Thế giới Hồi Giáo: Mâu thuẫn giữa Sunni & Shi’ite – Hoàng Đình Khuê
Biến cố 9/11 tức vụ tấn công vào 2 Tòa nhà Trung tâm Thương mại thế giới ngày 11 tháng 9 năm 2001 do bọn khủng bố Al Quaeda /Osama Bin Ladin chủ mưu đã giết hại 2,996 thường dân vô tội, gây chấn động cả thế giới bắt đầu cho một cuộc chiến khủng bố giữa một nhóm Hồi giáo với nền văn minh thế giới.
Tiếp theo là cuộc khủng bố tại thủ đô Paris vào ngày thứ sáu 13 tháng 11 năm 2015 tại 6 địa điểm trong thành phố làm 130 người chết càng làm thế giới lo ngại và cùng nhau hợp tác chống lại nhóm khủng bố Hồi giáo, gọi tắt là IS (Islamic State).
Dân chúng Pháp và thế giới chưa hết bàng hoàng thì ngày 2 tháng 12 năm 2015 hai vợ chồng Syed Rizwan Farook và Tasheen Malik xả súng giết hại 14 người tại một buổi tiệc ở San Bernardino, California, HK.
Và gần đây nhứt vào ngày 2 tháng 1 năm 2016, Ả Rập Saudi đã xử tử 47 người Hồi giáo trong đó có giáo sĩ Nimr Al Nimr, là người lãnh đạo Hồi giáo Shi’ ite ở Ả Rập Saudi càng gây căng thẳng giữa hai nước thuộc 2 nhóm Sunni và Shi’ite.
Đền thờ Hồi giáo QUBA đầu tiên ở Medina
Người Muslim đang cầu nguyện
Nhân đây ta thử tìm hiểu về thế giới Hồi giáo cũng như nguyên nhân đưa đến mâu thuẫn giữa Sunni và Shi’ite.
NGUỒN GỐC:
Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ nhì sau Kitô giáo , phát sinh từ thế kỷ thứ 7 theo lịch Ả Rập do giáo chủ Muhammad sáng lập. Tôn giáo này phát triển rất nhanh cho đến nay dân số lên đến 1.6 tỷ người (25% dân số thế giới), đông nhất là ở Indonesia (13%). Hồi giáo chia làm hai nhóm:
– Nhóm Sunni (Đa số) chiếm 85%; – Nhóm Shi’ite (Thiểu số) chiếm 15%.
Lịch sử Hồi giáo bắt đầu vào một đêm linh thiêng, Muhammad tin rằng đã được nói chuyện với Thiên thần Gabriel và được truyền lại những triết lý giáo điều từ Thiên Chúa Allah. Sau này Muhammad cũng rao truyền lại cho những người nối tiếp và những lời mặc khải đều được ghi vào trong Thiên Kinh Qur’an.
Muhammad sanh năm 580 sau công nguyên tại một làng hẻo lánh xa hẵn thế giới văn minh, tại thành phố Mecca, phía nam Ả Rập. Từ thuở thiếu thời, Muhammad đã sống trong sự nghèo đói bần hàn, không học hành. Đến năm 25 tuổi, Muhammad lấy được vợ giàu và cuộc sống trở nên khá hơn. Dù vậy từ lúc sinh ra cho đến năm 40 tuổi, Muhammad không tỏ ra có dấu hiệu gì là đặc biệt hay có tư tưởng siêu việt nào tạo nên những thay đổi quan trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Vào thời điểm này đa số những người Ả Rập là những người vô thần hoặc thờ đa thần đủ các loại thần thánh và ma quỷ.
Tại Mecca có một số người cư trú là người Do thái giáo và Cơ đốc giáo và nhờ tư tưởng của hai tôn giáo này đã định hướng cho Muhammad có ngộ thức rằng trong vũ trụ chỉ có một Đấng Tối cao duy nhất – Chúa tể của muôn loài là Thiên Chúa Allah. Ngay khi nhận thức được phép nhiệm mầu này, Muhammad tiếp nhận một niềm tin sâu xa mà Thiên Chúa Allah đã truyền lại.
