Tin Biển Đông – 01/06/2020
Trung Quốc chờ thời điểm thích hợp để công bố vùng nhận dạng phòng không tại Biển Đông
Trung Quốc đang chờ thời điểm thích hợp để công bố vùng nhận dạng phòng không ADIZ tại khu vực Biển Đông.
Mạng South China Morning Post vào ngày 31 tháng 5 loan tin vừa nêu dẫn nguồn nội bộ quân sự Trung Quốc. Theo đó kể từ năm 2010 Bắc Kinh đã lên kế hoạch thiết lập một vùng nhận dạng phòng không ADIZ tại khu vực Biển Đông. Đó là thời điểm Bắc Kinh cũng cho biết xem xét công bố vùng nhận dạng phòng không tại Biển Hoa Đông. Một động thái bị thế giới phê phán.
Vùng nhận dạng phòng không tại Biển Đông mà Trung Quốc muốn công bố bao gồm các quần đảo Đông Sa, Tây Sa và Nam Sa. Đông Sa hiện do Đài Loan kiểm soát. Tây Sa là tên gọi mà Trung Quốc đặt cho quần đảo Hoàng Sa và Nam Sa là Trường Sa.
Mặc dù Bắc Kinh kín tiếng về kế hoạch công bố ADIZ tại Biển Đông; nhưng vào ngày 4 tháng 5 vừa qua, Bộ Quốc Phòng Đài Loan nói rõ họ biết kế hoạch đó của Trung Quốc.
Giới quan sát quân sự đưa ra nhận định rằng việc công bố vùng nhận dạng phòng không thứ hai của Trung Quốc như thế sẽ gây thêm căng thẳng với Hoa Kỳ và có thể dẫn đến những sứt mẻ không thể hàn gắn trong quan hệ với các quốc gia láng giềng của Trung Quốc trong khu vực Biển Đông.
Hồi tháng 11 năm 2013, Trung Quốc tuyên bố vùng nhận dạng phòng không tại Biển Hoa Đông. Lúc bấy giờ Bắc Kinh cho rằng vì nhu cầu cần khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Điếu Ngư nên phải cho công bố ADIZ tại Biển Hoa Đông sớm hơn dự kiến.
Vùng nhận dạng phòng không ADIZ được các quốc gia tuyên bố lập tại các vùng trời không có tranh chấp nhằm theo dõi, giám sát mọi máy bay nước ngoài. Mục tiêu để bảo đảm lợi ích an ninh quốc gia. Máy bay khi vào vùng nhận dạng phòng không phải phát tín hiệu nhận dạng và thông báo kế hoạch bay. Dù nhiều nước công bố thành lập vùng nhận dạng phòng không; nhưng khái niệm nay chưa được xác định hay qui định bới bất cứ hiệp ước hay cơ quan quốc tế nào.
Âm mưu của TQ
khi tiến hành tập trận ở quần đảo Đông Sa
Hải quân Trung Quốc đã lên kế hoạch cho một cuộc tập trận đổ bộ đường biển quy mô lớn gần tỉnh Hải Nam vào tháng 8, mô phỏng việc tiếp quản quần đảo Pratas – một nhóm ba đảo san hô ở phía Bắc Biển Đông do Đài Loan kiểm soát và Trung Quốc gọi là quần đảo Đông Sa.
Kyodo News của Nhật dẫn các nguồn tin giấu tên trong quân đội Trung Quốc tiết lộ rằng Bộ tư lệnh Chiến khu Nam Bộ, đơn vị phụ trách tác chiến trên Biển Đông, sẽ triển khai lực lượng với quy mô lớn chưa từng có gồm tàu đổ bộ, trực thăng, tàu đổ bộ đệm khí và hải quân đánh bộ tham gia một cuộc tập trận ngoài khơi đảo Hải Nam vào tháng 8. Mục tiêu giả định của cuộc tập trận là quần đảo Đông Sa/quần đảo Pratas, nằm ở phía đông Bắc Biển Đông, hiện do lực lượng phòng vệ Đài Loan kiểm soát, theo các nguồn tin. Đây được coi là địa điểm có vai trò quan trọng chiến lược với tham vọng mở rộng hoạt động của Bắc Kinh, do nằm trên tuyến di chuyển của lực lượng hải quân Trung Quốc đóng tại đảo Hải Nam ra Thái Bình Dương.
Theo giới truyền thông, Trung Quốc sẽ điều hạm đội tàu sân bay tham gia hoạt động tập trận trên. Nhóm tàu sân bay của Trung Quốc dự kiến sẽ di chuyển qua quần đảo Pratas trên đường đến “địa điểm tập trận ở phía Đông Nam Đài Loan ở biển Philippines”. Tuy nhiên, hiện chưa xác định cụ thể tàu sân bay Liêu Ninh hay Sơn Đông sẽ tham gia cuộc tập trận trên. Trong khi các bộ phận khác của đội tàu hải quân sẽ tham gia các bài tập đổ bộ tại một khu huấn luyện gần Hải Nam, cách quần đảo Pratas khoảng 600km về phía Tây Nam.
Đáng chú ý, có nguồn tin cho rằng đây không phải là diễn tập chiếm quần đảo này vì chỉ có 200 lính Đài Loan đóng quân trên quần đảo Pratas, do đó, PLA không triển khai một nhóm tấn công tàu sân bay để chiếm một hòn đảo nhỏ như vậy; đồng thời khẳng định các cuộc tập trận chỉ là “một phần của chương trình huấn luyện thường xuyên của hải quân Trung Quốc”, cho rằng PLA phải thử nghiệm tất cả các máy bay, tàu chiến và vũ khí của mình ở Biển Đông để xem xét khả năng sẵn sàng chiến đấu và năng lực tác chiến ở vùng biển nhiệt đới.
Trong khi đó, chuyên gia Lục Lập Thực, Học viện Hải quân Đài Loan ở Cao Hùng cho rằng lý do chính khiến PLA không tìm cách chiếm giữ bất kỳ hòn đảo nào do Đài Loan kiểm soát ở Biển Đông là vì chúng không còn giữ giá trị chiến lược đối với Bắc Kinh. Cả hai đảo Pratas và Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam nhưng bị Đài Loan chiếm đóng) đã mất tầm quan trọng về mặt địa lý kể từ khi đại lục phát triển đảo nhân tạo ở Biển Đông. Bên cạnh đó, Bắc Kinh có ba đường băng dài 3.000 mét trên các hòn đảo nhân tạo gần đó và có thể chứa tất cả các loại máy bay (quân sự và dân sự). Đài Loan thậm chí không còn máy bay chiến đấu trên Pratas hay Ba Bình. Chuyên gia Trì Lạc Nghĩa, một nhà quan sát quân sự ở Đài Bắc, cho rằng các cuộc tập trận sắp tới và sự gia tăng hoạt động của hải quân và không quân Trung Quốc là bằng chứng cho kế hoạch của Bắc Kinh nhằm quân sự hóa toàn bộ khu vực; nhấn mạnh cuộc tập trận đổ bộ là một phần trong chương trình huấn luyện thường xuyên của hải quân PLA để đạt được kế hoạch Bắc Kinh, nhằm đưa Biển Đông dưới sự kiểm soát của họ; bên cạnh đó, cuộc diễn tập đổ bộ có thể được xem là động thái chuẩn bị tấn công Đài Loan, nhưng thực tế là Bắc Kinh đang xây dựng những hệ thống tác chiến để chuẩn bị cho kịch bản xung đột trong khu vực.
Dù vậy, một số chuyên gia vẫn cho rằng Trung Quốc tổ chức đợt diễn tập nhằm gửi thông điệp tới Đài Loan và Mỹ. Nhà bình luận Song Zhongping tại Hong Kong nhận định, cuộc diễn tập đổ bộ diễn ra ngay sau khi hải quân Trung Quốc diễn tập 11 tuần ở biển Bột Hải. Nó là lời cảnh báo cho lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn và chính quyền Mỹ rằng quân đội Trung Quốc luôn sẵn sàng hành động những vấn đề liên quan tới Đài Loan và Biển Đông.
Đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, bị Đài Loan chiếm đóng trái phép và triển khai lực lượng cảnh sát biển đồn trú. Đảo này nằm gần một số đảo nhân tạo Trung Quốc bồi đắp phi pháp từ các đá thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trong khi đó, quần đảo Đông Sa nằm cách Hong Kong 340 km và cách Đài Bắc 850 km, được chính quyền Đài Loan đặt trong phạm vi quản lý hành chính của thành phố Cao Hùng, trong khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và đặt nó vào tỉnh Quảng Đông.
http://biendong.net/bien-dong/35011-am-muu-cua-tq-khi-tien-hanh-tap-tran-o-quan-dao-dong-sa.html
Chiêu trò TQ có thể dùng ở biển Đông
trong thời gian tới
Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR), một tổ chức nghiên cứu độc lập ở Mỹ chuyên về chính sách đối ngoại và các vấn đề quốc tế vừa có phân tích sâu, nêu ra các kịch bản Trung Quốc có thể áp dụng trên biển Đông.
Một trong các kịch bản này, được thực hiện khi Bắc Kinh cho rằng đã đến lúc cần phải quả quyết mạnh mẽ hơn các yêu sách của mình, khả năng cao nhất là họ sẽ tìm cách mở rộng quyền kiểm soát biển Đông theo các mục tiêu rộng lớn hơn là sắp xếp lại khu vực theo hướng có lợi cho mình và thay thế Mỹ. Đáp lại, Mỹ sẽ hành động để ngăn chặn Trung Quốc thay đổi hiện trạng thông qua các biện pháp gây hấn và ép buộc để duy trì vị thế Mỹ là người bảo đảm hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực.
Một trong những chiến lược chính của Trung Quốc trong việc thúc đẩy các yêu sách của mình trong quá khứ là tăng rủi ro cho những nước khác thực hiện các quyền của mình, ví dụ, quấy rối hoạt động thăm dò dầu khí của các quốc gia khác, quấy rối tàu cá và tàu quân sự.
Vào tháng 5/2019, Trung Quốc đã triển khai hải cảnh để đe dọa các tàu hỗ trợ ngoài khơi của Việt Nam phục vụ một giàn khoan gần bờ biển phía Nam Việt Nam, một khu vực thuộc chủ quyền Việt Nam. Động thái này đã dẫn đến một cuộc đối đầu quan trọng nhất giữa Trung Quốc và Việt Nam trong năm năm qua, với các tàu bảo vệ bờ biển Trung Quốc và Việt Nam tiến hành tuần tra gần nhau và chính phủ Việt Nam đưa ra tuyên bố kêu gọi Trung Quốc ngừng lại hành vi này. Trong những tháng gần đây, các tàu hải cảnh Trung Quốc đã có hành vi tương tự đối với một giàn khoan dầu của Malaysia ở biển Đông. “Trung Quốc có thể leo thang quấy rối thường xuyên hơn hoặc dữ dội hơn, bao gồm việc cho máy bay quân sự thường xuyên bay gần các giàn khoan dầu một cách nguy hiểm”, phân tích của CFR nhận định.
Tương tự như vậy, Trung Quốc có thể áp dụng các chiêu trò gây hấn hơn đối với các quốc gia khác trong khu vực. Điều này có thể bao gồm chạy cắt mặt một tàu hải quân Mỹ, khóa radar vũ khí nhằm vào máy bay Mỹ hoặc thực hiện các cuộc tập trận quân sự thường xuyên và khiêu khích hơn.
Hiện tại, Trung Quốc chủ yếu dựa vào việc bám đuôi Mỹ và đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ khi Mỹ và các nước khác tiến hành các hoạt động tự do hàng hải (FONOP). Tuy nhiên, Trung Quốc có thể phản ứng mạnh mẽ hơn, làm tăng rủi ro cho các lực lượng Mỹ hoạt động trong khu vực. Chẳng hạn, vào cuối tháng 6/2019, Trung Quốc đã thử tên lửa đạn đạo tầm trung hai lần ở Biển Đông. Các thử nghiệm này cản trở các quốc gia khác tiếp tế cho các tiền đồn của họ gần quần đảo Hoàng Sa và Mỹ coi đây là mối đe dọa từ Trung Quốc, có thể khiến các căn cứ và tàu thuyền của Mỹ cũng như đồng minh gặp nguy hiểm trong trường hợp leo thang quân sự ở Biển Đông.
Trung Quốc có thể thực hiện các biện pháp được tính toán để thay đổi cán cân sức mạnh quân sự ở biển Đông. Mặc dù Bắc Kinh sẽ cố gắng áp dụng các biện pháp này ở giới hạn phòng thủ, nhưng những thay đổi đơn phương như vậy sẽ đòi hỏi phải có phản ứng mạnh mẽ hơn từ các bên yêu sách chủ quyền.
