Công ước. Tòa nhiều khả năng sẽ đi theo những án lệ của Tòa án Công lý Quốc tế khi xác định liệu đó có phải là một vấn đề pháp lý hay không.
Như vậy, một số hoặc tất cả các quốc gia yêu sách ở Biển Đông sẽ có thể yêu cầu ý kiến tư vấn về các vấn đề pháp lý liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng UNCLOS nếu các quốc gia này tham gia vào một thỏa thuận quốc tế liên quan đến các mục đích của Công ước. Thỏa thuận này cũng có thể ủy quyền cho một cơ quan để yêu cầu ý kiến tư vấn từ tòa ITLOS về các vấn đề pháp lý liên quan đến các chức năng và mục đích của mình. Các quốc gia yêu sách có thể tham gia vào một thỏa thuận quốc tế về việc hợp tác trong việc làm rõ quy chế của các thực thể ở nhóm đảo Trường Sa. Thỏa thuận này có thể thiết lập một cơ quan kỹ thuật để rà soát các thực thể nhằm xác định những thực thể nằm hoàn toàn dưới nước lúc thủy triều thấp, thực thể nào là đảo nửa chìm nửa nổi, thực thể nào đáp ứng yêu cầu về đảo theo Điều 121(1), và thực thể nào có thể được coi là đá theo Điều 121(3). Từ đó, điều ước này có thể ủy quyền cho cơ quan kỹ thuật yêu cầu ý kiến từ vấn từ tòa ITLOS về các vấn đề pháp lý liên quan đến chức năng và trách nhiệm của mình.
Một vấn đề có thể phát sinh là liệu các quốc gia không phải là bên ký kết của thỏa thuận đó có quyền đưa ra lập luận với Tòa về một vấn đề pháp lý hay không nếu quốc gia đó tin rằng mình có lợi ích trong vấn đề được nêu ra. Một vấn đề khó khăn hơn là liệu một quốc gia yêu sách không phải là thành viên của thỏa thuận có thể can thiệp để tranh luận rằng Tòa không nên đưa ra ý kiến tư vấn đối với một vấn đề pháp lý nhất định bởi ý kiến đó có thể phương hại tới các quyền của họ trong một tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đang tiếp diễn.
Nhìn chung, do Trung Quốc đã tuyên bố “loại trừ” hệ thống giải quyết tranh chấp bắt buộc và ràng buộc theo Mục 2 đối với các tranh chấp chủ quyền và phân định biên giới biển, nên các lựa chọn để giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính ràng buộc là khá hạn chế. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là con đường đi đến việc giải quyết tranh chấp mang tính ràng buộc đã hoàn toàn khép lại. Việc Philippines giành thắng lợi trong vụ kiện Trung Quốc đã mở ra một trang mới cho các nước tồn tại tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh ở Biển Đông. Thời gian tới, các nước liên quan tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông có thể nghiên cứu, học theo cách Philippines kiện Trung Quốc để tìm ra cách giải quyết tranh chấp ở Biển Đông dựa trên luật pháp quốc tế.
Cuộc chiến năng lượng của TQ ở Đông Nam Á:
Tác động và ảnh hưởng đối với tranh chấp ở Biển Đông
Đông Nam Á là khu vực có vị trí quan trọng trên con đường giao thông biển giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương với eo biển Malacca được xem như là cửa ngõ duy nhất để vào châu Á-Thái Bình Dương. Trong những năm gần đây, Trung Quốc gia tăng thực hiện chính sách “ngoại giao năng lượng” và hợp tác năng lượng với các quốc gia Đông Nam Á. Việc thực thi chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc đã tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế, chính trị, an ninh của Đông Nam Á theo hai hướng vừa tích cực vừa tiêu cực, đồng thời nó cũng có những tác động, ảnh hưởng nhất định đối với tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Trung Quốc thúc đẩy hợp tác năng lượng với các nước Đông Nam Á
Hợp tác năng lượng giữa Trung Quốc và các nước ASEAN kể từ khi khởi động vào cuối những năm 1970 được coi là một phần quan trọng của mối quan hệ Trung Quốc – ASEAN. Khi Trung Quốc mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của mình cho Đông Nam Á sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, hợp tác trong lĩnh vực này đã phát triển lên một mức độ mới, mở rộng từ thương mại năng lượng đến thăm dò tài nguyên năng lượng và xây dựng cơ sở hạ tầng liên quan. Tuy nhiên, vài năm gần, cùng với xu hướng nhu cầu tài nguyên năng lượng gia tăng đã làm nổi lên “chủ nghĩa bảo hộ năng lượng” hay “chủ nghĩa dân tộc tài nguyên”, đưa Trung Quốc và Đông Nam Á vào một cuộc cạnh tranh chính thức để đảm bảo các nguồn cung năng lượng và bảo vệ các lợi ích quốc gia.