Cho đến năm 612, Muhammad mới chính thức rao giảng niềm tin thiêng liêng của mình trước công chúng và chỉ trong thời gian ngắn, những người Ả Rập vô thần hay tôn thờ đa thần đều từ bỏ niềm tin cũ và đi theo niềm tin của Muhammad. Niềm tin đó là một sứ điệp được biên soạn và sau đó trở thành Thiên kinh Qur’an, kinh thánh của Hồi giáo.
Năm 622, nhận thấy tánh mạng bị đe dọa bởi sự thù nghịch của chánh quyền địa phương, Muhammad trốn khỏi Mecca đến trú ngụ tại Medina, cách khoảng 300km về phía bắc. Tại đây Muhammad thành lập nền tảng đầu tiên của Hồi giáo và biến thành trung tâm của Hồi giáo thế giới.
Chỉ trong thời gian ngắn Muhammad đã tạo được uy tín và phát triển đạo Hồi lớn mạnh trở thành chúa tể đầy quyền lực tại Medina. Những cuộc thư hùng quyết liệt xảy ra giữa hai thế lực của Medina và Mecca kéo dài khoảng 10 năm. Đến năm 630 cuộc chiến tranh tư tưởng kết thúc với sự chiến thắng của Muhammad và dân chúng Mecca hân hoan đón mừng vị Giáo chủ đầu tiên của mình với một Đế quốc hùng mạnh nhất Trung đông.
Trong hai năm cuối đời, Muhammad tiếp tục truyền bá Đạo giáo của mình và chinh phục các bộ lạc tại Trung đông và toàn vùng Ả Rập, phát triển tư tưởng Hồi giáo tạo nên Giáo quyền và Thế quyền vượt bực. Năm 632, Giáo chủ Muhammad tạ thế.
Trước khi lâm bịnh Muhammad đã thiết lập những luật lệ phải tôn trọng trong Hồi giáo, đó là 5 cột trụ của Đức tin:
1 – Tuyên xưng Đức tin (tiếng Ả Rập là Shahadah)
Tín đồ Hồi giáo phải tin “Không có Chúa nào ngoài Thiên chúa Allah và Muhammad là sứ giả của Người” (No God But God)
Các tín đồ nhắc lại câu này nhiều lần trong một ngày để nhắc nhở Thiên chúa là vị trí trung tâm trong cuộc sống.
2 – Dâng Lễ Nguyện (Salat):
Tín đồ Hồi giáo đòi hỏi phải cầu nguyện theo nghi thức 5 lần một ngày: Lúc rạng đông, lúc đúng ngọ, lúc sau trưa, lúc mặt trời lặn, lúc nửa đêm.
3 – Ăn chay (Sawn): Trong suốt tháng Ramadan (tháng 9 âm lịch của Hồi giáo) phải nhịn ăn, không hút thuốc và cấm tình dục từ bình minh đến hoàng hôn.
4 – Bố thí (Zakat): Tín đồ Hồi giáo phải góp một số tiền ấn định, đặc trưng là 2.5% thu nhập mỗi năm để giúp người nghèo và bịnh tật.
5 – Hành hương tại Mecca (Haji): Tín đồ Hồi giáo phải hành hương tại Mecca ít nhất một lần trong đời mình.
Trong chiều hướng đánh giá những vĩ nhân lịch sử, sử gia Michael Hart đã xếp hạng Giáo chủ Muhammad là một trong số những vĩ nhân trên thế giới, có ảnh hưởng lớn lao nhất trong lịch sử tư tưởng và chính trị của nhân loại. Trên phương diện lịch sử và khoa học, tư tưởng Hồi giáo thực sự khởi thủy từ tư tưởng của Do thái giáo và Cơ đốc giáo. Trên phương diện tôn giáo, chính người Hồi giáo đã coi đạo Hồi như một tôn giáo có tính chung quyết đã được Thiên Chúa Allah giao trọng trách cho Muhammad là vị Thiên sứ cuối cùng.
Ngay từ ban đầu Hồi giáo đã đặt cho mình một vai trò quan trọng gồm thâu cả Giáo quyền lẫn Thế quyền.
