Tập San Tân Ðại Việt Số 4/2020 – Tưởng niệm ngày Quốc Hận 30.04.1975
Mục lục
Hoàng Đình Khuê: Cảm nghĩ ngày 30 tháng 4 trong “đại dịch Vũ Hán”
Đằng Phương: Thơ Anh Hùng Vô Danh
Trần Nguyên: Giải mã: Lý Do Then Chốt Dẫn Đến 30.04.1975?
Lê Đình Thông: 45 năm quốc hận (1975-2020)
Vương Hồng Anh: Tưởng Niệm 30 Tháng 4-1975: Ngày Tổng Thống Trần Văn Hương từ chức
Lê Đình Thông: Thơ 30/04/1945: Hồn ma Hitler hóa kiếp họ Hồ
Vương Hồng Anh: Vòng Đai Sài Gòn, Trận Chiến Những Ngày Cuối
Hàn Sĩ Phan: Thơ Hồi tưởng 30 Tháng 04/75
Vô danh: Người chiến sĩ VNCH những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Huy Phương: Trận đánh Bộ Tổng Tham Mưu hay là Chiến Công
Trần Văn Lương: Thơ Nếu Muốn Gửi Về
Phan Nhật Nam: Tướng Lê Minh Đảo và những người lính
Hồng Thuận: 30 tháng Tư, nói về những người lính bị bỏ rơi
Hiếu Nguyễn: 30/4/75 – Ngày tàn cuộc chiến
Mạnh Kim: 45 năm chính sách “triệt người”
Trần Gia Phụng: Sau ngày 30/4
Nguyễn Ngọc Trân: Thơ Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Nguyễn Nhơn: 45 năm sau
Từ Lãm: Thơ Chờ anh
Mai Thanh Truyết: Con Đường Tương Lai của Việt Nam
Đằng-Giao: Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo Và Di Nguyện
Phan Huy MPH: Thơ Tiếng gọi tháng tư
Tâm An: Hào kiệt phương Nam: trung úy nhảy dù Nguyễn Thanh Chương
Phan Huy MPH: Thơ Nỗi Niềm
Đặng Chí Hùng: Hỏi người có tiếc
Ngô Thế Vinh: ĐBSCL 2020: Cánh đồng chết và 45 năm ảo vọng trí thức
Trần Đỗ Cung: Chuyện tù “cải tạo” của Phó Tổng Thanh Tra
Đằng Phương: Thơ Ngọn đuốc Việt Nam
Võ Hữu Hạnh: Bốn Đại tá trốn trại tù “cải tạo”
Trần Nhật Kim: Nghĩ Đến Ngày Mai
Cảm nghĩ ngày 30 tháng 4 trong “đại dịch Vũ Hán” – Hoàng Đình Khuê
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày đau thương nhất trong lịch sử Miền Nam Việt Nam và cũng từ đó hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, hàng trăm ngàn người Dân, Quân, Cán, Chính của Miền Nam phải thiệt mạng trong các trại tù và trên đường vượt biển để đến bến bờ Tự Do.
Năm nay là năm thứ 45 của ngày mất nước (1975-2020), cũng là năm Đại Dịch Virus Vũ Hán đang hoành hành cả thế giới, trong đó có Hoa Kỳ, có cộng đồng người Việt trên khắp năm Châu…
Theo lệnh của chánh quyền Liên Bang Hoa Kỳ, cả nước đều bị cách ly (social distancing) để tránh lây lan truyền bịnh.
Từ đó tất cả cộng đồng người Việt đều tuân theo lệnh của chánh phủ Liên Bang Hoa Kỳ, không tổ chức sinh hoạt ngoài cộng đồng mà chỉ tổ chức “ on line ”.
Đây là một sáng kiến rất đúng đắn của cộng đồng người Việt tại địa phương.
Như trên đã nói đây là một đại tang của Miền Nam cho nên chúng ta phải tổ chức hàng năm ngày Quốc Hận của Miền Nam.
– Để tưởng niệm hàng triệu anh linh của Dân Quân, Cán, Chính đã bỏ mình để bảo vệ sinh mạng và tài sản của nhân dân Miền Nam
– Để gợi lại những đau thương và uất hận, mà còn làm sống lại những hình ảnh bất tử của các anh hùng tử sĩ đã vị quốc vong thân, thà chết chứ không đầu hàng kẻ địch với lời thề Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm.
– Vả cũng để tưởng nhớ những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ mình trong bóng tối mông mênh, trên chiến trường đẫm máu hay trong lao tù cộng sản để bảo vệ an bình cho tổ quốc.
Riêng đối với tôi không cần đợi thời gian nào trong mốc của tháng Tư, bất kỳ thời điểm nào cũng là ngày 30 tháng 4 tùy theo sự kiện và hình ảnh gợi lại. Ví dụ :
-Hình ảnh của năm vị tướng đã tuẫn tiết, của đại tá Hồ Ngọc Cẩn, trung tá Nguyễn Văn Long cảnh sát quốc gia, và các vị quân nhân khác.
– Hình ảnh chết chóc và la khóc cùng với bom đạn pháo kích vào đồng bào di tản trên Quốc Lộ số I
– Hình ảnh các nhân vật phản chiến đã bán đứn Miền Nam như Kissinger, Ted Turner, Jane Fonda, John Kerry, Joe Biden…
– Hình ảnh người dân phải chịu ách thống trị, tù tội bởi bọn lãnh đạo và công an tàn ác, tham nhũng, hèn với giặc, ác với dân.
– Hình ảnh các thế hệ con cháu phải chịu thiệt thòi với một nền giáo dục lạc hậu, sai lầm sẽ đưa các cháu thiếu niên hư hỏng về nhân cách, suy đồi về đạo đức; từ đó đưa đến những tệ đoan xã hội khác.
Càng đau lòng tôi càng hận mình cũng có phần không giữ được Miền Nam, để lại những hậu quả lâu dài cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Gần đây được biết có một số người có ý định hay mục đích gì muốn đổi ngày 30 tháng 4 thành một tên khác.
Nếu Có xin hãy quên đi vì việc làm đó là phản bội lại đồng bào, phản bội lại chính nghĩa quốc gia, đi ngược lại công cuộc đấu tranh của đồng bào hải ngoại.
Xin hãy nhìn lại bài học lịch sử “ 30 tháng tư ” của dân tộc Việt Nam.
Trong bang giao không có quốc gia nào tốt bụng hay yêu thương mình, chỉ có quyền lợi của quốc gia là trên hết.
-Phù hợp với quyền lợi BẠN, xung khắc với quyền lợi THÙ.
-Không có nước nào là BẠN vỉnh viễn, cũng không có nước nào là THÙ muôn đời.
Hoàng Đình Khuê, Ngày 30 tháng 4 năm 2020
Thơ Đằng Phương – Anh Hùng Vô Danh
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.
Họ là kẻ tự nghìn muôn thuở trước
Ðã phá rừng, xẻ núi, lấp đồng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một giải sơn hà gấm vóc
Họ là kẻ không nài đường hiểm hóc,
Không ngại xa, hăng hái vượt trùng sơn
Ðể âm thầm chuẩn bị giữa cô đơn
Cuộc Nam Tiến mở giang sơn lớn rộng
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giầy của những kẻ xăm lăng,
Ðã xông vào khói lửa, quyết liều thân
Ðể bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc,
Trong chiến đấu, không nài muôn khó nhọc,
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.
Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm,
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa,
Họ buông gươm quay lại chốn quê nhà
Ðể sống lại cuộc đời trong bóng tối
Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình
Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch.
Tuy công nghiệp không ghi trong sổ sách,
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên,
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật,
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất,
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông.
Và anh hồn chung với tấm tinh trung
Ðã hoà hợp làm linh hồn giống Việt.
Giải mã: Lý Do Then Chốt Dẫn Đến 30.04.1975? – Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi
I/ Một biến cố lịch sử xảy ra quá bất ngờ?
Đúng vậy, sau gần nửa thế kỷ năm nhìn lại vẫn thấy biến cố 30.04.1975 xảy ra quá bất ngờ đối với toàn thể dân VN chúng ta. Bằng chứng hiển nhiên là rất nhiều cấp lãnh đạo VNCH trong chánh quyền và trong quân đội không ngờ được nên đành phải bị bắt đi tù cải tạo cả hàng chục năm để rồi chết dần mòn trong rừng thiêng nước độc. Nói chi đến người dân bình thường thiếu thông tin của cả 2 miền Nam Bắc tất cả không ai cảm thấy hoặc đoán trước được chuyện sẽ xảy ra. Sự thực này chúng ta có thể đọc thấy rõ trên các tài liệu của 2 miền.
Kinh nghiệm cho thấy nếu có thế lực nào “âm mưu” gây ra biến cố bất ngờ đó thì họ đã biết một thời gian dài trước khi xảy ra.
Thời gian trôi qua gần nửa thế kỷ nên đã có nhiều chi tiết quan trọng tiết lộ ra và nhứt là gần đây có những chuyện xảy ra “tương tự” trong thời TT Trump khiến chúng ta có thể so sánh tạm đưa ra những nhận xét có bằng chứng và lý luận hợp lý về biến cố lịch sử 30.04.1975.
Trong tinh thần tôn trọng sự thực, tất cả chi tiết đưa ra dựa vào chủ trương “nói có sách mách có chứng” để mọi người đều có thể dễ dàng kiểm soát hư thực. Quan trọng nhứt là xem “ngòi nổ” nào trực tiếp đã gây ra biến cố lịch sử 30.04.1975.
II/ Điểm đặc biệt của các biến cố lịch sử có tính cách “bất ngờ” ?
Đó chính là có cùng mẫu số chung: các biến cố được thực hiện qua âm mưu cực kỳ bí mật.
Đặc tính này trước nay trên 2000 năm vào cuối đời Đông Châu Liệt Quốc đã được một tư tưởng gia xuất sắc Hàn Phi Tử trình bày với vua Tần. Ông đã giải thích hợp lý được về chuyện các vì vua trong lịch sử Trung Hoa bị chết bí ẩn quá trẻ hoặc bị soán đoạt mất ngôi. Ông cho rằng các vì vua đó bị những người tin cậy nhứt như Hoàng Hậu, Thái Tử hoặc quan cầm quyền lập âm mưu hãm hại để đoạt ngôi vua. Cho nên ông này đã khuyên vua Tần đề phòng những người thân tín chung quanh (xem Nguồn 1 phía dưới bài). Chính vì vậy triều đại Nguyễn Gia Long ở VN đã học được điều này và thực hiện ngay Lệ “bất tứ” bao gồm: Bất thiết tể tướng; bất thủ Trạng nguyên; bất lập Hoàng hậu; bất phong Đông cung (không lập Tể Tướng, Trạng nguyên, Hoàng hậu và Đông cung Thái tử).
Tương tự rất nhiều biến cố lịch sử quan trọng cho thấy đã được những âm mưu cực kỳ bí mật hoạch định. Chẳng hạn cuộc ám sát Thái tử Franz Ferdinand của Áo Quốc đã gây ra Thế Chiến Thứ Nhứt hoặc 2 cái chết bí ẩn của anh em TT Kennedy mà thế lực đằng sau cho đến nay vẫn chưa điều tra ra.
III/ Những quan điểm về biến cố lịch sử 30.04.1975
Ngay sau khi biến cố xảy ra đã có nhiều quan điểm khác nhau về nguyên nhân tạo ra sự sụp đổ “bất ngờ” của miền Nam VN. Nhưng với thời gian trôi qua nhìn kỹ lại thì phần lớn tập trung lại có cùng một quan điểm chung là viện trợ Mỹ – nhứt là về quân sự – dành cho miền Nam VN bị cắt giảm mạnh khiến cho quân đội VNCH không còn đủ xăng nhớt và đạn dược để chiến đấu. Nhứt là quyết định của Quốc Hội Mỹ ngăn chặn món tiền 700 triệu USD về viện trợ vũ khí với lý do là: “cho Việt Nam Cộng Hòa bao nhiêu cũng không đủ, vậy giữ lại để tiết kiệm” (xem Nguồn 2). Chính tin tức về quyết định hoàn toàn bất lợi này đã khiến cho tinh thần của miền Nam VN xuống thấp và dẫn đến sự sụp đỗ bất ngờ.
Quan điểm chung này được thấy trong các tài liệu được viết ra từ cấp lãnh đạo của 2 miền Nam & Bắc VN và Mỹ. Tiêu biểu điển hình:
a) TT Nguyễn Văn Thiệu trong bài phỏng vấn duy nhứt sau 30.04.1975 do tuần báo thiên tả Der Spiegel (Phản ảnh) tại Tây Đức thực hiện vào tháng 12 năm 1979 (xem Phụ đính 3 phía dưới bài)
b) Tướng Văn Tiến Dũng trong tác phẩm Đại Thắng Mùa Xuân cho biết Hà Nội thấy tình trạng thiếu quân viện cho Sài Gòn nên đã họp ra quyết định tiến đánh ngay, thay vì dự định sẽ đánh vào năm 1976 trong dịp bầu cử TT Mỹ như họ đã làm hồi năm 1968 (Tết Mậu Thân 68) và năm 1972 (Mùa Hè Lửa Đỏ 72)
c) Tướng Westmoreland cũng đề cập quan điểm này trong hồi ký “War in Vain?” và lên tiếng xin lỗi quân dân miền Nam VN trong ngày Quân Lực 1987 (xem Nguồn 3)
IV/ Âm mưu bí mật tạo ra biến cố lịch sử 30.04.1975?
Nhưng – như phần trên đã trình bày – biến cố 30.04.1975 xảy ra rất bất ngờ và kinh nghiệm lịch sử từ ngàn năm qua đã chứng minh ắt phải được thực hiện qua âm mưu cực kỳ bí mật.
Nhờ phương tiện truyền thông rộng rãi – nhứt là internet – đã dần dần cho thấy ai là tác giả của âm mưu bí mật này.
Thực vậy qua trang web của tờ Huffingtonpost vào ngày 21/12/2008 đăng tải cho thấy chính Kissinger đã bày kế “độc” này cho Nixon hồi năm 1972 như sau:
“Chúng ta phải tìm ra một phương thức nào đó để giải quyết mọi chuyện trong một hai năm, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ” (nguyên văn: “We’ve got to find some formula that holds the thing together a year or two,” Kissinger told Nixon. “After a year, Mr. President, Vietnam will be a backwater.” (xem Nguồn 4))
Quả nhiên sau đó chừng một năm, Kissinger đã hoàn thành Hiệp định Paris 1973 và dùng mọi thủ đoạn kể cả hăm dọa ám sát bắt ép cấp lãnh đạo miền Nam VN phải ký kết.
Kissinger còn biết rõ là miền Nam VN chỉ được viện trợ nhỏ giọt thì sẽ sụp đỗ liền. Trên trang web của tờ New York Times vào ngày 21.08.2001 đã đăng tải như sau:
“Kissinger được John Ehrlichman (trợ lý của TT Nixon) hỏi rằng: “Ông có thể xác định được miền Nam VN có thể sống sót theo Hiệp định này trong bao lâu?”. Kissinger đã trả lời, “Tôi nghĩ rằng nếu họ may mắn, họ có thể nắm giữ trong một năm rưỡi.” Khi trợ lý của Kissinger là John Negroponte cho rằng Hiệp định không phải là lợi ích tốt nhất cho miền Nam Việt Nam, Kissinger hỏi ngược lại: “Anh có muốn chúng ta ở lại đó mãi mãi không?” (nguyên văn: Kissinger was asked by the assistant to the president, John Ehrlichman, “How long do you figure the South Vietnamese can survive under this agreement?” Ehrlichman reported that Kissinger answered, “I think that if they’re lucky they can hold out for a year and a half.” When Kissinger’s assistant John Negroponte opined that the agreement was not in the best interests of South Vietnam, Kissinger asked him, “Do you want us to stay there forever?” (xem Nguồn 5)
Chứng cớ rõ ràng trên giấy trắng mực đen ai cũng đọc được – chớ không phải là thuyết âm mưu như thường được biện minh – cho thấy mưu kế này do Kissinger bày ra thuyết phục Nixon vào năm 1972 để thực hiện Hiệp định Paris 1973 nhằm “bức tử” miền Nam VN vào 30.04.1975 tiến hành đúng như thời gian đã dự trù nói trước. Tất cả những diễn tiến chung quanh từ vụ cúp viện trợ cho đến di tản cô nhi & vợ con các nhân vật cao cấp của miền Nam VN chỉ là kịch bản che mắt dư luận và nạn nhân miền Nam VN mà thôi.
V/ Kissinger một mình thực hiện âm mưu “bức tử” miền Nam VN?
Có 2 ý kiến về nghi vấn này:
1) Ý kiến đầu tiên cho rằng Kissinger “đơn thân độc mã” làm chuyện này và với tư cách làm quân sư cho TT Nixon nên có đầy đủ quyền lực & phương tiện để hoàn thành âm mưu này.
2) Ý kiến thứ nhì cho rằng Kissinger người gốc Do Thái cho nên theo kinh nghiệm lịch sử 2000 năm qua họ có đặc tính luôn luôn làm việc chung chặt chẻ và đoàn kết với nhau. Đặc biệt là có Linh mục Cao Văn Luận, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Bác sĩ Đặng Vũ Ái… đã nêu ra nghi vấn có thế lực tài phiệt Wall Street (gốc Do Thái) đứng sau điều khiển Kissinger và dùng hệ thống truyền thông “dòng chính” quốc tế yểm trợ cho âm mưu “bức tử” miền Nam VN để Mỹ rảnh tay rút về yểm trợ & bảo vệ Do Thái tại Trung Đông. Sự kiện đáng chú ý là Quốc hội Mỹ (khuynh hướng thân Do Thái) đã cương quyết ngăn chặn 700 triệu USD viện trợ vũ khí cho miền Nam VN, nhưng sau biến cố 30.04.1975 lại tặng toàn bộ số tiền đó viện trợ cho Do Thái (xem Nguồn 2 và Phụ đính 1).
Riêng về phía Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Vào năm 1982, Giáo sư Huy cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Nhờ đi tham dự Hòa đàm Paris (1968), Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhận xét rằng Kissinger có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Vào năm 2004, Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa (thành viên trong Phái đoàn Quân Sự Bốn Bên VN) minh chứng sự kiện này trong Hồi ký “Cuối đời binh nghiệp” khi nhắc lại lời của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nguyên văn như sau:
” …ngay lúc đó (cuối năm 1969) Hoa Kỳ (hay đúng hơn là Kissinger) đã có quyết định bỏ rơi số phận của đồng minh Việt Nam Cộng Hòa rồi, và coi như chúng ta đã mất nước kể từ khi chúng tôi bị đưa vào ngồi ở “bàn hội nghị ” ở Paris (1968)” (xem Nguồn 6)
Ông bà mình thường nói đến sức mạnh ghê gớm của đồng tiền “Có tiền mua tiên cũng được”. Cho nên hiện tượng tài phiệt “nuôi dưỡng” tầng lớp trí thức phục vụ cho quyền lợi cho mình, thực ra đã có trên 2000 năm trước. Trong giai đoạn cuối thời Đông Châu Liệt Quốc ở Trung Hoa đã xuất hiện tầng lớp tài phiệt làm chuyện đó. Nổi tiếng nhứt với nhân vật Mạnh Thường Quân “nuôi dưỡng” tiếp đãi đến vài nghìn tân khách để đạt đến chức vụ Tể Tướng (xem Nguồn 7). Còn nhân vật Lã Bất Vi bỏ tiền đầu tư “nuôi dưỡng” vua Tần lúc còn long đong hàn vi để sau này trở thành nhân vật nắm quyền sanh sát của nước Tần (xem Nguồn 8)
VI/ Tại sao thế lực tài phiệt Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?
Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.
Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm “lá bùa hộ mạng”. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại nhiều lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa. Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực tài phiệt Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của họ.
Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực tài phiệt Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.
VII/ Kế hoạch thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam VN
Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.
Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ… bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan!) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ – đa số gốc Do Thái quản trị – khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác.
Một nước cờ vô cùng hữu hiệu là họ dùng Tướng độc nhởn Moshe Dayan – Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái – đột ngột qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi VN vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy!).
Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson.
Bắt đầu từ đó phong trào phản chiến càng ngày càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc cơ hội thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng đắc cử Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh quốc gia.
Thế lực tài phiệt Wall Street còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (đưa người bạn thân Bob Haldeman vào làm chức vụ vô cùng quan trọng Chánh văn phòng Phủ Tổng Thống) … Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.
Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.
VIII/ Thế lực gốc Do Thái thực sự như thế nào trong nước Mỹ ?
Chúng ta chắc chắn không nắm vững vấn đề này bằng những người hoạt động trong chính trường Mỹ leo được lên tới chức vụ Tổng Thống . Điển hình là quan điểm của TT Nixon và TT Trump:
1) Tổng Thống Nixon trong cuốn ghi âm “lén” tại Tòa Bạch Ốc công bố vào năm 1999 – được đăng tải trên trang của tờ Washingtonpost vào ngày 6.10.1999 – đã nhận xét là thế lực gốc Do Thái có mặt khắp nơi trong chính quyền Hoa Kỳ, thủ đô Washington đầy nhân sự gốc Do Thái và cầm đầu các phong trào phản chiến VN (nguyên văn: Nixon complained “The Jews are all over the government, Washington is full of Jews (xem Nguồn 9)
2) Còn phía TT Trump đã làm một chuyện hi hữu chưa bao giờ ứng cử viên TT Mỹ nào dám làm. Đó là tố cáo thế lực tài phiệt gốc Do Thái đã hối lộ và tài trợ “ma giáo” cho ứng cử viên đối nghịch. Ông đã phổ biến hình ảnh tố cáo Bà Clinton tham nhũng nhận tiền của thế lực tài phiệt gốc Do Thái qua hình chụp trước đống tiền với ngôi sao David 6 góc của Do Thái:
Cho nên cho đến nay TT Trump là vị Tổng Thống đặc biệt nhứt của nước Mỹ luôn luôn bị giới truyền thông dòng chính tấn công dữ dội trên mọi chuyện, dù có làm đúng có lợi cho đất nước Mỹ đi nữa. Điều này liên tưởng đến trường hợp tương tự đã xảy ra cho miền Nam VN bị đánh phá khủng khiếp trên mặt trận truyền thông Mỹ vào giai đoạn từ năm 1966 – 1975.
Bởi vậy dư luận cho rằng giới truyền thông dòng chính này phần lớn do nhân sự gốc Do Thái điều khiển (xem Nguồn 10). Dĩ nhiên còn nhiều tài liệu khác cho thấy thế lực tài phiệt gốc Do Thái có ảnh hưởng quan trọng đến chính trường Mỹ & Thế giới (xem Phụ đính 2)
IX/ “Ngòi nổ” đã khiến cho biến cố lịch sử 30.04.1975 phải xảy ra.
Đó chính là một sự kiện rất quan trọng đã khiến VNCH bị mất vào ngày 30.04.1975. Số là trong cuộc bầu cử quốc hội giữa kỳ vào ngày 5/11/1974, sau vụ xì cang đan Watergate (1972 – 1974) Đảng Dân Chủ Mỹ phản chiến đã thừa thắng chiếm đa số tuyệt đối trên 2/3 trong Quốc Hội Mỹ nên họ đã thẳng tay ngăn chận không cho viện trợ quân sự cho VNCH. Chính vì vậy quân đội VNCH không còn đầy đủ võ khí và mất tinh thần vì quyết định bỏ rơi nên mới xảy ra thảm trạng 30.04.1975.
Xem:https://en.wikipedia.org/wiki/1974_United_States_elections
Sự kiện lịch sử rất quan trọng này đã được Bác sĩ Đặng Văn Sung (cũng là Thượng nghị sĩ) sau chuyến công du Hoa Kỳ hồi đầu năm 1975 đã lên tiếng báo động đỏ khẩn cấp trên báo Chính Luận là “gió đã đổi chiều” rất nguy hiểm cho VNCH.
X/ Kết luận
Nhìn lại thấy có 2 điểm đáng chú ý vì có liên hệ chặt chẻ với nhau:
1) Như đã nêu trên chỉ có Kissinger mới biết rõ khi ký kết xong Hiệp định Paris 1973 thì miền Nam VN chỉ sống sót khoảng một năm rưỡi. Thế mà chỉ một năm sau đó Trung Cộng đã ra tay đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của VN và Mỹ đã yên lặng không hề can thiệp hoặc lên tiếng phản đối. Phải chăng Trung Cộng đã được Kissinger thông báo “ngầm” biết được thời hạn này để sau này khỏi phải gặp khó khăn khi Hà Nội chiếm được miền Nam VN?
2) Trung Cộng luôn lên tiếng xác nhận coi Kissinger như một người bạn thân. Bù lại lúc nào Kissinger cũng lên tiếng ủng hộ Trung Cộng. Điển hình nhứt là tại Đại Học Columbia University vào cuối tháng 9/2017, Kissinger phát biểu thúc giục hợp tác lớn với Trung Quốc và tiếp tục chính sách “One-China” để chiều lòng Trung Cộng (xem Nguồn 11).
Rõ ràng hơn hết là lúc Trung Cộng bối rối không hiểu rõ Tân Tổng Thống Trump như thế nào nên đã “triệu tập” Kissinger qua Bắc Kinh. Mặc dù già cả đã 93 tuổi và không giử chức vụ gì cũng như từng chống đối mạnh mẽ TT Trump trong lúc ra tranh cử, Kissinger vẫn bay qua đó vào ngày 2/12/2016 để gặp Tập Cận Bình “báo cáo” (xem Nguồn 12).
Qua đó có nghi vấn cho rằng giữa Kissinger và Trung Cộng có mối liên hệ rất khác thường: Có thể Kissinger làm việc lobby “ngầm” vận động cho Trung Cộng hoặc là đại diện cho quyền lợi của giới tài phiệt gốc Do Thái làm ăn tại Trung Cộng? (xem Nguồn 13).
Biết đâu trong tương lai sẽ có thêm những tiết lộ mật rõ ràng hơn về vai trò của Kissinger và thế lực tài phiệt gốc Do Thái. Nhờ đó bí ẩn 30.04.1975 càng được soi sáng thêm.
Trước nay đúng 10 năm, cũng trong quan niệm “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, anh chị em chúng tôi gồm 11 người tại Âu Châu & Bắc Mỹ gắng sức thực hiện một cuốn phim dài 100 phút nói về “Đại Họa Mất Nước” sau biến cố lịch sử 30.04.1975 khi thấy đất nước chúng ta càng ngày cùng bị láng giềng Trung Cộng thao túng cho người ào ạt vào khắp nơi tại VN với chiến lược “tầm ăn dâu”.
Xem: https://www.youtube.com/watch?v=fpYuc2gs2bk
Tháng 4, 2020
45 năm quốc hận (1975-2020) – Lê Đình Thông
Tính đến nay đã là 45 năm VNCH bị cộng sản ‘‘thôn tính’’, theo đúng ngôn từ ghi trong Hiệp định Chấm đứt Chiến tranh, lập lại Hòa bình ở Việt Nam ký tại Paris ngày 27/01/1973, trong bài viết tắt là Hiệp định Paris. Các quy định của hiệp định này vẫn còn giá trị cho đến ngày hoàn thành tổng tuyển cử tự do. Vì vậy, trong phần I, ta đặt vấn đề trách nhiệm dân sự (responsabilité civile) của chính quyền Hà Nội cũng như thủ tục tài phán, đòi bồi thường theo tố tụng quốc tế. Trong phần II, ta sẽ đề cập đến thời điểm hiện nay đánh dấu sự suy yếu của đảng cộng sản Tàu, vấn đề Biển Đông, hiện tình đảng cộng sản Việt Nam. Phần III bàn về viễn tượng tương lai của đất nước, qua bốn lãnh vực trọng yếu : ngoại giao, quốc phòng, tư pháp và kinh tế.
v
I – Nhìn lại thời điểm 1975 :
Ngày 30/04/1975, Việt Cộng dùng xe tăng T54 do Morozow của Đảng Cộng sản Liên xô chế tạo, phá hủy cổng chính Dinh Độc Lập, ‘‘thôn tính’’ VNCH. Hai hình ảnh trên, xích sắt xe tăng xâm nhập Dinh Độc Lập và xích sắt xe tăng chế tạo tạo tại Liên Xô chỉ là một.
Theo điều 15 Hiệp định Paris, ‘‘việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, không biên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài.’’Hiệp ước này có hiệp lực từ ngày ký đến ngày hoàn thành tổng tuyển cử.
Miền Bắc đã thôn tính miền Nam bằng quân sự với xe tăng do Liên Xô chế tạo, mặt khác các quy định của Hiệp định Paris vẫn còn hiệu lực cho đến ngày hoàn thành tổng tuyển cử tự do, cho phép ta sẽ xét xem việc nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội đã vi phạm thô bạo hiệp định Paris như thế nào ? Trong trường hợp này, trách nhiệm pháp lý phải được giải quyết ra sao ?
1.1.Việc Việt Cộng trả thù qua việc ‘‘cải tạo’’ : Chế độ cộng sản reo rắc sự ‘‘thù hằn’’, thực hiện quy mô việc ‘‘trả thù’’ tàn bạo ‘‘các cá nhân phục vụ chính thể VNCH’’. Các thuật từ trong ngoặc kép trích nguyên văn trong Hiệp định Paris.
1.1.2.Quy định của Hiệp định Paris về việc cấm trả thù : Điều 11 khoản 1 của Hiệp định Paris viết nguyên văn như sau : ‘‘Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hình thức trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia.’’
1.1.3.Việt Cộng trả thù những công dân VNCH : Đảng cộng sản Việt Nam trút sự thù hận lên những người tù cải tạo, bị giam giữ trong các trại tù phỏng theo mô hình Gulag dưới thời Stalin và trại lao cải của Mao Trạch Đông. ‘‘Lao cải’’ là viết tắt của lao động cải tạo (勞動改造), quy định theo nghị quyết 49/TVQH. Việc cộng sản giam giữ trái phép vi phạm điều 11 khoản 1 Hiệp định Paris, điều 11 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, các điều 5 và 9 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Theo thông cáo của chính quyền cộng sản, từ 13 đến 16/06/1975, hơn 1 triệu sĩ quan, công chức, đảng viên đi cải tạo trong 15 ngày. Họ phải mang theo 21 kí lô gạo. Chỉ riêng tại Saigon, có 443.360 người ra trình diện, trong số đó có 37 tướng lãnh, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp úy, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người đảng phái. Tuy nói là 15 ngày nhưng có người phải ở tù suốt 17 năm, một số còn chôn thây nơi rừng thiêng nước độc. Sau đây là sáu vị tướng ở tù lâu nhất (17 năm):
– Thiếu tướng Trần Bá Di
– Thiếu tướng Lê Minh Đảo
– Thiếu tướng Đỗ Kế Giai
– Chuẩn tường Phạm Duy Tất
– Chuẩn tướng Mạch Văn Trường
– Chuẩn tướng Trần Quang Khôi
Vài năm sau khi được trả tự do, nhiều vị đã qua đời.
Có ba vị tướng chết trong tù:
– Thiếu tướng Lâm Thành Nguyên, từ trần năm 1977 tại khám Chí Hòa
– Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng, từ trần năm 1984 tại trại Nam Hà
– Chuẩn tướng Bùi Văn Nhu, từ trần năm 1984 tại trại Nam Hà
Có năm tướng lãnh tuẫn tiết:
– Trung tướng Nguyễn Văn Hiếu
– Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam
– Thiếu tướng Phạm Văn Phú
– Chuẩn tướng Trần Văn Hai
– Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ
Trại K1 Gia Trung
Dưới đây là danh sách 12 trên tổng số 80 trại ‘‘cải tạo’’, từ Bắc xuôi Nam:
1) Trại K3 (Z 30A) tại Xuân Lộc
2) Trại Z30D tại Hàm Tân
3) Trại Chí Hòa
4) Trại Bè, B5 tại Suối Máu
5) Trại B34: Tổng Nha Cảnh Sát cũ
6) Trại Nam Hà (Phủ Lý, Ba Sao)
7) Trại Thanh Cẩm (Đầm Đùn, Lý Bá Sơ)
8) Trại Lam Sơn T5 (Đầm Đùn), cách Thanh Hóa 70 km và biên giới Lào Việt 60 km.
9) Trại Bình Điền (Huế – Quảng Nam)
10) Trại A30 Tuy Hòa
11) Trại A20, Xuân Phước, Phú Yên tức Thung lũng Tử thần A20. Cộng sản đặt tên là Sibérie dưới thời Staline. Tháng 04/1985, linh mục Nguyễn Văn Vàng đã chết trong xà lim số 6.
12) Trại giam số 4 Phạm Đăng Lưu, nơi nhiều văn nghệ sĩ bị giam giữ, trong số có nhà báo Nguyễn Hoạt tức Hiếu Chân.
Ngoài danh sách chính thức, trong thực tế, mỗi quận/huyện đều có một trại tạm giam và trại cải tạo riêng, như trại tạm giam huyện Hàm Thuận và trại cải tạo Xóm Mía ở phía nam dãy núi Trường Sơn của công an huyện Hàm Thuận, tỉnh Thuận Hải.
Một số nhân sĩ bị cộng sản đầy đọa đến chết:
– 1976: luật sư Trần Văn Tuyên, thi bá Vũ Hoàng Chương
– 1978: đại tá sử gia Phạm Văn Sơn
– 1979: nhà văn Nguyễn Mạnh Côn
– 1980: nhà văn Hồ Hữu Tường.
Khi bi giam ở Yên Bái, vào năm 1979, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền làm mấy câu thơ như sau:
Đầm mình trong hạnh của ẩn mặt
Mắt hoen nhòa hứng giọt thiên thâu
Dò dẫm lối về đêm tối mịt
Sông xa núi thẳm quê nhà đâu?
Nhà thơ Tô Thùy Yên bị cộng sản giam giữ ba lần, tổng cộng 13 năm. Trong thời gian lao lý, ông sáng tác ‘‘Ta Về’’, coi mình ‘‘hóa thân thành vượn cổ sơ’’:
Vĩnh biệt ta mười năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng ngàn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.
Trong ca khúc ‘‘Còn yêu em mãi’’, nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang đã viết lời ca trong lao tù cải tạo như sau:
Riêng ta nơi núi rừng, về đêm còn nghe hồn băng giá
Câu ca hay khúc nhạc, càng thêm sầu cho tình tan nát.
Cộng sản thù hận tất cả những ai không phải là cộng sản, nhất là các văn nghệ sĩ. Chính vì vậy năm 1957 tại miền Bắc, Phùng Quán mới uất ức viết câu thơ:
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.
1.2. Việt Cộng vơ vét tiền của dân miền Nam:
1.2.1.Quy định của Hiệp định Paris: Theo điều 11 khoản 2 Hiệp định Paris, ‘‘Hai bên miền Nam sẽ bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân : tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tại sản và quyền tự do kinh doanh.’’
Nói thì nhiều, có 12 quyền tự do dân chủ, nhưng trong thực tế, Việt Cộng nuốt lời, vi phạm tất cả các quyền tự do dân chủ của người dân.
– Trong chế độ cộng sản, các quyền tự do dân sự (liberté civile) và nhân quyền (droits de l’homme) chỉ là bánh vẽ.
– Quyền tự do tín ngưỡng bị chà đạp thô bạo. Cộng sản ban hành nghị quyết 297-CP ngày 11/11/1977, thẳng tay đàn áp các tôn giáo. Đức TGM Nguyễn Kim Điền bị cộng sản bức tử tại bệnh viện Saint Paul (Saigon). Vào tối 08/06/1088 : một nữ y tá theo lệnh cấp trên đã chích thuốc độc, giết chết vị TGM giáo phận Huế. Cộng sản không chấp nhận làm xét nghiệm tử thi để xác nhận tên độc dược.
1.2.2. Chiến dịch X-3 vi phạm quyền tự do kinh doanh : Với chức vụ phó thủ tướng, Đỗ Mười chỉ đạo kế hoạch X-2 đánh tư sản mại bản, sau này y trở nên trưởng ban cải tạo công thương nghiệp miền Nam. Theo chỉ thị 100-CP, cộng sản tiến hành ba đợt đánh tư sản:
– Đợt 1: tháng 09/1975, không những cộng sản vơ vét tiền của, mà còn tịch thu nhà cửa, đuổi dân lành đi vùng gọi là kinh tế mới, thực chất là mảnh đất khôn cằn, không trồng trọt được. Trong chính thể tự do, việc làm này được gọi là cướp cạn.
– Đợt 2: tháng 12/1976. Cộng sản tiếp tục chiến dịch đánh tư sản đối với những người còn sót lại trong đợt đầu.
– Đợt 3: Khi phát động đợt 3 mang bí danh X-3 vào ngày 21/03/1978, Đỗ Mười tuyên bố : “Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chết, cái đuôi nó còn nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn tác oai tác quái phá chúng ta. Cho nên chúng ta phải róc thịt chúng ra. Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng đổ mồ hôi sôi nước mắt kiếm miếng ăn…” Mục tiêu vẫn là vơ vét tài sản, tịch thu nhà cửa, đuổi dân lành đi kinh tế mới.
Các nạn nhân cộng sản có quyền sử dụng tố quyền nhân dân (actio popularis) nhằm bảo vệ quyền lợi tập thể (intérêt collectif), kiện trước Tòa án Quốc tế Thẩm quyền (juridiction internationale compétente), với tội danh ‘‘trả thù man rợ’’ (vengeance sauvage), ‘‘cố sát’’ (homicide volontaire), ‘‘phân biệt đối xử’’ (discrimination fondée sur les opinions politiques), vi phạm nghiêm trọng điều 11 khoản 2 Hiệp định Paris ; đòi Hà Nội phải bồi thường thiệt hại.
Khoản 2 quy định: ‘‘Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân : tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tự do tư hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh.’’
Chiếu điều 11 khoản 2 Hiệp định Paris, các nạn nhân bị cộng sản tịch thu nhà cửa có quyền đòi chính quyền Hà Nội phải trả lại tài sản bị cưỡng đoạt (restitution de biens immobiliers spoliés par le régime communiste), theo tiền lệ đã được áp dụng tại các nước Đông Âu.
II – 45 năm sau ngày 30/04/1975:
45 sau ngày 30/04/1975, nước nhà vẫn phải chịu những hệ quả tai hại của chủ nghĩa cộng sản:
– Về kinh tế: Kinh tế Việt Nam mất cân đối giữa tổng sản phẩm nội địa (GNP): 266,5 tỷ USD; GNP bình quân đầu người : 2786 USD/người và thực trạng dân sinh. 45 năm sau, người dân tại Hà Nội và Saigon vẫn không đủ cơm ăn, phải xếp hàng lãnh gạo. Tuy việc phát chẩn là cần thiết, việc để mặc dân lành đói kém là bản cáo trạng trung thực về chế độ cộng sản :
– Về chính trị: Đảng CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào đảng CSTQ. Đảng CSTQ thực hiện chủ nghĩa bá quyền (impérialisme), áp dụng câu nói của Lênin : ‘‘tuy về lý thuyết là XHCN, trong thực tế chỉ là chủ nghĩa đế quốc’’. (Lénine, L’État et la Révolution, 1916, VI) :
– Liên Xô cũ vốn là đế quốc cộng sản, gồm 15 nước cộng hòa và các vùng tự trị. Đế quốc Liên Xô còn thống trị Albanie, Đông Đức, Bulgarie, Hugari, Ba Lan, Rumani, Tiệp Khắc, Nam Tư.
– Trung Cộng cũng là đế quốc, có diện tích lớn thứ ba trên thế giới. Phía bắc là Nội Mông với sa mạc Gobi, phía nam nhiều chỗ trũng, có đồi núi trùng điệp, phía tây có sa mạc Taklamakan và cao nguyên Tây Tạng. Ngoài ra còn 5 vùng tự trị: Quảng Tây, Nội Mông, Ninh Hạ, Tân Cương và Tây Tạng. Ngày 07/10/1950, bộ đội của Mao xâm chiếm Tây Tạng, xứ sở hiền hòa của mật tông. Trung cộng tiếp tục mở rộng đế quốc qua hai ngả sau đây:
– Đường biển: Trung cộng áp đặt cửu đoạn tuyết (đường chín đoạn hoặc đường lưỡi bò) ở biển Đông. Ngày 12/07/2016, Tòa án Trọng tài Thường trực về Luật Biển tuyên bố cửu đoạn tuyết do Trung Cộng đơn phương đưa ra là hoàn toàn không có căn cứ pháp lý.
– Đường bộ: Năm 2013, Bắc Kinh đưa ra dự án ‘‘Một vành đai, một con đường’’ (nhất đới nhất lộ), nối liền 70 quốc gia, từ Á sang Âu.
Nếu Liên Xô và Trung Cộng là hai đế quốc lớn, các tài liệu địa lý chính trị mệnh danh chế độ Hà Nội là tiểu đế quốc.
– Tiểu đế quốc Việt Nam (micro-empire vietnamien communiste) : Từ năm 1975 đến 1990, chế độ cộng sản Hà Nội thôn tính Kampuchia và Lào. Năm 1990, theo chỉ thị của Giang Trạch Dân, ngày 26/09/1989, bộ đội Việt Nam phải rút quân khỏi Kampuchia ; đó là điều kiện tiên quyết để hội nghị Thành Đô nhóm họp trong hai ngày 3-4/09/1990, tại thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên.
– Ngày 18/04/2020, Quốc Vụ Viện Bắc Kinh thông báo về việc Hoàng Sa và bãi Macclesfield trở thành huyện Nam Sa (Nansha dictrict), quần đảo Trường Sa trở thành huyện Tây Sa (Xisha dictrict), trực thuộc thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam. Quyết định hành chính của Trung Cộng được đưa ra vào thời điểm hiện nay nhằm khích động chủ nghĩa dân tộc của người Tàu, đánh lạc hướng đại dịch coronavirus phát xuất từ phòng thí nghiệm P4 ở Vũ Hán.
Sự lệ thuộc của Việt Nam vào Tàu Cộng được chứng minh qua:
1) Công hàm ngày 14/09/1958 của Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai. Họ Phạm: ‘‘chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước CHND Trung Hoa trên mặt biển.’’ Công hàm này hoàn toàn không có giá trị về phương diện luật quốc tế. Hiệp định Genève ngày 20/07/1954 quy định Việt Nam được chia làm hai quốc gia riêng biệt: miền Bắc: VNDCCH; miền Nam: VNCH, lấy vĩ tuyến 17 phân ranh. Năm 1958, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của VNCH. Hà Nội không có thẩm quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo này.
2) Ngày 18/01/2020, bộ trưởng Ngoại giao Hà Nội Phạm Bình Minh cho rằng: trong ‘‘70 năm qua, quan hệ Việt – Trung tuy có lúc thăng trầm, nhưng hữu nghị, hợp tác vẫn là dòng chảy chính. (…). Kể từ khi bình thường hóa năm 1991 đến nay, quan hệ Việt – Trung đã phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, an ninh, quốc phòng. (…) Hai bên đã xác định phát triển quan hệ hai nước theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (năm 1999) và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” (năm 2005). Năm 2008, hai bên nhất trí thiết lập khuôn khổ quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc.’’