Trên thực tế, chính sách năng lượng-an ninh tập trung vào nhà nước của Trung Quốc đã đưa nước này đến chỗ có được các nguồn cung năng lượng bằng cách giành quyền kiểm soát trực tiếp các mỏ dầu lửa và khí đốt và các tuyến đường cung cấp. Với thực tế đầu tư ra nước ngoài (OFDI) của Trung Quốc vào các nước Đông Nam Á đã gia tăng mạnh và phần lớn được chào đón, chính sách về các vấn đề năng lượng này tạo ra những cảm giác lẫn lộn về sự hiện diện ngày càng tăng không thể tránh được của Trung Quốc. Một mặt, chính sách mới có thể mang đến cơ hội để đẩy mạnh hợp tác song phương, nhưng mặt khác, cả các nước đang phát triển lẫn phát triển đều đã bày tỏ lo ngại rằng điều đó có thể phá hủy trật tự thị trường, làm xói mòn niềm tin vào quyền tiếp cận công bằng các nguồn cung tương lai và làm trầm trọng thêm sự ngờ vực chiến lược.
Chính sách ngoại giao tài nguyên của Trung Quốc ở Đông Nam Á
Hiện nay, xét về mặt tiêu thụ năng lượng, Trung Quốc đang đứng thứ 2 thế giới, sau Mỹ. Nhưng xét về lượng nhập khẩu dầu thô thì Trung Quốc đã vươn lên thành nước đứng đầu thế giới. Để bảo đảm nguồn cung ứng năng lượng ổn định với giá cả hợp lý, Chính phủ Trung Quốc đã đề ra chiến lược năng lượng quốc gia và chính sách an ninh năng lượng với các mục đích và biện pháp thực hiện cụ thể, ráo riết tìm kiếm các nguồn năng lượng trên phạm vi toàn cầu cũng như khu vực Đông Nam Á.
Sau giai đoạn đơn phương tìm kiếm nguồn năng lượng (2001-2005), từ năm 2006, Trung Quốc tích cực tham gia một số cơ chế hợp tác đa phương về lĩnh vực này, đã thành lập cơ chế đối thoại năng lượng song phương và đa phương với các tập đoàn dầu lửa lớn của Mỹ, Anh, Nga, Nhật Bản. Một trong những mục tiêu của Trung Quốc trong thời gian tới là gia nhập Tổ chức Năng lượng quốc tế. Từ nay đến khoảng năm 2020, Trung Quốc thực hiện chiến lược phát triển biển ở khu vực ven biển miền Đông; tức chiến lược phát triển biển khu vực dưới sự chỉ đạo vĩ mô của Nhà nước, lấy các tỉnh (thành phố trực thuộc, khu tự trị) làm chủ thể, lấy tài nguyên biển làm đối tượng khai thác, lấy sáng tạo thể chế chế độ làm trọng điểm. Giai đoạn này vừa là giai đoạn thực hiện bước đầu chiến lược phát triển biển quốc gia, cũng là giai đoạn chuẩn bị thực hiện toàn diện chiến lược phát triển biển. Từ năm 2020 đến giữa thế kỷ, thực hiện toàn diện chiến lược phát triển biển, khai thác với quy mô lớn tài nguyên và năng lượng biển, xây dựng Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế biển.