Ngay cả khi Giáo chủ Muhammad còn ở Medina, những người Hồi giáo đã tạo thành một thế lực chính trị hùng mạnh khiến thành phố Medina lúc bấy giờ là thành phố của tôn giáo mà còn là trung tâm chính trị và quân sự của Đế quốc Hồi giáo.
Nói cách khác Giáo chủ Hồi giáo không những có bổn phận truyền bá đạo giáo mà còn có bổn phận thực thi luật pháp để điều hành đất nước. Chính quan niệm gồm thâu giáo quyền và thế quyền của Hồi giáo nên Giáo sư Bernad Lewis của viện đại học Princeton cho rằng những người Hồi giáo sẽ là động lực chính trị chứ không thuần túy là động lực tôn giáo sẽ ảnh hưởng quan trọng đến tương lai của nhân loại.
THIÊN KINH QUR’AN (KORAN)
Kinh Qur’an thuần túy ghi lại những lời mặc khải của Đấng Allah mà Giáo chủ Muhammad với tư cách là Thiên sứ của Người chuyển tiếp cho nhân loại. Nói cách khác trong kinh Qur’an chỉ ghi lại những lời rao giảng của Giáo chủ Muhammad nhưng thực tế đó chính là những lời của Đấng Allah truyền khải cho Muhammad.
Theo chính người Hồi giáo công nhận những lời mặc khải của Đấng Allah được viết trong kinh Qur’an là nguyên bản bằng ngôn ngữ Ả Rập duy nhất không chuyển dịch sang bất cứ ngôn ngữ nào khác.
Kinh Qur’an là một tác phẩm thi văn, không hẵn là một tập thơ trường thiên nhưng là một tác phẩm cho những người du mục. Chính vì vậy mà kinh Qur’an được truyền bá nhanh chóng trên khắp bán đảo Ả Rập. Kinh Qur’an được đón nhận chung với các Thánh Kinh:
– Kinh Torah (Cựu ước) được Thiên chúa mặc khải cho Thánh Mai sen (Moses) của đạo Do thái vào thế kỷ 11 TCN tóm tắt lại thành “Kinh 10 Điều răn” (The Ten Commandments)
– Sách Phúc âm (Tân ước) được Thiên chúa mặc khải cho Thánh Phao Lồ và 4 vị Thánh sứ: Matthew, Mark, Luke và John.
– Kinh Qur’an được Thiên chúa mặc khải cho Thiên sứ Muhammad qua trung gian Thiên thần Gabriel trong 22 năm (610 – 632).
Sự xuất hiện Kinh Qur’an vào đầu thế kỷ 7 đã đem lại cho các dân tộc Ả Rập một niềm tự hào vì từ nay đã có Thánh kinh viết bằng tiếng Ả Rập. Họ đón nhận đạo Hồi là đạo của dân tộc chứ không phải là đạo ngoại lai. Kinh Qur’an và đạo Hồi là hai yếu tố quan trọng đem lại sự phấn khởi tinh thần và nối kết các bộ lạc Ả Rập lại với nhau biến khối Ả Rập thành một lực lượng chính trị và quân sự hùng mạnh nhất trong nhiều thế kỷ.
MÂU THUẪN GIỮA SUNNI và SHI’ITE.
Sau khi Giáo chủ Muhammad qua đời, không bao lâu Hồi giáo bị phân hóa làm hai nhóm: Sunni và Shi’ite.
Sự mâu thuẫn giữa những người theo Nhóm Sunni và Nhóm Shi’ite ở nước này hay nước khác thường xuyên xảy ra đưa đến những xung đột đẫm máu thậm chí đánh bom tàn sát lẫn nhau hay chặt đầu xử tử làm thiệt mạng hàng chục triệu tín đồ Hồi giáo.