Trước mưu đồ lấn chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, việc ‘‘hợp tác chiến lược toàn diện’’ với Tàu đã chứng minh Việt Nam chịu ‘‘lệ thuộc toàn diện’’ với Bắc Kinh.
III – Viễn tượng đất nước trong tương lai:
Trước sau gì, đất nước ta cũng phải vãn hồi độc lập trước đế quốc Tàu cộng. Cũng như bức tường Bá Linh khởi động cho sự tan rã của các chế độ cộng sản tại châu Âu, đại dịch coronavirus phát xuất từ phòng thí nghiệm P4 tại Vũ Hán sẽ mở đầu tiến trình giải thể chế độ cộng sản tại Trung Quốc, vì hai lý do sau đây:
– trách nhiệm dân sự của Bắc Kinh trước thiệt hại về nhân mạng và kinh tế trên khắp thế thế giới. Số tiền bồi thường sẽ làm giảm số trữ kim của Trung Cộng 3 115 497 tỷ USD, tính đến tháng 01/2020, căn cứ vào số liệu của Quỹ Tiền tệ Thế giới.
– trách nhiệm hình sự được đặt ra đối với các nhà lãnh đạo Bắc Kinh về virus nhân tạo Vũ Hán gây ra cái chết của 211 000 trên thế giới, tính đến ngày 28/04/2020.
– sau đại dịch, các nước Tây phương chuyển các cơ xưởng sản xuất tại Tàu về lại trong nước để đảm bảo chủ quyền kinh tế. Sự việc này sẽ khiến hệ thống sản xuất Hoa lục sụp đổ, làm hàng triệu người thất nghiệp. Sự việc này sẽ gây ra bất ổn chính trị và xã hội.
– Trước viễn tượng đảng cộng sản Tàu sụp đổ, liệu đảng cộng sản Hà Nội có thể đứng vững được không?
Khi tách ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải hủy bỏ điều 4 hiến pháp, thực thi các quyền tự do, dân chủ được quy định trong hiệp định Paris. Hệ quả tất yếu của sự chuyển tiếp chính trị sẽ khiến đảng cộng sản Việt Nam không còn khả năng độc quyền lãnh đạo.
Có bốn lãnh vực đòi hỏi thay đổi:
1) Ngoại giao: Sau khi các chế độ cộng sản Tàu – Việt bị sụp đổ, Việt Nam thiết lập quan hệ quốc tế đa phương. Việt Nam không thể đơn phương giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông mà cần sự hợp tác với các nước trong khu vực: Nhật Bản, Triều Tiên, các nước Tây phương, nhất là Hoa Kỳ, Liên hiệp châu Âu. Chính sách ngoại giao là tiền đề của chính sách quốc phòng dưới đây.
2) Quốc phòng: Chính sách quốc phòng đòi hỏi việc tăng cường khả năng quốc phòng, đặc biệt là hải quân, mặt khác tiến tới hợp tác quân sự đa phương : láng giềng gần thì có Nhật Bản, Ấn Độ, ngoài ra là Hoa Kỳ, Canada các nước Liên hiệp châu Âu. Sự hợp tác bao gồm việc huấn luyện, tăng cường khả năng tác chiến, tăng cường trang thiết bị quân sự.
3) Kinh tế: Việt Nam hội nhập vào kinh tế thế giới trong hai lãnh vực xuất khẩu và mở rộng thị trường tài chính, vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp, phát triển công nghiệp tiến tới thay thế nhập khẩu các sản phẩm tiêu dùng. Nâng cao kỹ năng điện toán áp dụng vào lãnh vực công nghiệp. Đầu tư vào các lãnh vực nhân dụng có tay nghề nhằm giảm bớt số nhân công không chuyên môn, nâng cao đời sống dân chúng.
4) Tư pháp: Điều 4 hiến pháp cho phép đảng cộng sản ‘‘lãnh đạo Nhà nước và xã hội’’, thông qua lực lượng công an. Sau khi giải thể chế độ cộng sản, việc thiết lập Nhà nước pháp quyền là thiết yếu. Các công dân đều được bình đẳng trước pháp luật. Tư pháp độc lập có quyền xét xử công minh các sai phạm, không phân biệt là chức quyền hay thường dân. Nguyên tắc phân quyền phải được triệt để tôn trọng.
v
Các nhà lãnh đạo cộng sản Tàu luôn bị ám ảnh về sự bền vững của chế độ. Tuy nhiên trong đại dịch hiện nay, họ đã phạm hai sai lầm:
– Đảng CSTQ đã dấu nhẹm ca nhiễm virus corona đầu tiên xảy ra vào ngày 16/11/2019.
– Theo GS Richard Ebrigjht, nhà vi sinh học Đại học Rutgers, một nhân viên phòng thí nghiệm P4 bị nhiễm virus corana là bệnh nhân đầu tiên (patient 0) khiến đại dịch lan tràn.
Ngày 27/04, tổng thống Donald Trump tuyên bố có thể đòi Trung Cộng phải bồi thường hàng tỷ USD thiệt hại.
Nếu Hoa Kỷ tìm ra nơi xuất phát dịch bệnh là từ phòng thí nghiệm P4 ở Vũ Hán, sự việc này sẽ làm suy yếu vị thế đảng CSTQ, đưa đến sự sụp đổ chế độ. Nếu Trung Quốc sụp đổ, 45 năm sau ngày 30/04/1975, liệu đảng cộng sản Việt Nam có thể tồn tại được hay không ?
Tưởng Niệm 30 Tháng 4-1975: Ngày Tổng Thống Trần Văn Hương Từ Chức – Vương Hồng Anh
Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “30 tháng 4-1975”, ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, Việt Báo trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài tổng hợp lược trình một số sự kiện về tình hình chiến sự quanh vòng đai Sài Gòn và thực trạng chính trị Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày cuối của cuộc chiến. Bài tổng hợp được biên soạn dựa theo các tài liệu: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên, cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, cựu Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, một số bài viết phổ biến trên các đặc san của các hội cựu chiến binh QL.VNCH, tài liệu riêng của Việt Báo.
*Tình hình chiến sự trong ngày 28-4-1975, ngày Tổng Thống Trần Văn Hương từ chức
Tại Bình Dương, sau khi đã đưa một sư đoàn vào khu Đông Nam và tấn công vào các khu vực Phú Giáo, Tân Uyên, Cổ Mi, Cộng quân đã điều động 2 sư đoàn thuộc Quân đoàn 1 do Nguyễn Hóa, thiếu tướng Cộng quân chỉ huy tiến sát đến các tuyến phòng tuyến do các trung đoàn 7, 8, 9 của Sư đoàn 5 Bộ binh. Trong các trận đánh tại Bình Dương vào 10 ngày cuối của tháng 4/1975, nổi bật nhất là trận Bến Sắn giữa Sư đoàn 5 Bộ binh và 1 sư đoàn chủ lực Quân đoàn 1 của Cộng quân. Cộng quân muốn chiếm Bến Sắn để từ đó chọc thủng mặt đông của tỉnh Bình Dương và mặt tây của tỉnh Biên Hòa nhưng đã bị sự kháng cự mãnh liệt của Sư đoàn 5 Bộ binh, Cộng quân bị tổn thất nặng.
Vừa chận đứng được đợt tấn công tại khu đông tỉnh Bình Dương thì Sư đoàn 5 Bộ binh lại phải đối đầu với 1 sư đoàn Cộng quân từ hướng Chơn Thành-An Lộc. Phòng tuyến Chơn Thành-An Lộc đã bị bỏ trống trước khi Xuân Lộc thất thủ. Trước tháng 4/1975, phòng tuyến chính ở An Lộc và Chơn Thành do 2 liên đoàn Biệt động quân, 2 tiểu đoàn Địa phương quân án ngữ, tổng chỉ huy lực lượng này là Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 3. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến, trước áp lực của Cộng quân, lực lượng Biệt động quân đã rút từ An Lộc về hợp cùng các đơn vị Địa phương quân, Nghĩa quân của Chơn Thành lập phòng tuyến mới tại nam Chơn Thành và đã chống trả quyết liệt các đợt tấn công của địch quân muốn chọc thủng phòng tuyến này. Cộng quân đã áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung bằng những tràng pháo kích bắn tới tấp rồi sau đó là các đợt xung phong bằng bộ binh và thiết giáp. Cùng lúc đó, Cộng quân tấn công vào một trung đoàn của Sư đoàn 5 Bộ binh đang từ Bầu Bàng cố tiến về Chơn Thành theo hướng quốc lộ 13 để tăng viện cho quân trú phòng.
Tại mặt trận Chơn Thành, nhờ có sự yểm trợ của Không quân rất chính xác và liên tục, lực lượng Biệt động quân tại Chơn Thành đã gây cho Cộng quân nhiều thiệt hại đáng kể: hơn 300 Cộng quân bị bỏ xác tại trận địa, 14 xe tăng bị bắn cháy trong hai ngày liên tục. Tuy nhiên Cộng quân không chịu dừng lại và tung thêm nhiều đợt tấn công biển người vào khu đông nam Chơn Thành cốt sao đẩy cho bằng được lực lượng Biệt động quân tại đây ra khỏi chiến hào, đồng thời Cộng quân còn tung quân chận đường rút về Lai khê. Cuối cùng để bảo toàn lực lượng, các lực lượng phòng thủ tại Chơn Thành đã bỏ phòng tuyến Chơn Thành và rút về Lai Khê mà không bị tổn thất nặng.
* Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền cho ông Dương Văn Minh:
Trong khi Cộng quân áp lực nặng quanh vòng đai Thủ đô Sài Gòn, thì một sự kiện trọng đại đã xảy ra trong ngày 28/4/1975: Tổng thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền nguyên thủ quốc gia cho ông Dương Văn Minh, cựu đại tướng. Lễ bàn giao diễn ra vào chiều ngày 28 tháng 4/1975. Trong buổi lễ này, Quân lực VNCH cử Trung tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không quân và Trung tướng Đồng Văn Khuyên tham mưu trưởng Liên quân thay mặt Đại tướng Cao Văn Viên đến dự lễ. Trước khi bước xuống bục để nhường cho ông Dương Văn Minh đọc diễn văn nhận chức, Tổng thống Trần Văn Hương đã công bố sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên khỏi chức vụ Tổng tham mưu trưởng (theo nguyện vọng của Tướng Viên). Sau nghi lễ nhậm chức, ông Dương Văn Minh đã giới thiệu ông Nguyễn Văn Huyền làm Phó Tổng thống và ông Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
Theo hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, trong buổi lễ bàn giao, ông Dương Văn Minh đọc bản tuyên bố đường lối của mình là “sẽ chấm dứt chiến tranh bằng cách thương thuyết”. Để giúp bạn đọc một số thông tin đặc biệt về sự kiện lịch sử này, chúng tôi xin lược ghi các diễn biến chính trường trong những ngày cuối cùng của tháng 4/1975:
Sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, Tòa Đại sứ Pháp đã nhảy vào chính trường Việt Nam. Cố vấn chính trị của sứ quán Pháp là ông Brochand đã gặp Cựu Tướng Trần Văn Đôn, Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng của nội các Nguyễn Bá Cẩn. Nhà ngoại giao này đã cho Phó Thủ tướng Đôn biết sứ quán Pháp có liên lạc với Hà Nội và nhấn mạnh thêm: “Nếu có thương thuyết thì Cộng sản chỉ thương thuyết với ông Dương Văn Minh mà thôi”. Ông Brochand cũng cho là ông Minh cần sự hợp của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn.
Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn đã gặp ông Minh và sau đó gặp đại sứ Martin để nhờ vị Đại sứ này thuyết phục Tổng thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh. Theo sự sắp xếp trung gian của cựu Tướng Đôn và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, 10 giờ sáng ngày 24 tháng 4/1975, ông Minh đã đến gặp Tổng thống Trần Văn Hương tại tư dinh Đại tướng Khiêm trong bộ Tổng Tham mưu. Tiếp đó, vào buổi trưa, cựu Tướng Đôn cũng đến nhà Đại tướng Trần Thiện Khiêm để tìm hiểu tình hình, ông đã gặp bác sĩ Nguyễn Lưu Viên-cựu Phó thủ tướng và ông Nguyễn Văn Hảo, phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Canh nông của Nội các Nguyễn Bá Cẩn (nội các này từ chức ngày 23/4/1975 và được yêu cầu xử lý thường vụ trong khi chờ nội các mới). Tại cuộc gặp này, các nhân vật nói trên đã cho biết là cuộc gặp gỡ vừa rồi giữa Tổng thống Trần Văn Hương và ông Dương Văn Minh đã thất bại vì ông Minh từ chối ghế “Thủ tướng toàn quyền”. Ông Minh muốn Tổng thống Trần Văn Hương giao ghế Tổng thống để có thể toàn quyền nói chuyện với Cộng sản Hà Nội.
Trước tình hình như thế, Đại tướng Khiêm đề nghị Tướng Đôn nên nhận chức vụ Thủ tướng để thương thuyết. Cựu tướng Đôn đã kể cho Đại tướng Khiêm nghe lời của ông Brochand- cố vấn chính trị của Sứ quán Pháp là Pháp đã liên lạc với Cộng sản Hà Nội và phía Cộng sản chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi. Sau đó Tướng Đôn đến thẳng tòa Đại sứ Pháp. Các viên chức cao cấp của sứ quán này lặp lại ý kiến trên và cho biết thêm rằng Cộng sản chờ đến ngày Chủ nhật 27 tháng 4/1975, nếu không có tiến triển gì thì họ sẽ pháo kích vào Sài Gòn. Theo lời kể của Tướng Đôn, sau khi nghe tin này, ông lo ngại cho dân chúng sống chen chúc trong thành phố bị trúng đạn pháo của Cộng quân bắn bừa bãi, nên ông hứa sẽ cố gắng dàn xếp để tìm một giải pháp tạm thời.
Chiều hôm đó, Đại tướng Khiêm điện thoại cho Tướng Đôn biết là Tổng thống Trần Văn Hương sẽ chỉ định ông Nguyễn Ngọc Huy làm thủ tướng. Theo Tướng Khiêm, ông Huy là người chống Cộng triệt để nên khó có thể hòa giải được. Cựu Tướng Đôn điện thoại báo cho ông Dương Văn Minh, ông Minh mời Tướng Đôn lại nhà để bàn tính tìm một giải pháp. Trong cuộc gặp riêng này, Ông Minh nói với Tướng Đôn là ông muốn được ông Trần Văn Hương trao chức vụ lại để thương thuyết gấp. Khi đó Tướng Đôn nghĩ rằng nên có áp lực của quân đội để Tổng thống Hương có thể nhượng bộ. Tướng Đôn đã điện thoại mời Đại tướng Khiêm và Đại tướng Viên đến nhà ông Minh, nhưng khi đó hai vị này đã đến Dinh Độc Lập.
Lúc 5 giờ 45 ngày 24/4/1975, Tướng Đôn vào Dinh Độc Lập thì gặp ông Nguyễn Ngọc Huy đang nói chuyện với ông Nguyễn Xuân Phong,Quốc vụ khanh đặc trách hòa đàm từ Pháp mới về. Vừa lúc đó, Đại sứ Martin từ trong văn phòng Tổng thống Trần Văn Hương đi ra. Ttướng Đôn hỏi Đại sứ Mỹ là có phải Tổng thống Hương chỉ định ông Huy làm thủ tướng hay không. Nhưng Đại sứ Mỹ đã trả lời là không có chuyện đó. Thế nhưng, sau đó, Đại tướng Khiêm vào gặp Tổng thống Hương và ra báo cho Tướng Đôn biết là ông Hương sẽ chỉ định ông Huy làm Thủ tướng. Đến lượt ông Huy vào gặp Tổng thống Hương. Cuối cùng là Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Đại tướng Viên vào trình bày cho Tổng thống Hương tình hình quân sự: Cộng quân đang tiến sát vòng đai Sài Gòn, vũ khí, quân dụng, đạn dược thiếu, tinh thần chiến đấu của binh sĩ sa sút… Nghe xong phần trình bày, Tổng thống Hương nhìn Đại tướng Viên và nói: Ông sẽ Tổng tư lệnh Quân đội. Tổng thống Hương nói tiếp rằng ông sẽ chia sẻ với số phận của anh em quân nhân trên các chiến trường, nghĩa là ông sẽ chết cùng với anh em binh sĩ.
Trước khi rời Dinh Độc Lập, Tướng Đôn nói với Tổng thống Hương: “Cụ nghiên cứu lại, vì bên kia họ chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi”. 8 giờ tối hôm đó, Tướng Đôn trở lại nhà ông Minh và thấy một số nhân vật ở đây: ông Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng nghị viện, giáo sư Vũ Văn Mẫu và ông Brochand, cố vấn chính trị sứ quán Pháp. Tướng Đôn giải thích với ông Minh: Ông Hương vừa mới lên mà yêu cầu ông từ chức thì cũng khó xử cho ông ấy, hơn nữa còn Hiến pháp, còn Quốc hội. Ý kiến của Tướng Đôn chỉ có ông Huyền đồng ý, còn ông Minh và ông Mẫu thì cho rằng ông Hương trì hoãn như vậy nhưng thế nào rồi cũng chấp thuận.
8 giờ sáng ngày 25 tháng 4/1975, cựu Tổng thống Thiệu điện thoại cho cựu Trung tướng Đôn ngỏ ý muốn gặp ông tại Dinh Độc Lập (sau khi từ chức, TT Thiệu vẫn còn ở trong dinh Độc Lập). Khi gặp Tướng Đôn, cựu Tổng thống Thiệu nhờ ông Đôn lấy cho bạn của ông ấy một giấy chiếu khán đi ngoại quốc và sau đó hai người bàn về tình hình. Cựu Tổng thống Thiệu cho biết là ông đã hiểu rỏ diễn biến. Câu chuyện nửa chừng thì cựu Tổng thống Thiệu điện thoại cho Tổng thống Hương và nói: “Nếu ông Dương Văn Minh không chịu làm thủ tướng toàn quyền thì cụ tìm một người khác có thể thương thuyết với bên kia và người đó theo tôi là ông Đôn”.
Để điện thoại xuống, cựu Tổng Thống Thiệu nói với Tướng Đôn: “Theo tôi, ngoài ông Minh ra, ông là người có thể nhận trách nhiệm này. Tôi đã nghĩ đến ông từ năm 1973. Tôi đã biết ông từng tiếp xúc nhiều giới chức…Ông có uy tín trong giới chính trị và quân đội. Nhưng tôi không thay đổi lập trường chống Cộng triệt để của tôi nên không thể ngồi chung với Cộng sản. Nếu chịu thương thuyết tôi đã mời ông làm thủ tướng từ năm 1973 rồi. Nhưng ngày nay thì tôi đề nghị với ông Hương mời ông làm việc”. Cựu Trung tướng Đôn hỏi lại cựu Tổng thống Thiệu: Ông có nghĩ là bây giờ đã trễ không”
Cựu Tổng thống Thiệu im lặng không trả lời. Trước khi từ giã, cựu Trung tướng Đôn nhìn thẳng cựu Tổng thống Thiệu, một thuộc cấp của ông ngày trước, một đại tá đã được Trung tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, gắn cấp bậc thiếu tướng tại Dinh Gia Long trong cuộc đảo chính ngày 1/11/1963, rồi nói:-Còn phần ông, chừng nào ông đi” Tôi biết Mỹ không muốn chuyện xảy ra như ông Diệm. Xung quanh ông đang bỏ ông nhất là khi nghe có tân thủ tướng và chính phủ mới. Ông phải đi cho nhanh. Nếu tôi làm thủ tướng, nội các của tôi cũng sẽ đòi bắt ông và tôi làm theo. Từ giã cựu Tổng thống Thiệu, Tướng Đôn ghé nhiều nơi để trao đổi ý kiến với một số yếu nhân và sau đó trở về nhà. Đến nhà, Tướng Đôn được biết TT Thiệu điện thoại cho ông mấy lần và có để số điện thoại. Cựu tướng Đôn gọi lại thì cựu Tổng thống Thiệu nói lời từ giã với cựu tướng Đôn: Chúc anh thành công và cám ơn anh. Tướng Đôn nhắc lại những gì đã nói khi gặp cựu Tổng thống Thiệu và nói:Ông đừng quên những gì tôi đã nói hồi sáng, nghĩa là ông phải ra đi. Sau đó, Tướng Đôn được báo là người Mỹ đã giúp cựu Tổng thống Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và cả gia đình hai vị này rời khỏi Việt Nam bằng máy bay đặc biệt đến Đài Bắc, thủ đô của Đài Loan. (V)
https://vietbao.com/a86713/tuong-niem-30-thang-4-1975-ngay-tt-tran-van-huong-tu-chuc
Thơ Lê Đình Thông
30/04/1945: Hồn ma Hitler hóa kiếp họ Hồ
Trong địa đạo tháng tư cuối tháng
Tên Hitler bỏ mạng đường hầm
Vào năm Một Chín Bốn Lăm
Âu châu đổ nát lửa tàn chiến chinh.
Mấy tháng sau Ba Đình u uất
Râu Hitler tái xuất họ Hồ
Từ đây xương máu đầy mồ
Giam cầm đấu tố cơ đồ thương đau.
Đều vần ‘‘H’’mọc râu xơ xác
Đều độc tài gian ác như nhau
Hitler tàn sát mãi đâu
Họ Hồ giết hại người Âu Lạc mình.
Đợt đầu tố hành hình vô tội
Hành chục ngàn ngục tối bi thương
Quỳnh Lưu nổi dậy can trường
Nghệ An bộ đội coi thường người dân
Năm 68 Mậu Thân xứ Huế
Bảy ngàn người kiệt quệ phơi thây
Ngổn ngang thân thể phơi đầy
Trẻ già lớn bé cung mây lệ tràn
Rồi cuộc chiến tương tàn giăng mắc
Trên đường mòn từ bắc vô nam
Hai bên chết chóc vô vàn
Cấp cao chính ủy hưởng phần lợi danh.
Lửa chinh chiến phai tàn đất hứa
Liền bốc lên ngọn lửa hận thù
Bao người bỏ mạng trong tù
Bao người vượt biển bây chừ ở đâu?
Bản cáo trạng đầu tầu cộng sản
Bao oan hồn phân tán khắp nơi
Thắp nhang nhớ lại một thời
Người còn kẻ mất cuối trời hiển linh.
(30/04/2020)
Vòng Đai Sài Gòn, Trận Chiến Những Ngày Cuối Tháng 4-75 – Vương Hồng Anh
Lời tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm “30 tháng 4-1975”, ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, Việt Báo trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài tổng hợp lược trình một số sự kiện về tình hình chiến sự quanh vòng đai Sài Gòn và thực trạng chính trị Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày cuối của cuộc chiến. Bài tổng hợp được biên soạn dựa theo các tài liệu: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên, cựu Tổng trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn, tài liệu chiến sử VN của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, hồi ký của cựu Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh Mặt trận Bà Rịa-Vũng Tàu, một số bài viết phổ biến trên các đặc san của các hội cựu chiến binh QL.VNCH, tài liệu riêng của Việt Báo.
* Toàn cảnh về tình hình chiến sự tại miền Đông Nam phần từ 24-4 đến 27-4-1975.
Từ ngày 24-4-1975, tình hình chiến sự tại vùng trách nhiệm của Quân đoàn 3 ngày càng sôi động kể từ khi Sư đoàn 18 Bộ binh, lực lượng Nhảy Dù, các binh đoàn tăng phái triệt thoái khỏi Xuân Lộc. Trước những diễn biến dồn dập, sáng ngày 26 tháng 4/1975, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để bàn kế hoạch tái phối trí lực lượng tại Quân khu 3 và khu vực quanh Sài Gòn. Theo đó, cụm tuyến phòng ngự sẽ gồm có: tuyến vòng đai Thủ đô, tuyến Trảng Bom-Long Thành-Phước Tuy.
Trong khi cuộc họp hành quân đang diễn ra tại Bộ Tư lệnh Quân đoàn, thì tin tức tình báo ghi nhận Cộng quân đang tung quân cố cắt đứt trục giao thông Sài Gòn-Vũng Tàu ở đoạn Long Thành, cùng lúc đó, thông tin thám sát của các toán tình báo kỹ thuật cũng ghi nhận một đơn vị Pháo của Cộng quân đã di chuyển về hướng Bà Rịa.
Tại tỉnh Phước Tuy, từ ngày 24 tháng 4/1975, phòng tuyến Bà Rịa (tỉnh lỵ) do Sư đoàn 3 Bộ binh, Lữ đoàn 1 Dù và chi đoàn 2/15 Thiết vận xa đảm trách. Quân số Sư đoàn 3 Bộ binh chỉ còn hơn 1 ngàn kể cả thành phần quân nhân tập hợp từ Sư đoàn 1 Bộ binh nhập lại. Với chừng ấy quân số, chỉ đủ để thành lập 2 tiểu đoàn, 1 tiểu đoàn cho trung đoàn 2 và 1 tiểu đoàn cho trung đoàn 56. Về lực lượng 3 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 1 Dù, quân số của mỗi tiểu đoàn chỉ còn khoảng từ 357 đến hơn 400 quân sĩ. Nếu tính cả các đơn vị Địa Phương Quân, quân số phòng thủ vòng thủ chưa đến 3 ngàn quân, chưa bằng quân số của 2 trung đoàn, trong khi đó tại khu vực này đã có 2 sư đoàn Cộng quân, 1 trung đoàn pháo và 1 lữ đoàn thiết giáp.
Theo phân nhiệm, Lữ đoàn 1 Dù chịu trách nhiệm trấn giữ vòng đai ngoài của thị xã Bà Rịa (tỉnh lỵ tỉnh Phước Tuy) và Quốc lộ 15. Sư đoàn 3 Bộ binh phụ trách một số khu vực gần Bà Rịa. Bộ Chỉ huy Hành quân của Sư đoàn 3 Bộ binh đóng trong Bộ Chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy. Các đơn vị của Sư đoàn 3 Bộ binh có đủ súng cá nhân cho binh sĩ nhưng thiếu súng cộng đồng, máy truyền tin và thiếu cả sự yểm trợ của Pháo binh. Khi còn hoạt động tại chiến trường Quảng Nam (Quân khu 1), cũng như các sư đoàn Bộ binh khác, Sư đoàn 3 BB có 3 tiểu đoàn Pháo binh 105 ly và 1 tiểu đoàn Pháo binh 155 ly (mỗi tiểu đoàn có khoảng 18 khẩu đại bác).
Sau hai ngày tạm im tiếng súng, vào 6 giờ chiều ngày 26/4/1975, mặt trận Phước Tuy bắt đầu sôi động trở lại. Cộng quân pháo kích vào thị xã Bà Rịa, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Phước Tuy, tư dinh tỉnh trưởng,
Trung tâm Huấn luyện Vạn Kiếp. Trận mưa pháo kích kéo dài 3 tiếng. Toàn bộ hệ thống điện trong thị xã Bà Rịa đều bị hư hại. Khoảng 10 giờ đêm, Cộng quân tổ chức tấn công theo 3 mũi vào tỉnh lỵ, 2 mũi do bộ binh và thiết giáp CSBV phối hợp đánh vào Trung tâm Tiếp vận Tiểu khu và Tư dinh Tỉnh trưởng, 1 mũi vào khu vực dọc theo xa lộ mới ở phía Nam thị xã Bà Rịa. Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh kiêm Tư lệnh Mặt trận Bà Rịa, điều động 1 tiểu đoàn Dù và đặt đơn vị này thuộc quyền chỉ huy của Đại tá Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Phước Tuy để tổ chức các cuộc phản công đánh đuổi Cộng quân ra khỏi trung tâm thị xã. Tiểu đoàn Dù đã bắn cháy 5 chiến xa Cộng quân ngay trong đêm 26/4/1975.
Rạng sáng ngày 27/4/1975, lực lượng Nhảy Dù đã quét Cộng quân ra khỏi tỉnh lỵ. Để ngăn chận các đợt tấn công kế tiếp của Cộng quân, Bộ chỉ huy Lữ đoàn 1 Dù tăng thêm quân phòng thủ bên ngoài thị xã. Khoảng 8 giờ sáng, Cộng quân điều động hai trung đoàn bộ binh và khoảng 30 chiến xa từ hai hướng mở đợt tấn công thứ hai vào thị xã Bà Rịa. Lữ đoàn 1 Nhảy Dù đã chống trả quyết liệt và cả bên đều bị thiệt hại nặng.
Theo hồi ký của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh mặt trận Bà Rịa, vào 2 giờ chiều ngày 27/4/1975, Lữ đoàn 1 Dù được lệnh rút khỏi Bà Rịa và về phòng thủ tuyến Cỏ May (nằm trên đường Bà Rịa-Vũng Tàu). Cùng trong buổi chiều ngày 27/4/1975, một đơn vị Công binh Thủy quân Lục chiến được điều động đến để giật sập cầu Cỏ May hầu ngăn chận Cộng quân tràn qua.
Tại Long Thành, tối 26 tháng 4/1975, Cộng quân tấn công vào trường Thiết Giáp, chiếm quận lỵ Long Thành và cắt đứt Quốc lộ 15 nối liền Vũng Tàu và Sài Gòn. Cũng trong ngày 26 tháng 4/1975, một tiểu đoàn đặc công Cộng quân đánh chiếm cầu xe lửa về hướng Tây Nam thành phố Biên Hòa trong khi đại bác của các đơn vị pháo binh Cộng quân bắn phá vào căn cứ Không quân Biên Hòa. Ngày 27 và 28/4/1975, Cộng quân tiếp tục pháo kích vào các vị trí của quân trú phòng tại Long Thành và khu vực phụ cận.
Cũng trong hai ngày 26 và 27/4/1975, Cộng quân điều động bộ binh và thiết giáp tiến đến gần liên tỉnh lộ 25 và nhắm quận lỵ Nhơn Trạch, một đơn vị CSBV đánh chiếm các đồn Địa phương quân và Nghĩa quân dọc trên đường tiến quân.
Tại Trảng Bom do một đơn vị của Sư đoàn 18BB phụ trách đã bị Cộng quân pháo liên tục trong các ngày 26, 27:
Tại vòng đai Sài Gòn, tuyến phòng thủ của Quân lực VNCH đã phải co cụm lại: vùng Tây Bắc còn lại tỉnh Biên Hòa, phía Đông còn Long Thành, phía Bắc còn Lai Khê, phía Đông Nam còn Hóc Môn. Trong đêm 26 tháng 4/1975, Cộng quân đồng loạt tấn công khu Tân Cảng, cầu Biên Hòa và đài phát tuyến Phú Lâm. Một tiểu đoàn Dù đang bảo vệ dinh Độc Lập đã được điều động đến Tân Cảng và nhanh chóng quét sạch địch quân khỏi khu vực này. Tại Củ Chi, sau khi triệt thoái từ Tây Ninh, lực lượng bộ chiến Sư đoàn 25 Bộ binh đã cố gắng lập tuyến chận địch tại Củ Chi. Tại vòng đai Sài Gòn, Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã tổng điều động toàn bộ lực lượng cơ hữu và tăng phái để lập các cụm điểm chận địch tại các yết hầu trọng yếu vào Sài Gòn.
Sáng ngày 27 tháng 4/1975, tình hình Thủ đô Sài Gòn đã trở nên sôi động khi Cộng quân bắt đầu pháo kích vào vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất, tiếp đó một đơn vị đặc công CSBV đã tấn công cầu xa lộ Tân Cảng và cầu xa lộ Biên Hòa. Lực lượng xung kích của Biệt khu Thủ đô đã được điều động khẩn cấp để giải tỏa áp lực địch. Đến chiều ngày 27/4/1975, lực lượng tiếp ứng VNCH đã giải tỏa áp lực địch tại các khu vực này, Cộng quân phải rút lui sau khi bị tổn thất nặng.
Tại Bình Dương, liên tiếp trong các ngày 26 và 27/4/1975, Cộng quân tấn công mạnh vào phòng tuyến của một trung đoàn thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh gần quận lỵ Phú Giáo, 2 phi cơ phản lực của Không quân VNCH luân phiên thực hiện các đợt oanh tạc vào những vị trí tập trung của Cộng quân để ngăn cản sức tiến quân của địch. Trong nỗ lực chận đứng các cuộc tấn công của đối phương vào căn cứ Lai Khê, bản doanh của bộ Tư lệnh và một số đơn vị của Sư đoàn 5 BB, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn, đã cho lập các cụm điểm án ngữ quanh vòng đai căn cứ này. Cũng cần ghi nhận rằng từ khi quận Chơn Thành bị bỏ ngõ vào giữa tháng 4/1975, căn cứ Chơn Thành trở thành tiền đồn của tỉnh Bình Dương. Trong một chuyến thị sát tình hình chiến trường, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3, đã khuyên Tướng Vỹ nên di chuyển Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB ở Lai Khê về Phú Lợi, chỉ nên để lại 1 trung đoàn phòng ngự căn cứ. Tuy nhiên đã không đồng ý. Ông nói với tướng Toàn: Nếu bộ Tư lệnh Sư đoàn di chuyển về Phú Lợi, anh em binh sĩ sẽ nói mình là “di tản chiến thuật”…Tôi quyết ở lại sống chết với căn cứ này…
Thơ Hàn Sĩ Phan – Hồi tưởng 30 Tháng 04/75
Năm bảy ba Hiệp định Paris ký,
Kis-Nixon chỉ lo Mỹ rút quân.
Còn Việt Nam mặc kệ chuyện Việt Nam,
Kít phủi tay rõ ràng không chối cải.
Hai năm sau Mỹ cuốn cờ tháo chạy,
“Hòa bình danh dự” như vậy phải chăng?
Ba mươi tháng tư một chín bảy lăm,
Dấu ấn đau thương, dân Nam nhớ mãi!
Bốn mươi lăm năm trước tôi ở lại,
Cùng Miền Nam quằn quại lúc lâm chung.
Sài Gòn, Thủ Đô cứ điểm cuối cùng
Công bố đầu hàng, cáo chung cuộc chiến.
Một sự thật dân miền Nam chứng kiến,
Mười hai năm sau binh biến sáu ba:
“ Người trảm thủ cả hai nền Cộng Hòa
Trùng tên Minh với cáo gìa Hồ tặc!”
Giành chính quyền để chờ đầu hàng giặc,
Thành phần thứ ba “đẹp mặt” hay chưa?
Chính khứa gì mà đầu óc ngu ngơ,
Giống lũ Mặt Trận bị lừa chẳng biết !
Cùng lúc đó làm sáng ngời Sử Việt,
Những Anh Hùng tuẫn tiết với non sông.
Vì nợ Nước sinh thời trả chưa xong,
Dùng cái chết chứng tỏ lòng trung nghĩa.
Trong nhiễu nhương có nhiều tên vô sĩ,
Theo đóm ăn tàn Hoan hỉ tung hê,
Kiếm chút lợi danh, bán rẻ lương tri,
Bích chương, cờ quạt, cúi qùy đón giặc !
Chẳng bao lâu bọn nầy cũng sáng mắt,
Cộng sản chẳng dành ngỏ tắt cho ai.
Muốn quyền chức phải vô Đảng lâu dài,
Giỏi gian trá, chẳng cần tài chữ nghĩa.
Một đám miền Nam: trí thức, nhân sĩ
Dương cờ giải phóng, Cộng phỉ giật giây.
Ba mươi tháng tư lộ rỏ mặt mày
Chỉ là công cụ tay sai Bắc Việt.
Tháng năm dài có khiến Họ hối tiếc,
Việc mình làm đã tiêu diệt Tự Do,
Đã tước đoạt mọi Hạnh Phúc Ấm No,
Cùng Cộng sản hủy Cơ Đồ dân tộc.
Còn liêm sĩ phải nói lên sự thật,
Biến lỗi lầm thành bài học sửa sai.
Đã thức khuya nên biết rỏ đêm dài,
Hảy thức tỉnh đừng miệt mài mê muội.
Nhắc chuyện cũ không phải để tiếc nuối,
Mà đừng quên mọi tội lỗi Cộng quyền,
Đã làm cho dân Việt phải đảo điên,
Dìm Tổ Quốc vào đêm đen thế kỷ.
…..
Tình cờ là chứng nhân bất đắc dĩ,
Sống giữa một thời dâu bể tang thương,
Trong niềm đau phải ly biệt Quê Hương,
Cùng chia sẽ chung nỗi buồn Dân Tộc!
Người chiến sĩ VNCH – những ngày cuối cùng của cuộc chiến
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn, Cờ còn nước đánh phải đành thua (*)
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:
1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ.
Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.
Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh”.
2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.
Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những người đầu hàng. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu này không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.
Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng.
Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon.
Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.
Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.
Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu tự tử.
Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998)
Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…
3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.
Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”
4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”
Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”
Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…
Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.
Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do
Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.
( Không biết tác giả)
(*) Thơ Thanh Nam
http://langa20xuanphuoc.blogspot.com/2013/04/nguoi-chien-si-vnch-ngay-cuoi-cung-cua.html
Vui cười
Trong lúc xưng tội, cô gái nghiêng sát vào tấm lưới và nói:
– Xin cha hãy tha cho con tội tự đắc, vì hằng ngày con đều soi gương và tự nhủ rằng mình thật quá xinh đẹp.
Vị Linh Mục nghiêng mình về phía tấm lưới để quan sát kỹ cô gái, rồi nói:
– Cha cho con biết một tin vui: Đây không phải là hành vi phạm tội, mà chỉ là một sự nhầm lẫn.
Trận đánh Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, hay là ‘chiến công trên giấy… báo?’ – Huy Phương
Ðại Tá VNCH Chu Văn Hồ, nguyên chỉ huy trưởng Trung Tâm Ðiện Toán Nhân Viên, Phòng Tổng Quản Trị, Bộ TTM-QLVNCH, hiện cư ngụ tại New Jersey là sĩ quan cao cấp duy nhất có mặt tại Bộ TTM-VNCH vào trưa ngày 30 Tháng Tư, 1975. Ông được Bảy Vĩnh, đại diện quân Bắc Việt, vào tiếp thu Bộ TTM, cấp cho tờ giấy giới thiệu, “tạm thời có nhiệm vụ bảo quản của công!” trong khi chờ đợi các lực lượng Việt Cộng vào.
Theo lời Ðại Tá Hồ, sáng hôm đó, sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì Bộ TTM là một ngôi nhà không chủ, bỏ trống, không còn binh sĩ, chỉ có một số đơn vị trưởng ở lại để “chờ bàn giao” theo lệnh.
Vào khoảng 10 giờ 30 sáng, có một cán bộ Bắc Việt tên Bảy Vĩnh (trên giấy tờ ghi là Quân Ðoàn Trưởng QÐ 2 giải phóng thủ đô) đi trên xe Jeep do một tài xế tên Suốt (phục vụ tại Phòng 7 Bộ TTM làm nội tuyến) đến gặp Ðại Tá Chu Văn Hồ ở Trung Tâm Ðiện Toán Nhân Viên, mượn thang lên treo cờ ở tòa nhà chính, rồi ra về, đến tối mới dẫn một toán quân đi từ cổng số 1 vào. Khi đó, quân phòng thủ Bộ TTM không còn ai nữa.
Bảy Vĩnh đóng quân tại Trung Tâm Ðiện Toán của Ðại Tá Chu Văn Hồ, mấy ngày sau mới bàn giao cho chuyên viên ở Bắc Việt vào.
Theo một bài báo của Tướng Cộng Sản Trần Văn Trà đăng trên tạp chí Ngày Nay, số đề ngày 1 Tháng Năm, 1990, xác nhận người vào Bộ TTM đi bằng xe Jeep, gặp Ðại Tá Hồ, sau đó lên tòa nhà chính cắm cờ với sự trợ giúp của một hạ sĩ là nội tuyến! Không một tiếng súng!
Chấm hết!
Nhưng theo sách vở và sự tuyên truyền của Bắc Việt, 55 ngày đêm chiến đấu của Việt Cộng là thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, vũ bão, sáng tạo, và ca tụng kiểu Võ Nguyên Giáp: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng!”
Nếu với chỉ một chiếc xe Jeep, chiến lợi phẩm lượm dọc đường và một tên lính nằm vùng, Bảy Vĩnh vào Bộ TTM-QLVNCH treo cờ mà không cần bắn một phát súng, đổ một giọt máu, thì trận đánh chiếm miền Nam có còn chi là hào hùng, vũ bão!
Ðể lừa bịp hậu sinh và dân chúng miền Bắc, 10 năm sau, trận chiến này được vẽ lại trên mặt báo:
Trong cuốn “Tự Ðiển Bách Khoa Quân Sử” của Bộ Quốc Phòng CSVN xuất bản năm 2004 tại Hà Nội, do hơn 100 tướng lãnh và hơn 1,000 đại tá viết, trong trang 1023, trong bài “Trận Bộ Tổng Tham Mưu,” đã viết ra những dòng trên giấy, vẽ ra một trận tiến công tưởng tượng như sau:
“Lực lượng địch tại Bộ TTM khoảng 4,400 quân (gồm cơ quan văn phòng, 1 tiểu đoàn tổng hành dinh, 1 tiểu đoàn truyền tin, 1 đại đội quân cảnh, 1 chi đoàn xe tăng thiết giáp, 2 đại đội pháo và súng cối…) Ngoài ra, còn có lực lượng bảo vệ vòng ngoài của hệ thống phòng thủ Sài Gòn. Với sức mạnh áp đảo, sáng 30 Tháng Tư, ta tiếp tục tiến công tiêu diệt các ổ đề kháng và lực lượng phản kích của địch, hình thành nhiều mũi đột phá cổng chính và cổng 1, 2, 3, đồng loạt đánh chiếm các mục tiêu trong Bộ TTM, làm chủ và kết thúc trận đánh lúc 11 giờ 30 phút. Kết quả diệt, bắt và làm tan rã toàn bộ quân địch:
-Thu và phá hủy gần 200 xe quân sự (phần lớn là xe tăng và xe bọc thép),
-Sáu khẩu pháo,
-Bắn cháy hai máy bay trực thăng,
-Thu hơn 3,500 súng bộ binh và nhiều tài liệu quan trọng…”
Trong “Những trận đánh làm nên lịch sử” do nhà xuất bản Quân Ðội Nhân Dân, Hà Nội, xuất bản, bài “Ðánh chiếm Bộ Tổng Tham Mưu:”
“Ðến cổng số 3, Ðại Ðội 6 gặp địch ngăn chặn, súng máy, súng tiểu liên của chúng quét như vãi đạn từ các ô cửa xuống mặt đường, năm chiến sĩ của ta bị thương nặng phải đưa về phía sau. Phải chia cắt để tiêu diệt địch ta mới có thể vào sâu bên trong, chính trị viên Trần Hạng trao đổi với đại đội phó Nguyễn Ðức Dương và lập tức Ðại Ðội 6 tách thành hai mũi. Chính trị viên Hạng chỉ huy mũi thứ nhất vượt qua làn đạn, nhằm hướng Bộ Tổng Tham Mưu tiến vào. Mũi thứ hai do đại đội phó Dương chỉ huy sử dụng M48 bao vây địch ở khu tiếp liệu, tới tấp nã đạn về phía quân ngụy. Chỉ 10 phút sau, tiếng súng địch im bặt.