Trong chính sách ngoại giao năng lượng, từ năm 1990, Trung Quốc bắt đầu khởi động ngoại giao tài nguyên với ASEAN. Đó là một mốc lịch sử khi sự chuyển đổi nhận thức của ASEAN từ “Trung Quốc là một mối đe dọa” sang “Trung Quốc là một cơ hội” diễn ra trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Trong cuộc khủng hoảng này, Trung Quốc kiên quyết cam kết không hạ giá đồng tiền của mình và cung cấp viện trợ kịp thời và rộng rãi cho các nước ASEAN. Nước này tích cực điều chỉnh các chính sách ASEAN của mình. Trong số các nước lớn trong khu vực, Trung Quốc là nước đầu tiên ký kết Hiệp ước thân thiện và hợp tác với ASEAN; nước đầu tiên đề xuất
và ký kết một thỏa thuận để thiết lập một Khu vực thương mại tự do (FTA) với ASEAN; nước đầu tiên tạo dựng Quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng với ASEAN; nước đầu tiên hứa hẹn tham gia nghị định thư về Hiệp ước khu vực phi vũ khí hạt nhân Đông Nam Á; và là nước đầu tiên ký kết một “quan hệ đối tác chiến lược” với ASEAN vào tháng 10/2003 tại Hội nghị thượng đỉnh Bali. Năm 2008, Trung Quốc đã công bố thành lập Quỹ hợp tác đầu tư Trung Quốc-ASEAN và cung cấp các khoản vay cho các nước ASEAN lên đến 15 tỷ USD. Tại cuộc họp APEC ở Bali vào tháng 10/2013, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đề xuất thành lập Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) do Trung Quốc dẫn dắt để tài trợ và đi đầu phát triển cơ sở hạ tầng và tăng trưởng kinh tế khu vực. Trung Quốc cũng đã tận dụng khuôn khổ Chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng Mekong, được Ngân hàng phát triển châu Á tạo điều kiện, để cải thiện liên kết tự nhiên giữa khu vực Mekong và Tỉnh Vân Nam và Khu tự trị người Choang Quảng Tây. Ngoại giao của Trung Quốc với ASEAN hóa ra là câu chuyện thành công nhất về chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh.
Một số hoạt động phi pháp của Trung Quốc liên quan vấn đề dầu khí ở Biển Đông
Thứ nhất, Trung Quốc liên tục tiến hành các hoạt động đơn phương, ngăn chặn các nước ven Biển Đông thăm dò, khai thác dầu khí. Trung Quốc thường cáo buộc các nước ASEAN có yêu sách đã xâm phạm vào vùng biển của họ và cho rằng Trung Quốc có quyền thực thi các yêu sách chống lại các nước này. Chẳng hạn vào ngày 26 tháng 5 năm 2011, hai tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò dầu khí của một tàu khảo sát đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách bờ biển phía nam Việt Nam khoảng 120 km. Vào ngày 9 tháng 6, một tàu cá Trung Quốc cũng đã đâm ngang cáp khảo sát của một con tàu khảo sát khác của Việt Nam. Năm 2011, Philipines đã báo cáo 7 sự cố liên quan đến sự quấy rối của Trung Quốc. Trong một trường hợp, vào ngày 2 tháng 3, hai tàu tuần tra của Trung Quốc đã quấy rối một tàu thăm dò dầu khí trong khu vực mà Philippines yêu sách nằm cách bờ biển Palawan 250 km về phía Tây.