Có nhiều nguyên nhân nhưng sau đây là 3 nguyên nhân chính:
1) Sự phân hóa vì kế vị:
Trước khi qua đời Muhammad không tiên liệu chỉ định người kế vị, nên nội bộ chia làm hai nhóm:
– Nhóm Sunni (tiếng Ả Rập là Đa số – Majority) chủ trương những người kế vị (Caliph – Supreme Ruler) không nhất thiết phải truyền cho dòng dõi họ hàng của Muhammad là con rễ tên Ali Ibn Abi Talib lấy con gái của Muhammad tên Fatima; trái lại đa số tín đồ ủng hộ Abu Bakr là người bạn cũng là cha vợ của Muhammad mà theo họ là người có đủ tư cách để trở thành Caliph.
Nhóm Sunni chia thành bốn trường phái lớn: Hanafy, Maliky, Shafi’y, Hanbaly.
– Nhóm Shi’ite (tiếng Ả Rập là Thiểu số- Minority) chủ trương người kế vị phải là Ali (con rễ của Muhammad) có thẩm quyền cai trị về thế quyền và lãnh đạo tinh thần, tiếng Ả Rập gọi là Imam (the leader of Muslim Community)
Qua 14 thế kỷ, Hồi giáo phát triển nhanh chóng, ngày nay Hồi giáo chiếm 1.6 tỷ người trên thế giới.
Quốc gia Sunni Shi’ite và chi nhánh
Afghanistan 84% 15%
Bahrain 30% 70%
Egypt 90% 1%
Iran 10% 89%
Iraq 32-37% 60-65%
Kuwait 60% 25%
Lebanon 23% 38%
Pakistan 77% 20%
Saudi Arabia 90% 10%
Syria 74% 16% (Alawites)
Turkey 83-93% 7-17%
United Arab Emirate 81% 15%
Yemen 70% 30% (Houthin)
Nhóm Shi’ites chia thành 3 giáo phái hết sức bảo thủ, cực đoan và thường tranh chấp lẫn nhau.
a ) Giáo phái Twelvers: nắm ưu thế chính trị tại Iran, đã chủ động trong cuộc cách mạng Hồi giáo năm 1979 tại Iran, lật đổ Hoàng đế Pahlavi. Giáo chủ của Twelvers là Ayatollah Khomeini lên nắm chính quyền nhưng Ông quá độc tài và tàn bạo bị thế giới tẩy chay.
b ) Giáo phái Druge: xuất hiện tại Liban và Syria từ thế kỷ 11 đến 19.
c ) Giáo phái Assassin: thành lập năm 1090 tại Iran gồm toàn những phần tử ám sát và chuyên thủ tiêu kẻ thù của Hồi giáo.
Giáo phái này gieo kinh hoàng khắp nơi suốt thế kỷ 11 và 12 đến nổi sau này danh từ Assassin có nghĩa là “Kẻ mưu sát”.
Nhắc lại con rễ của Muhammad là Ali thuộc nhóm Shi’ite trở thành Caliph đời thứ tư và ông bị nhóm Sunni giết vào năm 661 sau CN.
Việc tranh giành kế vị tiếp tục nhưng lần này đưa đến sự chia rẽ chính thức. Đa số tín đồ phe Sunni ủng hộ ông Mu’awiyah trong chức Caliph. Những người thuộc phe Shi’ite của nhóm Ali ủng hộ con trai của Ali là Hussein. Khi hai bên đụng độ ở mặt trận Karbala vào ngày 10/10/680 Hussein bị chém đầu và lòng hận thù của phe Shi’ite càng tăng lên. Hussein được vinh danh là Thánh“Tử vì Đạo”. Dưới con mắt của người Shi’ite, Hussein là một nhân vật nhân từ và chính trực, đã đứng lên đấu tranh chống lại kẻ áp bức. Người Shi’ite lấy ngày Hussein bị xử trảm là ngày Lễ Ashura (nghĩa là lễ Thương tâm) và hàng năm đều làm lễ tưởng niệm.
Những người Sunni trung thành với Mu’awiyah coi ông và những người kế tục là những người Caliph cuối cùng đi theo con đường Sunnah của Giáo chủ Muhammad, có trách nhiệm lãnh đạo chính trị của đế chế Hồi giáo và đồng thời là lãnh tụ tôn giáo của đế chế này. Theo truyền thống người Sunni luôn chèn ép và khống chế người Shiite không cho giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội cũng như hành chánh kể cả ở các quốc gia có người Shi’ite đông hơn.