“Ở ngoài cổng số 6, Ðại Ðội 5 cùng Trung Ðội 2, Ðại Ðội 7 dùng pháo cối chế áp cùng hai chiếc K63, bốn chiếc M48, đột kích thẳng vào khu nhà hai tầng. Nhưng bọn địch đã lập tức di chuyển về phía sân vận động và bắn như điên cuồng về phía quân giải phóng.
“Lúc này, binh lính địch quăng súng, lột áo chạy tháo thân, tiểu đoàn biệt kích dù, tiểu đoàn bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu tan rã nhanh chóng.
“Chỉ một lát sau, lá cờ giải phóng đã tung bay tên nóc nhà Bộ Tổng Tham Mưu ngụy, trong tiếng reo hò của quân ta và nhân dân vùng phụ cận !!!”
Thông Tấn Xã Việt Nam, Tháng Tư, 2015, có bài “Cắm cờ trên nóc Bộ Tổng Tham Mưu:”
“Qua 40 năm nhưng ông Ðông vẫn nhớ như in từng chi tiết với nỗi niềm tự hào của người lính cụ Hồ. Ông kể vào khoảng 11 giờ kém 20 ngày 30 Tháng Tư, 1975 theo đường Trần Xuân Soạn tiến về đường Hàm Nghi, Tiểu Ðoàn 2 đánh thẳng vào cổng số 1 Bộ Tổng Tham Mưu ngụy quyền Sài Gòn. Lúc này cuộc chiến đấu vô cùng ác, Tiểu Ðoàn 2 không thể thọc sâu tấn công được.
“Theo lệnh của chỉ huy trưởng Thiều Quang Nông xe bọc thép tiến vào cổng số 2 Bộ Tổng Tham Mưu. Hai lô cốt bị tiêu diệt, thừa thắng xe bọc thép húc tung cánh cửa Bộ Tổng Tham Mưu tiến vào nội tâm. Lúc này xe tăng của ta và quân giải phóng đồng thời tiến vào đánh chiếm các mục tiêu quan trọng của giặc. Ông Ðông hồi tưởng lại.
“Trong đó, xe bọc thép chờ đội trinh sát của ông Ðông lao thẳng vào tòa nhà ba tầng cao nhất. Ông Ðông nhẩy xuống trước, các đồng đội theo sau hỗ trợ. Phía trong nhà Bộ Tổng Tham Mưu còn rất nhiều giặc. Nhanh trí, ông Ðông đã khống chế một tên địch và bắt dẫn lên lối gần nhất nóc nhà ba tầng.
“Sau khi cả đội lên đủ năm người,mỗi người một nhiệm vụ, phối hợp nhanh chóng cắm được lá cờ của lực lượng giải phóng. Ông Ðông mở ba lô lấy cờ, ông Lại Ðức Lưu tung cờ, ông Ðỗ Xuân Hương lồng cờ vào cán.”
Từ câu chuyện ông Bảy Vĩnh với sự trợ giúp của một anh lính nằm vùng trong Bộ TTM, mượn thang treo cờ, biến thành câu chuyện có đến ba anh chàng trong “toán treo cờ,” anh mở ba lô lấy cờ, một anh tung cờ, một anh lồng cờ vào cán, thật là rắc rối!
Ngoài ra, còn nhiều báo và phim bịa đặt nói về trận đánh Bộ TTM và cắm cờ ngày 30 Tháng Tư, 1975, trong phim có nhiều anh bộ đội chạy lúp xúp, nấp sau gốc cây, nhưng lúc quay phim thì toàn bộ các tòa nhà Bộ TTM đã sơn màu khác rồi!
Trận đánh vào Bộ TTM, lúc thì Cộng Sản cho là do công của Trung Ðoàn 48, khi thì nói là của Biệt Ðộng Sài Gòn.
Phỏng vấn những nhân vật tưởng tượng không tham gia gì trận đánh như Ðại Tá Nguyễn Văn Tàu và Ðại Úy Lương Hoài Nam, và những nhân vật tự nhận là người cắm cờ đầu tiên ngày 30 Tháng Tư, 1975 ở Bộ TTM.
Ðể tìm hiểu sự thật của lịch sử, xin đọc “Lược Sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,” xuất bản năm 2011 (trang 849-854) của các tác giả Trần Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, và Lê Ðình Thụy, đã in thủ bút của Bảy Vĩnh khi vào gặp Ðại Tá Chu Văn Hồ, chứng nhận Ðại Tá Hồ “đã bàn giao cho cách mạng.” Không có đơn vị Cộng Sản nào đánh chiếm Bộ TTM ngày 30 Tháng Tư, 1975, thì làm gì có việc Bắc Việt đã tiến công bắn hạ hai trực thăng, phá hai khẩu pháo, hàng trăm xe bọc thép, và tịch thu hàng nhìn khẩu súng.
Ðây là những chiến công tưởng tượng chỉ có trên mặt giấy… báo.
Nhất là đoạn văn “cờ được treo trong tiếng reo hò của quân ta và nhân dân vùng phụ cận!” thì quả là phét lác quá sức. Lúc đó có một mình ông Bảy Vĩnh thì “quân ta” ở đâu mà reo, và trong khu vực Bộ TTM rộng lớn ở xa phố xá thì lấy đâu ra dân mà hò?
Cuối cùng thì vẫn là: “Ðừng nghe những gì Cộng Sản nói…” Bệnh mãn tính Cộng Sản là sự dối trá. Viết sử giả tạo không đúng sự thật, cũng giống như người làm chứng gian, để cho đời sau rơi vào sự lầm lạc.
“Chủ nghĩa Cộng Sản và sự dối trá là một; và để chúng ta thấy rằng dối trá là hiện tượng thuộc về bản chất của các xã hội Cộng Sản trên toàn thế giới.” (Bauxit online).
Thơ Trần Văn Lương
Dạo:
Người ơi, nếu muốn gửi về,
Thì xin gửi những gì quê hương cần.
Cóc cuối tuần:
Nếu Muốn Gửi Về
Hỡi người bạn vượt biên từ năm ấy,
Được Trời thương cho trẩy bước tới nơi,
Tạ ơn người dù đang sống thảnh thơi,
Vẫn nhớ đến những mảnh đời kẹt lại.
Bạn bối rối, ngập ngừng, băn khoăn mãi,
Muốn hỏi tôi, nếu hải ngoại có lòng,
Phải gửi gì về để giúp non sông,
Tôi xin được có đôi dòng suy nghĩ.
x
x x
Xin đừng gửi về những đồ xa xỉ,
Những món hàng mang hiệu Ý, hiệu Tây,
Người dân đen ăn không đủ mỗi ngày,
Làm sao dám mơ mòng hay ngấm nghé.
Xin đừng gửi về bên đây ngoại tệ,
Sẽ vào tay bọn đồ tể bưng biền,
Còn dân đen chỉ được phép dùng tiền
Mà bọn chúng có quyền in tùy tiện.
Xin đừng gửi những “phái đoàn từ thiện”,
Ồn ào về “ban phúc”, tiện mua danh,
Chỉ béo cho lũ giặc có quyền hành,
Vì có kẻ nuôi dân lành thay chúng.
Xin đừng gửi lũ con buôn lợi dụng,
Đem đô la về lũng đoạn thị trường,
Làm giàu cùng đám cán bộ bất lương,
Mặc dân Việt trơ xương nằm ngắc ngoải.
Xin đừng gửi bầy “xướng ca vô loại”,
Chúng giờ đây ở hải ngoại hết thời,
Bèn trở về kiếm chác chút tiền tươi,
Nên nịnh nọt, nói những lời trâng tráo.
Xin đừng gửi nhóm người ham danh hão,
Được bạo quyền bốc láo tận trời cao,
Nên quay về, quên khổ nhục năm nao,
Ra mắt sách xong ồn ào họp báo.
Xin đừng gửi những tấm thân già lão,
Lận tiền còm, diện áo gấm xênh xang,
Về cả đàn tìm cưới dọc cưới ngang
Những thiếu nữ tuổi đáng hàng con cháu.
x
x x
Nhưng hãy gửi điều bạo quyền muốn giấu,
Để toàn dân được thấu hiểu rõ ràng
Ai là người làm đất mẹ tan hoang,
Ai là kẻ đã và đang bán nước.
Xin hãy gửi về quê hương kiến thức
Của người dân một đất nước tự do,
Biết đòi quyền được hạnh phúc ấm no,
Giúp vạch mặt bầy Cộng nô ác đức.
Nhưng trên hết xin gửi về tin tức,
Mà chúng tôi hằng háo hức muốn nghe:
– Rằng những người đang vất vưởng xa quê,
Vẫn còn giữ lời thề khi bỏ xứ;
– Rằng tuy sống nương nhờ nơi lữ thứ,
Lá Cờ Vàng vẫn rạng rỡ tung bay,
Vẫn được người tỵ nạn giữ trên tay,
Khắp các chốn vẫn đêm ngày hiện diện;
– Rằng khi có những chương trình thắp nến,
Dù xa xôi người vẫn đến thật đông,
Muôn câu ca, vạn ánh lửa một lòng,
Cùng nhớ tới thời biển Đông lận đận;
– Rằng đời sống dù muôn ngàn thứ bận,
Chẳng ai quên ngày Quốc Hận đau thương,
Người mang danh tỵ nạn vẫn xuống đường
Điểm mặt lũ gây nên trường đại họa;
– Rằng người Việt vẫn giữ gìn văn hóa,
Dù đêm ngày vất vả nẻo tha phương,
Vẫn không hề quên truyền thống quê hương,
Vẫn hành động đúng luân thường đạo lý;
– Rằng tiếng Việt được bảo tồn thật kỹ,
Không học đòi lũ khỉ ở bên kia,
Cứ “từ” này, “cụm từ” nọ tía lia,
Hết “tản mạn” lại “cực kỳ” “bức xúc”;
– Rằng ngọn lửa vẫn được truyền liên tục
Trong chương trình giáo dục thế hệ sau,
Để con em biết được bởi vì đâu
Cha mẹ chúng phải ôm sầu ly biệt;
– Rằng đất khách, người lưu vong gốc Việt,
Bao năm rồi vẫn đoàn kết trước sau,
Chẳng bao giờ khích bác tấn công nhau,
Chung vai gánh nỗi buồn đau mất nước.
x
x x
Nhưng chua xót, đó chỉ là mơ ước,
Những điều này thực tế được bao nhiêu.
Lòng người nay đã thay đổi quá nhiều,
Vì danh lợi nên sớm chiều trở mặt.
Dân trong nước thờ ơ không thắc mắc,
Kẻ ngoài về rặt nhắm mắt ăn chơi.
Đâu phải chỉ tại Trời,
Mà nước mất vào tay loài dị tộc
Trần Văn Lương
Cali, mùa Quốc Hận 2020
Tướng Lê Minh Đảo và những người lính sư đoàn 18 bộ binh QL/VNCH – Phan Nhật Nam
… “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.”
“Bình Ngô Đại Cáo” (1428) – Nguyễn Trãi
Về Tướng Quân Lê Minh Đảo và Những Người Lính Sư Đoàn 18 Bộ Binh
Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ
Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù
Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân
và những đơn vị thống thuộc Quân Đoàn III, Tiểu Khu Long Khánh/ VNCH
Đến những giòng chữ cuối cùng của tập ký sự nầy, tự bản thân có cảm giác kiệt sức, sụp xuống. Cũng có thể vì phải đọc, phân loại, biên soạn khối tài liệu quá lớn về một cuộc chiến tranh liên quan đến nhiều giới người, nhiều phe phái, diễn ra trong một quá trình lâu dài, tác động nghiêm trọng đối với lịch sử của nhiều quốc gia – Cuộc chiến mà những phe tham dự mãi đến hôm nay vẫn chưa có những kết luận chung nhất. Tại sao và do đâu đã nẩy sinh ra một tình thế bi thảm và bế tắc đến như thế? Tại sao và do đâu mà trận chiến đã mãi kéo dài với hậu quả khốc hại mấy mươi năm qua hằng khoét sâu vào tâm thức, trí nhớ của mỗi người – Người Mỹ lẫn người Việt; kẻ gọi là thắng lợi ở trong nước kia, hoặc người phải chịu cảnh nước mất nhà tan sau lần xé cờ, gãy súng. Nhưng chung nhất là buộc phải thấy lại toàn bộ tình cảnh oan khốc của chiến tranh mà không ai xa lạ, chính là toàn khối người Việt, tập thể đơn vị quân đội, gia đình, bản thân từng chịu đựng.
…
Cuối cùng, lời của TT Nguyễn Văn Thiệu cũng có phần chính xác như câu nói bất hủ của ông: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” vì quả thật pháo đang rơi xuống, đang trút xuống như mưa lũ trên đầu người lính cũng như trên đầu người dân. Đạn pháo, hỏa tiễn của binh đoàn quân cộng sản Bắc Việt (thuần là đơn vị quân đội Hà Nội) đang dội xuống như mưa lũ ở Long Khánh – cửa ngõ phía Đông – Bắc dẫn vào Sài Gòn – nơi bản doanh Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo giữ quyền Tư Lệnh – Vị Tướng lãnh thăng cấp cuối cùng của quân lực để chứng thật cùng thế giới và lịch sử: Người Lính nào đã quyết tâm chiến đấu thực hiện nghĩa vụ Bảo Quân An Dân nơi Miền Nam. Và sự sụp vỡ ngày 30 tháng Tư, năm 1975 hoàn toàn vượt tầm đạn bắn ra từ nòng súng chiến đấu của họ – Quân Lực Cộng Hòa.
Mặt đối mặt qua bãi lửa
Bình nguyên Tỉnh Long Khánh trải rộng trên vùng rừng miền Đông Nam Bộ, tả ngạn sông Đồng Nai, trước đây vốn là Quận Xuân Lộc thuộc Tỉnh Biên Hòa. Năm 1955 Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa thành hình những đơn vị hành chánh mới, Xuân Lộc tách ra thành một tỉnh riêng với thủ phủ là vị trí của quận đường cũ nay được mang thêm danh xưng là Quận Châu Thành Tỉnh Long Khánh. Sau thành công đánh chiếm Tây Nguyên (Vùng II) và Vùng I Chiến Thuật do sự rút bỏ hỗn loạn của Quân Đội Miền Nam; phía cộng sản rút kinh nghiệm từ Mậu Thân (1968) và Tổng công kích Xuân-Hè 1972 quyết tâm tiêu diệt Miền Nam qua chiến thuật tập kích tấn công từ một điểm xong mở rộng ra, tránh giao tranh nếu gặp kháng cự mạnh để tất cả đồng nhất tiến về Sài Gòn – Mục tiêu cuối cùng phải đánh chiếm của cuộc chiến tranh “giải phóng ngụy danh”..
Trung Ương Đảng ra lệnh cho Trung Ương Cục Miền Nam cùng tất cả lực lượng vũ trang phải hoàn thành công cuộc giải phóng Miền Nam: Xung phong tiến lên tấn công SàiGòn, mà hiện tại kẻ thù đang tan rã, không còn sức mạnh chiến đấu. Chúng có năm sư đoàn, chúng ta có mười lăm sư đoàn, chưa kể đến lực lượng hậu bị chiến lược. Chúng ta phải chiến thắng bất cứ giá nào: Đấy là quan điểm của Trung Ương Đảng. Khi tôi (Lê Đức Thọ) rời miền Bắc, các đồng chí ở Bộ Chính Trị đã nói rằng: “Đồng chí phải đoạt thắng lợi, đồng chí chỉ trở về với chiến thắng”
Chiến dịch HCM được đặt tên qua công điện 37/TK do chính Lê Đức Thọ, Chính ủy chiến dịch phổ biến đến với tất cả lực lượng vũ trang đang có mặt tại miền Nam- Mười lăm sư đoàn quân chính quy cộng sản Bắc Việt. Những danh xưng nầy cần phải viết đủ để trả lời cho những quan điểm chiến lược vạch nên từ Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, được phổ biến khắp hệ thống truyền thanh, truyền hình thế giới trong bao năm qua: Chiến tranh Việt Nam là do lực lượng Việt cộng (những người “quốc gia yêu nước Miền Nam” nổi dậy lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa); nếu lực lượng của Hà Nội có kể đến chăng thì cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ đóng vai trò “yểm trợ” vì “98% của vấn đề (chiến tranh) là ở Miền Nam chứ không là Miền Bắc.
Bởi quan niệm như thế kia, nên hôm nay, sau lần ký Hiệp Định Paris hai năm, ba tháng, tình hình quân sự hoá nên tồi tệ như một điều tất yếu, Quá trình đùa cợt và khinh miệt nỗi khổ đau của toàn Dân Tộc Việt – Khối dân bi thương luôn cầu mong dược sống một ngày bình an qua gần nửa thế kỷ sống trong lửa.
Chúng ta trở lại chiến trường với Tướng Lê Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng vây của lửa. Ở mặt trận Long Khánh, ngay từ ngày đầu của năm 1975, Sư Đoàn 18 BB đã phải đối phó với tình trạng căng quân ra giữ vững vùng lãnh thổ trách nhiệm, cùng tập trung lực lượng để chiếm lại phần đất đã bị lấn chiếm. Tiếng gọi là một sư đoàn, nhưng Tướng Đảo chưa hề tập trung đủ lực lượng cơ hữu để điều động trong một cuộc hành quân quy mô cấp sư đoàn. Đầu tháng Ba 75, Trung Đoàn 48 lại tăng phái cho Sư Đoàn 25 trách nhiệm mặt trận Tây Ninh, vùng Tây Sài Gòn cũng chung Vùng III Chiến Thuật với Sư Đoàn 18. Thế nên khi trận chiến bắt đầu 9 tháng 4, 1975 ông chỉ có một lực lượng sư đoàn (trừ) gồm những đơn vị:
– Chiến đoàn 43 do Đại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy gồm trung đoàn 43 (trừ Tiểu Đoàn 2/43 đóng giữ các cao điểm quan trọng) gồm Tiểu Đoàn 2/52 (cơ hữu của Trung Đoàn 52); Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Phải nói qua đơn vị kỳ lạ nầy với sự tồn tại tưởng như huyền thoại. Tiểu Đoàn 82 vốn thuộc Quân Khu II Tây Nguyên, khi mặt trận Ban Mê Thuộc bị vỡ, Thiếu Tá Long vừa đánh vừa rút lui xuống đồng bằng. Từ Ban Mê Thuộc Long đưa đơn vị vượt Cao Nguyên Di-Linh băng rừng về Bảo Lộc (nằm trên Quốc Lộ 20 khoảng giữa đường đi Đà Lạt), ông tiếp tục băng rừng theo hướng Tây- Nam về Long Khánh.
Ngày 6 tháng 4 (gần một tháng sau trận Ban Mê Thuột, ngày 10 tháng 3), Tướng Đảo nhận được một công điện khẩn từ các toán tiền đồn. Một đơn vị lạ với y phục Biệt Động Quân xuất hiện. Sau khi kiểm chứng với Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu III (Biên Hòa), Tướng Đảo dùng trực thăng bốc toán quân của Thiếu Tá Long – một tiểu đoàn BĐQ chỉ còn khoảng 200 người. Lực lượng Chiến Đoàn 43 có nhiệm vụ phòng thủ nội vi Xuân Lộc hợp cùng các đơn vị của Tiểu Khu Long Khánh do Đại Tá Phúc làm Chỉ huy Trưởng.
– Chiến Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng gồm Trung Đoàn 52 (trừ Tiểu Đoàn 2/52 tăng phái như kể trên) và các đơn vị trinh sát, thiết giáp, pháo binh thống thuộc hành quân. Đơn vị nầy trấn giữ dọc Quốc Lộ 20 (Bắc-Tây Bắc Long Khánh) từ Kiệm Tân (cứ điểm chận đường từ Đà Lạt xuống) đến Ngã Ba Dầu Giây (giao điểm của hai Quốc Lộ I và 20), nút chận về Biên Hòa, nơi đặt bản doanh của Quân Đoàn III, Sư Đoàn 3 Không Quân, thị xã cách Sài Gòn 30 cây số về hướng Bắc.
– Trước khi trận chiến bùng nổ lớn, Thiếu Tướng Đảo khẩn thiết yêu cầu viên Tư Lệnh Quân Đoàn, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn hoàn trả lại Trung Đoàn 48; khi nhận được trung đoàn nầy về, Tướng Đảo xử dụng đơn vị để trấn giữ mặt Đông thị xã – đoạn đường từ Xuân Lộc đến thị trấn Giá Rai, mặt bắc của Ngã Ba Ông Đồn đường đi vào Quận Tánh Linh, Tỉnh Bình Tuy, trung tâm của mật khu Rừng Lá mà từ đầu khởi cuộc chiến (1960) đã là một vùng bất khả xâm phạm do đấy là hành lang chuyển quân từ đồng bằng, vùng biển (Vùng III của VNCH) lên miền Tây Nguyên.
Với quân số như kể trên, Sư Đoàn 18 Bộ Binh quả thật đã gánh một nhiệm vụ quá khổ dẫu trong thời bình yên chứ chưa nói về tình thế khẩn cấp của tháng 4, 1975. Trước 1972, vùng nầy được tăng cường một lữ đoàn thuộc lực lượng Hoàng Gia Úc-Tân Tây Lan, Lữ Đoàn 11 Chiến Xa do Đại Tá Patton chỉ huy; chưa kể đến Sư Đoàn Mãng Xà Vương Thái Lan tăng phái, trách nhiệm vùng Long Thành, dọc Quốc Lộ 15, đường đi VũngTàu.
Sư Đoàn 18 BB lại là một đơn vị tân lập (chỉ trước Sư Đoàn 3 Bộ Binh của Vùng I), nhưng những người lính cơ hữu cùng các đơn vị diện địa, tăng phái đã lập nên kỳ tích tưởng không thực vào trong lúc toàn bộ quân lực, đất nước thậm khẩn cấp nguy nan, những đại đơn vị đã vỡ tan. Tướng Quân Lê Minh Đảo về nắm quyền chỉ huy đơn vị từ sau trận chiến Mùa Hè 1972, và ông đã dựng nên sự biến đổi thần kỳ với bản lãnh thực sự của một “võ tướng”: Sống-Chết cùng Binh Sĩ- Đơn Vị. Phải, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo không có gì ngoài những người lính gian khổ dưới quyền, những viên sĩ quan cấp Úy Trung đội Trưởng, với quân số còn lại đúng “mười hai-người” chờ đợi để chết trước lần một biển người, chiến xa, đại pháo dập tới.
Nếu có một người (chỉ một người thôi) để ông có thể trao lòng tin cậy cùng là một vị tướng nổi danh liêm khiết – Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III- Nhưng oan nghiệt và uất hận thay, trong giờ phút sôi lửa kia, vị tướng trung chính ấy đã chết vì một viên đạn bức tử tại văn phòng do “sẩy tay, lạc đạn khi chùi súng?!”(13). Quả thật, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo không còn ai, không có ai ngoài tập thể những Người Lính đang quyết lòng giữ chắc tay súng – Nhiệm vụ mà họ xả thân tận hiến từ một thuở rất lâu không hề nói nên lời. Trận thử sức cuối cùng, tháng 4, 1975 tại Xuân Lộc, Long Khánh là một dấu tích sẽ còn lại muôn thuở với lịch sử. Chúng ta không nói điều quá đáng. Hãy nhìn sang phía đối phương để thử tìm so sánh, từ đấy lập nên phần thẩm định chính xác.
Đối mặt binh đội của Tướng Đảo là Quân Đoàn IV cộng sản Bắc Việt do Trung Tướng Hoàng Cầm chỉ huy. Một quân đoàn vừa thành hình trong ngày 20 tháng 7, 1974 theo sách lược chung của cộng sản Hà Nội – Toàn phần vất bỏ Hiệp Định Paris, quyết thanh toán Miền Nam bằng vũ lực với trận mở màn thử xem phản ứng của chính quyền, quân đội Mỹ: Tấn Công Thị Xã Phước Long thuộc tỉnh Phước Bình (Đông-Bắc Sài Gòn, tháng 12, 1974). Sau lần lấn chiếm đóng Phước Long (7 tháng 1, 1975) mà chính phủ Mỹ hoàn toàn im lặng, cũng tương tự như phản ứng thụ động của Hạm Đội 7 Mỹ để mặc Hải Quân Trung Cộng chiếm đóng Trường Sa, tấn công tiêu diệt Hạm Đội Việt Nam, Bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Hà Nội quyết định thanh toán Miền Nam bằng súng đạn, điển hình qua câu nói khoái trá của Phạm Văn Đồng trong buổi hội đầu năm 1975: “có cho kẹo Mỹ cũng KHÔNG vào lại Việt Nam“.
Quân Đoàn 4 cộng sản của Tướng Hoàng Cầm trách nhiệm tấn công Sài Gòn từ mặt Đông-Bắc qua ngõ Long Khánh của Tướng Đảo. Tướng Cầm có dưới tay ba sư đoàn: 6, 7 và 341, chưa kể lực lượng địa phương, yểm trợ thuộc Quân Khu 7 cộng sản. Tương quan lực lượng coi như 4 đánh 1. Nhưng cũng không hẳn thế, Tướng Hoàng Cầm còn được cả một bộ chính trị đảng cộng sản Hà Nội trực tiếp chỉ đạo, yểm trợ và tăng cường với Văn Tiến Dũng, tổng tham trưởng quân đội Miền Bắc, Phạm Hùng, bí thư Trung ương cục Miền Nam, Lê Đức Thọ ủy viên Bộ chính trị, Bí thư chiến dịch. Tất cả đang có mặt tại Lộc Ninh, nơi chỉ cách chiến trường Xuân Lộc hơn 100 cây-số đường chim bay.
Thọ vừa đến từ Hà Nội không phải theo “đường mòn HCM” với ba lô trên lưng như cách “mô tả” thành thạo trong những cuốn sách “nghiên cứu” về chiến tranh Việt Nam; nhưng ông ta đến từ sân bay Nam Vang, đi xe hơi đến biên giới Việt-Miên, xong dùng Honda chở tới Lộc Ninh (để tránh phi cơ và biệt kích của phía VNCH phát hiện). Trước những nhân vật kể trên, Trần Văn Trà, Tư lệnh Khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm Hùng hỏi về tiếp liệu đạn dược; viên cán bộ phụ trách hậu cần trả lời: “Báo cáo đồng chí, ta có đủ đạn để bắn (bọn ngụy) sợ đến ba đời …”
Đấy không không phải là lời nói đùa, sau nầy khi thắng lợi nghiêng về phía quân Cộng Hòa, bộ tư lệnh mặt trận (cộng sản) đã cho thay thế Tướng Hoàng Cầm bằng Trần Văn Trà, vốn là người chỉ huy chiến trường miền Đông từ chiến tranh 1945-1954; và tăng cường thêm Sư Đoàn 325, đơn vị tổng trừ bị quân đội miền Bắc, lực lượng nỗ lực chính đánh chiếm Nha Trang, Phan Rang đầu tháng 4, và Trung Đoàn 95B biệt lập từ vùng châu thổ Sông Cửu Long kéo lên tăng cường – nâng tỷ số tác chiến (ban đầu) lên thành 5 đánh 1.
Trận Đánh
Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo chuẩn bị chiến trường đến mức coi như là toàn hảo. Lấy kinh nghiệm đau thương của những đơn vị bạn thuộc hai Quân Khu I và II, ông nhận ra rằng, sở dĩ các đơn vị nầy mất sức chiến đấu mau chóng vì không có người lính nào còn được khả năng chiến đấu khi trong tay họ thay vì nắm chắc vũ khí bấy giờ chỉ để bế đứa con nhỏ, lưng cõng cha, mẹ già bị nạn. Bằng tất cả mọi phương tiện có được, Tướng Đảo cho di tản toàn bộ gia đình binh sĩ về hậu cứ Long Bình và tổ chức một hậu phương an lành, tương đối đầy đủ cho tất cả. Cất bỏ được nặng gánh gia đình, người lính chỉ còn một hướng trước mặt- hướng địch quân tiến tới.
Pháo binh là một yếu tố chiếm giữ phần lớn quyết định sự thắng, bại chiến trường. Một khuyết điểm mà quân lực cộng hòa thường vấp phải là luôn tập trung pháo binh lại một địa điểm để dễ chỉ huy, điều động. Nay Tướng Đảo thay đổi chiến thuật, ông phân tán pháo binh lên những cao điểm như Núi Thị (bên cạnh Đường 20 lên Định quán, đi Đà Lạt), đồi Mẹ Bồng Con (cạnh Quốc Lộ I, đường về Biên Hòa), những cao điểm phía đông và đông-nam Xuân Lộc, nơi ngã ba Tân Phong (cũng là một vị trí di động của bộ chỉ huy; phần sau của chiến trận, giai đoạn rút lui về Bà Rịa (Phước Tuy), dọc Tỉnh Lộ 2 những vị trí pháo nầy sẽ yểm trợ vô cùng hữu hiệu cho đoàn quân di tản).
Tuy phân tán nhưng khi tác xạ, những vị trí pháo nầy cùng bắn một lượt nên “tập trung được hỏa lực vào một mục tiêu” mà địch không dò tìm, phát hiện được vị trí pháo bắn đi (để phản pháo). Thứ đến yếu tố an toàn cho bộ chỉ huy là một yêu cầu tối thượng phải thực hiện, Tướng Đảo cho thiết lập những vị trí chỉ huy khác nhau được đánh số 1,2,3… khi một vị trí bị pháo, ông cho di chuyển qua vị trí thứ hai, và luôn thay đổi trong suốt trận đánh (vị trí thứ 1 ở nhà ông trong thị xã; thứ hai ở Tân Phong; thứ ba trong một vườn vú sữa phía đông của vị trí thứ 2).
Để không cho đối phương an toàn trong vùng họ chiếm giữ, ông tổ chức những trung đội thám sát hoạt động đằng sau phòng tuyến địch, chỉ định vị trí tập trung quân, vị trí pháo binh (địch) xong gọi pháo binh (bạn) bắn tiêu diệt. Điểm cao nhất của thị xã, Trường Trung Học Hòa Bình, ông thiết trí trung tâm đề kháng với Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn do viên Đại Úy cứng cựa nhất trong số những sĩ quan Đại đội Trưởng, Đại Úy Lê Phú Đa, Khóa 25 Đà Lạt.(16) Và cuối cùng, bảo mật liên lạc truyền tin của ta, khai thác truyền tin của địch để phát hiện ý đồ, cách điều quân, các hướng tiến quân của đối phương để chận đánh, giải quyết chiến trường, phá vỡ mưu định tấn công của giặc.
5 giờ 40 sáng ngày 9 tháng 4, 1975- “Giờ H của Ngày N”, chiến dịch đánh chiếm Xuân Lộc bắt đầu (17) với một trận mưa pháo 2000 quả đạn từ nhiều vị trí cùng đổ xuống trung tâm thị xã Xuân Lộc lập lại cảnh tàn sát của một ngày năm 1972, cũng buổi tháng 4 tại An Lộc. Chính xác một giờ sau, 6 giờ 40, tám xe tăng được lính Trung Đoàn 165, đơn vị tiền phong Sư Đoàn 7 tùng thiết xông vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, nơi đặt bộ chỉ huy Sư Đoàn 18.
Lính cộng sản ngỡ rằng sau đợt pháo hung hãn, và đội hình ào ạt, bề thế của những chiếc T54, thế nào cũng sẽ tràn ngập mục tiêu dễ dàng như đã xẩy ra ở những mặt trận “không cần giao tranh” nơi Vùng I và II của tháng 3 vừa qua. Họ cũng được học tập: “Sư Đoàn 18 chỉ là một đơn vị bộ binh tầm thường, nếu không nói là yếu kém” Nhưng hoàn toàn không phải là như thế, những xe tăng nầy mắc kẹt giữa bãi mìn của một hệ thống tám lớp kẽm gai và mìn bẫy mà Thiếu Tướng Đảo đã sẵn bố trí; không những chỉ thế, những phi cơ A37 và F5 từ phi trường Biên Hòa được gọi đến chỉ sau ít phút cất cánh, và trên đồng trống, giữa những khu rừng cao su đều đặn, đội hình của toán quân tùng thiết, chiến xa cộng sản trở nên thành mục tiêu lộ liễu, trần trụi. Nhưng lính bộ binh của Trung Đoàn 165 cộng sản không nhận ra chỉ dấu thất bại, họ tiếp tục tiến lên đợt xung phong thứ hai với những chiến xa còn lại. Lính Đại Đội 1, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 48 đã đợi sẵn với “hỏa tiễn 2.75 ly” đặt trên giá hai chân (lưu ý yếu tố một đại đội đương cự một trung đoàn – tức là tỷ lệ “1 chống 16″; và hỏa tiễn 2.75 vốn là vũ khí cơ hữu của trực thăng vũ trang, sau khi quân đội Mỹ rút đi, khối lượng hỏa tiễn nầy trở nên thặng dư, Thiếu Tướng Đảo biến chế thành vũ khí bộ binh dùng để chống chiến xa bằng cách đặt trên giá tre hai chân, kích hỏa bằng pin) bắn hạ ngay những chiến xa nầy trên tuyến phòng thủ cuối cùng (nếu như thoát được những lớp mìn bẫy tiền tuyến).
Mặt đông của thị xã, dọc Quốc Lộ I, Trung Đoàn 209 (cũng của SĐ 7) số phận cũng không mấy khả quan hơn – bởi họ gặp một đơn vị đang cơn uất hận – Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Lính biệt động đánh để trả hận lần lui quân bi thảm của tháng trước từ mặt trận Ban Mê Thuộc, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 209 bị chôn chân trước tuyến phòng thủ của 82 Biệt Động và Tiểu Đoàn 3/8 của Tướng Đảo.
Sau nầy Hoàng Cầm ghi lại trận đánh trong Hồi Ký Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: những đợt xung phong đánh vào sở chỉ huy của Sư Đoàn 18 và hậu cứ Trung Đoàn 52 ngụy đều không thành công. Chiến sĩ ta giành giựt với địch từng đoạn giao thông hào, qua mỗi căn nhà, căn phố. Điều đáng ngạc nhiên là cuộc tấn công đã bị chận lại không phải chỉ do pháo binh và không quân yểm trợ, hệ thống phòng thủ vững chắc và sức chiến đấu ngoan cố của Trung đoàn 43 ngụy, nhưng điều đáng nói là Đảo đã tổ chức cho từng người lính thuộc sư đoàn mỗi một vị trí chiến đấu …”
Mặt trận phía Bắc của Sư Đoàn 341 tương đối khả quan hơn, một phần địa thế không thích hợp cho việc bố phòng của Chiến Đoàn 52 do Trung Tá Ngô Kỳ Dũng chỉ huy. Viên tư lệnh sư đoàn cộng sản Trần Văn Trấn đi theo với Trung Đoàn 266, đích thân chỉ huy cuộc tiến công. Bộ đội cộng sản tùng thiết thoạt tiên mở được đường qua lớp kẽm gài, mìn bẫy thứ nhất tiến gần đến vùng “Hố Heo Rừng”, nơi Quốc Lộ I chạy một đường quanh gắt trước khi đổ vô thị xã. Nhưng quả như ước tính của Tướng Đảo, đại đội trinh sát của Đại Úy Đa giăng một hàng lưới lửa bằng đại liên 50 chống chiến xa, hiệp cùng máy bay AC119 Hỏa Long tự tầng trời đan kín thêm bằng đại liên Minigun bốn nòng chống biển người vô cùng hữu hiệu.
Sư Đoàn 341 vốn là một sư đoàn tân lập gồm những thanh thiếu niên vùng Quảng Bình vào Nam do nhu cầu “chính trị-quân sự” hơn là một đơn vị tác chiến thuần thành, nên đám tân binh thiếu kinh nghiệm của đơn vị nầy quá hoảng sợ hỏa lực của đại đội trinh sát, phi cơ Hỏa Long chạy dạt qua phần đất của các Đại Đội 340 và 342 Địa Phương Quân Tiểu Khu Long Khánh. Thật không may, đấy lại là những đại đội địa phương cự phách của Tiểu Khu, cũng là của vùng Chiến Thuật, nên cuối cùng đám lính trẻ tuổi của hai Tiểu Đoàn 5 và 7 thuộc Trung Đoàn 266 phải tan hàng, chạy vào lẫn trốn trong khu vực dân cư, bến xe, nhà thờ, trung tâm thị xã.
Đại Đội Trinh Sát của Đại Úy Lê Phú Đa lập lại thành tích “1 chống 16 – Một đại đội chận đứng mũi tiến công một trung đoàn” Tưởng cũng nên nói rõ cũng không thừa chi tiết: Theo tổ chức “tứ chế” của quân đội cộng sản, một tiểu đoàn có 4 đại đội; một trung đoàn có 4 tiểu đoàn. Vậy Trung Đoàn 266 kia đã xử dụng đến 16 đại đội để tấn công một đại đội trinh sát của ta.
Cho dù rằng Sư Đoàn 341 báo cáo đã chiếm được một vài cơ sở trong thành phố như dinh tỉnh trưởng, bến xe, khu chợ, nhưng đến 11 giờ cùng ngày, Thiếu Tướng Đảo tương kế tựu kế, xử dụng những đơn vị trừ bị, Tiểu Đoàn 1/48 và chiến xa của Chi Đoàn 1/5 đẩy Trung Đoàn 270 ra khỏi ngoại vi thị xã; phần bên trong Xuân Lộc, ông phối hợp với vị Tỉnh Trưởng, Đại Tá Phúc dùng hai đại đội địa phương tăng cường Tiểu Đoàn 1/43 diệt gọn tất cả các ổ chống cự lẻ tẻ do những đám nhỏ của Trung Đoàn 266/Sư Đoàn 341 xâm nhập được nhân cơ hội đợt pháo kích sáng sớm.
Tổng kết ngày chiến trận đầu tiên, chỉ riêng Sư Đoàn 341 đã bị thiệt hại khoảng 600 chết và bị thương, cùng một số tù binh (ba-mươi người) bị bắt giữ. Đám thanh thiếu niên nông thôn miền Bắc ngồi ngơ ngẩn giữa nhà cửa, gạch ngói tan vỡ do đạn pháo họ vừa thực hiện, hiểu mường tượng ra về một phần ý nghĩa của công tác “giải phóng” sau lần giao tranh với quân lực Miền Nam. Buổi chiều, Thiếu Tướng Đảo khi đi thanh sát mặt trận bên trong thị xã, ông không quên ra lệnh cho Phòng Quân Tiếp Vụ Sư Đoàn trích một số khẩu phần lương khô để nuôi ăn đám tù binh còn rất mới.
Chiều tối ngày 9 tháng 4 không hẳn là thời gian nghỉ ngơi, phía cộng sản lại dụng tâm gây căng thẳng bằng cách pháo vào khu vực thị xã thêm một loạt liên tục, cũng khoảng 2000 ngàn quả đạn trên khắp các vị trí, không loại trừ khu vực dân chúng, nhà thương, chùa, nhà thờ. Những địa điểm mà họ ước tính dân chúng hay tập trung để trú ẩn do có ý nghĩ tội nghiệp cam chịu: “Việt cộng sẽ tránh các nơi dân cư đông đúc, chốn tôn nghiêm, nhà thương trường học..” Năm 1972, ở An Lộc người dân đã nghĩ như thế và pháo cộng sản cũng đã đánh giá Bệnh Viện Bình Long là một mục tiêu phải bị hủy diệt vì bọn ngụy sẽ tải thương ngưòi bị thương đến đấy.
Đêm 9 rạng 10, ngày 11 tháng Tư, 1975 ở Xuân Lộc cuộc pháo kích cũng mang chung một tính chất với cường độ ác liệt hơn- do để yểm trợ cho bộ binh tiến chiếm bởi Bộ tư lệnh Quân Đoàn 4 cộng sản vẫn không tin quân phòng thủ Xuân Lộc đứng vững sau hai cuộc tấn công. 5giờ 30 sáng ngày 11, đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Sư Đoàn 341 tiến chiếm từ hướng Tây-Bắc dọc Quốc Lộ 20; Sư Đoàn 7 từ mặt Bắc đâm thẳng vào thị xã; Sư Đoàn 6 từ hướng Đông, chân núi Chứa Chan nơi đặt bộ Tư Lệnh chiến dịch của Quân Đoàn 4. tất cả ba mũi dùi đồng hẹn ở điểm đến- trung tâm thị xã, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18.
Kết quả cũng tương tự như ngày 9, quân Cộng Hòa giữ chắc vị trí, có khác chăng thêm một số chiến xa bị bắn hạ trên tuyến phòng ngự và một số tù binh bị bắt. Những ngày chẳng mấy vinh quang nầy được Hoàng Cầm viết lại trong Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch, Sư Đoàn 7 bị tổn thất 300 chiến sĩ; Sư 341 thiệt hại 1,200. Cụ thể tất cả pháo 85 và 57 ly đồng bị phá hủy “(19). Cùng lúc Văn Tiến Dũng cũng phải thú nhận trong Đại Thắng Mùa Xuân: “Từ ngày đầu mặt trận Xuân Lộc đã diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Những sư đoàn của ta.. tổ chức nhiều đợt tấn công vào thị xã, đánh đi đánh lại để chiếm từng vị trí, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.”(19) Cùng ngày Không Quân VNCH cũng góp thêm vào chiến thắng qua hủy diệt hơn 100 xe quân sự tăng viện cho mặt trận.
Ở Sài Gòn, không khí lạc quan hừng lên, Tổng Thống Thiệu thúc dục Tướng Toàn cố gắng giữ vững Xuân lộc để có thế đão ngược tình thế. để “B52 có thể trở lại!” Tướng Toàn xử dụng Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom cố mở đường tiếp cận với cánh quân Xuân Lộc, nhưng lực lượng thiết kỵ không thành công trong việc phá chốt ở Ấp Hưng Lộc. Không thành công trong việc dùng chiến xa để giải toả áp lực cộng sản tại Xuân Lộc, Tướng Toàn sử dụng một thành phần hữu hiệu hơn – Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm bốn tiểu đoàn 1, 2, 8 và 9 được Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù trực tiếp yểm trợ. Cuộc hành quân không vận lớn nhất của trận chiến thực hiện trong hai ngày 11, 12 đưa đơn vị tổng trừ bị cuối cùng của Miền Nam vào trận.(20) Sự xuất hiện của lực lượng nhảy dù tại trận địa đặt nên vấn đề nghiêm trọng đối với tập thể lãnh đạo bộ tư lệnh chiến dịch.
Chiều ngày 11 tháng Tư, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà duyệt soát lại kế hoạch tấn công theo chiều hướng mới. Dũng có ý kiến: “Nếu địch tăng cường lực lượng phòng thủ Xuân Lộc thì ta không cần phải tập trung lực lượng để tấn công chúng nữa. Chúng ta nên sử dụng sức mạnh của mình để đánh những lực lượng ngoại vi (hàm chỉ Lữ Đoàn Nhảy Dù) trước khi chúng đặt chân xuống đất.. Cũng nên dùng pháo tầm xa phá hủy căn cứ Biên Hòa để máy bay chúng không thể cất cánh”. Nội dung buổi hội cũng bàn thảo lại chiến thuật tấn công chính diện mà đã không đem lại kết quả từ bốn ngày qua. Hẳn Trà và giới chức lãnh đạo Trung ương Cục không quên lần tấn công thất bại nhục nhã tại An Lộc trong Mùa Hè 1972, cũng trên địa bàn Quân Khu III nầy với lực lượng Quân Khu 7 cộng sản.
Theo quan điểm của Dũng, Tướng Cầm, Tư lệnh Sư Đoàn 7 ra lệnh cho các Trung Đoàn 165, 266 tiếp tục giữ vững vị trí đang trách nhiệm để sau đó từ từ rút đi, riêng Trung Đoàn 209 trở hướng tấn công vào đơn vị Nhảy Dù vừa nhảy xuống trận địa. Tóm lại, bộ tư lệnh chiến dịch quyết định mở một mặt trận giả (để đánh lạc hướng quân phòng thủ) bằng hai cuộc tấn công chính diện vào vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 1/43 (có nhiệm vụ giữ thị xã) để phía quân đội cộng hòa nghĩ rằng phía cộng sản vẫn cố công dứt điểm Xuân Lộc theo như kế hoạch ban đầu- Trong khi chuyển hướng tấn công bằng cách đi vòng Xuân Lộc để (thực sự) tiến thẳng về Sài Gòn. Trần Văn Trà thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp thực thực hiện kế hoạch.
Ngày 13, Trà họp ban tham mưu của Quân Đoàn 4 để thông báo về việc thay đổi kế hoạch với luận cứ chính xác: “Địch tăng cường phòng thủ Xuân Lộc sẽ gây nhiều bất lợi cho ta nếu cứ tiếp tục tấn công thị xã.Thế nên, nếu chúng ta tiến chiếm Dầu Giây (Nam Xuân Lộc, trên Quốc Lộ I, lối về Biên Hòa) thì Xuân Lộc không còn nằm trong tuyến phòng thủ của chúng nữa. Đồng thời ta xử dụng pháo tầm xa 130 ly pháo sân bay Biên Hòa thì địch sẽ bị hạn chế khả năng cho phi cơ xuất kích yểm trợ.”
Trong chiều hướng của kế hoạch nầy, lực lượng cộng sản dần rút đi nới rộng vòng đai phòng thủ của thị xã. Tướng Đảo lập tức ra lệnh cho các đơn vị chiếm lại những vị trí bị phía cộng sản chiếm giữ, tiếp nhận thực phẩm, quân trang, đạn dược và tải thương. Cũng quả thực ông không biết được sự thay đổi quan trọng về kế hoạch của Trung ương cục Miền Nam chỉ đạo từ Hà Nội. Nhưng ông làm đươc gì hơn với chức vụ tư lệnh một sư đoàn bộ binh trong giờ phút nguy nan nhất của cuộc chiến – mặt nổi của lần xếp lại “một trật tự mới trên toàn thế giới”.
Hai trái bom CBU 55 “Daisy Cutter” nặng 15.000 cân Anh rơi xuống từ lòng chiếc C130 phá toang một vùng rộng lớn trong phòng tuyến của quân cộng sản dọc Quốc Lộ 20 tăng cường thêm sự quyết tâm giữ vững Long Khánh của phía quân đội VNCH, nhưng cũng chính là màn khói (bất đắc dĩ phải chấp nhận) giúp cho lần rút đi của bộ đội cộng sản với 235 xác đếm được trên trận địa thêm phần hợp lý – Không một ai trong Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hòa, nơi Phòng Hành Quân Tổng Tham Mưu có ý niệm địch sẽ siết chặt Biên Hòa-Sài Gòn với hai gọng kềm (hướng Bắc và Đông) bằng cách cắt Quốc Lộ I ở Dầu Giây và Quốc Lộ 15 ở Long Thành qua thay đổi quan niệm chiến thuật theo tình hình thực tế nên bỏ qua Long Khánh nơi họ đã thực sự thất bại – và biến thất bại nầy thành một kế nghi binh.
Kế sách nầy càng thêm hữu hiệu khi mặt trận được tăng cường thêm hai đơn vị mới, Sư Đoàn 325, tổng trừ bị quân đội Miền Bắc, đơn vị chủ lực trong trận tấn công Nha Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3; và Trung Đoàn 95B biệt lập từ đồng bằng Sông Cửu Long kéo lên tăng cường.
Tòa Đại Sứ Mỹ phấn khởi trước chiến thắng Long Khánh cố nài Quốc Hội Mỹ chuẩn chi $722 triệu quân viện khẩn cấp cho Việt Nam, nhưng trong phiên họp ngày 17 tháng 4, Ủy Ban Quân Sự Thượng Viện bác bỏ thẳng thừng như câu nói bất cận nhân tình của hai Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits và Edmund Muskie trong show truyền hình đại chúng “Face the Nations” Cho tiền để lo việc di tản thì bao nhiêu cũng được chứ một xu cho ngân sách quân sự cho Thiệu cũng không có”.(23) Hai con người nầy trong ngày 15 tháng Ba vừa qua cũng đã “cứu giúp” toàn bộ Dân Tộc Campuchia với giá tiền đúng $82.5 triệu đô-la Mỹ.
Chiến trận lắng xuống, các đơn vị cộng sản dần rút đi, chỉ còn pháo kích cầm chừng vào các vị trí phòng thủ. Ngày 20 tháng 4, Tướng Toàn và Đại Tá Thọ, Trưởng Phòng Hành Quân Quân Đoàn III đích thân đến giao cho Tướng Đảo một lệnh mơ hồ như vô cùng kích động: Rời bỏ Xuân Lộc về bảo vệ mặt trận Sài Gòn- Hóa ra quân cộng sản đã hoàn tất kế sách bỏ trống Xuân Lộc từ một tuần trước. Thiếu Tướng Đảo phản đối, nhưng viên tướng tư lệnh khẳng định: Đó là lịnh của ông Thiệu!
Lại “Tổng Thống Thiệu”, đầu mối của mọi điều hư hại và dở dang. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo chỉ có đúng nửa ngày để hoàn tất một kế hoạch rút quân bao gồm lực lượng một sư đoàn cơ hữu cùng các đơn vị tăng phái và yểm trợ, chưa kể thành phần diện địa của Tiểu Khu Long Khánh.
Hành quân rút lui là hình thái hành quân khó nhất – Bởi đã mang sẵn mầm thất bại – Những danh tướng của quân sử thế giới mấy ai thực hiện được kể cả Hốt Tất Liệt, Napoléon, Rommel.
Nhưng như một phép mầu- một mầu nhiệm do trí tuệ và dũng lược kết hợp nên thành, cộng với lòng yêu quý chiến sĩ, đơn vị của một tướng lãnh trên chiến địa. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã hoàn tất cuộc lui binh về Bà Rịa, bảo toàn đơn vị, vũ khí, thậm chí đến hai khẩu pháo 175 ly hạng nặng cũng giao lại đủ cho quân đoàn. Cũng một phần, lực lượng giữ phần hậu vệ đoàn di tản là Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy. Trung Tá Đỉnh là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Dù – Đơn vị đã giải tỏa An Lộc trong trận đánh ngày 8 tháng 6, 1972 mà đơn vị cộng sản đóng chốt ở Xa Cam, nam An Lộc chỉ còn đúng một người – tù binh tên Nguyễn Văn Tiền.
Cũng có một điều cần ghi thêm là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù đã bất chấp lệnh của Tổng Tham Mưu (1 hành động phản loạn ngu xuẩn ?), vất bỏ mưu đồ “xé lẻ” đơn vị bách thắng nầy của ông Thiệu (do lo sợ một cuộc đảo chánh- mà thật sự là một mối sợ đối với những tay hoạt đầu chính trị nơi Miền Nam từ 1960 cho đến bấy giờ) nên đã gởi một đơn vị nhảy dù khác – Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù do TrungTá Nguyễn Lô, Lô “lọ rượu” đơn độc đưa quân đi ngược Tỉnh Lộ 2 (từ Bà Rịa (Phước Tuy) lên Long Khánh) đón đoàn quân di tản. Lô dẫn quân đi như ánh chớp, và Tiểu Đoàn 7 Dù là đơn vị cuối cùng chận giặc nơi Cầu Xa Lộ, cửa ngỏ chính của Sài Gòn ở hướng Bắc.
Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dừng quân trên xa lộ Biên Hòa, nhìn vào hướng Trường Bộ Binh Thủ Đức, Long Thành, Bà Rịa, và xa kia Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn Trung Liệt Đài của Nghĩa Trang Quân Đội, Long Bình. Ông thấy thấp thoáng bức tượng Tiếc Thương (24) tạc hình Người Lính Chờ Đợi in hình trong không gian mờ khói đạn. Người lính cuối cuộc chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn,
Vì anh là Lính áo rằn.
Ra đi nào biết mấy trăng mới về…….
Những câu thơ của em ông, Trung Tá Lê Hằng Minh Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến “Trâu Điên”, người lính đã ra đi từ một ngày Hè năm 1966 nơi chiến trường Thị-Thiên, ở chân Cầu Câu Nhi Phường. Cầu thuộc Phường Câu Nhi, Phong Điền, Thừa Thiên là nơi đâu? Rất nhiều người lính đã ra đi, không trở về từ những vùng đất không hề biết. Hôm nay, sáng 30 tháng Tư năm 1975, rất nhiều người lính không còn chốn trở về, trong số có Anh, Người Lính mất Quê Hương – Người Lính Sống- Chết một lần với Miền Nam. Với Việt Nam.
Chuyện vui
Tô Đông Pha là một học sĩ làm quan thời Tống. Quan trường thăng trầm nên ông thường đến chùa Kim Sơn học Thiền và luận đạo với Thiền Sư Phật Ấn. Là một học giả có tài, nên ông luôn tự hào về trình độ hiểu thiền của mình.
Một hôm, Tô Đông Pha đến chùa Kim Sơn chơi với Thiền sư Phật Ấn cả ngày, hai người ngồi xếp bằng đối nhau luận thiền. Đông Pha hỏi Phật Ấn:
– Ngài thấy tôi thế nào?
Phật Ấn đáp:
– Rất trang nghiêm, giống một ông Phật!
Tô Đông Pha nghe nói vô cùng phấn khởi. Phật Ấn lại hỏi Tô Đông Pha:
– Ông thấy ta ra sao?
Đông Pha nhìn thấy Phật Ấn mập tròn quay lại mặc áo bào đen, bèn đáp ngay:
– Giống một đống phân bò!
Phật Ấn không nói gì. Đông Pha cho rằng mình đã thắng một keo, mười phần sung sướng. Đến chiều về nhà, mặt mày hớn hở nói với Tô Tiểu Muội:
– Này muội muội, hồi nào tới giờ mình bị Ấn lão cho đo ván mãi, đấu không lại ông ta. Không biết hôm nay Hòa thượng trở cờ hay Học sĩ này gặp may mà chuyến này Ấn lão không còn lời để nói, không có lý để trình đấy.
Nói rồi bèn đem tình hình pháp chiến vừa qua thuật lại. Tô Tiểu Muội thiên tư hơn người, tài hoa xuất chúng, nghe Ca Ca kể xong câu chuyện, liền nói:
Xì, anh thua đậm rồi!
Đông Pha tức quá mắng:
– Ta làm sao lại thua? Tại sao ông ấy không nói một lời nào? Cái con nha đầu này, thiệt là miệng chó không mọc ngà voi đâu nhé!
Tô Tiểu Muội nói:
– Này ca ca, tôi xin hỏi anh, Phật quý hay phân bò quý?
Đông Pha tức tối nói bướng:
– [Phân bò quý. THL]
Tô Tiểu Muội nói:
– Ủa cái câu trả lời này nó không có trong bài bản trước nay nhưng anh đã chứng minh ý của Tiểu Muội. [THL]
Tô Tiểu Muội nói tiếp:
– Sư huynh ơi! Tâm thầy là tâm Phật nên nhìn huynh trang nghiêm như Phật. Tâm sư huynh như phân bò, chẳng trách sư huynh nhìn thầy như đống phân bò.
30 tháng Tư, nói về những người lính bị bỏ rơi – Hồng Thuận
Hôm nay tôi vừa ký cái check nho nhỏ để ủng hộ chương trình “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi” do Đài Truyền Hình SBTN thực hiện. Vài tuần trước, khi nghe nói SBTN đang dựng chương trình, tôi tò mò ghé qua. Đúng lúc đó thì nhóm sản xuất đang cố đưa một chiếc trực thăng thời chiến tranh Việt Nam vào studio để dựng cảnh. Tuy nhiên, vì chiếc trực thăng lớn quá nên người ta phải cắt luôn cánh cửa để đưa vào. Tôi ngạc nhiên trong thích thú: SBTN chịu chơi thiệt!
Nói vậy để thấy đây là một chương trình được dàn dựng rất công phu, được quay hình trong 10 ngày liền. Ngoài phần âm nhạc, chương trình còn có những tài liệu, phim ảnh lịch sử và quân sử giá trị. Đặc biệt, tất cả đều có phụ đề Anh ngữ để thế hệ trẻ hải ngoại có thể hiểu và học được một phần lịch sử về cha anh mình.
Từng làm việc trong ngành truyền thông và sản xuất chương trình TV trong nhiều năm, tôi biết để thực hiện bất cứ tác phẩm văn hóa, nghệ thuật hay lịch sử gì cho cộng đồng, việc kiếm lợi nhuận là chuyện rất xa vời. Thị trường băng đĩa gần như biến mất cùng với trào lưu xem free trên mạng đã đẩy các công ty truyền thông cũng như những chương trình âm nhạc và văn hóa tại hải ngoại đi đến kiệt quệ về tài chánh. Nếu may mắn thì có thể tìm được công ty bảo trợ lớn, mà thường các công ty này đều ở Việt Nam. Với một chương trình tôn vinh lịch sử VNCH như thế này thì hẳn nhiên rất khó tìm nguồn tài trợ.
Đó là lý do tôi muốn đóng góp một phần rất nhỏ trong
khả năng cho bộ DVD “Những Người Lính Bị Bỏ Rơi”. Là con một người lính VNCH, tôi cho rằng đây là trách nhiệm để góp phần vào việc giữ gìn bất cứ những gì nói lên sự thật lịch sử về những người lính VNCH. Tôi không phải là người thiên về quá khứ nhưng việc ôm ấp quá khứ với thái độ tôn trọng sự thật lịch sử là hai việc khác nhau.
Lịch sử đó là gì?
Đã 45 năm từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, hình ảnh người lính VNCH ngày càng trở thành cái bóng mờ trong lịch sử của cuộc chiến chống lại sự bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Thế giới tự do đã chiến thắng với sự sụp đổ của cái nôi cộng sản tại Liên Xô cũng như tại các đồng minh Đông Âu và Trung Á. Trong khi đó, những hy sinh của người lính VNCH tại miền Nam, một thời là tiền đồn Đông Nam Á chống lại sự lan rộng của làn sóng Đỏ, lại dường như đang trôi vào lãng quên, nếu không nói chỉ còn đọng lại trong ký ức của thế hệ cha anh.
Tại Việt Nam sau 1975, người lính VNCH phải gánh chịu sự trả thù hèn hạ từ những kẻ thắng cuộc. Họ bị cầm tù, bị tước đoạt quyền làm người, bị sỉ nhục và bị ngược đãi nhân phẩm. Con cái của “thành phần” gọi là “ngụy quân” cũng không thể trở thành công dân bình thường. Chính cá nhân tôi đã gánh chịu tình trạng phân biệt đối xử như vậy vì ba tôi từng là lính “ngụy” và bị bắt đi “học tập cải tạo” ròng rã 7 năm trời.
Những gì tiêu biểu cho hình ảnh người lính miền Nam đều bị xóa bỏ đến cùng. Những tượng đài bị giật sập, các nghĩa trang bị cào nát. Bức tượng Thương Tiếc trước Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa hoặc Nghĩa Trang Quân Đội Hạnh Thông Tây Gò Vấp đã bị giật sập và san bằng không còn dấu tích. Thậm chí sách vở và âm nhạc với hình ảnh người lính VNCH trong đó cũng trở thành “văn hóa phẩm độc hại”. Trong khi đó, tại Hoa Kỳ, cuộc chiến Việt Nam đã được soi chiếu lại với nhiều góc nhìn khác nhau. Tuy nhiên, những tài liệu này do người Mỹ thực hiện nên họ chỉ quan tâm đến những gì liên quan đến nước Mỹ hơn là đối với đồng minh cũ của họ ở Nam Việt Nam. Họ quan tâm đến các chính sách của các đời tổng thống Mỹ liên quan cuộc chiến Việt Nam, hơn là số phận của những người Việt Nam từng cầm súng bảo vệ tiền đồn chống cộng sản. Họ thuật lại những phát biểu của giới chức chính trị và quân sự Mỹ về cuộc chiến Việt Nam, hơn là cho thấy cảm nghĩ lẫn ý chí của những người lính từng là hình ảnh đại diện cho giá trị của tự do.
Cali 21 tháng 4, 2020
Nghĩa trang quân đội VNCH ở Biên Hòa bị bỏ hoang nhiều năm, gần đây mới được phép tu sửa
Xét ở góc độ nào đó, có thể nói đây là sự bất công, khi lịch sử chỉ được nhìn ở một hoặc vài góc mà không phải toàn cảnh. Những người lính VNCH xứng đáng được nhớ đến và sự hy sinh của họ đáng được ghi nhận. Họ đã đổ máu chiến đấu suốt 20 năm với thế giới tự do để giúp đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản. Hàng trăm ngàn người lính đã vĩnh viễn ra đi để có được một miền Nam ấm no, thịnh vượng, và một sự tự do vô giá, mà từ đó, miền Nam có những tác phẩm văn chương lộng lẫy, có những thi phẩm rạng ngời, có những nhạc phẩm sống mãi với thời gian. Cho đến tận hôm nay, sau 45 năm, nền nghệ
thuật VNCH vẫn còn tồn tại, không chỉ ở hải ngoại mà cả trong nước. Cộng sản đã chiến thắng một cuộc chiến bằng súng nhưng cộng sản đã đại bại một cuộc “giao tranh” bằng giá trị tinh thần.
45 năm qua, dù ở nơi nào, nhiều người Việt khi bỏ nước ra đi vẫn mang theo tình yêu quê hương cùng với hình ảnh hào hùng của người lính VNCH. Nhiều bia tưởng niệm, tượng đài được dựng lên tôn vinh người lính miền Nam đã hiện diện nhiều nơi khắp thế giới. Thế hệ trẻ gốc Việt cũng cho ra đời những tài liệu nghiên cứu, tiếng Việt lẫn Anh, để không chỉ bày tỏ lòng biết ơn với thế hệ cha anh mà còn nhằm mang lại sự thật lịch sử về người lính VNCH mà chế độ cộng sản Việt Nam chưa bao giờ ngừng bôi nhọ, không chỉ với tư cách là kẻ thắng cuộc mà còn với mặc cảm là kẻ bại trận trước sự trường tồn của giá trị văn hóa miền Nam mà người lính VNCH từng góp phần bảo vệ.
Riêng với tôi, cũng nhờ tìm hiểu về người lính VNCH, giờ đây tôi đồng cảm với ba mình hơn. Một người đàn ông tóc điểm sương lúc nào cũng ngồi trước máy tính hay cuốn tập giấy, ghi ghi chép chép điều gì đó mà ông chẳng bao giờ cho tôi đọc. Ông sống nội tâm và ít nói chuyện với tôi. Khi ngồi viết những dòng tâm sự này, tôi có dịp gợi lại cho ông những ký ức cũ, trong đó có câu chuyện khiến tôi không thể cầm nước mắt. Ông kể, chiều 30/4/1975, Tư lệnh Nguyễn Khoa Nam đến thăm bệnh viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ, để thăm lần cuối những người lính bị thương. Một thương binh xúc động đã níu tay ông lại. Khi ra về, ông đã bật khóc và hứa: “Qua không bỏ các em đâu! Qua ở lại với các em”. Và để “ở lại với các em”, vị Tư lệnh đã tuẫn tiết vào ngày hôm sau… Khi nghe câu chuyện này, tôi muốn ba tôi mãi ở lại với tôi. Tôi muốn người lính VNCH mãi ở lại trên những trang sử vinh danh họ. Tôi muốn hình ảnh người lính VNCH mãi mãi được tôn vinh…
Hồng Thuận (Facebook)
Cali 21 tháng 4, 2020
https://www.danchimviet.info/30-thang-tu-noi-ve-nhung-nguoi-linh-bi-bo-roi/04/2020/19187/
Vui cười
Cô giáo lớp 1 dạy học sinh:
– Chúng ta cần phải phát động phong trào làm việc tốt. Từ mai trở đi, khi đến lớp mỗi em phải kể cho cô nghe một việc tốt nhé!
– Thưa cô vâng ạ!
Ngày hôm sau:
– Em nào có việc tốt kể cho cô nghe.
– Dạ thưa cô – một em đứng lên – Hôm nay em dẫn một bà già qua đường ạ!
– Tốt, tất cả lớp phát huy học tập theo bạn nhé!
Ngày hôm sau:
– Nào, thế hôm nay những ai đã làm việc tốt?
– Dạ thưa cô, hôm nay chúng em học tập bạn hôm qua và đều đã làm việc tốt ạ! – cả lớp đứng lên đồng thanh nói.
– Vậy là rất tốt. Các em đã làm những việc gì nào?
– Chúng em cùng dẫn một bà già qua đường ạ.
– Tốt lắm! Nhưng tại sao có một bà già mà cả lớp cùng dẫn qua đường hả?
– Dạ thưa cô, vì bà ấy… không thích qua đường ạ.
30/4/75 – Ngày tàn cuộc chiến
Hiếu Nguyễn
Người lính mũ đen năm xưa giờ tóc đã bạc hơn nửa mái đầu, ngồi viết lại một đoạn hồi ký để nhớ về một quảng đời chiến đấu trong quá khứ bằng xót xa, nghẹn ngào và uất hận. Nhiều bạn bè đã ra đi vĩnh viễn chỉ còn lại trong ta niềm thương nhớ, kỷ niệm, hình ảnh thỉnh thoảng cũng chập chờn ẩn hiện trong giấc mơ.
Thời gian cuối tháng 3/75 tôi bị thương ở ngã ba Dầu Giây phải điều trị 2 tuần lễ trở về nhà chỉ vỏn vẹn có 3 ngày. Vì tình hình chiến trường cứ dồn dập những tin bất lợi cho quân ta, càng ngày càng mất thêm nhiều tỉnh lỵ, thành phố. Tôi quyết định trở lại đơn vị nơi mà bạn bè đã từng kề vai chiến đấu, sống chết có nhau đang chờ đợi. Lần trở lại này đặc biệt tôi mua 5 cây thuốc lá Capstan, 5 ký cà phê vì tôi đoán thời gian những ngày tới mình phải thức khuya nhiều cho cuộc chiến.
Ngày từ giã gia đình lên đường, ba tôi dẫn ra tiệm hủ tíu ăn sáng với ông, ba tôi nói : “tình hình rất cam go, nhiều nơi đã mất, không còn hy vọng, con nên ở nhà.” Tôi cúi đầu tiếp tục ăn, không dám nhìn thẳng vào gương mặt lo âu của ông. Ăn xong, tôi nói: “Thưa ba con đi!” Tôi nghĩ làm sao bỏ anh em đã cùng chiến đấu, làm sao nỡ nhìn anh em chết đuối dưới lằn đạn quân thù. “Bước chân đi, không dám nhìn, trở lại lần nữa, bước chân đi, xin chấp nhận niềm bất hạnh đó….”
Ngày 28/4/1975 : CĐ 2/5 TK chuyển quân tới Trảng Bom nằm trên QL1 nối liền Hố Nai, một thị trấn rất nhỏ xung quanh bao bọc bởi rừng cao su xanh mướt, hướng đi Long Khánh. Dân cư ở đây di tản hết mấy ngày trước chỉ còn lính. Thị trấn bây giờ thật trống vắng, đìu hiu! Trong ngày Chi Đoàn đóng dọc theo bên phải Quốc Lộ, 8 giờ tối di chuyển qua bên trái Quốc Lộ ngụỵ trang trong rừng chuối. Trong binh thư thì đây là một thế trận nghi binh tuyệt vời!
Ngày 29/4/1975: Lúc 1 giờ sáng trận chiến bắt đầu, vị trí đóng quân hôm qua chúng tôi đã bỏ đi cách vị trí mới khoảng 300m, địch không ngờ được, vị trí đó đã bị hoả tập bằng đại pháo 130 ly và hoả tiễn 122 ly. Hàng trăm đạn pháo địch đã bắn vào đây, một vị trí bé nhỏ mà bọn chúng tưởng rằng đủ để Bộ Binh và Thiết Giáp nơi đây tan nát. Tất cả mọi người chúng tôi tại đây đều căng mắt ra chờ đợi để tiếp chiêu với một lực lượng mà ban 2 Thiết Đoàn cho biết có cả một Sư Đoàn chính quy CSBV cùng nhiều chiến xa T54, đại pháo 130 ly phối hợp.
Thời gian chờ đợi đã đến, khoảng 3 giờ sáng có nhiều bóng người xuất hiện khoảng 200 m và vị trí chúng tôi được che khuất bởi những hàng chuối, cỏ tranh cao tới cổ. Bỗng nhiên trong hệ thống truyền tin, Th/Uý Trự, Chi Đội Trưởng báo cáo lên Chi Đoàn: “Báo cáo Phi Hổ tôi nghe tiếng người nói, tăng ta hay tăng địch, nhận rõ trả lời.” Phi Hổ đáp: “Cho con cái anh bấm mìn Claymore và Taxi (Tác xạ) ngay.” Các bạn thử tưởng tượng một Trung Đoàn địch hơn 2000 quân đi ngang qua một Thiết Đoàn Thiết Giáp gần 60 chiếc M113 và M41 với một khoảng cách rất ngắn chừng 200m. Chúng tôi xoá sổ hết cả 1 Trung Đoàn địch. Trước đầu xe chỉ huy M113, một tên địch giơ cao khẩu B40 lên đầu hàng, tôi bảo anh xạ thủ đừng bắn nhưng vì nòng súng Đại Liên 50 ly nóng quá nên kích hoả, một viên đạn nổ ghim vào người anh chết luôn. Thây giặc phơi đầy trên mặt đất không đếm được.
Đich tiếp tục tấn công bằng một Sư Đoàn 341, Sư Đoàn thiện chiến nhất của Quân Đoàn 4, địch có nhiều chiến xa T54, đại pháo 130 ly yễm trợ. Lúc này thì TĐ 5 KB tứ bề thọ địch. Chi Đoàn chúng tôi dàn đội hình tác chiến thế chân vẹt cạnh đường rầy xe lửa. Lực lượng địch tập trung tấn công chúng tôi, địch muốn dứt điểm sớm để tiên nhanh vào Sài Gòn. Tình hình Chi Đoàn vô cùng nguy kịch vì rất nhiều T54 bám sát rồi bắt đầu khai hoả, những tiếng đạn 100 ly của T54 nổ đi nghe rợn người, từng cục đạn lửa bay vút qua đội hình của Chi Đoàn và Thiết Đoàn. Đơn vị phải dùng hết hoả lực cơ hữu chống trả dữ dội.
Không biết quân địch ở đâu mà đông quá trời, hết lớp này ngã xuống thì lớp khác tiến lên. Tôi nghĩ nhanh chỉ có một phép lạ mới ngăn được biển người tấn công này. Và phép mầu thật sự đã tới, hai phi tuần Skyraider xuất hiện mang theo những quả bom Napalm trút ngay lên đầu địch, một giòng thác lửa
cuồn cuộn bùng lên cạnh Chi Đoàn chúng tôi, một độ nóng khủng khiếp rất gần tưởng chừng như thiêu rụi cả hai bên.
Nhờ bức tường lửa này mà sự tiến quân của chúng phải dừng lại ngay vì chết rất nhiều, thiệt hại rất nặng. Nếu không có 2 phi tuần này thì đơn vị chúng tôi phải tan nát! Tôi nhìn lên bầu trời thì 4 chiếc khu trục đã rời vùng. Tôi thầm cám ơn khâm phục những chàng Pilot tài ba của Không Lực VNCH.
Kết quả trận chiến vừa rồi thì phía chúng tôi 1 M41, 2 M113, 1M132 (xe phun lửa) đổi lấy 3 T54 của địch. Chuyện thắng bại đến giờ phút này tất cả không thành là vấn đề nữa, chúng tôi đã chiến đấu với tinh thần DANH DỰ, TRÁCH NHIỆM, TỔ QUỐC và chúng tôi đã chiến đấu đến cùng, đã làm chùn bước trước sức tiến quân vũ bão của một lực lượng CSBV cấp Sư Đoàn có chiến xa, đại phào yễm trợ.
Vì hăng say chiến đấu tôi quên cả vết thương trên cánh tay phải, khi anh xạ thủ chỉ tay vào vết thương thì lúc đó mới thấy đau, anh xạ thủ dìu tôi vào xe tải thương M113. Xe tải thương chở thêm một số anh em bị thương khác hướng về Long Bình thì bị 1 toán VC nằm phục kích bắn B40, xe bốc cháy, tất cả thương binh trong xe chết hết và tôi đã dùng sức mạnh cuối cùng của con người liền phóng ra khỏi xe, bò qua đường rầy xe lửa nằm im và Chi Đoàn lên cứu. Anh Tư tài xế xe Jeep liền dìu tôi lên xe, anh sụp mui xuống, tôi nằm trong xe Jeep, đưa đầu sát vào bánh xe sơ-cua để vượt qua một bãi pháo với một diện tích khoảng 2 Km2. Tôi được điều trị tại Tổng Y Viện Công Hoà được một đêm, hôm sau ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi phải ôm vết thương còn rỉ máu đi bộ về nhà khoảng 3 cây số.
Trên đường vể, tôi thấy nhiều anh em Biệt Kích Dù 81 còn giữ một cổng của Bộ Tổng Tham Mưu. Dọc đường Võ Di Nguy thì xác dân chúng còn nằm đó, xe gắn máy thì nằm tứ tung. Đến đường Lê Văn Duyệt thì thấy mấy tên 30/4 mang khăn đỏ ở cánh tay cầm súng Colt45, M16 chạy tới chạy lui. Tôi thất thểu lê từng bước mà nghe lòng mình tan nát, vết thương ngoài không thấy đau bằng vết thương trong lòng quặn thắt lên từng đợt. Thôi đã hết trong ngày tàn cuộc chiến, rồi đây tất cả sẽ tàn theo khi quê hương đổi chủ, người chủ mới mang theo chủ nghĩa cộng sản từ miền Bắc vào đây để áp đặt và gây tang tóc cho đồng bào mình!
Một ngày cuối tháng tư từ bệnh viện
Ôm vết thương vẫn hiển hiện còn tươi
Lê bước về trong hụt hẫng chơi vơi
Ta thất thểu giữa bầu trời u ám
Trên đường phố Sài Gòn ôi ảm đạm
Xác dân lành, quần áo trận khắp nơi
Ngày hôm qua bởi pháo giặc tơi bời
Gây đổ nát cả vùng trời kỷ niệm
Nước mắt rơi cho hồn ta ngất lịm
Không muốn nhìn bóng giặc chiếm quê hương
Những ngày qua đã góp mặt chiến trường
Ta đã mất và khóc thương đồng đội
Giờ không gian tuy xa xôi vời vợi
Đời lưu vong ta vẫn đợi một ngày
Cờ vàng yêu trên khắp nẻo tung bay
Ta được khóc nghe tràn đầy hạnh phúc
http://chinhnghiavietnamconghoa.com/30-4-75-ngay-tan-cuoc-chien-hieu-nguyen/
Lương Châu từ kỳ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
45 năm chính sách “triệt người” – Mạnh Kim
Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long (cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học, người nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”), kể lại thảm cảnh một vụ tịch thu sách năm 1975 sau khi chính quyền mới tiếp quản Sài Gòn: “Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhập tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu… Cả chủ tiệm cũng mạng vong”…
Câu chuyện ông chủ hiệu sách uất ức thà chết còn hơn nhìn “băng đỏ” gom và ném sách đi đốt chỉ là một trong những bi kịch của miền Nam sau 1975. Không chỉ đốt sách, con người cũng bị triệt, đến tận cùng. Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư… đều bị tống đi học tập cải tạo. Miền Nam không chỉ đột nhiên rơi vào tình trạng thống khổ cùng cực mà còn chứng kiến những cảnh không thể tưởng tượng: phu nhân đại tá đi bán rong, vợ giáo sư buôn vỉa hè, thầy giáo mưu sinh bằng xích lô, ký giả chạy xe lam, con sĩ quan xếp hàng mua từng ký gạo…
Những hình ảnh đã đột ngột làm biến dạng miền Nam sau 1975. Những câu chuyện trải dài theo ký ức và nghe (tưởng chừng) “phi thực tế” đến nỗi những thế hệ sau này khi được kể nghĩ chắc hẳn là chuyện bịa. Đã có cả trăm quyển sách viết về những câu chuyện này, từ đi tù cải tạo đến vượt biên bỏ mạng. Nhắc lại không phải “đào xới” chuyện cũ. Để thấy rằng, “di sản” 1975 đến giờ vẫn tiếp tục còn sau 45 năm. Chính sách triệt tiêu con người sau 1975 vẫn tồn tại. Đó mới là điều cần nói.
Trong số “đối tượng” hứng chịu sự trả thù vô lý và nghiệt ngã có những trí thức đỉnh cao mà trí tuệ họ xứng đáng đại diện cho dân tộc Việt. Có lẽ không gương mặt nào trong Bộ Chính trị hoặc nhân vật nào trong “nội các” hiện tại có thể so với những bậc trí thức VNCH về trình độ lẫn nhân cách.
Điều đáng tiếc nhất là một số trí thức này đã phải “trả giá” cho lòng yêu nước, chỉ bởi họ quá yêu nước, khi họ chọn ở lại mà không đi nước ngoài sau 1975, với niềm tin ngây thơ vào chế độ mới và với nhiệt tâm đóng góp tái thiết sau chiến tranh. Quê hương, với họ, là nước nhà; là đất nước và mái nhà.
Sinh năm 1929 tại Cần Thơ, giáo sư Phạm Hoàng Hộ có bằng Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực Vật học, Paris; bằng Cao học Vạn Vật học, Paris; bằng Thạc sĩ/Agrégé Vạn vật học; bằng Tiến sĩ Khoa học/Vạn vật học, Paris. Giáo sư Hộ từng là giám đốc Hải học viện Nha Trang; Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn; Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục; Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ… Ông cũng là Hội viên Hội Thực vật học Pháp; Hội viện Hội Tảo học Quốc tế; Hội viện Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế; Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Quốc Tế Sông Mekong… Giáo sư Hộ chính là người vận động cho bằng được việc thành lập ngôi trường đại học đầu tiên ở miền Tây vào giữa thập niên 1960. Đó là Viện Đại học Cần Thơ, nơi canh nông trở thành môn khoa học chính quy được đào tạo như một chuyên ngành đại học.
Sau 9 năm sống dưới chế độ mới, giáo sư Hộ, từ khát vọng, trở nên thất vọng. Môi trường giáo dục bị thay đổi hoàn toàn. Nó bị cào xé rách nát để thay bằng chiếc áo thô đính băng đỏ. Ý nghĩa và triết lý giáo dục khai phóng bị vất xó. Theo lời kể của bác sĩ Ngô Thế Vinh, năm 1977, giáo sư Hộ phải học lớp chính trị 18 tháng về “chủ nghĩa xã hội khoa học”. Không chấp nhận chương trình giáo dục bị “đảng hóa”, giáo sư Hộ phản đối quyết liệt. Cuối cùng, năm 1984, khi được Chính phủ Pháp mời sang thỉnh giảng, giáo sư Hộ quyết định ở lại Paris. Tại Pháp, ông vùi mình vào Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris (thuộc hệ thống Đại học Sorbonne), miệt mài làm việc suốt sáu năm, bổ túc cho công trình Cây Cỏ Việt Nam của ông – một công trình đồ sộ có giá trị đến mức giới thực vật học thế giới phải nghiêng mình ngưỡng mộ.
Nhắc đến giáo sư Hộ, không thể không nhắc đến giáo sư Nguyễn Duy Xuân. Không như giáo sư Hộ, giáo sư Xuân có số phận cay nghiệt gấp nhiều lần. Từng được giáo sư Hộ mời về Viện Đại học Cần Thơ thay mình ở ghế viện trưởng, giáo sư Xuân tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Đại học Vanderbilt-Hoa Kỳ. Giáo sư Xuân cũng là vị Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Một bài báo trên Thanh Niên (28-4-2015) nhắc lại: “Theo giáo sư Võ Tòng Xuân, trước ngày 30-4-1975, những người nào có chức sắc ở Viện Đại học Cần Thơ đều được cấp một tấm giấy coi như giấy thông hành để ra nước ngoài khi có biến cố. Với chức vụ tương đương bộ trưởng, giáo sư Nguyễn Duy Xuân có thể ra nước ngoài bất cứ lúc nào nếu muốn nhưng ông vẫn ở lại Việt Nam”.
Không chỉ không được trọng vọng, giáo sư Xuân còn bị tống đi tù, bị giam tại trại Hà-Nam-Ninh. Cuối cùng, năm 1986, giáo sư Xuân bỏ mạng chốn thâm sơn cùng cốc. Nhắc lại điều này, bác sĩ Ngô Thế Vinh không giấu được chua xót: “Tôi không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đọa độc ác và vô ích của những người cộng sản thắng cuộc, nếu giáo sư Nguyễn Duy Xuân, một tiến sĩ kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước, vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975 thì không biết Viện Đại học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ phát triển và tiến xa tới đâu”…
Sẽ phát triển và tiến xa tới đâu, nếu Việt Nam sau 1975 trân trọng trí tuệ và tài năng của các trí thức như giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân, giáo sư Lê Xuân Khoa, cụ Bùi Diễm, bác sĩ Ngô Thế Vinh, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, ông Đỗ Văn Thảo (cựu Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia; bị đi “cải tạo”), giáo sư Vũ Quốc Thông (Khoa trưởng Đại học Luật khoa Sài Gòn, cũng bị đi tù)?… Sẽ còn phát triển và tiến xa tới đâu, nếu chế độ đang cai trị – luôn dễ bị “kích động” một cách thái quá cái gọi là “tự hào dân tộc” – biết dùng hiền tài, để sự tự hào có phần đóng góp của những trí thức đỉnh cao và trí thức đúng nghĩa? Trí thức chân chính là những người không chỉ “thể hiện” lòng yêu nước bằng ngôn từ. Họ là những người không bao giờ ngưng bồn chồn lo lắng cho sự tụt hậu nước nhà cùng sự lấn át ngoại bang.
Trong bài viết trên tờ Một Thế Giới ngày 2-2-2017, tác giả Lê Học Lãnh Vân thuật lại tâm sự của giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong một lần gặp ông tại Pháp giữa thập niên 1980: “Nhiều người Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp!”…
Cách đây hai năm, khi nghe giáo sư Lê Xuân Khoa vừa trải qua ca phẫu thuật ngặt nghèo, tôi đã vào viện thăm. Ông nằm giữa đống dây nhợ gắn quanh gần như kín người. Không thể nói vì miệng mũi còn vướng ống, ông ra hiệu cho cô con gái lấy tấm bảng. Ông viết, chỉ một câu, nhưng nghe nặng trịch, mỗi chữ như một nhát búa: “Tôi lo mất nước về tay Tàu rồi”. Và ông rươm rướm. Nằm trên giường bệnh, thập tử nhất sinh, ông chẳng nghĩ gì khác ngoài quê hương. Ông không lo gì khác ngoài cái lo “mất nước”, về sự lệ thuộc gần như toàn diện của Việt Nam với Trung Quốc. Bao nhiêu người trong hệ thống lãnh đạo Việt Nam hiện tại có thể bị đánh thức lòng tự ti dân tộc bởi nhát búa lương tri của một vị trí thức gần 90 tuổi như giáo sư Lê Xuân Khoa?
Chưa ai thống kê cho thấy hiện có bao nhiêu trí thức kiều bào vang danh nước ngoài nhưng không được mời về hoặc họ không buồn về. Thậm chí có những người bị cấm về, dù hệ thống tuyên truyền chế độ luôn ra rả về sự “trân trọng đón chào” trí thức hải ngoại. Một số trí thức đã quyết định không về. Họ không tin và họ có đủ bằng chứng để không tin nhà cầm quyền. Khi những Nguyễn Quang A, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Toàn, Chu Hảo… còn là “thành phần phản động” thì không ai còn ngây thơ để ngộ nhận sự “thành thật” của nhà cầm quyền đối với trí thức. 45 năm sau 1975, chế độ cai trị vẫn tiếp tục chính sách “triệt người”, “triệt” cả chính người của họ. Trí thức muốn đóng góp và xây dựng nhằm thay đổi chính sách đã và sẽ không có cơ hội.
Một trong những trí thức mà khi tiếp xúc, tôi luôn nhìn thấy sự nhiệt tình dữ dội của ông dành cho nước nhà. Nói chuyện với ông có cảm giác như đang ngồi trước một sinh viên tràn đầy nhiệt huyết, dù ông đã gần 80 tuổi. Đó là bác sĩ Ngô Thế Vinh. Ông là một trong những người Việt Nam luôn nặng tình với miền Tây, với đồng bằng sông Cửu Long, một cách bền bỉ, dù quê quán ông ở Hà Nội. Ông là tác giả quyển khảo cứu Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng. Ông cũng là tác giả quyển Mekong, dòng sông nghẽn mạch… Việt Nam không chỉ có dòng Mekong nghẽn mạch. Việt Nam đang bị nghẽn cả dòng trí tuệ của các bậc trí thức minh tuệ-hùng tâm.
https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/45-nam-chinh-sach-triet-nguoi/?fbclid=IwAR2fulrq9ZuXiF8qaL7KlV2G7KNdq5F4APL364Uo8MTW-4kHE07n9nHnn20
Vui cười
Bố mẹ nàng mở cuộc thi tuyển con rể.
Chàng A nói:
-Trong bank con có một triệu đô.
Chàng B khoe:
-Con có biệt thự hai triệu đô.
Bố mẹ nàng có vẻ ưng lắm.
Chàng C nói nhỏ vào tai bà già:
-Cháu chả có gì cả, thưa các bác. Cháu chỉ có mỗi một đứa con, hiện đang nằm trong bụng của con gái hai bác!
Một vụ tai nạn giao thông vừa xảy ra ngoài phố. Mọi người tò mò chen lấn vòng trong vòng ngoài để xem. Một anh lính đến chậm không tài nào vào xem được. Tức quá, anh ta liền hét toáng lên:
– Tôi là bố kẻ bị nạn đây!
Mọi người kinh ngạc quay lại nhìn và vội vã giãn ra cho anh ta vào. “Kẻ bị nạn” là một chú chó vừa bị xe cán chết.
Sau ngày 30/4 – Trần Gia Phụng
Sau ngày 30-4-1975 Bắc Việt Nam (NVN) chủ trương tiêu diệt triệt để tiềm lực NVN về nhân lực, về kinh tế và về văn hóa nhằm củng cố việc cưỡng chiếm Nam Việt Nam (NVN) và chận đứng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có thể hồi sinh ở NVN.
1.- Tiêu diệt nhân lực Việt Nam Cộng Hòa
Trước khi tấn công Sài Gòn, Ban Bí thư Trung ương đảng Lao Động (đảng CS) từ Hà Nội đưa ra chỉ thị số 218/CT-TW ngày 18-4-1975, quy định chính sách đối với công chức và sĩ quan VNCH bị bắt như sau: “Đối với sĩ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lý, giáo dục và lao động; sau nầy tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sĩ quan] mà ta cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau nầy tùy theo yêu cầu của ta và tùy theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội. Đối với những phần tử ác ôn, tình báo, an ninh quân đội, sĩ quan tâm lý, bình định chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, thì bất kể là lính, hạ sĩ quan hay sĩ quan, đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và quản lý chặt chẽ.” (Huy Đức, Bên thắng cuộc, I: Giải phóng, Los Angeles: Osin Book, 2012, tr. 39.)
Sau ngày 30-4-1975, nhà cầm quyền CS kêu gọi sĩ quan VNCH từ cấp thiếu úy trở lên, công chức cao cấp, và cán bộ chuyên viên VNCH ở các thành phố và các tỉnh thành từ Quảng Trị vào đến Cà Mau, trình diện và chuẩn bị lương thực, để học tập chính sách của “chính phủ cách mạng” trong ba ngày, hay một tuần hay một tháng tùy cấp bậc và tùy địa phương. Khi đại đa số sĩ quan, công chức VNCH trình diện (còn có một thiểu số người bỏ trốn), thì tất cả bị đưa đi giam giữ trong các trại tù gọi là trại học tập cải tạo trên các vùng rừng thiêng nước độc, không tuyên án và không thời hạn.
Theo bộ Encyclopedia of the Vietnam War, sau biến cố năm 1975, số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người trên tổng dân số NVN lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó, khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại.(Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political, Social, and Military History, Vol. two, Santa Barbara, California: 1998, tr. 602.) Một tác giả trong nước cho biết rằng: “Ở Sài Gòn, 443,360 người ra trình diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng, 362 đại tá, 1,806 trung tá, 3,978 thiếu tá, 39,304 sĩ quan cấp úy, 35,564 cảnh sát, 1,932 nhân viên tình báo các loại, 1,469 viên chức cao cấp trong chính quyền, 9,306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là “phản động”. Chỉ 4,162 người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sĩ quan cấp tá.” (Huy Đức, sđd. tr. 37.)
Trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù “cải tạo”. (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon’s fall”, nhật báo Orange County Register, Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.)
2.- Tiêu diệt kinh tế VNCH
Song song với việc tiêu diệt nhân lực VNCH, CS tiêu diệt luôn tiềm lực kinh tế VNCH, để VNCH không thể hồi sinh. Đầu tiên, CS chiếm ngay số vàng của VNCH ở trong và ngoài nước. Ở trong nước, sau ngày 30-4-1975, từ đầu tháng 5-1975, CS kiểm kê 16 tấn vàng trong Ngân hàng Quốc gia ở Sài Gòn. (Google: Huỳnh Bửu Sơn “16 tấn vàng của Việt Nam Cộng Hòa”.) Lúc đó, CS tung tin thất thiệt rằng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đem số vàng nầy ra nước ngoài. Ở ngoài nước, trước ngày 30-4-1975, VNCH ký gởi 5,7 tấn vàng tại ngân hàng Bank fur Internationnalen Zahlung Sausgleih ở Thụy Sĩ. Số vàng được đưa qua Tiệp Khắc (lúc đó còn CS), và CSVN nhờ Tiệp Khắc bán để lấy ngoại tệ. (Wikipedia.)
Về mặt xã hội, CS áp dụng kế hoạch kinh tế mới, nói là để phân phối lại dân số sau chiến tranh, nhưng thực tế là nhắm mục đích phân tán dân thành phố, buộc dân những thành phố lớn, như Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ đi về nông thôn, để cướp nhà cửa và tài sản của họ ở thành phố. Những gia đình có thân nhân bị bắt đi học tập cải tạo phải đi kinh tế mới, thì được hứa hẹn thân nhân sẽ được sớm trở về đoàn tụ gia đình. Những quân nhân, công chức, cán bộ chế độ VNCH nếu được thả ra từ các trại tù cải tạo, đều không được về ở các thành phố đã sinh sống trước đây, mà phải đi kinh tế mới. Những gia đình tư sản bị kiểm kê, dù là tư sản mại bản hay tư sản dân tộc, đều phải đi kinh tế mới. Mục đích của CS là trả thù, trù dập, cướp của, cướp nhà.
Khi đến vùng kinh tế mới, mỗi gia đình (CS gọi là hộ khẩu) được cấp 500m2 đất để sản xuất riêng. Ngoài ra, những người trong độ tuổi lao động, không đau ốm phải tham gia sản xuất trong hợp tác xã, làm công tính điểm và được trả lương theo số điểm. (Lâm Văn Bé, “Những biến động dân số Việt Nam”, tạp chí Truyền Thông, số 37-38, Montréal: 2010, tt. 132-133.)
Theo tài liệu trong nước: “Chỉ trong vòng vài năm, chúng ta [nhà cầm quyền CS] đã đưa được 1,300,000 người từ các nơi trong cả nước đến các vùng kinh tế mới và đã khai hoang, phục hóa được ngót một triệu hecta đất. Ủy ban nhân dân thành phố Sài Gòn vạch kế hoạch đưa trên trên một triệu đồng bào không trực tiếp lao động sản xuất đi xây dựng vùng kinh tế mới. Hơn một năm sau, đến tháng 6-1976, Sài Gòn đã tổ chức cho gần 30 vạn dân đi các vùng kinh tế mới, lập thành 94 xã, trong đó 82 xã ổn định về đất canh tác và thổ cư.” (Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 2001, tr. 282.) Một thống kê khác cho thấy từ năm 1976 đến năm 2000 (25 năm), có 5 triệu người bị cưỡng bách di dân đi vùng kinh tế mới. (Lâm Văn Bé, bđd. tr. 134.)
Tuy nhiên, sau một thời gian ở vùng kinh tế mới, nhiều người kiếm cách trở về thành phố. Kế hoạch kinh tế mới không thành công, ngoài việc nhà nước CS cướp nhà cửa, tài sản các nạn nhân.
Ngày 10-9-1975, CS mở chiến dịch đánh “tư sản mại bản” (comprador) đợt 1. Theo CS, tư sản mại bản là những nhà đại tư bản trước năm 1975, chuyên xuất nhập cảng hoặc làm ăn buôn bán với người ngoại quốc, mà CS tố cáo giới nầy đã dựa vào thế lực nước ngoài để bóc lột dân chúng.
Ngày 22-9-1975, CS ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền VNCH đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới của nhà cầm quyền CS. (Viện Kinh tế – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 45 năm kinh tế Việt Nam (1945-1990), Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội, 1990, tr. 237.) Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.
Đây là một biện pháp nhằm cướp đoạt tài sản và làm nghèo dân chúng NVN. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu,/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.” [Cộng sản đổi tiền lần thứ hai ngày 3-5-1978 và đổi tiền lần thứ ba ngày 14-9-1985. (Viện Kinh tế, sđd. tt. 237, 240.)]
Nhà nước CS mở chiến dịch đánh tư sản mại bản đợt 2 bắt đầu ngày 4-12-1975, nhắm vào những nhà tư sản nhỏ hơn, nhưng vẫn còn giàu có. Vào đầu năm 1978, CS mở chiến dịch đánh “tư sản dân tộc” do Đỗ Mười cầm đầu, gọi là “công tư hợp doanh”. Tư nhân phải đem cơ sở sản xuất hay kinh doanh riêng của tư nhân, vào hợp doanh với nhà nước. Tất cả doanh gia đều phải vào công tư hợp doanh (CTHD) mới được kinh doanh.
Nói là “công tư hợp doanh”, nhưng nhà nước không bỏ vốn, chỉ đứng ra quản lý, điều hành. Người chủ cũ (tư nhân) sẽ là một thành viên và lãnh lương theo quy định chức vụ hay cấp bậc. Nếu bị cất chức, chủ cũ xem như mất trắng tài sản của mình. Dân chúng mỉa mai gọi CTHD là “Của Tôi Họ Dành”.
Ở nông thôn thì CS thực hiện nền kinh tế chỉ huy nhanh chóng hơn, chủ trương “ruộng đất thuộc quyền sở hữu của toàn dân, nhưng do nhà nước quản lý.” Tất cả ruộng đất tư nhân đều bị quốc hữu hóa và nông dân, điền chủ đều phải vào hợp tác xã nông nghiệp hoàn toàn do cán bộ CS điều hành.
3.- Tiêu diệt ăn hóa Miền Nam
Chủ trương nhuộm đỏ toàn dân NVN, CS buộc toàn dân học tập chủ nghĩa CS. Cộng sản xóa bỏ nền văn hóa, giáo dục VNCH, bãi bỏ nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng ở miền Nam, thay bằng nền giáo dục phục vụ chế độ và đảng CS, nhằm đào tạo những con người hồng hơn chuyên, mang tính đảng nhiều hơn chuyên môn, biết vâng lời đảng CS hơn là biết suy nghĩ. Học sinh phải học thuộc lòng “Năm điều” do Hồ Chí Minh đề ra là: “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt, lao động tốt. Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.” Không có điều nào dạy trẻ em có hiếu với cha me, thương yêu anh chị em, lễ độ, nhân ái và tín nghĩa với mọi người, tức không dạy đức dục cho trẻ em, vì CS chủ trương vô gia đình, vô tổ quốc. Vào năm cuối trung học, học sinh phải học và thi tốt nghiệp môn chủ nghĩa CS, lý thuyết Mác-Lê, lịch sử đảng CS Việt và CS thế giới. Sau khi tốt nghiệp, môn học nầy chẳng ứng dụng được gì vào đời, nên học sinh không thích học, thầy giáo không thích dạy.
Dưới chế độ CS, không có tự do ngôn luận. Cộng sản kiểm soát toàn bộ các sinh hoạt văn hóa, điều khiển chặt chẽ ngành truyền thông, Báo chí đều do cơ quan đảng xuất bản. Cộng sản đốt hết sách báo NVN mà CS cho là đồi trụy, kiểm duyệt kỹ càng các tác phẩm nghiên cứu, văn chương, ca nhạc…
Về tôn giáo, CS chủ trương vô tôn giáo, và CS muốn tiêu diệt các tôn giáo nhưng không nổi, nên CS tìm cách kiểm soát, ngăn chận các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động các tu sĩ, và lập ra các giáo hội quốc doanh do CS điều khiển, gây chia rẽ trong nội bộ các tôn giáo. Cộng sản không thể lập giáo hội Công giáo quốc doanh, cũng không ngăn chận được hoạt động các giáo sĩ, nên CS bí mật tìm cách phá hoại, khủng bố, và mua chuộc một số giáo sĩ. Với các hệ phái Tin Lành, các hội thánh riêng lẻ, độc lập, tự trị, hoạt động nhiều ở miền núi và cao nguyên vắng vẻ, nên CS theo dõi, hạn chế, uy hiếp hay bắt giam các giáo sĩ.
Kết luận
Đảng CS cưỡng chiếm được NVN, nhưng CS không chinh phục được lòng dân. Chủ trương tiêu diệt tiềm lực VNCH sau ngày 30-4-1975 nói chung là thất bại. Đúng như câu đồng dao dân chúng truyền tụng “Cộng Hòa chôn mà chưa chết”. Ngoại trừ việc CS chận đứng các lực lượng đối kháng, giữ vững chế độ CS, còn lại CS đều thay đổi theo VNCH. Đảng CS chỉ còn giữ cơ cấu độc tài đảng trị để duy trì quyền lực. Cũng đúng như dân chúng nói “Cộng sản chết mà chưa chôn”.
Trong khi đó, các trại tù cải tạo của CS không cải tạo được ai, mà chỉ gây thêm hận thù. Ra khỏi tù, ai cũng tìm cách vượt biên hoặc theo các chương trình ODP hay HO ra nước ngoài. Ra khỏi nước, người Việt tập hop thành những cộng đồng chống cộng. Ở trong nước, dầu bị CS kềm kẹp khắc nghiệt, vẫn xuất hiện nhiều nhà tranh đấu, đòi tự do dân chủ, chống CSVN, và chống mưu đồ xâm lăng của Tàu cộng.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 19-9-2018 ở Hòa Bình, tù nhân lương tâm Đào Quang Thực tuyên bố lời cuối cùng sau khi bị kết án 14 năm tù giam, 5 năm quản chế: “Tôi đấu tranh cho tự do dân chủ và quyền con người cho đất nước tôi. Tôi đấu tranh cho đất nước tôi được sống trong môi trường trong lành. Tôi không ân hận.” (http//www.facebook.com/VOATiengViet) (Đài phát thanh VOA ngày 19-9-2018).
Về kinh tế, chính sách kinh tế chỉ huy của CS không kích thích nổi sự phát triển kinh tế, nên đất nước suy sụp. Lo sợ dân chúng nổi dậy, năm 1986, CS bắt đầu “đổi mới” kinh tế, bãi bỏ kinh tế chỉ huy, trở lại nền kinh tế thị trường, nay do CS kiểm soát, gọi là kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Kinh tế chỉ huy là nền tảng của chủ nghĩa CS. Bãi bỏ kinh tế chỉ huy có nghĩa là chủ nghĩa CS hoàn toàn thất bại.
Về văn hóa, trước 30-4-1975, NVN vốn chủ trương văn hóa dân tộc cổ truyền, mở cửa đón nhận tinh hoa văn hóa thế giới. Sau năm 1975, CS truyền bá văn hóa Mac-xít, nhưng vô hiệu. Văn hóa cổ truyền vả tinh thần VNCH vẫn tiềm tàng trong dân chúng. Người BVN, kể cả toàn bộ cán bộ CS cao cấp, chuyển đổi hoàn toàn theo nếp sống văn minh và văn hóa NVN, ngoại trừ duy trì tổ chức độc tài CS.
Trong chiến tranh, CS đưa ra chiêu bài chống Mỹ cứu nước. Nay CSVN lại rước Mỹ giúp nước. Ngày 3-2-1994, Hoa Kỳ bỏ cấm vận Việt Nam và bình thường hóa ngoại giao ngày 11-7-1995. Từ đó, các nước tư bản bắt đầu vào Việt Nam đầu tư. Tuy nhiên, do CS không có cán bộ đủ năng lực quản lý nền kinh tế thị trường, nên tham nhũng tràn lan khắp nước.
Trong thời gian nầy, ngành INTERNET xuất hiện đúng lúc, làm bộc phát thông tin trên mạng lưới toàn cầu. Những bài viết của người Việt trong và ngoài nước phô bày thực trạng độc tài đảng trị, lệ thuộc Tàu cộng, kinh tế yếu kém, bóc lột, tham nhũng, tệ nạn xã hội … đều được đưa lên internet.
Để duy trì quyền lực, CS duy trì độc đảng, độc quyền chính trị, văn hóa, truyền thông, với nền giáo dục phục vụ CS, và chỉ nới lỏng dần dần những luật lệ không quan trọng. Trộm cướp, đĩ điếm bộc phát, xã hội xáo trộn. Dân chúng không còn sợ nhà nước CS như trước, đua nhau khiếu kiện trên toàn quốc, và tham gia những cuộc biểu tình chống Trung Cộng đe dọa Biển Đông. Nhà cầm quyền CS đàn áp biểu tình, đàn áp tinh thần yêu nước của dân chúng, làm lộ rõ thêm bộ mặt phản quốc của CS.
Trong lúc đang khó khăn, thì thiên tai ập đến. Đồng bằng sông Cửu Long từ từ nhiễm mặn, khô cằn nứt nẻ. Vựa lúa của dân tộc bị đe dọa. Ngoài nước, cuộc thương chiến Hoa Kỳ-Trung Cộng từ 2018; dịch siêu vi khuẩn Vũ Hán (Trung Cộng) bùng phát đầu 2020, ảnh hưởng đến Việt Nam, vì kinh tế Việt Nam gắn liền với kinh tế Trung Cộng. Nếu tình trạng nầy kéo dài, Việt Nam có thể sẽ bị khủng hoảng trầm trọng.
Ngày nay, sau 45 năm thống trị Việt Nam, dầu CS tuyên truyền thế nào đi nữa, thì dân chúng cũng không còn tin tưởng CS. Kinh tế suy thoái, ngân quỹ cạn kiệt, nợ nần tràn ngập đến hồi phá sản, đàn anh Tàu Cộng liểng xiểng, ghế dựa của CSVN lung lay.
Trước khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, CSVN đã nhảy trước tại hội nghị Thành Đô tháng 9-1990, bỏ Liên Xô chạy theo Trung Cộng để tự cứu. Ngày nay, Trung Cộng đang khó khăn lụn bại, và lâm nguy, không còn dựa hơi được nữa, là cơ hội để CSVN nhanh chân thoát Trung, nhảy thêm bước nữa.
Có hai tấm gương trước mắt: 1) Từ năm 1990, các nước Đông Âu vĩnh viễn từ bỏ các chế độ CS. Chỉ sau vài thập kỷ, các nước Đông Âu hầu như bắt kịp các nước Âu Mỹ. 2) Hiện nay, trong nước, sinh viên, học sinh Việt Nam du học nước ngoài, đều chọn du học các nước Âu Mỹ. Trên 38,000 du học sinh Hoa Kỳ. Đó là chưa kể du học Anh, Pháp, Nhật, Úc. Chỉ một số rất ít được học bỗng mới qua Trung Cộng. Tuổi trẻ rất sáng suốt. Chuyến tàu đổi mới do sinh viên cầm lái đã khởi động. Các toa dân chúng đã đầy ắp. Chỉ toa dành cho lãnh đạo CS còn trống. Thiên thời đã sẵn sàng. Cơ hội không phải dễ có.
Vậy lãnh đạo CSVN hãy can đảm nhanh chân theo con em mình kẻo trễ. Còn hơn là lú lẫn ôm mãi cái chủ nghĩa CS lỗi thời, giữ chút hư danh và quyền lợi, cản đường dân tộc, lại lệ thuộc bắc phương, bị bắt nạt trên Biển Đông. Lâu lâu, Trung Cộng ngứa tay tát tai vài cái giải trí. Thật nhục nhã mà vẫn ngậm miệng ăn tiền. Rồi sẽ có lúc không tránh khỏi số phận Nicolae Ceausescu (Romania) chập chờn đâu đó!
TRẦN GIA PHỤNG (Texas, tháng 4-2020)
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ – Nguyễn Ngọc Trân, TĐ 31 BĐQ (LĐ3)
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Xác thân này đâu chết cho quê hương ?
Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách.
Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.
Bao năm trời bao nhiêu người trai trẻ,
Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
Khi nằm xuống bạn nào đã cần gì ??
Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước,
Ta giờ đây đã tàn bao mơ ước!
Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ…
Ngày về quê càng lúc càng xa mờ.
Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng,
Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai ??
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
http://batkhuat.net/tho-maitoichet-covang-xindungphu.htm
45 năm sau – Nói một lần cho dứt dạt
Ai thắng ai thua – Ai là chánh nghĩa?
Nguyễn Nhơn
Bảo Ninh nói nước đôi:
Trích: “Phần trích được chiếu trong Tổng Lãnh sự Mỹ mở đầu bằng mái đầu bạc của Bảo Ninh với một câu nhận định hùng hồn: “Chiến tranh không ai thắng hay thua hết. Những ông không bao giờ đánh nhau mới bàn luận ai thắng thua.”… Và tiếp sau đó, là những câu chuyện mở ra từ những cánh cửa tinh thần đóng chặt lại sau hàng chục năm dài tham chiến. Bảo Ninh thú nhận khi ông trở về nhà sau trận mạc, mẹ ông im lặng không dám vui mừng vì chợt nhớ ra người hàng xóm cũng có đứa con trai đi bộ đội – và bên ấy chưa có người về.
(Vietnam War: ‘Cuộc chiến day dứt tất cả chúng tôi’ Khải Đơn Gửi tới BBC từ Tp HCM)
Sách có chữ:
“Chiếm được đất mà mất lòng người là THUA
Mất đất mà giữ được lòng người là THẮNG”
Miền Nam Việt Nam/ Việt Nam Cộng Hòa
Ngày 30 Tháng tư oan nghiệt bị việt cọng xâm lăng chiếm mất nước. Nhưng ngày nay NGỌN CỜ VÀNG QUỐC GIA VIỆT NAM CỘNG HÒA vẫn ngạo nghễ tung bay khắp nơi trên thế giới và ngay cả trong nước từ Thạnh Hóa Long An ra tới tận Hà Tĩnh, Nghệ An.
Chuyện Thắng Thua đặt ra một bên
Vấn đề Chánh Nghĩa Dân tộc mới đáng kể
Ai vì Đại Nghĩa Dân tộc
chiến đấu chống cọng sản quốc tế xâm lăng
giữ nửa mảnh Sơn Hà
khỏi bị tà thuyết cọng sản xâm chiếm?
Ai là tay sai nga hoa
đánh chiếm Miền Nam
dâng cho nga tàu
“mãi Quốc cầu vinh?”
Ngày nay, thực tế LỊCH SỬ đã rõ ràng:
Vietnam War là NỘI CHIẾN cái mả mẹ chúng bây
Fw ACE, tốp làm phim, ngay từ đầu đã cho thấy nhận định rất thô thiển khi giới thiệu phim VN War là A Brutal Civil War, một cuộc Nội Chiến tàn baọ. Qua nhiều cuộc phỏng vấn các cán binh bộ đội miền BĂĆ, không thể noí là không có sự dàn dựng cho phép cuả VC, trong khi dễ dàng nhưng hiếm thấy hình ảnh người lính miền NAM… đã không dấu được sự cố tình thiên vị, sai lệch theo định hướng < PBS ? >
Phản bội đồng minh VNCH, dù bất cứ lý do naò vẫn luôn là vết nhơ trong lịch sử Hoa Kỳ không thể lấp liếm, nước Mỹ vẫn nợ VNCH một lời xin lỗi, Mainstream Media Bias vẫn nợ các chiến binh Mỹ chiến đấu cho Tự do ngăn chặn làn sóng CS một lời xin lỗi và vinh danh. Phú Vân.
*********
Đối với bọn việt cọng + việt gian và phản chiến Mỹ + thành phần thứ 3 cửa giữa – > Vietnam War bao giờ cũng là NỘI CHIẾN.
Chúng nó ỷ tiền, ỷ thế cả vú lắp miệng em.
Đờ mờ bọn cu li việt cọng + việt gian
và lưu manh quốc tế đủ loại.
Mấy lời văn tắt về tên gọi “chiến tranh Việt-Nam”
Các tuyên giáo vẹm hãy thôi sủa! Ngày tàn của toàn trị việt cộng đã cận kề. Hãy khôn ngoan lắng nghe hàng thức giả luận bàn thế sự cho được phần sáng trí.
Trích: “Điểm lại những sự kiện chính của cuộc chiến tranh do những người cộng sản Việt Nam phát động từ 1960 đến ngày kết thúc 30.4.1975 để thấy rõ cuộc chiến này dứt khoát không phải là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mà chỉ là cuộc nội chiến đẫm máu nhất, tội lỗi nhất trong lịch sử Việt Nam để đảng Cộng sản Việt Nam giành quyền thống trị cả nước, nô dịch cả dân tộc Việt Nam.”
(Phạm Đình Trọng: Cần gọi đúng tên cuộc chiến này)
Cuộc “chiến tranh Việt Nam” không bao giờ là NỘI CHIẾN. Nó đích xác là cuộc chiến “DO CỘNG SẢN BẮC VIỆT PHÁT ĐỘNG XÂM LĂNG NHUỘM ĐỎ MIỀN NAM VNCH ĐỂ MỞ ĐƯỜNG CHO CỘNG SẢN NGA – HOA TIẾN XUỐNG ĐNA NHƯ LỜI LÊ DUẪN NÓI.”
Hoặc nói vắn tắt như một học giả Mỹ gốc Việt trong quyển sách hồi gần đây là: CUỘC CHIẾN TRANH CỦA (CS) HÀ NỘI. (HANOI’S WAR by Lien Hang T. Nguyen)
Nó cũng không phải là cuộc chiến tranh ỦY NHIỆM. Đối với cộng sản Bắc Việt thì phải: Hồ và cs BV phát động chiến tranh theo lệnh csqt Nga -Hoa. Nhưng Miền nam VNCH chỉ chiến đấu tự vệ chớ KHÔNG PHẢI DO MỸ ỦY NHIỆM.
Nó cũng không phải là cuộc chiến tranh Ý THỨC HỆ. Đối với cộng sản Bắc Việt hồ tặc thì đúng: Đúng là già hồ và cs Bắc Việt gây chiến tranh theo CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN QUỐC TẾ. Miền Nam VNCH thì KHÔNG! Miền Nam VNCH không theo bất cứ MỘT THỨ CHỦ NGHĨA NGOẠI LAI NÀO KHÁC.
Miền Nam VNCH chỉ biết theo truyền thống Dân tộc: YÊU NƯỚC – THƯƠNG DÂN – CHỐNG NGOẠI XÂM. Từ thuở bé thơ tới khi trưởng thành, từ gia đình ra ngoài xã hội đều luôn luôn được giáo dục và hành xử theo truyền thống dân tộc Nhân – Nghĩa như vậy. Vì vậy mà phải đổ máu xương chống cộng sản VÔ THẦN, VÔ TỔ QUỐC, VÔ PHÁP, VÔ THIÊN xâm chiếm, phá nát kỷ cương, truyền thống, tình tự dân tộc.
Nhân dân Miền Nam, từ Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhân sĩ trí thức, sĩ phu – quân dân Miền Nam hiểu rõ lẽ ấy nên không tiếc máu xương chiến đấu giữ lại NỬA MẢNH SƠN HÀ của tổ tiên truyền lại, khỏi bị bọn con cháu hư hèn mê lầm chủ nghĩa cộng sản xâm chiếm, tàn phá, hủy hoại giao nạp cho ngoại bang.
Đó là trên bình diện lý luận.
Thực tế ngày nay ngày càng chứng nghiệm về câu tiên đoán của Tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn chánh trị Ngô Đình Nhu: “Chúng ta hiện nay đang tiếp tục cuộc chiến đấu lớn lao để hoàn thiện nền độc lập của quốc gia chúng ta và để đảm bảo tự do của nhân dân chúng ta. Cuộc đời của chúng ta, tự do của chúng ta, hạnh phúc của chúng ta và cuộc đời, tự do, và hạnh phúc của con cháu chúng ta đều phụ thuộc vào cuộc chiến đấu này. Nếu Việt Minh thắng trong cuộc đấu tranh này, quốc gia thân yêu của chúng ta sẽ biến mất và nước chúng ta sẽ chỉ được đề cập đến như là một tỉnh phía nam của Trung Cộng. Hơn nữa nhân dân Việt Nam sẽ mãi mãi sống dưới ách độc tài do Mạc Tư Khoa tạo ra và sẽ bị tước mất tôn giáo, tổ quốc và gia đình.” (Tổng Thống Ngô Đình Diệm phát biểu nhân dịp khánh thành Đập Đồng Cam ở Tuy Hòa vào ngày 17 tháng Chín, 1955)
Kết luận: KHÔNG CÓ NỘI CHIẾN TƯƠNG TÀN
Chỉ có CHIẾN TRANH CSBV XÂM LĂNG VNCH DÂNG CHO NGA – HOA
https://honviet.co.uk/NguyenNhon_45NamSauNoiMotLanChoDutDatAiThangAiThuaAiLaChanhNghia.htm
Chờ anh
Mưa tháng tư
Xa lạ
Ướt đẫm đời em
Xót xa bao đời người
Vậy là
Anh không về
Chắc chắn tháng tư này
Vì cũng như những tháng tư trước
Mưa tá lã trên đầu
Vậy mà
Có lúc em muốn tin
Có lần em hoa mắt
Đôi tay khô với theo
Đôi môi sầu mím chặt.
Tóc ba mươi vội bạc
Áo sờn vai bao cát
Bọc thân gầy lao đao
Ôi!Tình người đâu mất?
Bao lâu em cũng chờ
Được!
Chỉ mong tháng tư thôi mưa
Tại sao tháng tư lại mưa?
Nhớ anh em mạnh đôi chân
Thương anh em sống với ngần ấy con
Lo anh chăn chiếu hoàng hôn
Mong anh ngọn nến rọi hồn núi sông
Tận đáy lòng
Theo anh vằng vặc trăng trong thuở nào.
Trần văn Hạnh
Con Đường Tương Lai của Việt Nam trong những ngày sắp đến… – Mai Thanh Truyết
Thơ Phạm Tương Như cảm tác cho Ngày Quốc Hận 30/4/2020
Anh hùng tử, chí hùng linh!
Diệt thù giữ nước dân tình ấm no
Ta hề! Tuổi hạc dẫu cao
Ngựa hề! Kiếm thép khí hào Tiền nhân
Chí hề! Vị Quốc Vong Thân
Tiết hề! Gương Ngũ Tướng cần soi ta…
Thưa Bà Con,
Hôm nay là ngày 24/4, chỉ còn một tuần lễ nữa là Việt Nam Cộng Hòa đi vào quá khứ. Trong niềm đau Quốc Hận, chúng ta vẫn còn ngẩng đầu tin tưởng vào tường lai. Trong vườn hoa của dân tộc Việt nơi hải ngoại vừa ghi dấu được một em bé chưa biết bò, cố gắng tìm vú mẹ trên đại lộ kinh hoàng phía Nam vỹ tuyến 17, Cầu Mỹ Chánh để rồi…45 năm sau, một Trung tá quân lực Hoa Kỳ oai hùng trong bộ quân phục của một quốc gia hùng mạnh nhứt thế giới. Đó là Tr.T. Kinberly M. Mitchell.
Và đây, chính là Con Đường Tương Lai của Việt Nam trong những ngày sắp đến…
Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4 tháng tuổi nằm trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng mẹ tìm vú để bú nhưng mẹ đã chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang, bồng em bé bỏ vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân.
Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở thành Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ còn người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo diện HO nay đang định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau 41 năm bặt vô âm tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang California dự lễ cưới, người Thiếu Úy TQLC này đã kể cho phóng viên Viễn Đông câu chuyện cảm động và ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.
Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo. Vào thời điểm 1972 ông còn độc thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được biệt phái sang Phòng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách chuyển vận.
Thưa Bà Con,
Xin Bà Con dặn lòng là không bao giờ quên Ngày Quốc Hận 30/4.
Vì ngày nầy đã đánh dấu biết bao oan khiên của dân tộc. Và trong những nỗi oan khiên có lẽ nỗi oan khiên qua cái chết của Tướng Nguyễn Khoa Nam chắc sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm khảm người con Việt.Người thứ hai, người viết muốn nhắc đến là Trung tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long.
Thưa Bà Con,
Tướng Nguyễn Khoa Nam: Cuộc Đời Thành Huyền Thoại
(Phạm Văn Thanh nguyên là Hải Quân Trung Úy thuộc QLVNCH vào năm 1975, được giao trách nhiệm nhuận bút và hoàn thành tác phẩm “Nguyễn Khoa Nam” ấn bản đầu tiên 2001.)
Từ ngày nhập ngũ cho đến khi tuẫn tiết, Tướng Nguyễn Khoa Nam đã dâng trọn cuộc đời cho quân đội, chiến đấu bên cạnh các chiến hữu của ông trên khắp mọi miền đất nước từ Bắc vào Nam.
Chín năm sau, hài cốt ông đã được bà Nguyễn Khoa Phước (em dâu ông) cải táng, hỏa thiêu và trong cuộc hành trình về lại Sài Gòn, rải tro cốt xuống giòng sông Hậu, sông Tiền, nơi mà Tướng Nam đã sống và chết bảo vệ an ninh lãnh thổ cho vùng Đồng Bằng Cửu Long.
Xác thân ông đã hoà vào giòng nước đục phù sa, linh hồn ông đã nhập cùng hồn thiêng sông núi!
Tướng Nam không bỏ người chiến hữu nào mà đã vĩnh viễn ở lại cùng họ, những người lính chiến VNCH đã hi sinh mạng sống hay một phần thân thể để bảo vệ nền tự do, dân chủ non trẻ của miền Nam suốt 20 năm dài.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông bình thản chu toàn trách vụ của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV tới phút cuối cùng xong mới thanh thản trở về với lòng đất mẹ. Tướng Nam đã không đành đoạn bỏ nước và dân chúng ra đi hay chịu yên vui sống tiếp quãng đời còn lại trên xứ người, nhìn đất nước bị Cộng Sản nhuộm đỏ và đồng bào ông sống trong cảnh tủi nhục đọa đày.
Tướng Nguyễn Khoa Nam đã chọn lấy cái chết của mình để trả nợ nước!
Và tiếp theo là Trung Tá Nguyễn Văn Long
Thân mời Quý Bà Con xem bài của Duyên Anh: “Máu Trung Tá Long đã thấm xuống lòng đất mẹ”.
Nối vòng tay lớn không còn nữa.
… Chúng tôi lách đám đông. Dưới chân tượng đài của thủy quân lục chiến, xác một người cảnh sát nằm đó. Máu ở đầu ông ta chẩy ra tươi rói. Người sĩ quan cảnh sát đeo lon Trung tá. ông ta mặc đồng phục màu xanh. Nắp túi ngực in chữ Long.
Trung tá cảnh sát Long đã tự sát ở đây Cộng sản để mặc ông ta nằm gối đầu trên vũng máu. Phóng viên truyền hình Pháp quay rất lâu cảnh này. Lúc tôi đến là 14 giờ 30. Dân chúng đứng mặc niệm trung tá Long, nước mắt đầm đìa. Những người không khóc thì mắt đỏ hoe, chớp nhanh.
Tất cả im lặng, thây kệ những bài ca cách mạng, những lởi hoan hô bộ đội giải phóng.
Trung tá Long đã chọn đúng chỗ để tuẫn tiết. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng trấn Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Đô trưởng Sài gòn đã đào ngũ. Tướng giữ thành Sài gòn là Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia đã đào ngũ. Không có Hoàng Diệu, ở những trạng lịch sử chó đẻ của thời đại chúng ta. Và trên những tiểu thuyết đấu tranh, những hồi ký chiến đấu của những con người tự nhởn sống hùng mọi hoàn cảnh, người ta không thấy một dòng nào viết về cái chết tuyệt vời của trung tá Cảnh sát tên Long.
Cộng sản đã chẳng ngu dại phong anh hùng, liệt sĩ cho quốc gia. Họ độc quyền anh hùng, liệt sĩ. Ở những cuộc đấu thầu anh hùng, liệt sĩ quốc gia tại hải ngoại, chưa thấy một nén tâm hương tưởng mộ trung tá Long. Có lẽ, liệt sĩ đích thật không lãi lớn bằng liệt sĩ giả vờ thế thì thời đại chúng ta đang sống là cái thời đại gì nhỉ? Nó không chịu, không thích vinh tôn cái thật, đã đành, nó còn nhởn chìm cái thật và vấy bẩn lên cái thật một cách thô bạo, ẩn ý và lạnh lùng.
Khi cái thật bị nhận chìm, bị vấy bẩn, cái giả nổi bật, sáng giá và chói lọi, thơm tho. Như vậy, mọi giá trị về tinh thần, về đạo nghĩa bị nhởn chìm theo. Rốt cuộc, bọn giả hình sống với cái giả của chúng, huyễn hoặc mọi người bằng cái giả với bạo lực của quyền uy hợp pháp và cả quyền uy ảo tưởng hậu thuẫn. Và người công chính thụ động, buông xuôi. Cuối cùng, con cháu chúng ta sẽ chỉ biết liệt sĩ đất sét, anh hùng gian dối, vĩ nhân phường tuồng.
Vì vậy,
Thưa Bà Con,
Về phần chúng ta, những người con Việt còn lại sau 45 năm dưới ách cai trị của CSBV há chẳng mang được một hoài bảo có một ngày nào về lại xây dựng quê hương.
Sống tha hương nới đất lạ khắp nơi trên thế giới, Bà Con có nghe chăng tiếng Mẹ Việt Nam réo gọi và mong đàn chim Việt sẽ trở về dựng lại Quê Hương, vá lại bức dư đồ đã rách nát, kết quả của 45 năm cai trị miền Nam, và 75 dày xéo đất Bắc của Cộng sản Bắc Việt.
Hoài Bảo Việt Nam
Nơi đây đất khách quê người
Làm sao yên ổn sống đời lưu vong
Bao năm vận nước long đong
Bấy lâu ta vẫn hoài mong một ngày
Tự do dân chủ no đầy
Văn mình tiến hóa đắp xây quê nhà
Hướng về quê Mẹ nhạt nhòa
Viễn phương cố nén xót xa dâng tràn
Ra đi trong những ngỡ ngàng
Bao giờ trở lại thăm làng quê xưa
Mây buồn đổ xuống cơn mưa
Khóc dùm ta giọt lệ chưa khô cằn
Tình quê nợ nước nhớ chăng
Làm sao không khỏi băng khoăng ngậm ngùi
Có gì lấy để làm vui
Khi quê hương Mẹ bao người lầm than
Còn gì sau buổi tiệc tàn
Hay là chỉ thấy bẽ bàng lòng thêm
Câu kinh khấn nguyện từng đêm
Công bằng, nhân bản xây nền Việt Nam!!!
Nhóm Chống Tàu Diệt Việt Cộng
Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo Và Di Nguyện ‘Không Phủ Cờ Vàng’ – Đằng-Giao
WESTMINSTER, California (NV) – Rất đông cựu quân nhân QLVNCH tại Little Saigon đều tán thành di nguyện của cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, cựu tư lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh QLVNCH, là không có nghi thức phủ quốc kỳ trong tang lễ.
Trong cáo phó do gia đình đưa ra, sau khi ông Đảo qua đời, có đoạn di nguyện của người quá vãng như sau:
“Trong tang lễ xin miễn lễ nghi quân đội, không có lễ phủ quốc kỳ trên linh cữu vì người quá cố không được vinh dự hy sinh cho tổ quốc trên bãi chiến trường. Các bằng hữu đã tuẫn tiết, các chiến sĩ anh hùng, quý vị quân dân cán chính VNCH đã hy sinh vào những giờ phút cuối trong Tháng Tư, 1975, đều không có dịp, mà cũng chẳng còn ai phủ quốc kỳ trong tang lễ.”
“Tôi không nghĩ ông Lê Minh Đảo có ý coi thường lá cờ VNCH đâu. Tôi hoàn toàn đồng ý với ý nguyện của ông, và chính tôi, khi tôi chết, tôi cũng không muốn được phủ cờ,” ông Hồ Đắc Huân, cựu Thiếu tá Bộ Binh, đồng tác giả cuốn Lược Sử QLVNCH, nói. “Chuyện được phủ cờ nên do chính quyền thực hiện.”
Theo ông Huân, đây không phải là lần đầu tiên một vị tướng QLVNCH không muốn được làm lễ phủ cờ.
“Hồi năm 2005, cố Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù, cũng để lại di nguyện là không làm lễ phủ cờ,” ông nhắc.
Trước năm 1975, theo ông Huân, “bất luận là quân nhân hay dân sự, nếu hy sinh đang lúc thừa hành công vụ là được chính phủ cho làm lễ phủ cờ.”
Ông tiếp: “Chúng ta đã không còn quốc gia, không còn chính phủ nữa thì những chuyện này tùy theo ý muốn của từng cá nhân, từng gia đình thôi.”
Cách đây không lâu, ông từng làm lễ phủ cờ cho cố Đại Tá Trần Ngọc Thống, đồng tác giả cuốn Lược Sử QLVNCH với ông.
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo tại buổi lễ truy điệu anh linh chiến sĩ đã nằm xuống để bảo vệ miền Nam trong buổi hội ngộ Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Little Saigon năm 2015. “Vì tôi thấy rằng ông là người có công lớn với quân đội VNCH và cả nước. Ông là người thiết kế bao nhiêu bội tinh cũng như huân chương cho cả quân đội (khoảng 29) lẫn dân sự (khoảng 22), tính tới năm 1972,” ông Huân giải thích. “Nhưng đó là vì chúng tôi muốn tỏ lòng tôn trọng một chiến hữu thôi chứ anh ấy đâu đòi hỏi gì.”
Với giọng trầm trầm, đầy hào khí, ông nói: “Là một quân nhân thực sự thì khi chết không cần phủ cờ vì người lính nào cũng đã có lá cờ tổ quốc trong tim rồi.”
Ông Phan Kỳ Nhơn, chủ tịch Liên Ủy Ban Chống Cộng Sản Và Tay Sai, lại có suy nghĩ hơi khác.
Ông chậm rãi chia sẻ: “Tôi rất buồn. Tôi rất buồn vì chúng ta đang ở giữa nạn dịch COVID-19 này nên không thể làm gì hơn được cho Thiếu Tướng Lê Minh Đảo. Ông là một người có công với đất nước và xứng đáng được phủ cờ.”
“Nếu không có nạn dịch này thì cho dù không làm lễ phủ cờ được, các hội đoàn cũng phải tổ chức một nghi lễ gì đó thật long trọng để tỏ lòng tưởng nhớ một vị anh hùng,” ông thêm.
Ông Hồ Ngọc Minh Đức, chủ tịch Ủy Ban Xây Dựng và Bảo Tồn Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ tại Westminster, chia sẻ quan điểm: “Theo quân luật thì một người có công với tổ quốc phải được làm lễ phủ cờ trong tang lễ, nhưng hiện nay vì nạn dịch COVID-19 và cũng do ý muốn của ông (Lê Minh Đảo) nên không phủ cờ cũng không sao.”
Ông Tô Phạm Thái, chủ nhiệm nguyệt san KBC, cho biết rằng đây không phải là quyết định mới mẻ của vị cố thiếu tướng.
Ông hồi tưởng: “Là một cựu quân nhân trong Sư Đoàn 18 Bộ Binh QLVNCH, sau khi trận Xuân Lộc kết thúc ngày 20 Tháng Tư, 1975, tôi từng nghe lời ông Đảo chia sẻ với chiến hữu. Ông nói, ‘Nếu tôi không chết ngoài trận mạc thì khi chết không nên phủ cờ.’”
Ông Richard Bùi, trung tâm trưởng Trung Tâm Điều Hợp Tây Nam Hoa Kỳ, nói: “Đây là ý riêng của ông (Lê Minh Đảo) và tôi nghĩ chúng ta nên tôn trọng. Riêng tôi, tôi tôn trọng ý muốn này của ông.”
Ông Bằng Phong Đặng Văn Âu, cựu thiếu tá Không Quân VNCH, cũng đồng ý với quyết định của vị cố thiếu tướng.
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và phu nhân cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
trong buổi hội ngộ Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Little Saigon năm 2015. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Ông nói: “Tôi hoàn toàn đồng ý với ước muốn của Tướng Lê Minh Đảo. Nếu mai này tôi chết, tôi sẽ ra đi trong lặng lẽ đúng với cung cách của một chiến sĩ vô danh, không có nghi thức phủ cờ gì hết.”
Ông giải thích: “Bởi vì nghi thức phủ cờ chỉ dành cho người chiến sĩ hy sinh ngoài mặt trận. Là một người lính bại trận, chết già mà phủ cờ thì hơi lạm dụng nghi thức. Là người lính tận tụy với tổ quốc, trong tim họ đã có sẵn lá quốc kỳ, đâu cần được ai tuyên dương.” “Nếu thương chiến hữu, chúng ta có thể bỏ vào quan tài một lá cờ vàng ba sọc đỏ là đủ nói lên tất cả điều mà chúng ta muốn bày tỏ,” ông ôn tồn chia sẻ.
Đại Úy Lê Nghiêm Kính, được nhiều người biết là nhà báo kiêm nhà thơ Huy Phương, trả lời bằng những câu thơ viết năm 2012: “…Hãy quên tôi, người lính già lưu lạc/Đừng phủ lá cờ tổ quốc cho tôi/Anh em tôi trong những giờ tuyệt lộ/Nằm lại bờ lúc chiến hạm ra khơi/Không ai trổi cho khúc kèn truy điệu/Không có ai phủ giúp ngọn cờ vàng…” (Trích trong “Chúc Thư Của Một Người Lính Chết Già” của Huy Phương.)
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo qua đời tại bệnh viện Hartford, Connecticut, lúc 1 giờ 45 chiều (giờ địa phương) ngày 19 Tháng Ba, hưởng thọ 87 tuổi.
Ông để lại chín người con, hai trai và bảy gái.
Một ngày trước khi từ trần, ông nói câu cuối cùng với các con: “Ba chuẩn bị đi hành quân.’”
Với các chiến hữu, ông mãi mãi là “Người Hùng Xuân Lộc.”
Ông có biệt danh này vì chỉ huy Sư Đoàn 18 Bộ Binh với chiến tích là chặn đứng đà tấn công của Cộng Quân vào Xuân Lộc năm 1975.
Theo ý chung của các cựu quân nhân, cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo từng chứng kiến bao cái chết oan nghiệt nhưng đầy hào hùng ngoài trận địa của đồng đội mà không có một lá cờ phủ thây thì ông cũng muốn được như những người ấy.
Phải chăng, cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo cũng có tâm tư như của cố Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng qua những câu thơ bi tráng của Thiếu Úy Nguyễn Ngọc Trân, “Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ/Xác thân này đâu chết cho quê hương/Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường/Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!”
Thơ Phan Huy MPH – Tiếng gọi tháng tư
Mỗi lần năm đến tháng tư
Là tôi lại cứ mình như khóc thầm
Đất trời đang giữa tiết xuân
Lòng tôi vẫn mãi lạnh lùng mùa đông
Tôi nghe tiếng thét cha ông:
“Vì đâu đất nước thù trong giặc ngoài?”
Tôi nghe sông núi thở dài:
“Giống dòng Âu Lạc còn ai thương nòi?”
Tôi nghe lảnh thổ sục sôi:
“Đâu rồi hòn đảo ở ngoài Biển Đông?”
Tôi nghe ai oán Cữu Long:
“Tiếc thay tôm cá và đồng lúa thơm!”
Tôi nghe phẫn nộ của rừng:
“Vẹm đem ta bán cho quân Tàu phù”
Tôi nghe than khóc thủ đô:
“Trả ta tên cũ thuở nao Sài Gòn”
Tôi nghe tiếng gọi nước non:
“Đứng lên giành lại núi sông nhân quyền”
Tôi nghe lời dặn tổ tiên:
“Giữ từng tấc đất lưu truyền cháu con.”
Hào kiệt phương Nam:
Trung úy Nhảy dù Nguyễn Thanh Chương, khóa 25 Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, tiểu đoàn I nhảy dù QL/ VNCH
Tâm An
Cuối năm 1972, chiến trường Miền Nam Việt Nam đã qua đi với những trận đánh lớn. Tháng 01/ 1973, Hiệp định Paris được ký kết đúng với sự mong đợi của Hoa Kỳ và VC. Về phía Hoa Kỳ, có người bảo nhiệm vụ của họ đã xong, tức chiến lược toàn cầu của họ đã hoàn tất, giờ Mỹ có thể rút hết quân về nước, để hai bên VN giải quyết với nhau, đúng ra phải nói là để miền Bắc giải quyết miền Nam vì Mỹ không giữ lời cam kết là sẽ yểm trợ chính phủ VNCH. Trong khi miền Nam đơn độc chiến đấu thiếu rất nhiều về vũ khí, quân dụng thì quân xâm lược cộng sản Bắc Việt lại được sự yểm trợ hùng hậu, to tát của toàn khối cộng sản quan thầy của chúng.Về phía cộng sản Bắc Việt (BV), ký kết Hiệp định Paris là cơ hội để chúng xâm chiếm miền Nam, khi người Mỹ bắt đầu rút quân thì cũng là lúc cộng sản BV đem quân ồ ạt vượt qua vĩ tuyến 17, chúng hoàn thành con đường đông Trường Sơn để chuyển quân và vũ khí được nhanh hơn, xe cộ và bộ đội rầm rộ chuyển vào như chỗ không người, trước đây chúng không dám ngang nhiên như vậy vì sợ B52 và quân ta phục kích. Hiệp ước Paris quy định ai ở đâu thì yên đó nhưng với VC, có khi nào ta tin được chúng. Kinh nghiệm cái Tết Mậu thân còn đó !Tuy quân VC gia tăng nỗ lực chuẩn bị cho cuộc chiến nhưng chúng vẫn chưa nắm vững không biết người Mỹ có quay trở lại hay không (?) nếu chúng mở các cuộc tấn công lớn. Qua nhiều cuộc lấn chiếm thăm dò, Mỹ vẫn giữ thái độ im lặng, chúng quyết định mở một cuộc tấn công và nơi chúng lựa chọn cho cuộc thử thách này là Thường Đức, nếu chúng thắng cuộc chiến ở đây, chúng sẽ đưa quân thẳng ra biển, chia cắt miền Nam làm hai và sự sụp đổ của VNCH chỉ đếm từng ngày.Thượng Đức là một quận nhỏ thuộc tỉnh Quảng Nam, được tách ra từ quận Đức Dục, nằm phía Tây Đà Nẵng trên liên tỉnh lộ 4, cách Quốc lộ 1 khoảng 40 cây số. Đây là một điểm chiến lược quan trọng, coi như tiền đồn của của Đà Nẵng. Thường Đức trước kia là một trại LLĐB Mỹ, xây dựng kiên cố với những hầm ngầm bê tông cốt sắt.
Quân trú phòng tại Thường Đức có 2 ĐĐ Địa phương quân, 14 Trung đội Nghĩa quân. Tháng 6/ 1974, tin tức tình báo cho biết VC đang chuẩn bị lực lượng có thể tấn công Thường Đức. Tiểu Đoàn 79 BĐQ được tăng cường thêm cho Chi khu này. Gọi là Chi khu nhưng nó có tính cách chiến lược hơn là yếu tố kinh tế, dân thì toàn là gia đình của binh sĩ trú đóng tại đây, đất đai khô cằn sỏi đá, ba hướng bao quanh là núi cao dốc đứng, chỉ có hướng Đông để ra QL1 là bằng phẳng.
VC tấn công Thường Đức với SĐ 304 (SĐ Điện Biên), SĐ 324 và nhiều Trung Đoàn tăng cường cùng các đơn vị Pháo và xe tăng. Quân trú phòng chống cự mãnh liệt, TĐ 79 BĐQ chiến đấu dũng cảm, gây nhiều thiệt hại to lớn cho bọn cộng sản xâm lược. Phía quân trú phòng cũng bị thiệt hại, Trung Tá Quân Trưởng bị thương nặng, Th/T TĐT /79 BĐQ cũng bị thương và gọi pháo bắn ngay trên đầu. Sau gần 10 ngày chống cự, với quân số địch quá đông và các họng pháo ở những ngọn đồi chung quanh bắn trực xạ vào Thường Đức, quận bị thất thủ.
Lo sợ cho Đà Nẵng, Tướng Trưởng xin Bộ TTM cho SĐ Dù tham chiến, Lữ đoàn 1 gồm 3 TĐ: 1,7 và 9 được không vận từ Sài Gòn bằng C130 xuống Đại Lộc.
Trung Úy Nguyễn Thanh Chương, Khóa 25 VB Đà Lạt lúc này là ĐĐT của TĐ 1 Nhẩy Dù tham dự cuộc hành quân tái chiếm Thường Đức, Lữ Đoàn 3 Nhẩy Dù cũng chuẩn bị vào vùng từ Huế.
Đường vào Thường Đức rất bất lợi cho quân giải tỏa, chỉ có một con đường độc đạo là Liên tỉnh lộ 4 từ ngoài Đại Lộc tới Thường Đức mà hai bên đường có nhiều ngọn đồi mà VC đã chiếm, thiết lập công sự phòng thủ kiên cố trong vách đá, trong đó có ngọn đồi 1062, từ đây chúng có thể kiểm soát mọi sự di chuyển trên LTL4. VC đã chiếm ngọn núi này trước khi chúng tấn công Thường Đức vì chúng biết thế nào phía ta cũng đem quân giải cứu Quận lỵ này.
Lữ đoàn 1 dàn quân xuất phát mà ưu tiên phải chiếm được ngọn đồi 1062, họ biết là quân VC đã sẵn sàng đợi họ ở đây. Tiểu Đoàn 1 của Chương được chỉ định chiếm ngọn đồi này, đường tiến quân rất khó khăn vất vả, phải băng qua những khoảng trống mà pháo của chúng đã có tọa độ sẵn, rồi các đồi đá phải vượt qua, bứng những chốt cộng quân cài chung quanh để cầm chân bước tiến của quân Dù. Khi gần tới được gần 1062, TĐ1 đã bị một số tổn thất nhưng nhiệm vụ trước mắt vẫn là làm sao phải chiếm cho được ngọn đồi này để kiểm soát con đường nằm phía dưới dẫn vào Thường Đức.
TĐ1 dàn quân dưới chân đồi 1062, một cái lưng yên ngựa phải vượt qua trước khi tới sát được dưới chân đồi, địch từ trên cao có lợi thế hơn và hầm hố chúng xây dựng trong hốc đá kiên cố với nhưng cây cổ thụ to được chúng cưa làm nóc hầm. Cả hai Đại Đội Dù được pháo binh yểm trợ xung phong chiếm mục tiêu nhưng gặp sức kháng cự mãnh liệt của địch, cối 120 ly và hỏa tiễn 122 ly được địch bắn xối xả vào vị trí quân Dù. Những mục tiêu tác xạ chúng đã tiên liệu trước và tiền sát của chúng từ những ngọn đồi chung quanh gọi pháo chính xác, suốt một ngày, Dù bị cầm chân. Đại Đội Chương mất một Th/U Trung đội trưởng và 5 binh sĩ cùng khoảng một chục bị thương.
Lệnh từ TĐ cho ĐĐ Chương lùi lại, bố trí tuyến phòng thủ đêm lấy sức cho cuộc tấn công ngày hôm sau. Rạng sáng, ĐĐ Chương, bọc qua hướng khác, nơi có nhiều dốc đá thẳng đứng, hướng này địch có lơ là vì không nghĩ Dù sẽ chọn để tấn công. Pháo ta dồn dập đổ xuống đỉnh đồi, địch co cụm trong hầm hố tránh pháo, lính Dù bám từng hốc đá âm thầm leo lên ,khi gần tới đỉnh đồi, họ đồng loạt khai hỏa xung phong. Dù dùng lựu đạn ném xuống hầm, bị bất ngờ, chúng hốt hoảng bung hầm chạy. ĐĐ Chương chiếm được đồi 1062 nhưng ngay lập tức, địch pháo kích dữ dội với đủ loại pháo từ những ngọn đồi chung quanh. Lính Dù nhờ có hầm hố kiên cố sẵn của bọn chúng, tránh được nhiều thiệt hại.
ĐĐ Chương được lệnh bố trí giữ ngọn đồi, sáng hôm sau sẽ có một ĐĐ bạn lên tăng cường nhưng tối đó, Chương không thể giữ được ngọn đồi mà suốt ngày hôm nay đã đổ bao xương máu mới chiếm được. Mới chập tối, địch pháo tàn sát ngọn đồi rồi cho nguyên một Trung đoàn xung phong tái chiếm. Ở tuyến phòng thủ phía Tây, Th/U Thành, một Trung đội trưởng xuất sắc của Chương gọi máy cho biết địch rất đông, đang tràn ngập mục tiêu, Thành xin pháo binh bắn ngay trên đầu.
TĐ cho lệnh Chương rút xuống, Chương gọi máy cho lệnh, không có tiếng Thành trả lời, tuyến của Thành bị tràn ngập. Thành bị nguyên một băng AK nát hết người. Khi lính của ĐĐ rút hết, Chương xuống sau cùng, chàng gọi pháo dập xuống đỉnh 1062. Lúc Chương đang lao xuống gần chân đồi, một trái pháo nổ ngay cạnh Chương, không biết của ta hay của địch, Chương thấy tối tăm mặt mũi và rồi không biết gì nữa.
Ngày hôm sau, một ĐĐ khác được lệnh tấn công tái chiếm ngọn đồi, họ gặp Chương nằm trên vũng máu, người lính mang máy và cận vệ của anh nằm chết bên cạnh. Chương bị thương rất nặng, pháo cắt đứt một chân anh, mặt phủ đầy máu, Chương được tải thương ngay lập tức. Suốt mấy ngày ở bệnh viện, Chương ở trong biên giới giữa cái sống và cái chết.
Cuối cùng, người ta đã cứu được Chương thoát lưỡi hái của tử thần nhưng không cứu được cái chân của anh, và khuôn mặt, một mảnh pháo chém sạt một bên má. Khi tỉnh lại, Chương biết mình bị thương nặng lắm, cái đầu cuốn trong băng trắng xóa và đau nhức khủng khiếp. Chương cũng biết mình mất một chân. Các Bác Sĩ khi thấy Chương đã đủ khỏe, họ cho anh biết sự thực về khuôn mặt, họ nói sẽ cố gắng đắp vá cho anh nhưng không thể nào có được hình hài như xưa.
TĐ cho một người lính thân cận của Chương ở hẳn bệnh viện để chăm sóc anh cùng với chiếc xe jeep. Đầy, người Hạ sĩ theo Chương từ ngày Chương gia nhập Nhẩy Dù. Đầy là người lo cho anh từ cái ăn, cái ngủ như người mẹ hiền, giờ vẫn cạnh ông thầy. Khi ông thầy bị thương quá nặng, vẫn chăm sóc anh từng li, từng tí. Chương không cho Đầy báo gì Tâm Anh biết, cho đến một ngày, Chương dặn dò Đầy đến cho Tâm Anh biết tin nhưng là một cái tin Đầy thấy khó khăn để nói.
Gần hai tháng nay, Tâm Anh không nhận được thư từ hay tin tức gì của Chương cả, nàng có nghe về những trận đánh xẩy ra với đơn vị Nhẩy Dù ở đâu đó. Một buổi trưa, một cái xe jeep đỗ xịch trước cửa nhà, nàng thấy Đầy bước xuống, Tâm Anh chạy vội ra:
– Chú Đầy, Trung Úy không về hả, có thư không vậy chú?
Đầy không nói gì cả, anh bước vào trong nhà, tay cầm chiếc mũ béret đỏ xoay xoay trong tay.
Nhìn cử chỉ khác thường của Đầy, Tâm Anh biến sắc, nàng đưa tay lên ngực: “Gì thế này, có chuyện gì xẩy ra cho Chương rồi sao, đừng nói gì không may nghe chú Đầy ! Sao mặt chú lại buồn thế kia? Có gì nói đi, nói đi chú Đầy!”
Sau một chút ngập ngừng, Đầy lên tiếng:
– Xin cô bình tĩnh, mời cô ngồi xuống, Trung Úy Chương đã hy sinh, ở mặt trận Thường Đức, quân địch tràn ngập mục tiêu, chúng tôi không lấy được xác Trung Úy, Trung Úy đã chiến đấu dũng cảm nhưng địch đông quá!
Tâm Anh choáng váng mặt mày, nàng buông rơi mình trên ghế, không còn nghe những gì Đầy đang nói tiếp. Thế đấy anh ơi, sao giản dị quá: Trung Úy đã hy sinh. Câu nói thật đơn giản mà như đất trời sụp đổ, bao nhiêu người đã được nghe những câu đơn giản như thế này, bao nhiêu cõi đời tan nát !
Hạ sĩ Đầy đã hoàn thành nhiệm vụ được Chương trao phó, một nhiệm vụ khác thường trong bao nhiêu việc Chương đã bảo anh làm trước đây. Công việc chút nữa đã không hoàn thành khi Đầy nhìn thấy sự đau khổ tột cùng trên gương mặt Tâm Anh. Nhờ là một người lính tác chiến sắt đá nên đã kềm chế được mình vì anh hiểu những gì ông thầy mình muốn cho quãng đời còn lại của ông ấy và nhất là cho Tâm Anh. Đầy cũng thương ông Trung Úy của mình không kém gì Tâm Anh, có điều hai tình thương khác nhau; với Đầy, Chương là một cấp chỉ huy gương mẫu, can đảm và thương yêu binh sĩ hơn cả tình đồng đội, những ngày ở bệnh viện, đã bao lần Đầy ngăn nước mắt khi nhìn Chương trong hình hài không còn nguyên vẹn.
Tâm Anh bỏ ngang việc học, nàng không còn tâm trí để nghĩ đến sách vở, nàng đi hát để tìm quên. Nhờ làn hơi thiên phú, chỉ trong thời gian ngắn, tiếng ca nàng vút cao trong nền ca nhạc ở Sài Gòn, nhiều nơi săn đón mời nàng hát cho phòng trà của mình, Tâm Anh chọn chỉ hát độc quyền cho Tự Do, một phòng trà mà lúc còn sống Chương rất thích.
Tâm Anh rưng rưng nước mắt, đấy, anh ơi, đang yêu nhau mà anh cứ nghĩ đến chuyện cách chia, giờ ta xa nhau thật rồi, xa nhau vĩnh viễn, em giờ đây như rừng thu. Anh đang yên nằm ở đâu, sao người ta không đem anh về cho em? Tâm Anh vẫn buốt lòng mỗi khi nghĩ tới Chương.
Chương ở trên một căn gác nhỏ, có Đầy lo cho mọi chuyện, thời gian đầu khi còn phải tới lui bệnh viện cho các Bác sĩ tái tạo lại khuôn mặt, Đầy vẫn lái xe chở Chương trên cái xe jeep mà TĐ cung cấp, khuôn mặt chỉ làm đỡ được phần nào trong sự tàn phá của trái pháo, khi soi gương, Chương cũng không nhận ra mình, chiến tranh ghê gớm quá !
Cứ mỗi tối, đúng 10 giờ, Tâm Anh xuất hiện trên sân khấu Tự Do, sau lời giới thiệu, nàng bước ra trong chiếc áo dài lộng lẫy, Tâm Anh cúi chào khán giả, mái tóc ngang vai xõa xuống che khuôn mặt u buồn, nàng hất mái tóc ra phía sau, giọng hát cất lên, nàng hát như gửi hồn vào một thời nào đó, có lúc nức nở như gửi tiếc thương cho một ai ở nơi xa xôi.
Xong bài hát, người bồi mang lại mảnh giấy nhỏ đưa cho Tâm Anh, nàng liếc nhanh: ”Người đi qua đời tôi, cám ơn.” Quái lạ, mấy tuần nay, cứ đúng thứ bẩy, nàng lại nhận được mảnh giấy yêu cầu bài hát Người đi qua đời tôi, chắc vẫn là người khách này. Tiếng hát cất lên: “Người đi qua đời tôi, trong những chiều đông sầu…” Giọng Tâm Anh như nức nở “Anh đi qua đời em, có nhớ gì không anh?…”
Hết phần trình diễn của mình, Tâm Anh ra về, nàng ngập ngừng trước cửa: vị khách kia chắc có một tâm sự buồn lắm, cùng tâm trạng như mình. Nàng đưa tay nhìn đồng hồ, để hôm nào mình phải gặp vị khách đó để thăm hỏi xem sao.
Một lúc sau, một chiếc xe jeep chạy tới, đậu gần nơi cửa, Đầy xuống xe bước vào phòng trà. Cũng sắp hết giờ, anh tiến lại phía chiếc cột khuất trong bóng tối, nghiêng xuống nói với một người ngồi ở đấy: “Trung Úy, để em đỡ ra xe.”. Chương chống tay xuống bàn, đứng dậy. Đầy dìu ông thầy ra xe, gió đêm thổi làm Chương thấy bớt ngột ngạt.
Sáu tháng sau, Tâm Anh lấy chồng, cũng một người trong Quân đội. Trong căn gác nhỏ, Chương nghĩ thôi thế cũng xong, mình đã chẳng từng cầu mong Tâm Anh được hạnh phúc hay sao, ngày rồi cũng lụi tàn, mình coi như đã chết trong Tâm Anh và nàng coi như đã xa khỏi đời mình. Chương bật cười – như cái chân nó cũng xa khỏi đời mình. Chương nhớ đồng đội khôn tả, nhớ những lúc băng mình trong lửa đạn, nhớ tiếng reo hò xung phong chiếm mục tiêu.
Rồi tình hình chiến sự trong những ngày kế tiếp hết sức khẩn trương, Ban Mê Thuột có thể thất thủ, Chương theo dõi báo chí và tin tức trên đài phát thanh. Đầy chạy đi chạy về hậu cứ Tiểu Đoàn cho Chương biết TĐ hiện đang ở đâu, làm gì. Tình hình càng ngày càng xấu đi, Lữ Đoàn đang chống giữ tại Khánh Dương, rồi đang đánh nhau ở Long Khánh… Chương giật mình, Long Khánh à, vậy là gần quá rồi, sao mà lại nhanh như vậy, mới đây thôi, mình còn làm cho chúng tan hoang ở Thường Đức mà !
Ngày 29/ 4/ 1975, Đầy chạy vội lên căn gác báo tin:
– Ông thầy, Tiểu Đoàn mình đang giữ cầu xa lộ, VC với xe tăng đang tiến từ Biên Hòa xuống, chắc sẽ đụng lớn ở đây.
Chương nhỏm dậy, với tay lấy bộ quần áo hoa dù mặc vào người, dắt theo khẩu Colt hấp tấp hỏi Đầy:
– Có đúng Tiểu đoàn đang ở cầu xa lộ không ?
– Đúng ông thầy, em mới gặp thằng Tư Đen nó nói vậy.
– Chú lái xe đưa tôi ra đó ngay, đi, nhanh lên.
Chiếc xe Đầy lái chạy như bay qua ngã ba Hàng Xanh, quẹo theo hướng xa lộ, dọc đường, Chương thấy dân chúng nhốn nháo. Chiếc xe chạy tới giữa cầu thì ngừng lại, lính Dù bố trí dọc theo hai bên thành cầu, có pháo rớt chung quanh.
Chương chống nạng tới chỗ có mấy cái cần ăng ten, Trung Tá TĐT Tiểu đoàn Dù mà Chương phục vụ trước đây đang nói chuyện trên máy. Chương bước tới đứng nghiêm chào vị TĐT, người cách đây mấy tháng đã cùng anh xông pha trong lửa đạn ở Thường Đức.
– Trời ơi Chương, cậu tới đây làm gì, lui xuống dưới kia, tụi nó sắp tới, có cả tăng nữa, lui xuống.
– Không, Dích Thân, Dích Thân cho tôi được chiến đấu với anh em lần cuối, Nhẩy Dù cố gắng mà, Dích Thân !
Vị Tiểu Đoàn Trưởng Dù nhìn Chương trừng trừng, môi ông run run, một người vào sinh ra tử cả bao nhiêu trận, bỗng dưng thấy lòng chùng xuống, ông chào Chương, một thượng cấp chào thuộc cấp, chưa bao giờ Chương gặp trường hợp như vậy…
Chàng lọc cọc chống nạng bước đi, cúi nhặt khẩu M16 của ai vứt cạnh đó cùng sợi dây ba chạc. Có tiếng Đầy:
– Ông thầy chờ em, em đi cùng với ông thầy.
Hai thầy trò xách 2 cây súng, ngồi dựa vào thành cầu, những người lính Dù đang nhắm súng vào hướng địch, có tiếng súng nổ từ hướng bên kia đầu cầu, tiếng đạn AK mà cả hai đã từng nghe quen, Chương lẩm bẩm: bài hát sao mà đúng thế, tai nghe quen đạn thù, chàng cao giọng:
– Nhẩy Dù – Cố Gắng ! nghe Đầy!
– Dạ, Nhẩy Dù – Cố Gắng ông thầy.
Tiểu Đoàn Dù đã thiết lập được hai lô cốt tạm ở đầu cầu hướng về phía nhà máy xi măng Hà Tiên, bộ binh địch bắt đầu xông lên nhưng chạm phải quân Dù bắn trả, chúng lùi lại rồi xốc tới, một lần rồi hai lần, chúng bị chặn lại. Chưa bao giờ đánh nhau mà không được một sự yểm trợ nào cả như lần này, từ pháo binh tới phi cơ, Chương và Đầy nhắm vào toán VC gần chân cầu, lâu rồi Chương mới cầm khẩu M16 mà bắn như vậy, không còn lệnh lạc, không còn chỉ huy, chỉ còn nhắm quân thù mà bắn !
Buổi tối, địch thôi tấn công, đêm yên lặng, thỉnh thoảng nghe tiếng pháo kích hướng Tân Sơn Nhất và những tràng đạn nổ ở đâu xa … nghe như pháo tết. Đầy kiếm được bịch gạo sấy và hộp thịt ba lát, Chương không ăn, hai thầy trò nằm cạnh nhau, trời trong và đẹp, những vì sao trên cao không sáng bằng sao ở Thượng Đức. Đầy kể cho Chương nghe về những người lính trong Đại Đội đã hy sinh ở đấy, về những người bạn ĐĐT và Trung đội trưởng đã nằm xuống, Chương nhớ vô cùng những người lính trong ĐĐ trước đây, mỗi lần nói chuyện với họ, Chương luôn thấy ấm áp và một sự khoan khoái trong lòng, những người mà mới chuyện trò với họ hôm qua, hôm nay đã hy sinh, chịu đựng gian khổ và hiểm nguy, để được gì ngoài tình yêu quê hương.
Đêm mấy tháng trước ở đó đâu có yên lặng như thế này, mà chắc cũng không yên được lâu đâu, chúng đang chuẩn bị đấy, khi chúng im lặng là chúng đang chuẩn bị cho cuộc tấn công tiếp theo.
Không biết cả hai thiếp đi được bao lâu, có tiếng súng nổ ran từ phía đầu cầu. Trời mờ sáng, địch bắt đầu tấn công. Chương và Đầy gom mấy dây đạn lại. Chúng xuất hiện ngay dưới chân cầu, những người lính Nhảy Dù chuyển đổi vị trí ẩn nấp. Có tiếng ì ì từ xa, xe tăng địch tới. Chẳng còn gì ở đây cả, chỉ còn ít cây M-72, mấy ngày nay, quân Nhảy Dù vừa di tản vừa phải chiến đấu, đạn dược, lương thực đã cạn, không được tiếp tế.
Hai chiếc xe tăng địch đi đầu khai hỏa, địa thế trống trải, chúng bắn dọc theo cầu, pháo tăng nổ cấp tập trên mặt cầu, quân Dù rút dần về phía đầu bên này. Một viên đạn pháo xe tăng nổ ngay chỗ Đầy nằm cách Chương mấy thước, Chương bò tới, Đầy bị trái pháo nát bấy người, nhìn thấy Chương, anh chỉ kịp thều thào “Trung Úy…” rồi nhắm mắt ra đi !
Chương nắm tay Đầy, vuốt mắt cho người lính thương yêu, người đã sống chết với anh bao lâu nay nơi chiến trường và săn sóc Chương trong những ngày đau đớn. Chiến tranh chưa ngưng, còn tàn hại tới giây phút cuối cùng, chàng nắm cây M-16 nghiến răng bắn một loạt về phía mấy tên giặc cướp xâm lược đi đầu.
Tiếng tăng quân địch mỗi lúc mỗi gần, Chương tuyệt vọng, mấy tháng trước mình đã không chết ở Thượng Đức, giờ mình chết ở đây cũng không sao ! Chương rút khẩu Colt, lên đạn. Tiếng xe tăng nghe càng rõ dần, nhìn Đầy nằm bên cạnh, anh thì thầm: “Thầy trò mình có nhau, Đầy a!”.
Một tiếng súng vang lên chát chúa, không phải Chương đang lao xuống từ ngọn đồi 1062, mà anh đang lao xuống một vực sâu, sâu lắm !
Trưa ngày 30/ 4/ 1975, sau khi TT một ngày Dương Văn Minh yêu cầu QLVNCH buông súng, dân chúng xuôi ngược trên cầu xa lộ Sài Gòn nhìn thấy xác hai người lính Nhẩy Dù, trong đó có một người cụt mất một chân và tay họ vẫn nắm chặt lấy nhau.
(Sài Gòn trong tôi/ TNX)
Thơ Phan Huy MPH – Nỗi Niềm Tháng Tư
Mỗi lần cánh én báo tin xuân
Là khóc lòng tôi một nỗi buồn
Ngút ngàn như núi sâu như biển
Ray rứt dạt dào nhớ tiếc thương
Tôi tiếc thương cho một lá cờ
Tình yêu từ lúc tuổi còn thơ
Màu Vàng đại nghĩa thời Trưng Triệu
Ba Sọc trung trinh giữ cõi bờ
Ôi lá cờ thiêng của núi sông!
Tung bay trên dải đất Tiên Rồng
Chở che hun đúc tình dân tộc
Kế tục nghìn xưa chí tổ tông
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ hiên ngang
Uy dũng kiên gan chống bạo tàn
Búa liềm chủ nghĩa phi nhân bản
Ngăn loài quỉ đỏ cứu muôn dân
Nhưng rồi vận nước, một mùa xuân!
Cờ Vàng gãy đổ giữa non sông
Trước bầy thổ phỉ quên nguồn gốc
Và bọn hung nô quốc tế hồng
Cờ Vàng gục xuống trong vinh quang
Đơn thân độc mã chống xâm lăng
Kẻ thù man rợ đông như kiến
Đạn dược khí tài đến tận răng
Cờ Vàng thua cuộc nhưng thắng trận
Khiến cờ liềm búa chết nơi nơi
Nhân dân thế giới bừng cơn mộng
Chính nghĩa Miền Nam sáng rạng ngời
Cờ Vàng gục xuống nhưng không chết
Càng chiếu rực trời ánh tự do
Đã anh dũng vươn mình đứng dậy
Phất phới tung bay khắp địa cầu.
https://fdfvn.wordpress.com
Hỏi người có tiếc – Đặng Chí Hùng 16/04/2020
45 năm, thế là đã 45 năm của cái ngày đau thương cho Miền Nam nói riêng và VN nói chung. Cái ngày
tang tóc ấy là một nỗi buồn trong lịch sử dân tộc VN. Nó dứt khoát không phải là “Nỗi buồn chiến Tranh” mà Bảo Ninh đã viết bởi vì ông ấy đã viết cho Miền Bắc mà không biết rằng kẻ gây chiến đau thương cho Miền Nam và Việt Nam lại bắt nguồn từ chính Miền Bắc. Và cho đến hôm nay, một người Miền Bắc chẳng có chút liên quan gì đến Miền Nam lại viết về cái ngày đó và hỏi rằng “Người còn có tiếc?”
Tôi muốn hỏi những người lính cộng sản, những người đã tham gia đoàn quân tiến vào Miền Nam năm 1975 rằng “Có phải Miền Nam nghèo khổ, sống trong cùm kẹp không?” Trả lời thật lòng đi, đừng trả lời bằng những điều dối trá trong sách của tuyên giáo cộng sản. Chắc chắn các vị còn lương tri sẽ phải trả lời giống như những gì bà Dương Thu Hương đã nói “Chế độ man rợ lại thắng chế độ văn minh”.
Vâng! Chiến thắng không phải là vĩnh cửu và chiến thắng không phải chỉ bằng quân sự. Nước Tàu đã mất cả ngàn năm chiến tranh xâm chiếm nước ta. Đã có lúc mấy trăm năm liền chúng cai trị dân ta, tìm mọi cách xóa đi nước Việt, người Việt và văn hóa Việt. Nhưng chúng đã không thành công. Điều đó đã nói lên một sự thật không thể chối bỏ rằng “Bạn có thể cưỡng bức một quốc gia, một dân tộc bằng quân sự, nhưng để đắc nhân tâm dân tộc đó, bạn phải có một tấm lòng”. Nhưng kẻ đi cưỡng bức thì làm gì có tấm lòng mà nhất là CSVN thì càng không có điều đó. Chúng ta đã thấy sau năm 1975, CSVN đã trả thù tàn bạo với những quân dân cán chính VNCH như thế nào, chắc tôi không còn nhắc tới nữa. Cho nên, cái gọi là “Chiến thắng mùa xuân 1975” của CSVN chỉ là một sự may mắn trong một thế cờ quân sự và chính trị của những nước lớn như Mỹ, Liên Xô (Cũ), Tàu cộng mà thôi.
Tôi trách những người lính Miền Bắc tham gia đoàn quân chiếm Miền Nam trong đó có nhiều người thân của tôi 7 phần thì tôi phải trách những người Miền Nam phá hoại Miền Nam 10 phần. Tại sao lại nói thế? Tôi không hề bao biện cho người Bắc, nhưng sống trong một xã hội độc tài toàn trị, không thông tin, không internet và nếu không gia nhập quân đội thì chỉ có nước “Sống không bằng chết” thì chuyện bị lừa, bị ép vào cái mục đích để làm bá quyền cho bộ chính trị là chuyện bình thường. Họ không hoàn toàn vô tội trong sự đau thương của dân tộc bởi dù đúng hay sai, chủ quan hay khách quan thì họ cũng đã ở trong guồng máy gây đau thương cho cả dân tộc.
Nhưng đáng trách hơn là những người Miền Nam trong cái gọi là Mặt Trận giải phóng Miền Nam. Họ chẳng phải mặt trận trung lập gì cả, họ thực sự là đảng viên CS lập ra để mà phá Miền Nam. Những nhân sĩ trí thức được VNCH cho ăn học đàng hoàng, trong và ngoài nước như Dương Quỳnh Hoa, Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm vv…đã quay lại tiếp tay cho CSVN phá nát Miền Nam. Giờ thì VN ra sao? Đã đủ độc tài chưa? Đã đủ cay đắng chưa? Đã đủ nhục nhã chưa? Các vị có hối tiếc không? Các vị có hối hận hay không?
Không chỉ Miền Nam bị mất mà từ đó nước VN đã rơi vào thảm cảnh CS. Những người trí thức Miền Nam đã tham gia phá nát Miền Nam nghĩ gì khi VNCH là một đất nước có nền kinh tế, văn hóa, đời sống, giáo dục khiến cả Singapore, Thái vv…ngưỡng mộ, lấy làm mô hình học tập lại bị phá nát bởi sự tiếp tay của các người? Để giờ đây dân Sài Gòn bì bõm lội trong nước ngập bẩn đầy phân thối của cái tên Hồ Chí Minh.
Cái Hồ Chí Minh nó thối nát và bẩn thỉu như chính cái tên của con người mang họa cho Việt Nam đó. Miền Nam đau thương, cả nước đau thương. Hỏi các vị đã một lần nào xin lỗi Miền Nam? Hỏi các vị đã một lần dám nói lên những sự thật đau lòng mà các vị đã làm: Góp tay cùng CS giết chết VN.
Giờ thì nước nhục, lòng dân đau, người dân khổ, các vị có thấy hối tiếc nếu còn Miền Nam trù phú? Giá mà, giá mà…chắc các vị sẽ nhủ trong lòng như vậy. Nhưng đừng giá mà nữa mà đã đến lúc các vị phải công khai thừa nhận lỗi lầm, công khai sửa nó bằng cách chung tay cùng người dân xóa bỏ chế độ CS. Đó mới chính là cách bù lại lỗi lầm đúng nhất mà các vị MTGPMN phải làm. Các vị còn ngồi đó mà thở dài, mà im lặng để che giấu lỗi lầm quá khứ thì các vị càng để lỗi lầm của các vị nặng nề thêm.45 năm rồi, Hỏi người có tiếc?
https://viettudomunich.org/2020/04/20/quocha%CC%A3n-30-thang-tu-ho%CC%89i-nguoi-co-tiec/
ĐBSCL 2020: Cánh đồng chết và 45 năm ảo vọng trí thức – Ngô Thế Vinh
Tưởng nhớ GS Nguyễn Duy Xuân, GS Phạm Hoàng Hộ, Hai tượng đài trí tuệ kiệt xuất, bất khuất của Miền Nam
Lời Dẫn Nhập: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ sau khi hoàn tất bộ sách đồ sộ “Cây Cỏ Việt Nam” mà Giáo sư gọi là “công trình của đời tôi” và vào mấy năm cuối đời, như một Di Chúc, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho:
“Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.
Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân, nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/11/1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh.
Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.
Thế hệ sinh sau 30/4/1975 nay cũng đã 45 tuổi rồi, cũng là 45 năm của một chính sách ngu dân lãng phí / huỷ diệt nguồn chất xám, và lăng nhục cả một thế hệ trí thức Miền Nam. Và nghĩ xa hơn, một Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ không chết như ngày nay nếu có một nhà nước biết trân trọng sử dụng nguồn chất xám ấy, mà biểu tượng là hai trí tuệ kiệt xuất của Miền Nam như Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, là hai thành viên sáng lập Viện Đại học Cần Thơ năm 1966, và sau 1975 cả hai có cùng một ý nguyện chọn ở lại để xây dựng đất nước sau chiến tranh và thống nhất.
Để rồi, GS Nguyễn Duy Xuân thì chết thảm sau 11 năm bị đầy đọa trong trại tù cải tạo Hà-Nam-Ninh ở Miền Bắc, và GS Phạm Hoàng Hộ thì trải qua một chặng đường vô cùng đau khổ qua “một thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ thấy đất nước đi lên, giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường quê hương” để rồi kết thúc là một cái chết buồn bã xa nửa vòng trái đất bên ngoài quê hương, một quê hương mà ông suốt đời gắn bó và chẳng bao giờ muốn xa rời.
Hình ảnh một Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một Giáo sư Nguyễn Duy Xuân những năm sau 1975, là tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền Nam. Trang sử ảm đạm ấy là một bài học đắng cay cho cả một dân tộc sẽ không thể và không bao giờ quên. Với các thế hệ trẻ sau 1975 ở khắp năm châu, cùng với bản tiếng Việt, nay có thêm bản tiếng Anh để các bạn dễ dàng tiếp cận hơn với bài học lịch sử ấy.
***
Những năm ảo vọng: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bộ sách cây cỏ Việt Nam
Peter Shaw Ashton, Giáo Sư Charles Bullard, ngành Lâm Học, Đại Học Harvard
“Với những ghi chú bằng tiếng Anh, cùng với những nét minh hoạ tinh vi của hơn 10,500 chủng loại, bộ sách Hoạ Hình Cây Cỏ Việt Nam / Illustrated Flora of Vietnam của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã cung cấp cho giới độc giả tiếng Anh lần đầu tiên và cập nhật một tài liệu tham khảo thấu đáo mà chúng tôi ít biết đến. Công trình này sẽ đứng như một tượng đài của sự quyết tâm, cống hiến, và uyên bác với lòng can đảm của tác giả. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hầu như đơn độc hình thành một công trình sinh học thực vật có tầm vóc hàn lâm/ academic tại Đại Học Sài Gòn giữa những năm tháng khó khăn. Trong hoàn cảnh cực kỳ thử thách ấy, giáo sư Hộ đã sưu tập được những chất liệu cho bộ sách đặc sắc này và cả những chuyến du khảo nhằm thu thập những mẫu vật để minh hoạ. Và nay công trình được xuất bản, đó sẽ là nguồn khích lệ cho các nhà sinh học trẻ ở Việt Nam và cả ở hải ngoại.
“Cây cỏ Việt Nam có thể lên tới 12,000 chủng loại. Bởi vì xứ sở này nằm sát bờ Thái Bình Dương Á Châu nhiệt đới, đó là hành lang cho những chuyển dịch theo chu kỳ bắc-nam / periodic north-south migration của thảm thực vật vô cùng phong phú từ phía nam Trung Hoa và phong phú hơn nữa là thảm thực vật xích đạo Mã Lai / equatorial flora of Malaysia. Trên các rặng núi vẫn còn lưu lại những chủng loại tùng bách / conifer và thực vật có hoa / angiosperm taxa có tầm quan trọng vô song, trong khi các vùng bình nguyên mang dấu ấn của quá khứ có liên hệ tới các vùng hải đảo Phi Luật Tân và Borneo Nam Dương. Đến nay sự phong phú này hầu như tiêu vong. Những nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong chiến lược trồng cây tái sinh và bảo tồn sẽ được hỗ trợ bởi công trình của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ như một hồ sơ theo dõi các thảm thực vật đến nay còn tồn tại.”
Tiểu sử:
GS Phạm Hoàng Hộ, trên giấy tờ ngày sinh là 3 tháng 8 năm 1931 tại An Bình, Cần Thơ. Nhưng theo cáo phó mới đây của gia đình GS Hộ sinh năm Kỷ Tỵ 1929, mất ngày 29 tháng Giêng năm 2017 tại Montréal, Canada, hưởng thọ 89 tuổi. Anh Phạm Hoàng Dũng, con trai GS Phạm Hoàng Hộ xác nhận là “Ba tôi sinh năm Kỷ Tỵ 1929, nhưng theo lệ ngày xưa thì lâu sau đó mới khai sinh, là năm 1931”.
Văn Bằng:
— 1953: Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực Vật học, Paris
— 1955: Cao học Vạn Vật học, Paris
— 1956: Thạc sĩ / Agrégé Vạn vật học
— 1962: Tiến sĩ Khoa học / Vạn vật học, Paris
Chức Vụ:
— 1957-1984: Trưởng phòng Thực vật Đại học Khoa học Sài Gòn
— 1965-1984: Giáo sư Thực vật học Đại học Khoa học Sài Gòn
— 1962-1966: Giám đốc Hải học viện Nha Trang
— 1963-1963: Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn
— 1963: Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục
— 1966-1970: Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ
— 1978-1984: Chủ bút tuần báo Khoa học Phổ thông Sài Gòn
— 1984-1989: Giáo sư Khảo cứu tại Viện bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris
Hội viên Khoa học:
— 1956: Hội viên Hội Thực vật học Pháp
— 1963: Hội viện Hội Tảo học Quốc tế (International Phycological Society)
— 1964: Hội viên Sáng lập Hội Sinh học Việt Nam
— 1965: Phó Chủ tịch Uỷ ban Danh từ Việt Nam
— 1967: Hội viện Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế (APU)
— 1969: Sáng lập viên Niên san Đại học Cần Thơ
— 1971: Hội viên Uỷ ban Thẩm định hậu quả chất Da cam tại Nam Việt Nam, Viên Hàn lâm Khoa học Quốc gia, Hoa kỳ.
— 1973: Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Quốc Tế Sông Mekong (MRC)
Ấn phẩm:
— 1960: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam (Flore Illustrée du Sud Vietnam)
Bộ Giáo dục Việt Nam: 1 vol., 803 pp., 275 pls.
— 1964: Sinh học Thực vật
Bộ Giáo dục Việt Nam: 1 vol., 861 pp., nhiều hình
— 1968: Hiển hoa Bí tử
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 506 pp., 264 pls.
— 1969: Rong Biển Việt Nam
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 558 pp., 493 figs.
— 1970: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển I
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1115 pp., figs. 2787
— 1972: Cây Cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển II
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1139 pp., figs. 5272
Cây cỏ Việt Nam: An illustrated Flora of VietNam
— 1991, Tập 1 Quyển I: Khuyết Thực Vật. Loã Tử. Hoa-cánh-rời đến Tiliaceae
— 1992, Tập 1 Quyển II Hoa-cánh-rời từ Eleagnaceae đến Apiaceae
— 1993, Tập 1 Quyển III Từ Smilacaceae…Cyperaceae… Poaceae… đến Orchidaceae
— 1991, Tập 2 Quyển I Hoa-cánh-rời từ Sterculiaceae đến Fabaceae
— 1993, Tập 2 Quyển II Từ Daphniphyllaceae … Fagaceae… Apocynaceae đến Scrofulariaceae
— 1993, Tập 2 Quyển III Từ Smilacaceae… Cyperaceae… Poaceae … đến Orchidaceae
— 1998: Cây cỏ có vị thuốc ở Việt Nam
Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh: 860 pp.,
Mô tả 2149 loài có vị thuốc gặp ở Việt Nam
Vẫn trong bản Tóm lược sự nghiệp Khoa học, GS Phạm Hoàng Hộ tâm sự: “Có lẽ vì lúc còn rất nhỏ tôi đã sống ở nơi vườn tược, ruộng đồng xanh um vùng châu thổ sông Cửu Long, nên từ nhỏ tôi đã thích cây cỏ. Tôi không bao giờ quên được hình ảnh của bông Súng ở ruộng hay ao, lộng lẫy dưới ánh mặt trời ban mai, hay hình ảnh của bông Nhãn lồng phơi mình dựa bờ ruộng. Nên Thực vật học và Sinh học Nhiệt đới đã hấp dẫn tôi lúc đi du học. Và lúc học ở Đại học Khoa học Paris, tôi đã bắt đầu tìm hiểu Cây cỏ Đông Dương. Tiếp xúc đầu tiên một cách khoa học với Cây cỏ ấy, tôi thực hiện ở Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris. Lúc mới học Vạn vật, tôi đã vào nhà kiếng của Viện này để tìm coi có loại nào ở nước nhà hay không. Và một số loài đã được vẽ từ lúc ấy! Tôi nhớ một số Lan đã được vẽ từ năm 1950, trong nhà kiếng ấy. Đó là những hình “xưa” nhất của bộ Cây cỏ của tôi. Sau này khi làm luận án Cao học, cũng ở Viện ấy, tôi mới có dịp vào Thảo Tập, và nhiều hình, nhất là của giống Ficus, khó, vì chưa nhiều loài đã được vẽ vì ngại sự khó khăn ấy về sau khi về bên nhà mà tài liệu thật là khó kiếm. Thật ra lúc ấy tham vọng của tôi vô cùng khiêm tốn, là sau này được biết các loại Ficus Việt Nam mà thôi! Cũng đã quá sung sướng rồi.
Sau khi thi đậu Thạc sĩ / Agrégation hạng sáu, trên 300 thí sinh, và chỉ có 30 đậu, năm 1956 tôi về nước.
* Ghi chú của người viết: cần phân biệt với bằng Thạc sĩ hiện nay ở Việt Nam tương đương với cao học/ master, trong khi Thạc sĩ / Agrégé ở Pháp là học vị về sư phạm, trải qua kỳ thi tuyển khó khăn, nếu thi đậu sẽ trở thành giáo sư thực thụ / professeur titulaire từ bậc trung học / lycée tới các trường cao đẳng / enseignement supérieur thuộc các ngành Khoa học, Y dược, Luật khoa
Giáo sư Hộ viết tiếp: “Lúc ấy tham vọng của tôi chỉ là về dạy học ở một trường Trung học, và lúc rảnh rang sẽ tìm hiểu cây cỏ của vùng Lục tỉnh mà thôi, nhưng Viện Đại học Sài Gòn và Hải học viện Nha Trang “kéo” tôi về giảng dạy và trông nom Hải học viện. Khi làm việc ở Nha Trang tôi khảo cứu Rong biển, như là một phận sự. Và sau vài năm khảo cứu dưới sự hướng dẫn của Giáo sư J. Felmann, tôi hoàn thành luận án Tiến sĩ mà tôi trình ở Đại học Paris, năm 1961. Công trình này được đăng trong Niên san Khoa học Đại học đường Sài Gòn, và trong quyển Rong biển Việt Nam, cũng như một số ấn phẩm trong vài tạp chí khoa học.
Ở Sài Gòn, phận sự chính của tôi là giảng dạy Thực vật và Sinh học Thực vật (thay thế Giáo sư Pháp Roger, một nhà chuyên môn về nấm gây bệnh cây) cho sinh viên dự bị và chuyên khoa. Chính vì muốn giảng dạy tốt, thích nghi vào điều kiện nhiệt đới Việt Nam, các môn ấy mà tôi lục lạo và sau đó cho ra đời công trình mà sau này sẽ là công trình của đời tôi là Cây cỏ Việt Nam. [trích dẫn tư liệu gia đình GS. Phạm Hoàng Hộ: Văn Bằng, Sự Nghiệp Khoa Học của Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Thực vật học].
1959-1960, tôi / người viết bài này mới chỉ là sinh viên lớp dự bị Y khoa PCB / Physique Chimie Biologie tại Đại học Khoa học Sài Gòn và được học Thầy Hộ mới tốt nghiệp Thạc sĩ ở Pháp về, dạy môn Sinh Học Thực vật. Tuy chỉ được học Thầy một năm, nhưng Thầy đã để lại cho đám sinh viên và riêng tôi một niềm cảm hứng với những dấu ấn rất khó phai mờ. Vào trường Y khoa rồi, không còn được học Thầy Hộ nhưng tôi vẫn mang lòng ngưỡng mộ và cả theo dõi những bước đi và sưu tập những bộ sách công trình nghiên cứu khoa học của Thầy.
Vào đầu thập niên 1990, giới khoa học trong nước và hải ngoại rất đỗi vui mừng khi bộ sách Cây Cỏ Việt Nam của GS. Phạm Hoàng Hộ được lần lượt xuất bản. Theo GS Thái Công Tụng, hiện định cư tại Montréal thì các sách của GS. Phạm Hoàng Hộ hiện có đầy đủ ở Bibliothèque Jardin botanique Montréal, Canada, và dĩ nhiên là có trong nhiều thư viện lớn trên thế giới.
Trọn bộ Cây cỏ Việt Nam gồm hai Tập, mỗi Tập 3 Quyển, tổng cộng khoảng 3,600 trang, chưa kể Phần Từ Vựng tên Việt Nam và Từ Vựng tên Khoa học các Giống (Chi) bao gồm thêm cả công trình của những năm tháng giáo sư rời quê hương Việt Nam sang Pháp, vẫn tiếp tục cặm cụi làm việc.
Riêng tôi / người viết đã sớm có được trọn bộ 6 Quyển Cây Cỏ Việt Nam xuất bản ở hải ngoại do bác sĩ Phạm Văn Hoàng nguyên Giám đốc Trung Tâm Phục Hồi Cần Thơ, một đàn anh trong Y khoa gửi tặng, anh Phạm Văn Hoàng chính là bào đệ của GS Phạm Hoàng Hộ.
Tưởng cũng nên ghi lại ở đây, là trước 1975, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã từng là Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Sông Mekong/ Mekong River Committee và khoảng năm 1974 hai Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Thái Công Tụng đã có một nghiên cứu chung về Môi sinh Đồng Bằng Sông Cửu Long: The Mekong Delta, Its environment, Its Problems; [do Bộ Canh Nông VNCH xuất bản, Sài Gòn 1974]; khi tìm kiếm tới tài liệu có tính cách lịch sử ấy, tôi được anh GS Thái Công Tụng bùi ngùi cho biết: là đã mất hết sau cơn binh lửa…
Để tìm hiểu thêm tại sao, các tác phẩm khoa học của Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ lại được ưu tiên xuất bản bằng tiếng Việt cho dù ngôn ngữ chính thông thạo của GS. Hộ trong suốt quá trình đào tạo và giảng dạy là tiếng Pháp.
Trong lời mở đầu quyển Rong Biển Việt Nam xuất bản năm 1969, GS. Phạm Hoàng Hộ viết: “Lúc đầu, quyển sách này được thảo bằng ngoại ngữ, khi làm việc ở Hải học viện Nha Trang và ở
Museum, và tôi có hoài bão được xuất bản trong ngoại ngữ ấy để công bố công trình khảo cứu của mình ra bốn phương, như lời hứa ngầm lúc trình luận án.
Song nay tôi đã đổi ý và cho xuất bản bằng tiếng Việt Nam. Đó là để chứng minh rằng ngôn ngữ nào, miễn được chăm sóc, đều có thể diễn tả kiến thức ở mọi trình độ. Tôi biết rằng có nhiều người cho rằng không ấn hành trong một ngôn ngữ quốc tế là phí công, giới khảo cứu làm sao biết đến. Nhưng tôi thấy chẳng cần đến việc ấy. Được mấy mươi triệu người Việt Nam biết và dùng, có giá trị hơn là được vài ngàn học giả chuyên môn thưởng thức. Tôi đã bỏ cái tự hào sai là tranh đua cùng người ngoài để tự tạo lấy thanh danh, “làm thơm lây dân Việt”. Tôi tin rằng cái tự hào ấy không thực tế, vì một người Việt Nam hay, không bằng nhiều người Việt Nam khá: cầm đuốc soi thành phố người có vẻ không thức thời trong khi nước nhà còn u ám. Cái tự hào trên thật ra chỉ để che đậy sự trốn trách nhiệm, sự bỏ phận sự trước con cháu chúng ta một cách không tha thứ được.
Tạo ra cho chúng ta một nền văn chương khoa học là một công trình rất bao la. Vì thấy nó qúa to tát nên nhiều học giả chấp nhận giải pháp dễ nhất: học ngay trong văn chương khoa học ngoại ngữ vô cùng phong phú, dồi dào. Cái học như vậy sẽ cho ta những người giỏi, nhưng ta không quên rằng nền văn minh bây giờ là văn minh của đại chúng chứ không phải của vài người được nữa. Ta đừng để cho sự phong phú của văn hoá nước ngoài đè bẹp ta. Người Nhật, cách đây một thế kỷ, há đã không hoảng sợ trước sự hùng mạnh của khoa học nước ngoài sao? Mà nay họ đã tự tạo được một một nền văn chương khoa học riêng biệt đã đến lúc gần hay hơn cả những nước ấy!
Hơn lúc nào hết, câu của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn vẳng bên tai: “Nước Việt Nam ta sau này hay hay dở là ở chữ quốc ngữ”. Trong thế giới tương lai, sự lệ thuộc về văn hoá, nhất là về văn hoá khoa học sẽ là sự lệ thuộc chánh”. [Lời Mở Đầu của quyển Rong Biển Việt Nam; Trung Tâm Học Liệu, Bộ, Giáo Dục xuất bản 1969].
Chặng đường đau khổ
Hình ảnh một Giáo sư Phạm Hoàng Hộ những năm sau 1975, là một tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền Nam mà Giáo sư Phạm Hoàng Hộ là một biểu tượng.
Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ thì bộ sách Cây cỏ Việt Nam đã được thực hiện qua 4 giai đoạn:
— Nghiên cứu giai đoạn một: hợp tác với GS Nguyễn Văn Dương về phần dược tính, Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, do bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1960 mô tả 1,650 loài thông thường của Miền Nam, “Đó là giai đoạn còn mò mẫm, học hỏi một thực-vật-chúng chưa quen thuộc đối với một sinh viên vừa tốt nghiệp từ vùng xa lạ mới về.
— Nghiên cứu giai đoạn hai: kỳ tái bản lần hai 1970 bộ Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, số loài lên được 5,328 [Hình 2]. “Đó là giai đoạn mà tôi xem như vàng son của một nhà thực vật học Việt Nam chúng ta. So với bây giờ, lúc ấy tôi yên ổn làm việc, có nhiều phương tiện cá nhân cũng như của non nước và nhất là được sự khuyến khích của mọi giới, bạn bè cũng như chính quyền.
— Nghiên cứu giai đoạn ba: tiếp tục công việc nghiên cứu sau 1975, đưa thêm được vào bộ sách Cây cỏ Miền Nam Việt Nam 2,500 loài và bộ được nới rộng cho toàn cõi Việt Nam.
Sau biến cố 1975, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cũng như người bạn đồng hành trí tuệ của ông là Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã cùng chọn ở lại để xây dựng đất nước sau chiến tranh và thống nhất, nhưng với cái giá rất đắt mà sau này được GS Hộ ghi lại là: “thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ thấy đất nước đi lên. Giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường Quê hương.”
Tuy Giáo sư Phạm Hoàng Hộ vẫn còn chức danh là Hiệu phó [phó Khoa trưởng] Đại học Khoa học, nhưng chính quyền mới chỉ sử dụng trí thức cũ như ông chủ yếu là “làm kiểng”, không có vai trò tương xứng trong giáo dục. Vì không là đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì Đảng bộ họp riêng và quyết định, có việc ông không bao giờ được biết. Năm 1977 sau trải nghiệm những ngày học chính trị, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức Miền Nam tổ chức tại TP Hồ Chí Minh; từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”. [Huy Đức, Bên Thắng Cuộc]
Rồi phải chứng kiến một thiểu số trí thức cũ xu thời, mau chóng hợp tác toàn diện với chế độ mới, bất chấp sự liêm khiết, sẵn sàng cống hiến những công trình mệnh danh khoa học theo phong trào để mừng các ngày lễ hội 3-2 hay 19-5 như các bài báo chứng minh “ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò” hoặc là “ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo”… những công trình “giả khoa học / pseudo-science ” ấy đã mau chóng trở thành giai thoại đầy mỉa mai được lan truyền trong các trại tù Cải tạo, nơi mà đám tù nhân Miền Nam đang bị thiếu ăn suy dinh dưỡng với thực phẩm cung cấp chủ yếu là gạo hẩm “đại mễ” của Trung Cộng cùng với bo bo và khoai mì / ngoài bắc gọi là sắn.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng như số trí thức cũ khảng khái của Miền Nam còn ở lại, thấy không thể tiếp tục sống trong một xã hội giả dối và suy đồi đến như thế, việc ông đi tới quyết định phải chấm dứt những năm “ảo vọng” và lãng phí ấy, là điều không thể tránh. Và rồi dịp ấy đã tới, năm 1984 khi được chính phủ Pháp mời sang làm giáo sư thỉnh giảng, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quyết định chọn cuộc sống lưu vong và ở lại Pháp.
— Nghiên cứu giai đoạn bốn: một giai đoạn mà giáo sư Phạm Hoàng Hộ gọi là “vừa hiếm có vừa đau khổ nhất”. Giáo sư Hộ viết tiếp: “Đau khổ vì rời quê hương mà không hy vọng trở lại. Đau khổ vì xa gia đình thân yêu, vĩnh biệt mẹ hiền đã trọn đời hy sinh cho các con. Đau khổ vì thấy đất nước thân yêu đang ở trong một nỗi khổ khôn lường, một sự nghèo khôn tả, một sự tuyệt vọng thương tâm.”
Nhưng rồi với hùng tâm, ông cũng vượt lên trên sự khổ đau khôn lường ấy. Giáo sư Hộ đã kiên nhẫn đằm mình trong Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris, cật lực làm việc ròng rã suốt sáu năm. Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia ở Paris / Muséum National d’Histoire Naturelle (MNHN) thuộc hệ thống Đại học Sorbonne, bên tả ngạn Sông Seine, được thành lập từ thế kỷ XVIII thời kỳ Cách Mạng Pháp.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cho rằng: “Hiếm có một nhà Thực vật học, nhất là người Việt Nam, đã lục lạo cây cỏ ở nước nhà, lại được ở lại nghiên cứu tại Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp, chứa một thảo tập phong phú vào bậc nhất thế giới, với 8 tới 10 triệu mẫu vật cây cỏ. Ít nhất cho Việt Nam, nó là kho tàng duy nhất, vì chứa hơn 10 ngàn loài thu được ở nước ta. Trong sáu năm làm việc ở Viện ấy, không một ngày nào mà khi chiều ra về, dù trời đông âm u lạnh lẽo, hay chiều hè vắng vẻ nóng khô, mà tôi không thốt ra câu “Thật là một ngày tuyệt” vì đã biết thêm cho Việt Nam ít nhất là một loài hiếm, lạ hay mới!” Trong giai đoạn chót này, ông bổ túc thêm cho bộ Cây Cỏ được trên 3000 loài. Số loài mô tả khoảng 10,500.
Tại Pháp khi gặp lại người học trò cũ, nay đã là thành viên trong ban giảng huấn Đại học Khoa học Sài Gòn, cũng đang làm việc tại Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp nghiên cứu về Cá / Laboratoire d’Ichthyology, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã tâm sự:
“Tôi ráng làm càng nhiều càng tốt. Bộ sưu tập của Pháp rất dồi dào, đúng phương pháp khoa học. Do được sưu tập từ mấy mươi năm trước, các mẫu vật đã cũ, mình không làm gấp e sẽ hư hỏng thì uổng quá… Nhiều người Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp!” [4]
Sau khi hoàn tất bộ sách Cây Cỏ Việt Nam, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với Viện Bảo Tàng Thiên nhiên Quốc gia Paris và các bạn đồng sự Pháp, ông đã rất chân thành tâm sự: “thực hiện những điều mà lúc nhỏ dù điên rồ tới đâu tôi cũng không dám mơ ước: nô lệ của một thuộc địa, học ở một trường thường, ở một tỉnh nhỏ, bao giờ dám nghĩ đến tạo một quyển sách dù nhỏ bé, mê cây cỏ xung quanh nhưng bao giờ nghĩ đến biết cây cỏ cả nước!”
Người “trí thức đau khổ” Phạm Hoàng Hộ đã vươn lên và hoàn tất được “giấc mơ điên rồ” tưởng như không thể được ấy và trở thành cây “đại thụ” trong Khoa học Thực vật của Việt Nam và cả thế giới.
Chút giai thoại văn học
Trong cuốn Bông Hồng Tạ Ơn, khi viết về bộ sách của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhớ lại: “Các năm trước 1975, bộ sách của giáo sư Phạm Hoàng Hộ còn mang tên là Cây Cỏ Miền Nam. Cuộc chia cắt đất nước đã giới hạn tầm mức của cuốn sách. Thế nhưng công trình của giáo sư Phạm Hoàng Hộ không phải chỉ được coi là quý đối với các nhà chuyên môn về thực vật học, mà theo nhà văn Võ Phiến có kể lại trong bộ sách Văn Học Miền Nam soạn thảo tại hải ngoại sau 75, thì đã có nhiều nhà văn, [trong số đó có Nguyễn Đình Toàn] đã tìm đọc cuốn Cây Cỏ Miền Nam để biết thêm về một vài loại cây cỏ quanh mình, để khi cần, có thể đưa vào tác phẩm”. Giai thoại văn học này có lẽ, chính Giáo sư Phạm Hoàng Hộ không hề biết tới.
Sáng lập viên đại học Cần Thơ
Khoảng thập niên 1960, do sự vận động của các nhân sĩ trí thức Cần Thơ, với hai tên tuổi hàng đầu là Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bác sĩ Lê Văn Thuấn, Viện Đại học Cần Thơ được phép thành lập vào ngày 31.03.1966 và cũng là Đại học đầu tiên của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Giáo sư Phạm Hoàng Hộ là Viện trưởng đầu tiên của Đại học Cần Thơ từ 1966 tới 1970.
Với uy tín lớn về thành tích khoa học và cả về nhân cách, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quy tụ được rất nhiều “chất xám” tinh hoa của Miền Nam thời bấy giờ; chỉ riêng trong lãnh vực Nông Nghiệp có thể kể tới sự hợp tác của những tên tuổi như GS Tôn Thất Trình, GS Thái Công Tụng, TS Nguyễn Viết Trương, TS Trần Đăng Hồng với công lao bước đầu đưa giống Lúa Thần Nông/ HYV / High Yield Variety vào ĐBSCL.
Rồi phải kể tới một đội ngũ giảng huấn đầy khả năng khiến Đại Học Cần Thơ mau chóng trở thành một trung tâm giáo dục và khoa học có tầm cỡ, đáp ứng nhu cầu trí tuệ của của một vùng châu thổ rộng lớn rất giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng chưa được khai thác. Để có thể thấy được thành quả bước đầu của Viện Đại học Cần Thơ, đó là các lớp sinh viên đầu tiên trưởng thành và tốt nghiệp 4 năm sau đó.
Giáo sư Đỗ Bá Khê [là thầy dậy tôi môn Vật lý năm PCB], trong “think tank” của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng đến từ Đại học Khoa học Sài Gòn, cách đây 50 năm, trong bài diễn văn “xuất trường” của Viện Đại Học Cần Thơ, đã có một tầm nhìn rất xa về vai trò của Viện Đại Học này đối với tương lai vùng Đồng Bằng Châu Thổ:
“Ngày nay (19/12/1970) trong Thời Đại Khoa Học Kỹ Thuật, các tỉnh ĐBSCL đang trông chờ nơi ánh sáng soi đường của Viện Đại Học Cần Thơ và ước mơ một chân trời mới, tô điểm bằng những cành lúa vàng nặng trĩu, những mảnh vườn hoa quả oằn cây, dân cư thơ thới, một cộng đồng trù phú trong một xã hội công bằng.”
Giáo sư Đỗ Bá Khê cũng là người khai sinh ra hệ thống Đại học Cộng đồng [ĐHCĐ] tại Miền Nam trước 1975, theo mô hình Community College Concept của Mỹ, với điển hình là Đại học Cộng đồng Tiền Giang thành lập năm 1971 tại Mỹ Tho, tiếp theo là ĐHCĐ Duyên hải tại Nha Trang… nhưng rồi sau 1975, cùng chung số phận của cả một hệ thống giáo dục tốt đẹp Miền Nam bị sụp đổ, mô hình Đại học Cộng đồng cũng đã hoàn toàn bị chế độ mới làm cho biến thể, và mất hết ý nghĩa tâm nguyện ban đầu của người khai sinh sáng lập.
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, ngọn hải đăng trí tuệ miền Tây
Người bạn đồng hành
Đến năm 1970, bước đầu xây dựng được một Đại học Cần Thơ vững vàng, để có thể trở về Sài Gòn tiếp tục các công trình nghiên cứu khoa học và giảng dạy, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ chính thức mời Giáo sư Nguyễn Duy Xuân về thay ông, làm Viện trưởng thứ hai của Viện Đại Học Cần Thơ.
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh năm 1925 hơn Giáo sư Phạm Hoàng Hộ 4 tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Vanderbilt Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học Cần Thơ trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn, xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống campus cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây. Ông là người tiên phong thực hiện giáo dục đại học theo tín chỉ / credits (thay vì chứng chỉ, certificate như trước đây); giống như mô hình hệ thống Đại
học Hoa Kỳ. Ông còn gửi cả một đội ngũ giảng viên trẻ đi du học, điển hình như anh Trần Phước Đường đi Mỹ tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Michigan, sau đó họ trở về trường phục vụ ngành Sinh học, Giáo sư Trần Phước Đường sau này trở thành Viện trưởng Đại học Cần Thơ từ 1989 tới 1997.
Năm 1972, ông cũng đích thân mời nhà nông học trẻ Võ Tòng Xuân khi ấy đang công tác ở Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế Los Banos Philippines về trường giảng dạy. Sau này anh Võ Tòng Xuân kể lại, khi nhận được thư của GS Nguyễn Duy Xuân: “Anh Nguyễn Duy Xuân nói ĐBSCL là cái vựa của lúa gạo nên rất cần những nhà khoa học về nông nghiệp. Chiến tranh rồi có ngày hòa bình, đất nước sẽ cần những người như tôi. Đó là một trong những lý do tôi về công tác ở Đại học Cần Thơ.” TS Võ Tòng Xuân sau này trở thành một Giáo sư Nông học danh tiếng, “Doctor Rice” tên tuổi anh VTX gắn liền với sự tiếp nối phát triển cây Lúa Thần Nông và sau đó anh là Viện trưởng Đại học An Giang là Đại học lớn thứ hai của ĐBSCL sau Viện Đại học Cần Thơ.
Chỉ trong vòng 9 năm [1966 – 1975] với công lao xây dựng của hai Viện trưởng tiền nhiệm: GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân, Viện Đại Học Cần Thơ như một Ngọn Hải đăng Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền Nam, đóng góp cho sự thăng tiến của vùng ĐBSCL.
Từ ảo vọng đến thảm kịch
Chỉ mấy ngày trước biến cố 30 tháng 4, 1975, cũng như GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân như một trí thức dấn thân, quyết định ở lại và giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, ông vẫn can đảm nhận chức Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Giữ chức vụ đó chưa đầy một tuần lễ thì chính quyền Miền Nam sụp đổ, TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
GS Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo, sau đó bị đưa ra Bắc, giam trong trại tù Hà-Nam-Ninh, hầu như không có ngày về. Vẫn theo anh Võ Tòng Xuân (VTX), năm 1983, trong một lần ra Hà Nội dự họp, anh VTX đã vô trại Ba Sao để thăm lại vị Viện trưởng của mình khi còn ở Viện Đại học Cần Thơ. Gặp lại đồng nghiệp, GS Nguyễn Duy Xuân rất mừng, và dù đang trong nghịch cảnh tù đầy, ông vẫn đau đáu quan tâm hỏi han tới hiện trạng của Đại học Cần Thơ, nơi mà ông và GS Phạm Hoàng Hộ đã dầy công xây dựng.
Tôi, người viết bài này không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đoạ độc ác và vô ích của những người Cộng sản thắng cuộc, nếu GS Nguyễn Duy Xuân, một Tiến sĩ Kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước như ông vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975, không biết Viện Đại học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ phát triển và tiến xa tới đâu.
Năm 1983 là lần gặp gỡ đầu tiên của hai Giáo sư cùng tên Xuân sau 1975 ở trại Ba Sao và cũng là lần cuối cùng GS VTX được gặp lại GS Nguyễn Duy Xuân. Tiếp tục bị đầy ải thêm 3 năm nữa tổng cộng 11 năm, GS Nguyễn Duy Xuân đã chết trong tù cải tạo Hà- Nam-Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao.
Phải mãi đến tháng 4 năm 2015, gần 30 năm sau, di cốt của GS Nguyễn Duy Xuân, mới được người con gái là bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga từ Pháp về bốc mộ đưa từ nghĩa địa trại tù Ba Sao Hà-Nam-Ninh về Chùa Thiên Hưng, Quận Bình Thạnh Sài Gòn để lưu giữ tại đây. Trong buổi lễ cầu siêu, ngoài các thành viên của gia đình cố Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân, còn có một số cựu giảng huấn và các cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Cần Thơ trước 1975 như GS Võ Tòng Xuân, TS Nguyễn Tăng Tôn (cựu SV), TS Nguyễn Văn Mận (Cựu SV), KS Minh (Cựu SV) Ông Hòa (nhân viên hành chánh), đến tham dự buổi lễ.
Hình 7: Trại tù Ba Sao Hà–Nam–Ninh, Miền Bắc Việt Nam, nơi triền núi phía sau trại tù là nghĩa địa chôn vùi xác rất nhiều tù nhân cải tạo có gốc từ Miền Nam sau 1975, thân xác Giáo sư Nguyễn Duy Xuân được vùi nông trong nghĩa địa trại tù Ba Sao này. Mãi 30 năm sau, con gái ông là bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga từ Pháp về bốc mộ cha đưa từ nghĩa địa trại tù Ba Sao về Chùa Thiên Hưng, Quận Bình Thạnh, Sài Gòn.
Viện đại học Cần Thơ sau 1975
Thay thế Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân là ông Phạm Sơn Khai, gốc Miền Nam Tập kết là đảng viên Cộng sản, với học vị “Chuyên Ngành Lịch Sử Đảng”, ông Khai được đề cử giữ chức Viện trưởng và lãnh đạo Đại học Cần Thơ trong suốt 13 năm từ 1976 tới 1989.
Kể từ sau 1975, chính quyền mới với chủ trương một nền giáo dục “hồng hơn chuyên” nên học trình của Đại học Cần Thơ, cũng như toàn hệ thống các Đại học Miền Nam đã có thêm môn học chính trị cưỡng bách “Chủ nghĩa Mác Lê và Tư Tưởng Hồ Chí Minh”. Một môn học mà “thầy không muốn dạy, trò không muốn học” nhưng vẫn cứ được duy trì cho đến ngày hôm nay. Ngót nửa thế kỷ, 45 năm sau ngày thống nhất đất nước, trên toàn cõi Việt Nam vẫn chưa có được một nền “tự trị đại học”. Quá sớm để nói tới dân chủ hoá đất nước, khi mà các Đại Học như những “Think Tank” vẫn còn bị chi phối lãnh đạo bởi những Chi bộ Đảng Cộng Sản.
Qua một email, anh Võ Tòng Xuân kể lại: “Tôi nhớ mãi GS Hộ trong chuyến đi đó, ông rất kỹ về vấn đề ăn uống, đem theo đồ ăn và bình ton đựng nước uống riêng”.
GS Phạm Hoàng Hộ sinh nhật 80
Tháng 7 năm 2009, một số môn sinh đã tổ chức tại Montréal một lễ mừng sinh nhật 80 tuổi của GS Phạm Hoàng Hộ, cùng với một bức tượng được đem tới tặng Thầy với phát biểu đầy xúc động của một môn sinh: “Bức tượng không phải chỉ là hình ảnh của một giáo sư Thực Vật đáng kính mà còn là biểu tượng của người trí thức Miền Nam, đã hiến trọn đời mình cho khoa học, hết sức khiêm tốn so với tài năng của mình và nhất là hết lòng yêu quê hương đất nước.”
Cũng rất ý nghĩa, trong buổi họp sinh nhật ấy, bác sĩ Tăng Quang Kiệt đã đọc lời chúc của Giáo sư Phùng Trung Ngân, định cư tại California, người sáng lập ra Bộ Môn Sinh Môi Học / Ecology Department cũng là Khoa trưởng Đại Học Khoa Học Saigon từ 1973-1975, là bạn đồng môn và cùng tuổi với GS Phạm Hoàng Hộ:
“Anh Hộ thân mến, Tôi thành thật cám ơn Anh Chị và gia đình đã cho phép tôi gởi bài phát biểu trong buổi lễ long trọng này. Với 80 tuổi đời, Anh đã đóng góp một công trình đồ sộ về Cây Cỏ Việt Nam đồng thời với việc hướng dẫn sinh viên yêu Thực vật và Thiên nhiên Việt Nam. Là người cộng tác gần gũi với Anh trong công tác giáo dục sinh vật cho lớp trẻ VN tôi đã thấy sự tận tụy với nghề nghiệp của Anh và lòng hăng say nghiên cứu của Anh. Kết quả là công trình nghiên cứu vĩ đại về Cây Cỏ Nam Việt Nam và nhứt là công trình bổ sung đầy đủ Cây cỏ toàn bộ VN với các mẫu cây quý báu đang bị bỏ quên trong Viện Thảo Tập ở Paris. Trước năm 1975 Anh và tôi thường dẫn sinh viên đi thực tập ở Lâm Đồng-Đà Lạt, cho các em leo lên đỉnh Lâm Viên, một trong những ngọn núi cao khoảng 2000m ở miền Nam, chúng ta thường ước mong khi hòa bình trở lại sẽ cùng nhau ra miền Bắc khảo sát Cây cỏ Đỉnh Fan Xi Pan cao hơn 3000m ở Hoàng Liên Sơn. Rất tiếc đến ngày hôm nay ước mong của chúng ta chắc không bao giờ thực hiện được. Tuy nhiên Anh đã tự mình tiếp xúc với đỉnh Fan Xi Pan qua các mẫu cây còn lưu trữ tại Viện thảo Tập Paris và cũng từ đó hình thành bộ công trình Cây Cỏ Việt Nam cho Khoa học. Tôi rất may mắn là cộng tác viên thân cận của Anh trong nhiều năm nên đã học được tính chu đáo trong nghiên cứu, sự tận tụy trong giảng dạy và lòng say mê nghiên cứu Thiên nhiên Việt Nam.” [3]
Di chúc giữ xanh đất mẹ
Trong Quyển cuối cùng của bộ sách Cây Cỏ Việt Nam [Quyển III, Tập 2] xuất bản tại Montréal 1993, chỉ với hai trang Thay Lời Tựa, GS Phạm Hoàng Hộ đã để lại một Thông điệp; cũng có thể coi như một Di Chúc cho Việt Nam.
“Thực-vật-chúng Việt Nam có lẽ gồm vào 12,000 loài. Đó là chỉ kể các cây có mạch, nghĩa là không kể các Rong, Rêu, Nấm.
Đó là một trong những thực-vật-chúng phong phú nhất thế giới. Sự phong phú ấy là một diễm phúc cho dân tộc Việt Nam. Vì như tôi đã viết từ 1968, Hiển hoa là ân nhân vô giá của loài người. Hiển hoa cho ta nguồn thức ăn căn bản hàng ngày; Hiển hoa cung cấp cho ta, nhất là người Việt Nam, nơi sinh sống an khang. Biết bao cuộc tình duyên êm đẹp khởi đầu bằng một miếng Trầu, một miếng Cau. Bao nhiêu chúng ta đã không chào đời bằng một mảnh Tre để cắt rún, rời nhao? Lúc đầy nguồn sống lúc nhàn rỗi, chính Hiển hoa cung cấp cho loài Người thức uống ngon lành để say sưa cùng vũ trụ. Lúc ốm đau, cũng chính Cây cỏ giúp cho ta dược thảo hiệu linh.
Các điều ấy rất đúng hơn với chúng ta, người Việt Nam mà ở rất nhiều nơi còn sống với một nền văn minh dựa trên thực vật.
Nhưng ân nhân của chúng ta ấy đang bị hiểm hoạ biến mất, vì rừng nước ta đã lùi dưới mức độ an toàn, đất màu mỡ bị soi mòn mất ở một diện tích lớn, và cảnh sa mạc đang bành trướng mau lẹ. Đã đến lúc theo nhạc của một bài ca, ta có thể hát: “Thần dân nghe chăng? Sơn hà nguy biến. Rừng dày nào còn, Xoi mòn đang tiến… Đâu còn muôn cây làm êm ấm núi sông.” [Ghi chú của người viết: bài ca Hội nghị Diên Hồng, nhạc của Lưu Hữu Phước, lời: Huỳnh Văn Tiễng – Mai Văn Bộ – Lưu Hữu Phước].
Kho tàng thực vật ấy chúng ta có phận sự bảo tồn. Sự bảo tồn và phục hồi thiên nhiên ở nước ta rất là cấp bách. Nó có thể thực hiện, vì mỗi người của chúng ta, dù lớn dù nhỏ đều có thể góp phần vào sự bảo tồn ấy. Bằng những cử chỉ nhỏ nhặt hàng ngày, sự đóng góp của chúng ta quan trọng không kém.
Không quăng bậy một tia lửa, một tàn thuốc, là ta góp phần tránh nạn cháy rừng. Không đốn bậy một cây, là ta bảo vệ Thiên nhiên của ta. Trồng cây là phận sự của chính quyền hay của các Công ty gầy rừng. Nhưng quanh nhà chúng ta, chúng ta có thể tìm trồng một cây lạ, đặc biệt, hiếm của vùng hay chỉ có ở Việt Nam. Dân ta yêu cây hoa-kiểng, nhưng các nhà nhàn rỗi có thể trồng cây lạ, đặc biệt, cũng là một thú không kém hay đẹp. Các thị xã nên có một công viên hay vườn bách thảo, không lớn thì nhỏ để khoe các cây hay của vùng, không bắt buộc là cây hữu ích hay đẹp. Cây Dó đâu có gì lạ? Nhưng nó là niềm tự hào cho dân tộc vì từ Hồng Bàng, dân ta đã biết lấy trầm từ nó. Cả ngàn loài cây khác chỉ có ở Việt Nam mà thôi! Các cây này có thể trồng như cây che bóng mát dựa lộ. Các làng, các quận, các tỉnh nên tạo phong trào trồng nhiều loài lý thú như vậy. Ta không cần đợi các lâm viện, khu dự trữ để bảo vệ tài nguyên quý báu cho thế hệ sau, mà ta cũng có thể chính mình góp phần vào sự bảo vệ ấy. Trồng các cây lạ, đặc biệt ấy còn là một yếu tố quến [chữ GS Phạm Hoàng Hộ theo cái nghĩa quyến rũ] du khách quan trọng: Lan Thuỷ tiên hường Dendrobium amabile của ta, chỉ có ở một Vườn Bách thảo ngoại quốc trồng được và họ tự hào đến đỗi đã ghi trong “Sách ghi quán quân thế giới 1988.”
Hàng năm ta có thể tuyên dương nhà nào đã trồng cây hay, lạ. Tất nhiên là công với nước nhà mới trông không bằng những ai đã đem Rhizobium vào để tăng năng xuất đậu nành, đã trồng được cây Dó tạo trầm, đã du nhập lúa Thần nông hay Nho. Nhưng nếu cả ngàn người, cả triệu người đóng góp cho non nước những “nhỏ-nhen” [chữ GS Phạm Hoàng Hộ theo cái nghĩa nhỏ nhặt], cả triệu cái nhỏ-nhen chắc chắn trở nên một khối đồ sộ.
Đóng góp lớn, tôi vẫn cho là việc khó. Tôi quý các đóng góp nhỏ, hằng ngày mà ai cũng làm được. Nó hay hơn. Kẻ sĩ, theo tôi không phải chỉ là những kẻ đã làm được những chuyện lớn. Đóng góp những chuyện nhỏ hàng ngày cũng là hành động của một kẻ sĩ, kẻ sĩ vô danh. Kẻ sĩ vô danh cao quý không kém. Với những đóng góp nhỏ ấy, chắc chắn bạn không làm buồn lòng cho Tổ Quốc và không thẹn với Non Sông. [lược dẫn Thay Lời Tựa, bộ sách Cây Cỏ Việt Nam; Quyển III, Tập 2].
Qua “Di Chúc” ấy của GS Phạm Hoàng Hộ, từ nay môn Sinh học Thực Vật không còn là lý thuyết mà đã đi vào đời sống; Giữ Xanh Đất Mẹ phải là kim chỉ Nam cho mọi trình độ giáo dục từ Tiểu học tới Đại học, cả trong công dân giáo dục, là giá trị phổ quát và xuyên suốt cho mọi thể chế chính trị và cả trên tầm vóc toàn cầu là Giữ Xanh Trái Đất này / Keep this Planet Green.
Thay cho một kết từ
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã xem bộ sách “Cây Cỏ Việt Nam là công trình của đời tôi” và Giáo sư đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho:
“Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.
Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/11/1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh.
Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.
Bài viết này như lời cầu nguyện gửi tới hương linh các Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Đỗ Bá Khê – những nhà khoa học với nhân cách lớn, những kẻ sĩ khí phách biểu tượng của giới trí thức Miền Nam, đã đi hết chặng đường đau khổ với trọn đời cống hiến trong một giai đoạn vô cùng đen tối của đất nước. Viết trong nỗi xúc động, cùng với nén nhang tưởng nhớ, nghĩ tới câu thơ của thi hào Nguyễn Du: Thác là thể phách còn là tinh anh. Tấm gương của các Thầy vẫn cứ mãi là Ngọn Hải Đăng soi sáng và dẫn đường cho Đồng Bằng Sông Cửu Long đang như một con tàu lạc hướng sắp đắm, sẽ vượt qua mọi sóng gió, vào được bến đỗ an toàn. Và cũng ước mong một ngày nào đó “hoa sẽ nở trên đường quê hương”, và rồi ra trên một đất nước có tự do dân chủ, sẽ có một tượng đài của GS Phạm Hoàng Hộ trên đỉnh Fan Xi Pan cao hơn 3000 mét ở Hoàng Liên Sơn để các thế hệ môn sinh tiếp tục được Thầy Hộ hướng dẫn tới đó khảo sát Cây Cỏ và hoàn tất Giấc Mơ Việt Nam của Thầy.
Ngô Thế Vinh
Sài Gòn 30 tháng 4, 1975 – ĐBSCL 30 tháng 4, 2020
[Chân Dung VHNT & VH, Việt Ecology Press 2017]
Tham Khảo:
1/ GS. Phạm Hoàng Hộ & GS. Nguyễn Duy Xuân đối với việc hình thành và phát triển Viện Đại học Cần Thơ (1966 – 1975); Phạm Đức Thuận; Tập San Xưa và Nay Số 439 Tháng 11 Năm 2013; http://www.cantholib.org.vn/Database/Content/1188.pdf
2/ Vị Tổng Trưởng quyết không rời Quê hương. Trung Hiếu; Báo Thanh Niên 28.04.2015; http://thanhnien.vn/thoi-su/giu-huyet-mach-cho-hon-ngoc-vien-dong-ky-6-vi-tong-truong-quyet-khong-roi-que-huong-556577.html
3/ Anh Chị Thuỷ – Thu Vân thăm Thầy Phạm Hoàng Hộ, http://truongxuabancu.fpb.yuku.com/topic/118/Anh-Ch-ThuThu-Vn-thm-Thy-Phm-Hong-H#.WJNVUxTcdwg
4/ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một người thầy của tôi. Lê Học Lãnh Vân; Một Thế Giới.VN 02.02.2017; http://motthegioi.vn/giao-duc-c-69/cau-chuyen-giao-duc-c-108/giao-su-pham-hoang-ho-mot-nguoi-thay-cua-toi-55462.html
5/ Đại học cộng đồng được thành lập trước 1975. GS Đỗ Bá Khê; Đặc san Tiền Giang, July 1998.
http://daihoc.tripod.com/199807-tiengiang.html
https://baotiengdan.com/2020/04/01/dbscl-2020-canh-dong-chet-va-45-nam-ao-vong-tri-thuc/
Vui cười
Một gã trẻ tuổi gặp một ông già. Đang huênh hoang muốn khoe trình độ mình hơn người, gã bèn rủ:
– Tôi với ông so kiến thức bằng cách đố nhau nhé!
Ông già đắn đo, gã bèn đặt thêm điều kiện:
– Nếu thắng ông được 10 đồng, nếu thua ông chỉ mất 1 đồng thôi!– Nhất trí, anh đố trước đi.
– Thế tay nào lên vũ trụ đầu tiên? Ông già không trả lời, lẳng lặng rút tờ 1 đồngtrả cho gã trẻ tuổi. Được thể, hắn hỏi tiếp: – Thế ai phát minh ra định luật bảo toàn khối lượng?
Chịu. Lại 1 tờ nữa.
– Thôi, anh đố nhiều rồi. Để tôi đố anh 1 câu được không?
– Đồng ý!
– Con gì lên đồi bằng 2 chân, còn xuống đồi bằng 3 chân?
Sau một hồi lâu suy nghĩ, gã thanh niên quyết định rút tờ 10 đồng ra, đưa cho đối thủ và hỏi lại:
– Không biết! Thế con gì đấy hả ông?
Ông già lẳng lặng rút tiếp tờ 1 đồng đưa cho gã trẻ
Chồng bàn với vợ:
– Anh đặt lên bàn ba thứ để xem con mình sẽ lấythứ gì. Nếu nó lấy tờ 100 USD, tương lai nó sẽ là nhà tài chính. Nếu lấy cây viết, nó sẽ là nhà văn, còn nếu cầm quyển kinh thì nó sẽ làm linh mục. Lát sau, cậu con vào phòng vớ cả ba thứ rồi chạy ra ngoài. Trong khi vợ còn đần mặt trước tình huống bất ngờ, chồng lẩm bẩm:
– Phương án thứ tư…
Vợ sốt ruột hỏi: – Là sao hở anh?
– Là ăn cướp chứ còn sao nữa!
Chuyện tù “cải tạo” của Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia VNCH – Trần Đỗ Cung
“…Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?…”
Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.
Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.
Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?
Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc mà còn mất cả cá tính nữa.
Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.
Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.
Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng: “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.
Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.
Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.
Rồi xảy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?
Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.
Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.
Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.
Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.
Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.
Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.
Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.
Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.
Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.
Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.
Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.
“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.
Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.
Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.
Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.
Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.
Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.
Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.
“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!
“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”. Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.
Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.
Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.
Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.
Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.
Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?
“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.
Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?
Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!
Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.
Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.
Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.
Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.
Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học, chỉ lặp lại những danh từ Xô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.
Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?
https://honviet.co.uk/TranDoCung_ChuyenTuCaiTaoCuaPhoTongThanhTraNganHangQuocGiaVNCH.htm
Thơ Đằng Phương – Ngọn đuốc Việt Nam
Ngọn đuốc ấy tự bốn nghìn năm trước
Đã được người thuỷ tổ giống Rồng Tiên
Đốt lên bằng một ánh lửa thiêng liêng;
Ánh lửa dũng nung lòng dân tộc Việt.
Từ đó, lúc âm thầm, khi mãnh liệt,
Ngọn đuốc thần luôn sáng mãi không ngưng,
Trải bao cơn mưa bão nổi tưng bừng,
Đuốc vẫn cháy phừng phừng không lúc tắt.
Sức đè nén nặng nề như khối sắt
Của bọn người dị tộc đến xâm lăng
Cũng không làm cho đuốc Việt tiêu tan;
Chỉ âm ỉ lu mờ trong một lúc
Rồi đuốc Việt lại tưng bừng đỏ rực
Bốc cao vời, chiếu rạng cả non sông.
Ánh sáng tươi của ngọn đuốc kiêu hùng
Đã bao lượt khiến trời Đông chói lọi.
Ngọn đuốc cháy muôn đời không biết mỏi
Như tấm lòng dũng cảm giống Rồng Tiên,
Như cả dòng nhựa sống cùng dâng lên
Trong huyết quản của người dân nước Việt.
Ngọn đuốc cháy hiên ngang và quả quyết
Như tinh thần quật khởi của dân ta,
Như tinh thần tha thiết nước non nhà
Bồng bột mãi chẳng bao giờ nguội lạnh.
Là nguồn sáng tỏ rạng ngời muôn ánh
Là tượng trưng đời sống mạnh vinh quang
Của non sông,ngọn đuốc Việt huy hoàng
Quyết cháy sáng tưng bừng muôn vạn thuở.
Bốn Đại tá trốn trại tù “cải tạo” – Võ Hữu Hạnh
Những năm dài tháng tận rồi cũng trôi qua trong nhọc nhằn khổ sở cả thể xác lẩn tinh thần. Thắm thoát đã hai năm qua ở mảnh đất tận cùng biên giới phía Bắc Việt Nam này. Hàng ngày chúng tôi phải dậy thật sớm trước khi tiếng kẻng rùng rợn vang lên giữa đêm giá rét O độ của miền Bắc rẻo cao này, để xếp hàng làm vệ sinh cá nhân, vì hể một khi tiếng kèn đã nổi lên rồi thì mình sẽ không còn là mình nữa,mà là một con trục quay cuồng trong guồng máy luyện thép khổng lồ.Thời gian đó các cai tù phân công chúng tôi ra từng cặp một trẻ một già, một khoẻ một yếu để vác một cây bồ đề dài khoảng 6 thước, chu vi chừng vài tấc trở lên qua đoạn đường rừng gần 10 cây số, mỗi ngày cặp tù nhân đó phải vác đủ ba chuyến như thế cho đủ chỉ tiêu. Lúc dó khoảng 4 giờ chiều, tôi và một anh bạn trẻ đang khiêng một cây Bồ Đề to lớn, đã cố sức vưọt qua bao nhiêu ngọn đèo,chỉ còn một đèo chót là đến nơi đang xây dựng bệnh xá được xây thêm cho càng ngày càng có thêm bệnh nhân tù.
Trời mưa tầm tã, dưới chân chúng tôi nước chảy thành dòng như muốn cuốn trôi mọi thứ, chúng tôi phải hết sức kềm chân cho chặt vừa phải oằn vai chịu sức nặng đẫm nước của cây tươi vừa đốn hạ. Bỗng nhiên anh bạn gánh vai sau trợt chân té ngửa, buông rơi cả thân cây to, khiến đầu cây còn lại đập mạnh vào hông phải tôi. Đau đón tôi ngất lịm, chân bị trật cả gân lẫn xương. Tôi vào bệnh xá dể được một ông y sĩ Trường Sơn, mỗi lần chữa bệnh, vừa xem cuốn sách châm cứu do Miền Nam ấn hành, vừa châm vào tôi cây kim dài đã hơ qua ngọn lửa vừa nói:
– Tổ chức châm cứu săn sóc anh đây. Chừng nào anh cảm thấy đau buốt thì cứ la lên, tôi sẽ tìm huyệt khác đúng hơn!.
Nhờ mỗi ngày chịu trận cho ông y sĩ dỏm này thực tập vài ba tiếng, tôi mới được ông ký giấy cho “Miễn lao động “ trong ngày ấy.
Ngày hôm trước ngày tôi bị cây to đè ngang hông, khi tôi khiêng cây dến đoạn đường Nghĩa Lộ, vừa đói vừa khát, kiệt sức tôi ngã vật xuống bên lềđường. Hai cán bộ bảo vệ trẻ thương hại mới đỡ tôi dậy, nhưng ngay lúc đó cán bộ phó trại, ngưòi mập lùn đi ngang qua, không cho đỡ tôi lại còn đay nghiến: “-Các đồng chí không việc gì mà phải đỡ hộ họ!” Rồi anh cán bộ phó trại quay sang chúng tôi sang sảng: “ Tôi biết rõ ở trong Nam, mỗi tuần các anh hầm thuốc Bắc một đứa trẻ từ một tuổi để bồi dưỡng, đúng là quân man di mọi rợ không có tính người! Vì thế anh nào cũng béo tốt như ri, lao động một chút không bằng ai mà cũng giả vờ té xỉu..nhất là mấy anh tỉnh trưởng!!!”
Nhìn vẻ mặt anh ta đỏ gay, gân cổ lên mà nói to ra vẻ rất hiểu biết, để gây thêm căm thù, chúng tôi bổng thấy thương hại sự ấu trĩ của họ hơn là oán ghét. Còn lạ gì một anh chăn trâu suốt đời không được học hành giáo dục, chỉ biết lặp lại nhai lại y khuôn những gì Đảng nói và nhồi sọ cho họ, gây căm thù giai cấp càng nhiều càng tốt. Họ có biết đâu lúc đó tại các thành phố lớn Hà Nội, Sài Gòn, hàng ngày các bác sĩ cán bộ được lệnh “Kế Hoạch Hóa Gia Đình”, để hợp pháp giết non hàng ngàn thai nhi vô tội.
Chúng tôi vẫn tiếp tục lê gót sống những ngày tù khoắc khoải, thì một hôm nọ, trời vừa hửng sáng là trại bị bọn cán bộ, lính bảo vệ trang bị súng ống chĩa vào các lán trạì tù. Ngày hôm đó họ kiểm soát rất gắt gao, nhân dịp tịch thu tất cả những gì chúng tôi có thể để dành ăn chống đói như đường,sữa, bánh ngọt khô.
Cán bộ phó oang oang cái miệng hò hét om sòm:
– Dzõ dzàng nà các anh ngoan cố phản động không chịu học tập cải tạo tốt để sớm lên ngườì công dân xã hội chủ nghĩa tốt, nhất là mấy bọn đại tá các anh đã phụ nòng tin tưởng khoan hồng của Bác, Đảng và Chính phủ, các anh có biết chuyện gì xảy ra sáng nay không?
Ai nấy đều rõ nhưng vẫn im lặng như không. Các lán trại đã tung tin rất nhanh về việc 4 ông đại tá đã trốn trại làm nức lòng nhũng trại viên còn lại. Họ vừa mừng vừa lo và van vái thầm cầu xin cho các vị đó được mau thoát đến đất Lào và biết đâu đến bờ Tự Do đất Thái.
Họ đi theo đội hình như sau:
– Đại Tá Thành, trung đoàn trưởng, trưởng toán trốn trại, mở đường.
– Kế đó là Đại tá Nguyễn Văn Thi, binh chủng Pháo Binh, người giữ địa bàn định hướng.
– Người đi giữa mang thực phẩm cho toán là Đại tá Đỗ Trọng Huề, cựu giám đốc QuốcGia Nghĩa Tử, cố vấn văn hóa cho tổng thống Thiệu.
– Và người giữ mặt hậu là Đại tá Quế, chỉ huy trưởng căn cứ không quân Pleiku.
Mỗi ngày trôi qua là thêm một ngày củng cố lòng tin cho mọi người. Các cán bộ điên cuồng như ác thú lùng sục tất cả núi đồi. các đội tù đi lấy cát, đá, vôi ở Bến Phà Ô Lâu cũng như các đội lao động nặng lên rừng đốn gỗ đều được lệnh tạm đình chỉ. Chỉ riêng 4 đội tăng gia và hái chè là còn hoạt động cầm chừng dưới sự giám sát gấp đôi của những chú bộ đội phúng phính trong bộ đồ “ Cứt Ngựa “.Các giờ giài lao 10 phút thưòng lệ đều bị cắt bỏ, chỉ tiêu tăng gấp đôi để mọi người mệt nhoài không còn thời giờ nghỉ ngơi dù là một phút giây nào. Vài anh tù “ nông cạn” vội chưởi rủa bốn anh trốn trại, vì họ mà cả bọn chịu cực khổ thêm. Còn lại đa số đều “ phấn khởi hồ hởi “ vì họ thêm một ngày hi vọng cho những ai chuẩn bị trốn trại sau đó.
Trại cho thay đổi ngay những người “ anh nuôi “. Những người nầy bị an ninh điều tra thô bạo. Anh đại tá Võ Ân bị gọi lên xuống mấy chục bận mỗi ngày để điều tra manh mối xem ai là người xếp đặt hậu cần cho các anh trốn một cách bí mật chu đáo mà không ai hay biết.
Bốn anh Đại tá trong đội “Cơ Động” hàng ngày đưọc phân công dùng xe cải tiến đến Bến Phà Ô Lâu chở vật liệu nặng về xây cất cho trại. Các anh lợi dụng những chuyến đưọc xuất trại xa như thế đã ngấm ngầm cấu kết với nhau âm mưu trốn trại qua Lào, với sự giúp đỡ của anh Võ Ân, phụ trách nhà bếp trại.
Sau cả tháng mỗi ngày giấu một ít thực phẩm khô, ngày N,giờ G, thừa lúc mấy anh bảo vệ lơ là, các anh ĐT nhà ta lần lượt biến mất sau mỗi quả đồi, hẹn nhau tại một điểm tập trung và … chạy trốn!
Các anh đã đi suông sẻ suốt ngày đầu tiên mà không ai hay biết cho đến chiều tối lúc điểm danh. Đội cơ động bị phát hiện thiếu mất bốn người khiến cán bộ quản giáo, bộ đội canh gác bấn lọan, bắn súng loạn xạ. Lúc đó cả trại mới hay có bốn ông “Bò Lục” trốn thoát, ít nữa là ngày đầu tiên, ai nấy vừa lo vừa mừng cho các anh.
Chúng tôi lo lắng vì noi miền rẻo cao này, mỗi người dân đều là Cộng Sản, là cán bộ tình báo của chúng để quan sát theo dõi chúng tôi sít sao, vì thế mà họ không ngại “thả” chúng tôi ra ngoài để lao động khổ sai vì vùng này họ cho là an toàn nhất,một con ruồi còn khó qua mắt họ.
Nhóm anh Huề, anh Thành, Anh Thi và anh Quế vớí sự trợ giúp hậu cần của anh Võ Ân, tưởng đã trốn trại được đến gần biên giới Lào vẫn bị chúng nó phát hiện sau năm ngày sát biên giới, mà theo lời kể của các anh là “chỉ cần qua bên kia con sông đang chảy xiết là đến đất Lào rồi”, kể thì các anh quá giỏi đã vạch kế hoạch, đi đúng hướng chính xác mục tiêu, thất bại chẳng qua là.. số mệnh dun rủi mà thôi!
Chúng họ theo đuổi lùng sục các anh tận biên giới, nơi chắc chắn các anh sẽ đến, quả thật bọn chúng đánh giá không thấp trình độ của các sĩ quan ta. Khi giải các anh về bọn chúng như bầy quỷ dữ khát máu hung hăng, tha hồ đánh đập hành hạ các anh chết đi sống lại cho hả cơn giận của chúng. Riêng anh Thành, trưởng nhóm vượt ngục, bị nhốt riêng rồi thay nhau đánh đập tra khảo anh từ suốt đêm đến sáng. Càng bị hành hạ, anh càng lớn tiếng chưởi bới, cho đến khi gà gáy sáng thì anh không còn có thể la mằng gì được nữa vì chúng nó đã treo cổ anh rồi.
Sau này khi tôi bị biệt giam với các anh Huề, Thi, Võ Ân, Tâm, Huy, Bình, Đức ở khu F, phòng 7, trại Hà Tây, Tỉnh Hà Sơn Bình, mỗi khi nhắc đến anh Thành là mọi người yên lặng rơi lệ, thành kính tưởng niệm một anh hùng bất khuất, nhất là anh Huề, Thi,Võ Ân.
Theo lời anh Huề, sau khi chuẩn bị kỷ lưỡng cà mấy tháng trời những địa điểm tiếp tế các anh đã lần lượt chôn dấu thực phẩm cho những ngày đầu còn ở gần trại thì các anh bắt đầu đi suốt ngày đêm, tránh gặp dânchúng. Đến ngày thứ ba và thứ tư qua, bốn anh em mừng rỡ tưởng gần như thoát nạn rồi. Đường càng xa Yên Bái thì núi non càng cao dần lên, nhiều nơi dốc như thẳng đứng khiến anh em khốn khổ vô cùng. Đến sớm ngày thứ tư thì anh Thành thoáng thấy từ xa một buôn làng có những cuộn khói bốc lên từ các mái tranh. Tuy mừng rỡ nhưng anh em bảo nhau đề cao cảnh giác đi bọc vòng xa ngôi làng.
Bổng đâu có tiếng rào rào như giông to sắp đến nơi, anh Thi, người định hướng đi trong rừng giỏi nhất vì anh là cấp chỉ huy pháo binh, kể chuyện tiếp:
“Lúc đó mọi người đều rã rời vì cơn khát nung nấu dày vò,nhưng tiếng động lạ càng lúc càng to dần,mọi người dều thủ dao sẳn bên mình, sẳn sàng chiến đấu một mất một còn với bất cứ ai khám phá ra bọn người đang quyết tâm đi tìm tự do với bất cứ giá nào.
Tiếng rì rào càng phút càng to dần trên đầu, bọn ngươì núp vào kẻ đá trong lùm cây chờ đợi. Thật bất ngờ! Mọi người há hốc mồm nhìn lên … đó là một con kỳ đà khổng lồ rất dài đang le chiếc lưõi đôi nhìn bọn người trốn trại nhỏ bé đang ép mình vào kẹt đá.
Ngươì ta thuờng nói “Ra đường gặp kỳ đà cản mũi, ắt việc không thành tựu được!”. Nhưng lúc đó đối với các anh tù vượt ngục đói khát suy nhược thì con kỳ đà này là món quà trời thương ban, giúp các anh có thêm sức lực.
Họ đã thấy xa xa con sông to dài tung lên những bọt trắng xóa chứng tỏ nước chảy rất mạnh. theo bản đồ và la bàn thì con sông đó có thể là sông Mekong chảy xuyên qua Trung Cộng, Lào, Kampuchia và Việt Nam, vì từ trên đỉnh núi cây lá dày đặc nhìn xuống thì nó rất rộng và dài vô tận uốn khúc như con rắn khổng lồ.
Gần bờ sông các làng mạc mọc nhiều, dân cư hay lên rừng đốn củi, săn thú nên anh em quyết định ngày ngủ dêm đi, di chuyễn dần lên phía Bắc nơi con sông hẹp hơn để vượt qua. Ai cũng mừng vì sắp thành công cuộc vượt ngục hi hữu này, cố làm sao đủ sức vượt sông đến khu rừng tre dày đặc bên kia xứ Lào.
Khi con người cố gắng hết sức để đạt mục tiêu, cơ thể có khả năng siêu việt vượt qua tất cả, để một khi đạt hay gần khi gần tới mục tiêu, cơ thể rũ liệt kiệt sức,các anh em vượt trại mấy ngày đêm nay thấy gần thành công thì bỗng dưng bao mệt mõi đổ ụp xuống, tuy nhiên anh em cũng cố gắng thay phiên nhau trực canh, tìm mọi phuơng cách để vượt sông an toàn.
Bổng nhiên có tiếng chó sủa càng lúc càng gần càng rộ lên. Thì ra, dân bản xứ đi rừng khám phá dâu chân lạ trên con đường mòn, gần bờ suối cây lá bị đạp ngã, họ thả chó đánh hơi và báo đồn công an, nghi ngờ có bọn thổ phỉ buôn lậu thuốc phiện xuyên biên giới.
Tiếng chó sủa dữ dội cùng tiếng súng bao vây các anh, nhữngtiếng quát tháo rợn người vang lên:
– Ai muốn sống giơ tay khỏi đầu ngay!
Rồi những gương mặt dữ dằn của bầy lang sói độc ác xuất hiện kèm theo những trận mưa đòn tàn bạo, gậy gộc báng súng đánh tới tấp trên đầu, cổ, mặt mũi, mình mẩy những nạn nhân tù đày ốm đói run rẩy không chút tự vệ.
Giữa trận mưa máu, có tiếng một cụ già:
– Thôi cho tôi xin các ông! Tưởng là bọn thổ phỉ buôn lậu biên giới, hóa ra là tù “cải tạo” Miền Nam. Họ không thể chống cự, hà tất phải đánh đập họ đến chết như thế!
Bốn anh em ngất lịm đi trong cơn mưa đòn khủng khiếp nhất trên đời. Mặt mũi mình mẩy họ không còn là con ngườii nữa mà là những con vật hình thù méo mó tả toi dươí những trận đòn từ những ác quỷ đầy hận thù đội lốt người thắng trận!
Chiều hôm đó tại lán trại, sau khi nhận điện báo khẩn, trại trưởng huy động hai đội lao công khẩn trương đục hang vào sưòn núi sâu, không ai biết để làm gì, tưởng là nơi để họ cất giấu vũ khí hay chứa thực phẩm lưong khô, đến khi có những tấm vĩ sắt dựng thành cửa ngục lên thì ai nấy đều hiểu ra đó là nơi để giam giữ tù vượt trại. Chúng tôi hoài nghi có lẽ bốn “Bò Lục” đã bị bắt và đang trên đường trở về.
Thật đúng như vậy! Một buổi chiều u ám, từ chân trời có tiếng vó ngựa tung bụi mờ, giữa bầy quỷ dữ đang hò hét trên lưng ngựa cho chiến thắng vĩ đại là bốn người tù bị lôi xểnh theo sau lưng ngựa, hứng chịu những trận đòn, họ té khụy xuống rồi lại bị lôi dậy lúp xúp chạy theo vó ngựa, rồi loạng choạng té xuống mặc cho những sợi dây trói chặt quấn lấy thân thể rách bươm lôi kéo họ như những thanh gổ vô tri giác!
Chúng tôi chết điếng lặng ngưòi nép bên đường nhìn họ đi qua sau giờ chúng tôi lao động cải tạo vể, vô tình hay cố ý họ cho chúng tôi thấy hình phạt khủng khiếp của những ai có ý định trốn trại. Chúng tôi để mặc cho giòng lệ tuôn trào từ những đôi mắt trũng sâu, lăn dài trên đôi gò má hốc hác khắc khổ. Anh em chúng tôi đó! Những NGƯỜI HÙNG sau cuộc chiến! Không thành công đã thành NHÂN! Dù không còn ai có thể nhận ra các anh, vì các gương mặt đã bị bầm dập tan nát sau trận mưa đòn thù.
Sáng hôm sau, anh Thành đã chết cách anh dũng bất khuất! Xin dâng anh một nén hương lòng!
Vài hôm sau đó, có lẽ để xoa dịu lòng căm phẫn nhem nhúm trong tù trại Yên Bái trại 2, hoặc gây chia rẽ nghi ngờ giữa các anh em tù, hoặc muốn tỏra rằng Đảng ta luôn khoan hồng nhân đạo,nên trong một buổi học tập chính trị toàn trại, người ta đem anh Quế trình diện mọi người, đề cao anh là “thành phần tiến bộ “, biết “ tội lỗi mình làm “, xin tập thể trại viên nhận anh lại vào hàng ngũ những người cải tạo tốt. Còn hai anh Huề và Thi hãy còn ngoan cố,chưa xứng đáng được nhân dân tha thứ, còn phải chờ lâu dài. Mọi người khẽ thở dài, không ai có ý kiến gì, bởi vì không ai đoán bọn CS thâm độc mưu mô này sẽ còn dùng chiêu thức gì nữa.
Ít lâu sau đó, ngày 19/07/1977, hàng ngũ tù Đại tá chúng tôi được lệnh chuyển sang trại Tám ở thâm sơn cùng cốc đầy ao tù nước vàng đặc, nếu lỡ đạp chân xuống đó sẽ bị nhiễm sốt rét hoặc sốt rét rừng kinh niên. Ngay ngày đầu tiên khai hoang vùng hoang địa này dể trồng trọt, tôi là bệnh nhân sốt rét rừng đầu tiên. Cứ khoàng 4, 5 giờ chiều cơn rét kéo tới hành hạ tôi run lập cập, đắp bao nhiêu mền vẫn không đủ ấm, cái lạnh từ trong xương lạnh ra, rồi đến 12 giò đêm thì nóng sốt như lủa đốt như có muôn ngàn ngọn lửa châm vào đầu ngón chân mình mẩy. Thế mà sáng ra không được nghỉ ngơi, họ cho là tôi bệnh vờ nên tôi vẫn phải lao động như thường. Như chưa đủ khốn khổ, người phát thuốc ở trạm xá, vốn là người “ của ta “, nhưng nhờ “quen biết “ cán bộ, nên bắt chẹt anh em, mỗi lần anh ta bố thí cho vài viên Quinine, đã bị anh ta liếm hết chất ngọt bọc đường bao quanh, là đổi lại chúng tôi phải biếu hắn thuốc lào ba số hoặc đồ thăm nuôi. Thuốc men gia đình chúng tôi gửi nuôi đều bị trại cất giữ hộ, họ phát “Xuyên Tâm Liên “ để trị bá bệnh!
Võ Hữu Hạnh
http://nhinrabonphuong.blogspot.com/2020/04/bon-ai-ta-tron-trai-tu-cai-tao-vo-huu.html
Vui cười
Có một anh chàng người Việt Nam sống ở nước ngoài. Một hôm anh vào một quán rượu và gọi một chai rượu để uống, uống hết chai rượu anh quay lại nói với chủ quán:
– Ông có tin tôi có thể tự cắn vaò mắt phải của tôi không?
Chủ quán rượu không tin bèn nói:
– 200 đô la cho anh, nếu anh làm được việc đó.
Anh chàng người Việt liền đưa tay tháo con mắt giả bên phải của mình xuống và cho vaò miệng cắn. Chủ quán đành phải đưa cho anh 200 đô la. Anh chàng người Việt lại hỏi:
– Ông có tin tôi lại cắn vào mắt trái của tôi không?
Ông chủ quán nghĩ thầm:”thằng này khoác lác, chẳng lẽ nó mù cả hai mắt”. Ông chủ quán cười và nói:
– Nếu anh làm được việc đó, thêm 300 đô la nữa cho anh.
Anh chàng người Việt liền tháo hai hàm răng giả của mình đưa lên cắn nhẹ vaò mắt bên trái. Chủ quán biết mình bị lừa tức lắm nhưng cũng đành phải lấy 300 đô la trả anh. Anh chàng người Việt cầm tiền và lảo đảo đứng dậy nói:
– Ông có tin bây giờ tôi để cái chai không này ra giữa quán và đứng cách xa 3 m mà tôi vẫn tè vào đầy chai được không? Chủ quán tức lắm và lại nghĩ:”Người tỉnh còn chẳng làm được huống hồ thằng này say, đứng còn chẳng vững”, nên ông quyết định:
– Tôi sẵn sàng mất 500 đô la nếu anh làm được, và nếu anh không làm được anh phải trả lại tôi 500 đô la,
Anh chàng người Việt cầm chai để giữa quán và đứng cách xa 3 mét tè vung vảy khắp quán mà chẳng vào chai được giọt nào. Ông chủ quán cười lớn và nói: Anh thua rồi, anh phải trả lại tôi 500 đô la như đã giao kèo. Anh chàng người Việt vui vẻ đưa trả chủ quán 500 đô la và nói:
– Tôi trả ông 500 đô la, nhưng tôi vẫn thắng, vì lúc nãy tôi cược với một đại gia ngồi bàn bên kia 1000 đô la rằng: Tôi có thể tè vung vảy ra khắp quán rượu này và thằng chủ quán vẫn cười.
Nghĩ Đến Ngày Mai – Trần Nhật Kim
Tiếng ồn ào phía ngoài đường lớn dần. Thu vội buớc ra sân, tới gần bậc tam cấp bước lên đuờng trước nhà thăm nuôi. Các đội cải tạo đang lần lượt trở về sau một ngày lao động. Họ đi hàng đôi theo đội, vai vác dụng cụ, dáng điệu mệt mỏi sau một ngày làm việc cực nhọc, vắt cạn sức người. Thân thể gầy ốm, quần áo không còn lành lặn. Khi đi ngang qua nhà thăm nuôi, mọi người lặng lẽ dơ tay vẫy chào. Hàng trăm cặp mắt tìm kiếm người thân.
Thu chợt nghe người đứng trước nàng gọi to: “Tuấn”. Trong hàng các anh cải tạo có người dơ tay vẫy. Nàng quay sang nhìn người phụ nữ có âm thanh gọi thật trong, ấm ngọt. Cô còn trẻ lắm, trông độ hơn hai mươi, mái tóc uốn dài che phủ một phần vầng trán rộng. Thu phải công nhận người con gái trước mặt mình thật đẹp. Vẻ đẹp kín đáo phảng phất nỗi buồn man mác. Khi cô quay lại, thấy Thu nhìn mình mỉm cười, cô gật đầu đáp lễ.
Các đội “cải tạo” lần lượt về trại. Nàng ngạc nhiên khi thấy một số người ở khu gia đình cán bộ, đối diện với nhà thăm nuôi, ra đứng bên đường. Từng đoàn xe ba bánh chở đầy khoai mì đi tới, như một thói quen dừng lại phía bên kia đường. Thu thấy thân nhân cán bộ ra lấy khoai mì, sau đó anh em “cải tạo” lại tiếp tục đẩy xe về trại.
Trời đã về chiều, những tia nắng muộn chiếu qua kẽ mây phủ mờ mặt đường. Con đường đất nhỏ chạy dài tun hút về phía rừng cây xa xa. Khung cảnh núi rừng tịch mịch. Không nghe thấy tiếng động cơ xe chạy, hay âm thanh gõ móng của đoàn ngựa kéo. Nơi đây như một thế giới riêng biệt, xa hẳn xã hội loài người.
Qua mấy bậc tam cấp bước lên đường, Thu lững thững đi theo con đường đất. Cánh rừng phía trước đã ngăn tầm mắt nhìn xa. Bầu trời như thấp hẳn xuống. Phía sau khu gia đình cán bộ là rừng cây. Phía đối diện là ngọn núi cao, sườn dốc loang lổ những đám cháy đen, chen lẫn những khoảng đất đã khai phá mầu nâu đỏ, trên đỉnh cao chỉ còn thưa thớt những tàng cây. Nàng có cảm tưởng mình lọt vào giữa một lòng chảo. Con người vô cùng nhỏ bé đối với thiên nhiên.
Thu nghĩ đến chồng, không biết ngày mai có gì không may xẩy ra không. Liệu anh có bị cấm gặp mặt vì vi phạm kỷ luật trại khi gặp nàng trong lúc lao động. Hình ảnh gầy ốm, gương mặt nhuộm nâu vì nắng gió, trông càng tiều tụy. Anh cố nhẩy lên nhưng phải hai lần mới thoát khỏi miệng hố cá nhân khi thấy nàng đến gần. Thu mừng tủi gặp chồng trong hoàn cảnh này. Thu nghe rõ tiếng quát gọi tên anh của người cán bộ từ trong căn lều bên vệ đường.
Tiếng động phía sau lưng làm Thu dừng bước. Quay lại nàng bắt gặp nụ cười của người con gái mà nàng chưa biết tên. Thu mở lời:
-“Chào cô, cô tới đây lâu chưa?”
-“Em vừa tới trưa nay, trước khi các chị tới một lát.”
-“Sao cô chưa được gặp mặt?”
-“Theo thông lệ của trại, thân nhân tới hôm nay ngày mai mới được gặp.”
-“Ngày mai cô gặp lúc mấy giờ?”
-“Em gặp lúc 8 giờ sáng. Còn chị mấy giờ gặp anh. Chị ra thăm thường không?”
-“Tôi được gặp sau cô, lúc 9 giờ. Ðây là lần đầu tôi ra thăm nhà tôi, thành thử tôi chưa biết cách thức như thế nào. Còn cô đã đi thăm nhiều lần chưa?”
-“Lần thứ hai chị ạ. Năm ngoái em đã ra thăm, khi hay tin anh ấy chuyển trại từ Hoàng Liên Sơn về đây.”
-“Cô có cháu nào chưa?”
Sau câu hỏi, Thu thấy cô gái hơi cúi đầu, day mũi dép trên mặt đường, như khó trả lời trước một câu hỏi thông thường. Cô chợt ngẩng mặt trả lời:
-“Em chưa có cháu nào. Niềm vui đến với chúng em quá muộn màng. Còn chị, chị có mấy cháu?”
-“Tôi có 5 cháu. Cháu lớn 14 tuổi, còn cháu nhỏ vừa lên 8. Xin lỗi, cô cho biết quý danh được không?
Còn tôi tên Thu.”
-“Em tên Liên. Em 24 tuổi chị ạ. Vì hoàn cảnh chúng em chưa lập gia đình, rồi anh ấy đi cải tạo.”
Thu ngạc nhiên khi nghe Liên nói. Cô mới 19 tuổi vào ngày miền Nam bị chiếm đoạt. Hai người im lặng chậm bước. Nàng quay qua hỏi:
-“Hiện giờ Liên ở đâu?”
-“Em vẫn ở Ðà Lạt từ ngày gia đình em di cư vào Nam.”
-“Gia đình Liên vẫn thường chứ?”
-“Ba má và hai em của em di Pháp từ năm rồi. Gia đình em được anh cả bảo lãnh, chỉ còn mình em ở lại.”
-“Sau khi ba má Liên đi, đời sống của Liên ra sao?”
-“Trước ngày 30/4 gia đình em không phải lo nghĩ nhiều về vật chất. Nguồn lợi ruộng vườn giúp gia đình em sống dư giả. Sau khi miền Nam mất, cuộc sống đảo lộn, tài sản của gia đình em bị nhà nước trưng dụng, chỉ còn lại căn nhà em đang ở. Ba má em muốn em qua Pháp tiếp tục học, nhưng em xin ở lại.”
-“Sao Liên không cùng đi với gia đình?”
-“Vì Tuấn em quyết định ở lại.”
Một lần nữa Thu lại ngạc nhiên và kính trọng tấm lòng chung thủy của Liên. Hẳn phải là một mối tình thật đẹp để cho người con gái như Liên hy sinh. Nàng nhìn Liên mỉm cười:
-“Tôi kính phục Liên nhiều lắm biết không. Mối tình của Liên hẳn phải là mối tình tuyệt đẹp?”
-“Nhiều lần em đã tự hỏi tại sao em phải hành động như thế, nhất là vào thời gian gia đình em sửa soạn ra đi. Em đã thức nhiều đêm suy nghĩ. Ði hay ở lại. Chính em cũng không muốn sống trong tình trạng hối tiếc vì những quyết định vội vàng.”
-“Ba má Liên có biết Tuấn không?”
-“Ba má em biết Tuấn từ hồi chúng em mới quen nhau. Hai cụ rất vừa lòng anh ấy.”
-“Liên ở lại chắc hai bác buồn nhiều lắm.”
-“Em biết đã làm ba má em buồn, hơn nữa em là đứa con gái duy nhất trong nhà, được hai cụ cưng chiều từ nhỏ. Bố mẹ nào chẳng muốn cho con cái mình thành đạt, có đời sống hạnh phúc. Nhất là các cụ biết sự đợi chờ của em là vô vọng. Em cũng tự biết như thế, vì chúng em đang ở hai thế giới cách biệt. Như đã nói với chị, em ở lại vì Tuấn mà cũng vì em nữa.”
-“Tôi đồng ý với Liên, ngoài tình yêu còn có lòng thương nữa. Nó gắn bó tình cảm của hai người. Dù hoàn cảnh của chúng ta khác nhau, nhưng chúng ta có cùng một suy tư, có chung niềm khắc khoải. Chúng ta sống cho tình yêu thương, và cũng nhờ tình yêu thương mà sống. Cũng như Liên, tôi đã suy nghĩ về lòng chung thủy và sự đợi chờ, nhất là trong hoàn cảnh đau thương này. Liệu ngoại cảnh có thúc dục, ảnh hưởng tới lòng kiên trì của chúng ta không?”
-“Vừa rồi chị nói kính phục em về lòng chung thủy, bây giờ em cũng muốn nhắc lại câu này với chị. Vì ở chị ngoài lòng chung thủy, tình yêu thương còn có sự hy sinh. Với trường hợp của em, như người thân đã nói, là em để tuổi xuân đi qua một cách oan uổng, và hiện tại em đang sống trong ảo vọng.”
-“Liên cho tôi ngắt lời nhé. Quả thực, chỉ có mình mới hiểu được mình. Ðời sống có quá nhiều thúc bách, đôi lúc làm chúng ta nản lòng chờ đợi.”
-“Em cũng nghĩ tới điều này. Em đã nhủ lòng là phải sống thực tế. Nhưng chính tâm tư của em cảm nhận, là em đang sống một cuộc sống thực. Người ngoài thường cho những người trong cuộc tối tăm, thiếu sáng suốt để nhận biết về việc của mình. Nhưng chúng ta cũng không thể nhận xét, phân tích bằng đường lối mà xã hội thường dùng để phán xét.”
-“Tôi đồng ý với Liên. Tôi tưởng chúng ta có thể nói, chỉ vì là người trong cuộc, mới cảm nhận được thứ tình cảm lẫn lộn giữa yêu và thương. Và cũng chính vì đó mà chúng ta sống và hy sinh.”
-“Em cũng cảm nghĩ như chị, vì chính em đã trải qua những giây phút mà sự cám dỗ làm lẫn lộn thực với giả. Và cũng từ đó, em nhận thức được giá trị cuộc đời như thế nào. Nó có phải là những danh vọng lẫy lừng, một cuộc sống xa hoa vật chất, như kinh nghiệm của nhiều người, đã không tha thiết những gì đạt được do sự thành công. Vì tâm tư họ trống trải, mọi thứ trở thành vô nghĩa. Vì vậy, em biết được những gì cần thiết cho mình.”
-“Liên biết Tuấn đã bao lâu?”
Thu nhìn thấy trên gương mặt Liên một thoáng giây ngưng lại, nét mặt hơi đăm chiêu như đang lục tìm về dĩ vãng. Ánh mắt Liên chợt sáng, như hình ảnh ngày xưa hiện ra với những niềm vui.
-“Nếu nói gặp mặt thì lâu lắm rồi, từ khi em còn học lớp Ðệ Tam. Em cũng không hiểu tại sao em cảm thấy cô đơn ở tuổi 15, luôn cần sự chiều chuộng săn sóc. Hay vì phong thổ Ðà-lạt, cảnh sắc hữu tình của thành phố đầy hoa, đã ảnh hưởng tới tâm tư của em những nét trữ tình thơ mộng. Em gặp Tuấn vào đêm Giáng-sinh. Ngay từ phút giây đầu, em đã bị lôi cuốn bởi vóc dáng hào hùng, cử chỉ dịu dàng tha thiết của anh. Rồi bẵng đi cả năm không gặp, em rơi vào trong thương nhớ. Sự thiếu vắng làm em thao thức, như mất mát cái gì.”
-“Ðấy có phải là mối tình đầu của Liên không?”
-“Khi đó em còn nhỏ nên chưa phân tích được, nhưng có một điểm em thấy lòng mình xao xuyến mong đợi. Và khi gặp lại, cuộc đời em thay đổi. Chúng em yêu thương nhau từ đó. Em lên đại học. Chúng em hiểu không thể thiếu nhau trong cuộc đời, và ước hẹn sẽ xây dựng một gia đình hạnh phúc. Nhưng tai ương xẩy đến quá nhanh, chúng em chưa thực hiện được điều mình mong muốn.”
-“Ngày 30/4 là ngày đau thương của dân tộc chúng ta. Biết bao nhiêu thảm cảnh xẩy ra, nhiều gia đình đã đổ vỡ, chia ly.”
-“Vâng, vào lúc chúng em hình thành nguyện ước thì miền Nam mất, Tuấn đi cải tạo. Chúng em có với nhau 4 năm yêu thương, và bây giờ đã 5 năm chờ đợi. Em hiểu tuổi xuân của em đang qua đi. Có lúc em tự hỏi còn phải chờ đợi bao lâu nữa, và nếu Tuấn không về thì cuộc đời em sẽ ra sao đây. Có phải mọi việc đã muộn màng rồi không.”
Thu cảm thấy dâng lên trong lòng niềm chua xót khi nghe chuyện của Liên. Có phải chuyện của Liên cũng là chuyện của chính nàng. Những thắc mắc lo âu của Liên làm tim nàng se thắt.
Thu đã nhiều lần tự hỏi, nếu một ngày kia chồng nàng không trở về, có phải mọi việc trở thành dang dở không. Sự đau thương đến với một kiếp người thật đơn giản thế sao. Nàng đã khóc thầm trong nhiều đêm vắng cho số kiếp long đong của người đàn bà vào thời buổi này. Nàng nuốt trọn những hờn tủi trong những năm qua. Còn gì đau thương bằng nhìn thấy sự mất mát của mình, nhìn thấy tình yêu thương của mình vuột khỏi tầm tay.
Thu cố giữ im lặng, để sự chán nản thất vọng như nước thủy triều đang dâng lên trong lòng lắng đọng. Nàng thông cảm với Liên. Bất cứ câu nói nào trong giờ phút này, dù là một lời an ủi, cũng có thể khơi dậy nỗi buồn để bật thành tiếng khóc.
Liên tiếp lời sau tiếng thở dài:
-“Ðôi khi vì lòng ích kỷ tự nhiên của con người, em có ý nghĩ, nghĩa vụ gì bắt em phải chờ đợi. Em có quyền lo cho đời sống của riêng em. Nhưng không hiểu sao em vẫn không thực hiện được ý định đó. Có phải vì lòng yêu thương mà chúng ta hy sinh. Chúng ta chấp nhận phần thua thiệt cho riêng mình.”
-“Tôi có cùng ý nghĩ như Liên. Vì tình yêu thương chúng ta chấp nhận hoàn cảnh hẩm hiu. Nhưng thực ra, chúng ta mang nợ các anh ấy nhiều quá. Họ đã trải thân chiến đấu bảo vệ miền Nam Tự do, để chúng ta có đời sống an toàn hạnh phúc.”
-“Vâng, mỗi khi nghĩ đến Tuấn và mỗi lần gặp anh ấy, em thấy thương xót nhiều hơn. Mà phần đau như chính em phải mang, phải chịu. Các anh ấy là những “anh hùng mạt lộ”, họ đã chiến đấu, đã hy sinh cho mọi người miền Nam quá nhiều. Họ luôn đối diện với cái chết từ phương Bắc mang tới. Họ đã được những gì. Phải chăng họ sẵn lòng chiến đấu vì không muốn miền Nam rơi vào tay cộng sản. Nhưng tiếc thay, các anh ấy đã mất tất cả. Chỉ bám víu vào niềm an ủi còn lại là tình yêu thương của người thân.”
-“Liên nói đúng, chúng ta hơn các anh ấy ở chỗ, dù đời sống của chúng ta có thay đổi nhưng khung cảnh cũng ít nhiều quen thuộc. Còn ở đây xa lạ quá, không phải là thế giới quen sống của họ.”
-“Em thông cảm với nỗi đau thương, niềm tủi hận trong lòng các anh ấy. Họ bị buộc phải thua trận trong khi lòng vẫn còn hăng say chiến đấu. Họ đã trải thân bảo vệ nền hòa bình, dân chủ của miền Nam. Mà hiện tại, họ bị đầy ải trong ngục tù tăm tối không có ngày mai. Vì vậy, em cố gắng ra thăm, dù chỉ gần gũi trong phút giây ngắn ngủi.”
-“Tôi thông cảm vói Liên. Nỗi đau của chúng ta vẫn là nỗi đau chung. Có lẽ chuyện chúng mình chỉ mình hiểu được thôi…”
Hai người trở lên im lặng, như những khắc khoải lo âu hằn trong cuộc sống đang trỗi dậy. Tự nhiên Thu cảm thấy thân với Liên, như đã từng là đôi bạn, dù mới gặp không lâu.
Trần Nhật Kim
(Đặc San Lâm Viên)
Chú thích:
– Hình trên mạng Bách khoa mở (Wikipedia)
http://www.dslamvien.com/2020/03/nghi-den-ngay-mai.html
Vui cười
Giờ giải lao tại hội thảo ngôn ngữ quốc tế, các giáo sư nói chuyện với nhau về hiện tượng đồng âm. Người đến từ nước Anh nói:
– I can can a can (Tôi có thể làm một cáihộp).
Giáo sư tiếng Pháp nói:
– La souris sourit sous le riz (Con chuột cườidưới gạo).
Ví dụ của vị giáo sư Trung Quốc là:
– Đồng tử du đồng, đồng tử lạc (Cậu bé dạo chơi trên đồng bị trái ngô rụng phải).
Đến lượt mình, nhà ngôn ngữ học Việt Nam xổ ra một tràng:
– Bữa qua, qua nói qua qua mà qua hổng qua. Hôm nay, qua hông nói qua qua mà lại qua. Qua muốn tôi bỏ qua thì qua hãy mang qua một bó qua.