Thứ hai, Trung Quốc cũng đơn phương kêu gọi, mời thầu thăm dò, khai thác dầu khí ở trong vùng biển của Việt Nam. Tổng công ty dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) đã công bố mời thầu 9 lô dầu khí hợp tác thăm dò khai thác trong năm 2012 với các công ty nước ngoài, tổng diện tích của khu vực này là 160.129,38 km2. Qua kiểm tra tọa độ do phía Trung Quốc công bố, các lô này nằm sâu vào thềm lục địa của Việt Nam, chồng lên các lô từ 128 đến 132 và từ 145 đến 156 mà Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam đã và đang tiến hành các hoạt động dầu khí từ lâu nay. Năm 2014, CNOCC loan báo sẽ phát thông báo mời các tập đoàn nước ngoài dự cuộc đấu thầu 33 lô dầu khí, trong đó có 25 lô ở Biển Đông, tổng diện tích của khu vực này là 126.000 km2. Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam khẳng định, CNOOC đã thông báo chào thầu quốc tế tại 9 lô dầu khí nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam. Năm 2016, CNOOC tiếp tục ra thông cáo mời thầu 18 lô dầu khí với tổng diện tích khoảng 52.257 km2, bao gồm 14 lô ở Biển Đông, 3 lô tại biển Bột Hải, 1 lô tại Biển Hoa Đông. Trong các lô dầu khí ở Biển Đông năm 2016 này có một số lô nằm gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 2017, CNOOC lại mời các công ty nước ngoài tranh thầu thăm dò tìm kiếm nhiên liệu hóa thạch tại 22 lô ở vùng biển phía Nam Trung Quốc. Các lô này trải dài trên một vùng biển rộng 47.270 km2, bao gồm vùng biển của Việt Nam.
Thứ ba, Trung Quốc lợi dụng sức ảnh hưởng và tiềm lực kinh tế, quốc phòng để tìm cách ngăn chặn các nước ven Biển Đông hợp tác thăm dò, khai thác dầu khi với nước ngoài. Trung Quốc (7/2014) chỉ trích việc Bộ Năng lượng Philippines đã gia hạn thêm một năm cho Forum Energy, một công ty dầu khí của Anh, tiến hành các hoạt động dầu khí ở khu vực Bãi Cỏ Rong (tên quốc tế là Reed Bank) thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền với bãi đá này. Trong khi đó, Bắc Kinh cũng dùng ảnh hưởng và sức mạnh của mình để gây sức ép khiến PetroVietnam buộc phải dừng khoan thăm dò với các đối tác nước ngoài ở các lô 07.03 và 136.03 hồi tháng 3/2018 và 7/2017. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nhiều lần ngang ngược tuyên bố: “Không có sự cho phép của Trung Quốc, việc khai thác dầu khí của bất kỳ công ty nước ngoài nào trong vùng biển dưới quyền thực thi pháp lý của Trung Quốc là phi pháp và không có giá trị”; tiếp tục nhắc lại lập luận ngang ngược rằng Trung Quốc “có chủ quyền không tranh cãi” đối với quần đảo Trường Sa của Việt Nam và các vùng biển lân cận. Tuy nhiên, bất chấp phản đối từ phía Trung Quốc, cả Việt Nam và Philipines đều có kế hoạch xúc tiến các dự án thăm dò khí đốt hợp tác với các công ty nước ngoài. Trong đó có nhiều đối tác đến từ Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Ấn Độ, Tây Ban Nha…
Thứ tư, Chính phủ Trung Quốc thực hiện nhiều chủ trương, chính sách ủng hộ đối với các hoạt động phi pháp của doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động trên Biển Đông, như hỗ trợ trên các phương tiện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, đưa ra chính sách ưu đãi khác thác như vốn đăng ký, thu thuế, thuế quan và tài chính, thiết lập quỹ khai thác rủi ro Biển Đông, đưa ra các chính sách phát triển ngành nghề hỗ trợ cần thiết để đẩy nhanh việc khai thác phi pháp ở Biển Đông.