Những người thống trị Sunni đã dùng những luận điểm tôn giáo để biện minh cho sự áp bức, họ cho rằng người Shi’ite không phải là những người Hồi giáo chân chính, mà là những người theo dị giáo.
Sự phân hóa kéo dài suốt 14 thế kỷ và gây ra biết bao cuộc chiến đẫm máu làm thiệt mạng hàng chục triệu người.
– Năm 1400, hoàng đế Timur của Hồi giáo Sunni đánh chiếm hai nước Iraq và Iran giết hại trên 1 triệu tín đồ Hồi giáo Shi’ite.
– Năm 1467, đế quốc Thổ nhĩ Kỳ Ottoman thuộc Sunni đánh chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và Ả rập cũng giết hàng triệu tín đồ Hồi giáo Shi’ite.
Ngoài các vụ tranh chấp lớn, còn rất nhiều các vụ xung đột nhỏ giữa hai phe trong phạm vi biên giới của mỗi quốc gia Hồi giáo. Các vụ tranh chấp này cũng không kém phần thảm khốc và giết hại hàng triệu sinh mạng như trường hợp ở Iraq. (Saddam Hussein thuộc Sunni trong vòng 10 năm từ 1979-1989 đã giết hại hàng trăm ngàn tín đồ Shi’ite tại Iraq).
2 – Sự phân hóa về Giáo lý:
Căn cứ vào lịch sử Hồi giáo, Kinh Qur’an chỉ thuần túy ghi lại những lời mặc khải của Thiên chúa Allah và sau đó được Giáo chủ Muhammad chuyển tiếp đến người dân Hồi giáo.
Trong số 114 chương (Suras) trong Kinh Qur’an, đa số được ghi lại trong thời gian Giáo chủ Muhammad còn sống. Phần còn lại được ghi theo trí nhớ và hồi tưởng của những bậc thức giả, giáo sĩ sau khi Giáo chủ Muhammad tạ thế.
Theo sự nhìn nhận của những người lãnh đạo Hồi giáo, những lời mặc khải của Thiên chúa Allah trong Kinh Qur’an là một thánh thư duy nhất nguyên thủy và chính xác được viết bằng tiếng Ả Rập.
Do đó đọc Kinh Qur’an rất khó hiểu, cần phải có học sĩ chuyên về Kinh Qur’an hướng dẫn.
Những bài giảng của các vị học sĩ này gọi là Hadith (Report). Trải qua hàng thế kỷ, số bài Hadith tích lũy rất nhiều, các học sĩ tập trung thành một tập sách gọi là Sunna (Collection of Reports). Từ đó sách Sunna trờ thành một bộ sách bổ túc cho Kinh Qur’an về mặt giáo điều.
Các chánh quyền của các nước Hồi giáo chiếu theo tinh thần và luật pháp ghi trong Kinh Qur’an và sách Sunna làm ra bộ luật Sharia (Islamic Holly Law).
Tất cả các sách Sunna và luật Sharia đều hoàn thành vào thế kỷ 9 và được viết thành nhiều bản khác nhau tại nhiều nơi khác nhau (tam sao thất bổn). Do đó những sách viết lại có nhiều điều mâu thuẩn nhất là về cuộc đời và lời nói của Giáo chủ Muhammad.
Đây là những nguyên nhân chính gây ra tệ nạn phân hóa trong đạo Hồi. Giáo phái này kết án giáo phái kia là xuyên tạc hoặc giả mạo Kinh Qur’an và gọi nhau là kẻ tà đạo, gây ra những cuộc thánh chiến đẫm máu trong nhiều thế kỷ.
Ngoài ra các nhà nhận định về Hồi giáo cho rằng đế quốc Hồi giáo bành trướng khắp thế giới, tạo cơ hội cho người Hồi giáo tiếp xúc với các nền văn hóa xa lạ. Và với thời gian, giáo lý Hồi giáo dần dần biến chất và nẩy sinh một số giáo phái mới.
Đáng kể nhất là Hồi giáo Sufism và Bahai.
– Giáo phái Sufism: Vào đầu thế kỷ 8, đạo Hồi phát triển đến tận Bắc Phi, Cận đông và Trung Á. Cuộc sống người dân khá giả, kinh tế phát triển tốt và các quốc gia trở nên giàu có. Các vua chúa nhiều tiền của nhờ thu thuế và bắt đầu phung phí xây những cung điện nguy nga tráng lệ, và nuôi chiều cung tần mỹ nữ. Các vua quan Hồi giáo chìm ngập trong ăn chơi trụy lạc. Sự việc này làm cho một số tín đồ Hồi giáo bất mãn, họ tự hỏi: “Những lời dạy trong Kinh Qur’an có còn giá trị không”? Và từ đó họ kêu gọi các tín đồ phải có cuộc sống đạo đức khổ hạnh, ăn mặc đơn giản với quần áo vải thô (tiếng Ả Rập là Sufi), thái độ hòa nhã luôn tin tưởng và cầu nguyện.
Cho đến đầu thế kỷ 9 số người Hồi giáo với lối sống khổ hạnh đạo đức đã thành lập giáo phái Sufism.
Sau này có một số người Hồi giáo cho rằng Sufism giống như một tổ chức Tu thiền, chuyên chữa bịnh và dạy đạo lý cho đời. Giáo phái Sufism có sức lôi cuốn mạnh mẽ trong giới trí thức Hồi giáo, thành lập nhiều trung tâm Sufis có trường học và khách sạn cho khách thập phương đến học đạo.
Từ thế kỷ 15 đến 18, giáo phái Sufism phát triển khắp thế giới và chính các giáo sĩ Sufis đã du nhập phần nào ảnh hưởng đạo Hồi vào Indonesia và Malaysia với lối sống đơn giản và lòng khoan dung hiền hòa.
–Giáo phái Bahai (Bahaism): Giáo phái Bahai tách ra từ Shi’ite được thành lập bởi giáo chủ Balla Ulla tại Iran. Giáo phái này phủ nhận Jesus là Chúa Cứu Thế (Christ) và phủ nhận Muhammad là sứ giả cuối cùng của Thiên Chúa nên bị Ki tô giáo và Hồi giáo thù ghét. Tuy nhiên giáo lý Bahai cũng được truyền bá khắp nơi trên thế giới. Trụ sở chính của giáo phái này đặt tại thành phố Haifa (Do Thái).
Vào năm 1954 một tín đồ Bahai gốc Ấn Độ sang Việt Nam truyền đạo và thành lập trụ sở Bahai đầu tiên ở Sàigòn vào năm 1955. Đến năm 1962, giáo phái Bahai có được 40 trụ sở trên khắp miền Nam VN. Giáo phái Bahai chủ trương hòa đồng tôn giáo và hy vọng thống nhất đức tin nhân loại trong thế giới hòa bình.
3) Thế quyền và Giáo quyền:
Nhìn chung tư tưởng Hồi giáo dựa trên nền tảng những giáo điều căn bản trong sách Sunna và Kinh Qur’an. Đây là sự nhập thể giữa tư tưởng tôn giáo và vai trò chính trị của Hồi giáo, khác hẵn với những tôn giáo khác có khuynh hướng tách rời chính trị. Hồi giáo trái lại ngay từ lúc đầu đã tự đặt cho mình vai trò quan trọng gồm thâu cả Giáo quyền lẫn Thế quyền.
Dưới cái nhìn của Tây phương, thế giới Hồi giáo Ả Rập ở Trung Đông là một xã hội thất bại vì đã đặt tôn giáo trong chính quyền tạo nên sự cuồng tín tôn giáo. Sự cuồng tín của giới lãnh đạo và quần chúng làm cho xã hội Ả Rập càng ngày càng khép kín với thế giới bên ngoài, tạo nên đời sống kinh tế suy sụp và lạc hậu.
Nguyên nhân chính đưa đến sự bế tắc của các quốc gia Hồi giáo ở Trung Đông là không chịu tách rời giữa tôn giáo và chính quyền. Trong các nước Hồi giáo sùng tín, người ta không thể phân biệt được giáo quyền với chính quyền, cũng không thể phân biệt được đâu là giáo luật và đâu là luật pháp quốc gia.
Vào thế kỷ 19 nhiều trí thức Hồi giáo đã nhìn thấy điều đó và họ đã lên tiếng đòi cải cách xã hội Hồi giáo. Một trong những người đó là Triết gia Ai Cập Fouad Zakariya, ông nêu ra Thuyết gọi là Chủ nghĩa Thế Tục Hóa Xã hội (Securalism).
Ông cương quyết đưa ra nhận định: Thế giới Ả Rập không thể nào xây dựng một xã hội văn minh nếu cứ giữ lấy những tư tưởng lạc hậu của thời kỳ bộ lạc vào thế kỷ 7 (thời của giáo chủ Muhammad lập ra Hồi giáo).
Ông cũng nêu rõ dù bất cứ tôn giáo nào sự sùng bái một tôn giáo chỉ có tính cách riêng tư của cá nhân mà thôi, không ai có quyền đem sự sùng bái riêng tư áp đặt lên cả quốc gia để bắt mọi người phải sùng bái như họ.
Những lời kêu gọi của Fouad Zakariya đã được nhiều chính trị gia hưởng ứng tại Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Iran …
– Mustapha Kemal: Tổng thống đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1923-1938. Ông là người thực hiện thành công cuộc cách mạng Thế Tục Hóa Xã hội Hồi giáo trong đế quốc Ottoman. Toàn bộ luật pháp Hồi giáo bị xé bỏ, Âm lịch được thay bằng Dương lịch để hòa đồng với thế giới, chấm dứt chế độ đa thê, bỏ tục lệ phụ nữ đeo mạng che mặt …
– Jasmal Nasser: Thủ tướng Ai Cập từ 1954-1956. Sau đó Ai Cập thành một nước Cộng hòa với tên gọi “Cộng hòa Ả Rập Thống nhất”. Nasser trở thành Tổng thống từ 1958-1970, Ông chủ trương Chủ nghĩa Thế Tục Hóa Xã Hội bằng cách loại trừ mọi ảnh hưởng của Hồi giáo ra khỏi chính trị. Tuy nhiên đầu thế kỷ 20, tại Ai Cập có một phong trào Hồi giáo cực đoan gọi là “Huynh Đệ Hồi giáo “ (Muslim Brotherhood).
Phong trào này do Sayid Quitb (1906-1966) sáng lập chủ trương dùng khủng bố để vô hiệu hóa mọi cải cách xã hội Hổi giáo. Năm 1956 Nasser ra lệnh bố ráp bắt hết đảng viên Muslim Brotherhood, nhiều đảng viên bị xử tử, số còn lại lãnh án tù.
Và năm 1990 Nasser bị dư đảng của Muslim Brotherhood ám sát.
– Hoàng đế Ba Tư Reza Pahlavi: Ông là nhân vật đặc biệt, sinh ra và lớn lên trong gia đình sùng đạo nhưng trở thành một người căm ghét đạo Hồi. Ông sanh năm 1878 lên ngôi vua năm 1921, cai trị Ba Tư được 20 năm.
Ngay khi vừa lên ngôi, vua Pahlavi ra lệnh giải tán Ulama (Hội đồng Giáo sĩ Hồi giáo).
Luật Sharia bị thay thế bằng luật pháp quốc gia. Các ngày lễ tôn giáo bị hủy bỏ, kể cả việc cấm chỉ hành hương Mecca …
Năm 1941 vua Pahlavi truyền ngôi cho con là Muhammad Reza Pahlavi.
Ngay khi tân vương lên ngôi, các học viên Hồi giáo biểu tình chống đối nhà vua. Cảnh sát được lệnh đàn áp xả súng bắn chết hàng trăm học viên Hồi giáo trên đường phố. Nhà vua đã quá mạnh tay gây nhiều bất ổn trong nước và bất mãn trong quần chúng.
Đến năm 1979, giáo sĩ Ayatollah Khomeini lưu vong ở Pháp, trở về lãnh đạo cuộc cách mạng lật đổ vua Pahlavi, trở thành Tổng thống của nước “Cộng hòa Hồi giáo”
Ayatollah Ruhollah Khomeini
Lăng tẩm của Khomeini ở Tehran
Khomeini rất cực đoan và độc tài. Ông ta tự cho mình là “Nhà lãnh đạo tối cao” (Supreme leader) và cũng là vị Imam thứ 12 của giáo phái Twelvers (Mười hai vị).
Nguyên giáo phái Twelver thuộc nhóm Shi’ite là cội rễ của sự phân hóa giữa Sunni và Shi’ite. Họ tin tưởng Ali là người nối nghiệp Muhammad, nhưng nhóm Sunni không chấp nhận và lần lượt giết hại Ali cùng với 10 vị Imam kế vị. Đến vị Imam thứ 12 phải trốn đi lúc 4 tuổi và người Shi’ite tin rằng vị Imam này sẽ xuất hiện vào một thời điểm tốt đẹp để tái lập một nhà nước lý tưởng và công chính.
Và chính Tổng thống Khomeini tự xưng là vị Imam thứ 12 đã xuất hiện đúng lúc. Vừa lên nắm quyền, Tổng thống Khomeini xóa bỏ bức tường phân chia giữa Giáo quyền và Chính quyền để nắm giữ cả hai quyền lực. Theo Ông Pierre Tristan, chuyên viên về Hồi giáo Trung đông: “Thật là hoang tưởng khi nghĩ rằng“Lãnh đạo tối cao”với quyền lực tinh thần nằm trong tay một người độc tài lại được củng cố bởi một uy quyền quốc gia, nhưng không được số đông ủng hộ thì chắc chắn sẽ bị chống đối từ hạ tầng bên dưới; trừ khi thế quyền đó bị sức ép từ chính quyền bên trên.”
Dưới chế độ “Cộng hòa Hồi giáo” người dân bị kềm kẹp bởi các giáo luật Hồi giáo vừa lỗi thời vừa dã man: chẳng hạn bị cáo về trộm cắp bị chặt chân, chặt tay; mọi sinh hoạt văn nghệ, ca nhạc, chiếu phim đều bị cấm chỉ; phụ nữ bắt buộc phải mặc áo choàng đen phủ kín từ đầu đến mắt cá chân …
Chẳng bao lâu, Khomeini mất hết sự ủng hộ của quần chúng lúc ban đầu, người dân Iran chợt nhận ra sống dưới chế độ quân chủ của dòng Pahlavi còn được thoải mái hơn nhiều.
Nhưng điều nguy hiểm nhất là Khomeini đã gây hận thù truyền kiếp với nhóm Hồi giáo Sunni ở Ả Rập Saudi, đưa cả nước vào cuộc chiến tranh chém giết vô nghĩa.
Ayatollah Khomeini chết năm 1989.
Thật ra sự xung đột giữa hai giáo phái Ả Rập/Sunni và Iran/Shi’ite không hoàn toàn về tôn giáo mà còn về quyền lực và kinh tế. Sự căng thẳng hiện nay bắt nguồn từ cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran năm 1979 và cuộc chiến tranh tại Iraq năm 2003. Cách mạng Hồi giáo Iran đã làm thay đổi bản đồ chính trị Trung đông.
Iran muốn tạo một làn sóng cách mạng Hồi giáo của người Shi’ite sang các quốc gia láng giềng Trung đông và phát động một cuộc chiến tranh toàn cầu chống các nước Tây phương. Điều này làm lãnh tụ các quốc gia Tây phương và nhất là Ả Rập Saudi lo ngại, tìm cách ngăn chặn không cho Iran bành trướng thế lực chính trị cũng như tôn giáo.
Cho nên mâu thuẫn giữa hai Nhóm Sunni và Shi’ite không dễ giải quyết bởi nhiều nguyên nhân liên quan đến tôn giáo, chính trị, kinh tế và sự can thiệp bên ngoài.
Hoàng Đình Khuê
Ngày 10/01/2016