Trung Quốc có thể bắt đầu bằng cách đưa các nhân tố mới để tăng áp lực lên các bên yêu sách. Ví dụ, khi quan hệ quân sự Trung Quốc và Nga ngày càng phát triển, Trung Quốc có thể khuyến khích Nga hỗ trợ các yêu sách của Trung Quốc bằng cách thách thức các tàu của Mỹ, như Nga đã làm gần vùng biển Philippines vào tháng 6/2019.
http://biendong.net/goc-nhin-moi/34999-chieu-tro-tq-co-the-dung-o-bien-dong-trong-thoi-gian-toi.html
Đô đốc Pradeep Chauhan:TQ đang thay đổi chiến thuật
bằng cách đánh tráo khái niệm ở Biển Đông
Phó Đô đốc Pradeep Chauhan, Tổng Giám đốc Quỹ Hàng hải Quốc gia Ấn Độ cho rằng các hành động phi pháp của Trung Quốc thời gian gần đây thực chất là một cách đẩy mạnh chiến lược Tứ Sa, với việc tính toán những phương thức mới “hô biến” các thực thể trên Biển Đông thành chủ quyền của họ.
Trung Quốc thúc đẩy chiến lược “Tứ Sa”.
Theo Phó Đô đốc Pradeep Chauhan, kể từ khi Trung Quốc đưa ra cái gọi là “Đường 9 đoạn” tại Biển Đông, thế giới đã lên tiếng phản đối rất mạnh mẽ. Trung Quốc đã đưa ra các công hàm của họ để bảo vệ các tuyên bố chủ quyền tại các cơ chế pháp lý quốc tế. Cho tới tận khi Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài Quốc tế thành lập theo Phụ lục 7 của UNCLOS, Trung Quốc vẫn khăng khăng nói rằng cái gọi là “Đường 9 đoạn” này của họ có giá trị. Phán quyết của Toà (7/2016) đã bác bỏ những yêu sách chủ quyền vô lý của Trung Quốc và ủng hộ các lập luận và tuyên bố của Philippines và chống lại cách tiếp cận của Trung Quốc với cái gọi là “các vùng nước lịch sử”. Thời gian gần đây, Trung Quốc một mặt vừa không tuân theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) lại vừa thay đổi chiến thuật mới. Họ không nói về cái gọi là tính hợp pháp, đúng đắn của “Đường 9 đoạn” nữa. Thay vào đó, họ bắt đầu tuyên truyền về cái gọi là chiến lược “Tứ Sa”.
Thời điểm này, chúng ta đang phải đối mặt ngăn chặn đại dịch Covid-19, nhưng Trung Quốc lại thể hiện một khả năng ‘biến hóa’ trong chính sách. Khi cộng đồng quốc tế tiếp tục phản bác “Đường 9 đoạn”, Trung Quốc đã khiến cả thế giới không kịp trở tay. Bây giờ họ tập trung vào vào cái gọi là tuyên bố chủ quyền, vơ vào các hòn đảo, các rạn san hô nửa chìm nửa nổi, các bãi cát trên Biển Đông. Đó chính là lý do khiến họ đẩy mạnh chiến lược “Tứ Sa”. Đây hoàn toàn là một bước đi mới. Hiện Trung Quốc sẽ
không nói rằng “Đường 9 đoạn” đi qua các vùng nước chủ quyền, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam mà Trung Quốc sẽ nói rằng các nước sẽ không có cơ sở để xác lập chủ quyền ở những thực thể này. Bởi những rạn san hô, cụm đảo, bãi đá này đang “thuộc về Trung Quốc”. Với cách diễn giải phi lý và áp đặt này, chúng ta thấy rằng ở đây luật chơi không hề thay đổi, nhưng Trung Quốc đã thay đổi thuật ngữ một cách rất tinh vi. Khi mà người ta phát triển một thuật ngữ mới, mọi người cần tìm hiểu đây là ‘bình mới rượu cũ’ hay là ‘rượu mới’. Vì thế, thế giới nên phản đối, phê phán chiến lược “Tứ Sa” này, như cách mà chúng ta đã phản đối “Đường 9 đoạn”. Công luận thế giới chưa có nhiều phân tích và hiểu biết về chiến lược “Tứ Sa” mà Trung Quốc đưa ra. Điều nguy hiểm ở chỗ, cái mà Trung Quốc đang muốn làm khi mà thế giới đang bận rộn với dịch Covid-19 không phải tạo ra cái gọi là “Tứ Sa”, mà muốn thay đổi tên gọi của các đảo, rạn san hô và bãi đá tại Biển Đông. Bằng cách đó, họ đưa vấn đề Biển Đông lên một cấp độ mới.
Cuộc chơi ‘thuật ngữ’ này không phải là cuộc chiến tranh, đó là một cuộc đấu về luật pháp. Ở đây ta cũng thấy một chiêu trò của Trung Quốc khi họ khiến thế giới nhầm lẫn, mất định hướng với việc thay đổi thuật ngữ. Đây là phương thức khá kinh điển mà Trung Quốc thường sử dụng trong quá khứ. Rõ ràng đại dịch Covid-19 đã tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc triển khai chiến lược của họ, bằng cách thay đổi các định nghĩa về chủ quyền. Các nước cần phải rất cẩn trọng với tính toán này của Trung Quốc. Chúng ta cần phải đưa ra một tuyên bố nhằm lật tẩy khái niệm, tên gọi mới mà Trung Quốc đưa ra, nhằm mục đích gây nhiễu loạn và đánh tráo khái niệm.
Xâm phạm EEZ các nước
Bên cạnh đó, Đô đốc Pradeep Chauhan cho rằng cái mà Trung Quốc đang làm là xây dựng cho chính mình một câu chuyện. Bởi lẽ họ không chỉ phải thuyết phục thế giới bên ngoài, mà còn để thuyết phục người dân trong nước rằng họ đang làm điều đúng đắn. Và vì thế, chính quyền Trung Quốc cần sự chính danh trong mắt người dân Trung Quốc. Các hành động của Trung Quốc đã vi phạm rõ ràng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) và vùng biển của các nước láng giềng tại Biển Đông, không chỉ với Việt Nam, Philippines mà còn với cả Malaysia, Indonesia. Những diễn biến hiện tại chắc chắn là một trong những bước đi có tính toán của Trung Quốc nhằm gây ảnh hưởng tới khu vực, gây phân rẽ tinh thần hợp tác trong vấn đề Biển Đông giữa các nước trong khu vực. Bằng các mối quan hệ kinh tế, bằng các yêu sách về thương mại, Trung Quốc buộc nhiều nước trong khu vực phải chọn cách ủng hộ họ nếu không muốn phải chịu sự thiệt hại về kinh tế. Đó chẳng khác gì một kiểu đe dọa.
Thái độ và hành động của Trung Quốc đã và đang làm xói mòn an ninh, ổn định và lòng tin tại khu vực. Trung Quốc huy động các tàu hộ tống, tàu khảo sát đại dương, tàu khoan thăm dò tới vùng biển của nước khác, không chỉ có Việt Nam mà còn cả Philippines, Malaysia. Các nước trong khu vực đã cố gắng không để tình hình leo thang thành căng thẳng. Trung Quốc còn tổ chức một lực lượng dân quân biển với quy tắc hành xử riêng. Về lý thuyết, họ nói đó là tàu dân sự nhưng cách thức nó hoạt động khiến người ta nhận thấy rằng nó giống như tàu hải quân. Đây là một lực lượng “có vai trò rất kỳ lạ”. Điều này khiến các nước trong khu vực bị động và không biết ứng phó ra sao với mô típ mới này của Trung Quốc. An ninh tại khu vực Biển Đông giờ đây đang đặt ra nhiều câu hỏi. Bởi trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, âm mưu và hành động của Trung Quốc chính là nhân tố khiến những vấn đề an ninh tại biển Đông ngày càng trở nên xấu đi.
Việc Trung Quốc sử dụng tàu khảo sát, tàu hải cảnh hoạt động trái phép trong vùng biển của các nước láng giềng cho thấy nước này muốn thúc đẩy hơn nữa chiến lược “Tứ Sa”; nhấn mạnh quyền thực hiện nghiên cứu khoa học và đặc biệt quyền tự do đi lại vốn được Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) cho phép. Bên cạnh đó, nếu các nước không lên tiếng phản đối, Trung Quốc sẽ dễ dàng triển khai bước đi thứ nhất. Đó là phái tàu khảo sát tới vùng đặc quyền kinh tế của các nước để thăm dò. Hành động của Trung Quốc sẽ phụ thuộc vào phản ứng tiếp theo của các nước. Nếu các nước phản ứng yếu ớt, Trung Quốc sẽ tiến lên bước đi tiếp theo là tiến hành khảo sát. Nhưng việc khảo sát dù vì lý do gì bên trong EEZ của nước khác tự thân nó đã vi phạm tinh thần của UNCLOS 1982.
Các bên liên quan cần làm gì
Việt Nam đã từng đối mặt với kịch bản này của Trung Quốc và đã phản ứng rất mạnh. Nhưng phản ứng của Việt Nam chưa đủ với hành động của Trung Quốc. Nếu ASEAN hay các nước trong khu vực phản ứng đủ mạnh, Trung Quốc sẽ rút lui, nhưng không phải rút lui hoàn toàn mà họ vẫn sẽ cố đạt được một mục tiêu nào đó, chứ không chịu trở về con số 0. Và vì thế, nếu trong những lần tới Trung Quốc sẽ lại hành động, họ sẽ bắt đầu có thể từ hành động số 1 và tiến lên hành động số 2.
ASEAN đang có một vị trí rất lớn trong các vấn đề khu vực. ASEAN là một tổ chức địa chính trị, địa kinh tế hết sức quan trọng, mà chính các nước Đông Nam Á đã tạo ra. Bất cứ điều gì làm xói mòn vai trò và vị trí của ASEAN đều không tốt cho ASEAN, không có lợi cho các nước Đông Nam Á, mà còn ảnh hưởng xấu tới toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương- Thái Bình Dương. Và chắc chắn nó còn làm xói mòn cấu trúc của toàn thế giới. ASEAN cần cảnh giác với những bước đi khiêu khích cùng những lời lẽ “mật ngọt” kèm với những lợi ích kinh tế, như tôi đã nói, khiến cho các quốc gia trong khu vực mất cảnh giác và đánh mất luôn cả không gian chiến lược của mình nếu bị ru ngủ bởi những thủ đoạn này.
Về Mỹ, các cuộc tuần tra tự do hàng hải mà Mỹ tiến hành không có nghĩa đó là bằng chứng về sự cương quyết của Mỹ hay cam kết của Mỹ. Các cuộc tuần tra tự do hàng hải đơn giản chỉ là những cảnh cáo của Mỹ rằng: “Trung Quốc đã thực thi các tuyên bố chủ quyền quá mức, vượt qua cả những gì được phép làm theo luật pháp và điều ước quốc tế trong khuôn khổ UNCLOS”. Nếu không ai lên tiếng phản đối những điều mà Trung Quốc làm, thì đương nhiên nó sẽ trở thành thông lệ. Và vì thế, chúng ta không thể để mặc Trung Quốc biến những hành vi này trở thành bình thường, phá bỏ các quy tắc quốc tế của UNCLOS 1982. Đây cũng là lý do khiến Mỹ phải thực hiện các cuộc tuần tra này. Tôi nghĩ rằng chúng ta phải ngăn chặn chiến lược nhiều lớp và nhiều hướng của Trung Quốc. Không thể để một cường quốc muốn làm gì thì làm.
Căng thẳng Biển Đông leo thang,
Mỹ tái khẳng định cam kết đối với khu vực
Tình hình Biển Đông leo thang căng thẳng trong hơn một tháng qua do Trung Quốc lợi dụng đại dịch Covid-19 gia tăng các hoạt động lấn lướt ở Biển Đông như điều nhóm tàu tác chiến sân bay vào diễn tập ở Biển Đông; đưa tàu khảo sát địa chất Hải Dương 08 cùng nhiều tàu hải cảnh, tàu dân quân biển đi vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam rồi xâm nhập vùng biển của Malaysia quấy phá các hoạt động dầu khí của Malaysia; công bố lập 2 đơn vị hành chính “quận Tây Sa” (Hoàng Sa) và “quận Nam Sa” (Trường Sa), đặt tên 80 thực thể ở Biển Đông, ban hành lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông… Những động thái này ảnh hưởng trực tiếp đến các nước liên quan như Việt Nam, Philippines, Malaysia….
Ngoài ra, cuối tháng 3/2020, tàu Hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam, Bắc Kinh gửi công hàm tới Liên hợp quốc vu cáo Việt Nam trên vấn đề Biển Đông; tháng 4/2020, tàu chiến Trung Quốc chĩa radar vào tàu hải quân Philippines hay trong gần 2 tháng qua, nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 08 của Trung Quốc xâm lấn vùng biển của Malaysia uy hiếp, quấy phá hoạt động dầu khí của Malaysia.
Trong hơn 2 tháng đầu năm 2020, dịch Covid bùng phát ở khắp Trung Quốc. Do phải tập trung chống dịch, Trung Quốc ít có các hoạt động ở Biển Đông. Trong tình hình đó, Mỹ cũng có rất ít các hoạt động trên Biển Đông nên tình hình Biển Đông dịu đi.
Từ cuối tháng 3, sau khi cơ bản khống chế được dịch Covid trong nước, giới cầm quyền Bắc Kinh với những hoạt động hung hăng liên tiếp ở Biển Đông như nêu trên đã làm cho tình hình Biển Đông hết sức căng thẳng. Một số nhà quan sát lo ngại rằng, do đang bận đối phó với đại dịch Covid-19, Mỹ sẽ lơ là vấn đề Biển Đông và Trung Quốc sẽ lợi dụng để tiếp tục lấn tới.
“Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng”, những hành động hung hăng dồn dập của Trung Quốc ở Biển Đông đã buộc Mỹ phải có hành động đáp trả để ngăn chặn bất chấp những khó khăn do đại dịch Covid-19 đang gặp phải của một số tàu chiến Mỹ, kể cả tàu sân bay.
Tổng thống Donald Trump và các quan chức chính quyền, Nghị sĩ Mỹ hết sức bực tức trước việc Trung Quốc gây ra đại dịch Covid 19, đẩy toàn cầu vào thảm họa và rồi họ lại lợi dụng điều này để gây hấn, bắt nạt các nước láng giềng, xem thường sức mạnh quân sự của Mỹ. Tổng thống Donald Trump và Ngoại trưởng Mike Pompeo nhiều lần công kích Bắc Kinh vì không công khai minh bạch về dịch bệnh để dịch bệnh lây lan ra toàn cầu.
Lầu Năm Góc cáo buộc Bắc Kinh lợi dụng đại dịch Covid-19 để gia tăng lợi ích quân sự và kinh tế bằng việc bành trướng, đồng thời thể hiện sự lo ngại đối với hoạt động gia tăng, lợi dụng thời cơ của Trung Quốc để dọa nạt các nước láng giềng, thúc ép tuyên bố chủ quyền hàng hải bất hợp pháp trên Biển Đông giữa lúc khu vực và thế giới đang tập trung đối phó Covid-19.
Washington khẳng định Covid-19 không hề ảnh hưởng tới khả năng quân sự đáp trả các hành động của Trung Quốc. Tư lệnh Bộ chỉ huy Không kích toàn cầu của Không quân Mỹ, tướng Timothy Ray, nhấn
mạnh: “Chúng tôi đủ năng lực khai hỏa tầm xa từ bất cứ đâu, bất cứ lúc nào và có thể tung ra hỏa lực áp chế ngay giữa đại dịch”.
“Lời nói đi đôi với việc làm”. Trong những tuần qua, các tàu chiến hải quân Mỹ và máy bay ném bom B-1 đã được triển khai nhiều lần ở Biển Đông, biển Hoa Đông và eo biển Đài Loan để gửi một thông điệp rằng quân đội Mỹ tiếp tục duy trì hiện diện, tái khẳng định cam kết với các đồng minh trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Cuối tháng 4, hải quân Mỹ điều 3 chiến hạm đến Biển Đông diễn tập quân sự cùng tàu chiến Úc và liên tiếp cho tàu chiến áp sát Hoàng Sa và các đảo nhân tạo ở Trường Sa. Đầu tháng 5, Mỹ cho 2 tàu tác chiến ven bờ (tàu USS Gabrielle Giffords và tàu USS Montgomery) cùng tàu tiếp vận USNS Cesar Chavez đến khu vực tàu khoan West Capella, do công ty Petronas của Malaysia đang vận hành để hỗ trợ Malaysia trước sức ép của nhóm tàu khảo sát địa chất Hải Dương 08 của Trung Quốc.
Tàu tác chiến ven bờ USS Gabrielle Giffords và tàu USS Montgomery, thuộc lớp Independence, của Lực lượng tuần duyên Mỹ được Washington điều đên đồn trú tại Singapore để hỗ trợ có các tàu hải quân Mỹ thực hiện chiến dịch tự do hàng hải trên Biển Đông.
Ngày 13/5/2020, tàu khu trục tên lửa hành trình USS McCampbell được triển khai qua eo biển Đài Loan nhằm thể hiện sự cam kết của Mỹ về một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do. Trong khi đó, tàu USS Ronald Reagan thực hiện hoạt động diễn tập trên các tàu nhỏ ở vùng biển Philippines.
Hôm 14/5/2020, ông Michael Kafka, Phát ngôn viên Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của quân đội Mỹ cảnh báo “Trung Quốc đang nỗ lực tận dụng sự tập trung của các nước trong khu vực về Covid-19 để gia tăng lợi ích riêng”. Đồng thời, Hạm đội Hải quân Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương Mỹ thông báo mọi tàu ngầm trong khu vực của hải quân Mỹ đang trên biển để tiến hành các chiến dịch đảm bảo một khu vực – Thái Bình Dương mở và tự do giữa khủng hoảng Covid-19. Đây được coi là một động thái bất thường vì Mỹ thường không công bố về hoạt động của lực lượng tàu ngầm.
Bên cạnh đó, các máy bay B1-B của các lực lượng không quân Mỹ đã cất cánh từ lục địa của Mỹ bay thẳng đến Biển Đông và biển Hoa Đông để hoạt động. Từ đầu năm 2020, Mỹ đã khoảng 40 lần bay qua Biển Đông, biển Hoa Đông, biển Hoàng Hải và eo biển Đài Loan, gấp 3 lần so với cùng kỳ năm 2019. Đáng chú ý, có 2 chuyến bay của quân đội Mỹ được thực hiện gần Hồng Kông, cho thấy sự tiếp cận “sát sườn” Trung Quốc.
Các chuyên gia quân sự cho rằng các hoạt động dồn dập của hải quân và không quân Mỹ ở biển Hoa Đông, eo biển Đài loan và trên Biển Đông vừa qua là nhằm tạo sự bất ngờ để đối phương khó dự đoán. Qua các hoạt động này, Washington khẳng định các lực lượng của Mỹ có khả năng thực hiện những nhiệm vụ liên tiếp và bất ngờ ở Biển Đông, không giống mô hình trước đây vốn có thể dự đoán được. Với sách lược quân sự mới, Washington có thể tính toán thêm các địa điểm đồn trú luân phiên khác ở khu vực mà không cần phải lệ thuộc vào một vài đối tác. Điều này phù hợp hơn với tình hình hiện tại, giúp Mỹ có thể triển khai tấn công từ nhiều hướng, nhất là trong bối cảnh Bắc Kinh đã thiết lập các căn cứ quân sự trên các đảo nhân tạo mà họ đã chiếm đóng ở Biển Đông.
Dù không liên quan trực tiếp đến tranh chấp ở Biển Đông hay biển Hoa Đông nhưng Mỹ có lợi ích chiến lược cốt lõi ở khu vực này. Mỹ duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ trong khu vực để thể hiện sự ủng hộ đối với các đồng minh. Chứng kiến Bắc Kinh đang đẩy mạnh các hoạt động lấn lướt và bắt nạt láng giềng, Washington không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đẩy mạnh các hoạt động quân sự ở Biển Đông, biển Hoa Đông và eo Biển Đài Loan.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper nhấn mạnh “Bộ Tư lệnh Ấn Độ – Thái Bình Dương của Mỹ đã làm tốt việc duy trì thể hiện vũ lực, sự răn đe, khả năng và sự sẵn sàng chiến đấu” giữa lúc đại dịch, đồng thời cho biết ông muốn đẩy mạnh đầu tư quân sự trong khu vực. Rõ ràng Mỹ đang chuyển tới Bắc Kinh thông điệp mạnh mẽ “Mỹ kiên quyết chống lại sự bá quyền của Trung Quốc”.