Tác động từ chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc đối với khu vực Đông Nam Á và vấn đề Biển Đông
Đông Nam Á là khu vực có vị trí quan trọng trên con đường giao thông biển giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương với eo biển Malacca được xem như là cửa ngõ duy nhất để vào thị trường rộng lớn ở châu Á-Thái Bình Dương. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc gia tăng thực hiện chính sách ngoại giao năng lượng và hợp tác năng lượng với các quốc gia Đông Nam Á. Mặc dù trữ lượng dầu mỏ, khí đốt ở khu vực chỉ đạt mức trung bình,nhưng với vị trí quan trọng về mặt địa chính trị của Đông Nam Á,Trung Quốc không thể “bỏ qua” khu vực này trong chính sách ngoại giao năng lượng của mình.Trung Quốc tiến hành hợp tác khai thác dầu khí với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á như: Indonesia; Việt Nam; Malaysia,Thái Lan, Campuchia và Myanma. Việc thực thi chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc đã tác động mạnh đến sự phát triển kinh tế, chính trị, an ninh của Đông Nam Á theo hai hướng vừa tích cực vừa tiêu cực.
Chiến lược ngoại giao năng lượng này một mặt đã góp phần thúc đẩyhoạt động thăm dò, khai thác, tìm kiếm và hợp tác ngoại giao năng lượng giữa các quốc gia trong khu vực. Mặt khác, nó còn nằm trong tổng thể chiến lược nước lớn, gây ảnh hưởng của Trung Quốc đối với khu vực Đông Nam Á và thế giới, nằm trong tiến trình độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Vì thế, chiến lược ngoại giao năng lượng của Trung Quốc phức tạp, tác động rất tiêu cực đến khu vực Đông Nam Á trên nhiều phương diện cả về kinh tế, năng lượng, an ninh và quốc phòng. Hiện nay, quan hệ hợp tác năng lượng giữa Trung Quốc và ASEAN vẫn còn nhiều rào cản, đó là vấn đề Biển Đông, lợi ích chiến lược về dầu mỏ và vị trí quan trọng của vùng biển này chưa được giải quyết thỏa đáng. Chính sách đa dạng hóa nguồn cung năng lượng của Trung Quốc là bước đi kế tiếp của các chính sách an ninh năng lượng trong nước.
Với chính sách này, nó đã có những ảnh hưởng, tác động lớn đối với vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông: (1) Trung Quốc đã ký các hợp tác quân sự với Malaysia, Singapore, Indonesia liên quan việc đảm bảo an ninh toàn diện cho các tuyến đường hàng hải qua eo biển Malacca. Tầm quan trọng của Biển Đông đối với an ninh năng lượng Trung Quốc thể hiện ở các tuyến vận chuyển dầu lửa chiến lược qua khu vực này. Khoảng 85% nguồn nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc bắt buộc phải đi qua eo biển Malacca. (2) Chiến lược ngoại giao năng lượng của Trung Quốc, chiến lược phát triển biển của Trung Quốc và thực trạng năng lượng Trung Quốc trong những năm gần đây là nguyên nhân chính khiến Trung Quốc đẩy mạnh quá trình tranh chấp chủ quyền Biển Đông với các nước ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam đang diễn ra quá trình cạnh tranh trong khai thác các nguồn lợi từ dầu mỏ và khí đốt. Trung Quốc bày tỏ thái độ quyết liệt khi đề cập đến vai trò của mình tại Biển Đông. Trung Quốc đơn phương tuyên bố 80% diện tích mặt biển thuộc về chủ quyền của mình. Các hành động trên của Trung Quốc gây ra một phản ứng mạnh từ các nước ven Biển Đông. (3) Trung Quốc đang áp dụng kế hoạch chiến lược ngoại giao “tăng sự tự tin” đối với khu vực Đông Nam Á. Sách lược kiểu tiệm tiến này gồm 2 phần. Phần thứ nhất là tái khẳng định yêu sách “đường 9 đoạn”, đồng thời áp dụng hành động thực tế bảo vệ chủ quyền Biển Đông. Phần thứ hai tiếp tục tăng cường kết nối kinh tế với các quốc gia Đông Nam Á, thu hút các nước này đi vào phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc.