Tại sao Việt Nam không thể và sẽ không rời bỏ Nga
Bộ trưởng Ngoại giao Nga Lavrov đã trải thảm đỏ tại Hà Nội, nhấn mạnh chiều sâu và sự bền chặt của quan hệ song phương
Bởi NATE FISCHLER
7 tháng 7 năm 2022
Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn đón Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergey Lavrov tại Hà Nội, ngày 6/7/2022. Ảnh: Quang Hòa / Thế Giới & Việt Nam
HÀ NỘI – Tuần này, Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Lavrov đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn, Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng, một dấu hiệu cấp cao cho thấy các đồng minh Chiến tranh Lạnh vẫn thân thiết trong Kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh mới .
Chuyến thăm của Ngoại trưởng Lavrov theo lời mời của Bộ Ngoại giao Việt Nam, theo chính phủ Việt Nam, và là chuyến thăm đầu tiên của một quan chức Nga kể từ khi xung đột với Ukraine nổ ra vào ngày 24 tháng 2. Việt Nam là đối tác Đông Nam Á hàng đầu của Nga và được coi là một yếu tố then chốt để duy trì sự ổn định quan hệ trong khu vực.
Lavrov đã tổ chức các cuộc gặp riêng với Sơn, Chính và Trọng trong chuyến thăm hai ngày của ông, đại diện cho các cấp bộ, nhà nước và Đảng trong lãnh đạo của Việt Nam. Thông điệp ngoại giao rất rõ ràng: Việt Nam đánh giá cao mối quan hệ với Nga ở mọi cấp độ. Truyền thông nhà nước Việt Nam nhấn mạnh rằng chuyến thăm càng củng cố thêm Nga là một trong những đối tác ngoại giao hàng đầu của Việt Nam.
Về kinh tế, thương mại và đầu tư song phương vẫn phát triển mạnh mẽ. Thương mại đạt 7,1 tỷ USD vào năm ngoái và Nga được báo cáo có 151 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng giá trị 950 triệu USD. Việt Nam cũng có hiệp định thương mại tự do với Liên minh Kinh tế Á-Âu do Nga chi phối (EAEU – Nga, Belarus, Kazakhstan, Armenia và Kyrgyzstan).
Hợp tác trong lĩnh vực năng lượng có tầm quan trọng hàng đầu, với một số công ty dầu khí của Nga hoạt động ngoài khơi Việt Nam, tạo cho Hà Nội một vùng đệm địa chính trị nhất định chống lại sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông giàu tài nguyên và tranh chấp.
Ngoại trưởng Lavrov bày tỏ sự đánh giá cao đối với Việt Nam trong cuộc gặp với Son vì đã từ chối tham gia chế độ trừng phạt quốc tế “bất hợp pháp” do Mỹ dẫn đầu và có lẽ về mặt lý luận, kêu gọi tất cả các quốc gia tôn trọng luật pháp quốc tế. Ông cũng sử dụng cơ hội này để đả kích phương Tây và chính phủ Ukraine, nói rằng sự hỗ trợ của phương Tây đối với Ukraine tương đương với việc tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố nhà nước.
Về Việt Nam, Ngoại trưởng Lavrov nói thêm rằng nước này là “một đối tác quan trọng” trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Về phần mình, ASEAN đã bị bỏ qua với tư cách là một tổ chức về cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine với các quốc gia thành viên chia rẽ về vấn đề này và một số gửi thông điệp hỗn hợp.
Ngoại trưởng Lavrov cũng tuyên bố rằng “quan hệ hai nước dựa trên lịch sử và cuộc chiến đấu chung cho công lý”, ám chỉ những nỗ lực hợp tác kéo dài hàng thập kỷ giữa Moscow và Hà Nội kể từ Chiến tranh Việt Nam trở về trước.
Thật vậy, ông Son đã đề cập rõ ràng đến đóng góp lịch sử của Matxcova đối với nền độc lập và thống nhất của Việt Nam trong cuộc họp.
Như một cử chỉ mang tính biểu tượng, Lavrov cũng sử dụng dịp này để đến thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, được mô phỏng theo Vladimir Lenin. Nga vẫn là thành viên duy nhất của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc không bao giờ xâm lược Việt Nam, một thực tế khó có thể đánh mất đối với giới lãnh đạo đất nước.
Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergey Lavrov đặt vòng hoa và vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hình ảnh: VTC News
(Ảnh: Phạm Kiên / TTXVN)
Hà Nội đã nhất quán từ chối lên án Nga xâm lược Ukraine. Trong khi đặc phái viên Việt Nam tại Ukraine bày tỏ sự ngạc nhiên và Bộ Ngoại giao kêu gọi tuân thủ hiến chương Liên hợp quốc khi bắt đầu xung đột, Việt Nam chưa bao giờ nhắc tên Nga khi kêu gọi kiềm chế.
Việt Nam và Lào – quốc gia mà Hà Nội vẫn giữ ảnh hưởng đáng kể – là hai thành viên Đại hội đồng Liên hợp quốc Đông Nam Á duy nhất bỏ phiếu chống lại nghị quyết do Mỹ đứng đầu nhằm trục xuất Nga khỏi Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc vào tháng Tư.
Việt Nam đã bỏ phiếu trắng hoặc bỏ phiếu chống mọi nghị quyết của Liên hợp quốc chống lại Nga kể từ khi cuộc chiến ở Ukraine bùng nổ. Việt Nam cũng đã uốn nắn cơ chế độc tài trong nước bằng cách ngăn cản công dân Việt Nam phản đối chiến tranh.
Điều gây khó chịu hơn cho Washington là khả năng Việt Nam và Nga sẽ tổ chức các cuộc tập trận chung vào cuối năm nay, như đã đưa tin vào tháng 4. Việt Nam không xác nhận cũng không phủ nhận rằng các cuộc tập trận đã được lên kế hoạch, và có suy đoán rằng cuộc tập trận có thể không diễn ra. Tuy nhiên, triển vọng đã khiến Washington phải kinh ngạc.
Nhân dịp chuyến thăm của Ngoại trưởng Lavrov là dịp kỷ niệm 10 năm hai bên ký kết “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện”, sự chỉ định thân thiện và thân thiết nhất mà Việt Nam có thể dành cho nước ngoài theo chính sách ngoại giao “bốn không” cấm liên minh quân sự quốc tế.
Sau khi thiết lập quan hệ vào năm 1950, mối quan hệ song phương chính thức được nâng lên thành “đối tác chiến lược” vào năm 2001 và một lần nữa lên “đối tác chiến lược toàn diện” vào năm 2012. Hai bên cũng bày tỏ cam kết chung về việc làm sâu sắc hơn quan hệ trong bối cảnh quan hệ đối tác, chính thức chạy cho đến năm 2030, “trong tất cả các lĩnh vực.”
Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia duy nhất có quan hệ đối tác với Việt Nam. Tuy nhiên, sự chỉ định này không thay thế cho một liên minh chính thức. Mặc dù được xếp vào nhóm đối tác an ninh cấp cao nhất với Hà Nội, Bắc Kinh vẫn là mối đe dọa địa chính trị hàng đầu của Việt Nam và việc gia tăng hợp tác với Mỹ là kết quả trực tiếp của thực tế đó.
Đối với Hoa Kỳ, Hà Nội và Washington đã tham gia vào một “quan hệ đối tác toàn diện” vào năm 2013. Thỏa thuận này chính thức là hai nấc thang bên dưới mà Nga đã đạt được. “Quan hệ đối tác chiến lược” nằm giữa hai bên, một danh nghĩa được trao cho khoảng một chục quốc gia, và việc nâng cấp Hoa Kỳ lên vị thế này vì những lý do không rõ ràng đã bị trì hoãn.
Tuy nhiên, quan hệ song phương Việt – Mỹ đang dần được cải thiện và quan hệ đối tác của Việt Nam với Hoa Kỳ thực chất hơn quan hệ với hầu hết các đối tác chiến lược chính thức.
Với mục tiêu chung là kiềm chế Trung Quốc, Việt Nam đã trở thành một đối tác chiến lược quan trọng của Hoa Kỳ. Hai nước chia sẻ mong muốn kiềm chế một Trung Quốc ngày càng quyết đoán và quân sự hóa bành trướng hơn nữa ở Biển Đông. Tuy nhiên, những liên kết như vậy có thể gặp nguy hiểm nếu tiếp tục hợp tác với Nga và mua thiết bị quân sự của Nga.
Việt Nam được cho là nhà nhập khẩu vũ khí quan trọng thứ ba của Nga, sau Trung Quốc và Ấn Độ.
Phó Tổng thống Hoa Kỳ Kamala Harris (L) và Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính chụp ảnh trong văn phòng Chính phủ ở Hà Nội vào ngày 25 tháng 8 năm 2021. Ảnh: AFP / Evelyn Hockstein / Pool
Đạo luật Chống đối thủ của Mỹ thông qua trừng phạt (CAATSA) năm 2017 cho phép Mỹ trừng phạt bất kỳ quốc gia nào mua vũ khí từ Nga. Việt Nam, cũng như Ấn Độ, đã không bị trừng phạt theo luật, mặc dù nước này cũng chưa nhận được sự từ bỏ chính thức.
Khả năng Việt Nam bị trừng phạt theo CAATSA là thấp trước khi Nga xâm lược. Tuy nhiên, khả năng đó đã được hồi sinh khi Hà Nội tiếp tục mua vũ khí từ Moscow trong khi vẫn cung cấp cho nước này vỏ bọc ngoại giao bền bỉ.
Trên thực tế, cuộc gặp của Ngoại trưởng Lavrov với lãnh đạo cao nhất của đất nước là dấu hiệu cho thấy Hà Nội không quan tâm đến việc cắt đứt quan hệ với Moscow hoặc từ bỏ cách tiếp cận đa phương đối với chính sách đối ngoại không liên kết bất chấp áp lực của Mỹ để đứng về phía nào trong cuộc chiến Ukraine.
Rằng Mỹ có nguy cơ xa lánh một đối tác quan trọng vẫn còn xa vời vì họ thấy mình không có đòn bẩy trong vấn đề này và do đó khó có khả năng đưa ra các biện pháp trừng phạt trước cuộc cạnh tranh với Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương. Cùng với Ấn Độ, địa vị hiện tại của Việt Nam với tư cách là một đối tác Ấn Độ – Thái Bình Dương không thể thiếu của Hoa Kỳ cho đến nay đã cho phép Việt Nam từ bỏ các lệnh trừng phạt của CAATSA.
Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí cho Việt Nam vào năm 2016 và nhà lãnh đạo Mỹ khi đó là Barack Obama đã trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên thăm Việt Nam thống nhất sau tròn 40 năm sau khi hai cựu thù kết thúc cuộc chiến lâu dài.
Các nhà hoạch định chính sách Mỹ hy vọng động thái dỡ bỏ lệnh cấm vận và cuộc tấn công quyến rũ tiếp theo sẽ mở ra cánh cửa giúp Việt Nam thoát khỏi sự phụ thuộc vào thiết bị vũ khí của Nga. Sáng kiến này được duy trì dưới thời chính quyền Trump khi Washington khuyến khích Hà Nội mua thêm vũ khí của Hoa Kỳ.
Trong khi hy vọng đó đã phần nào thành hiện thực khi kho vũ khí của Việt Nam được cho là đã giảm từ hơn 90% thiết bị do Nga sản xuất xuống còn khoảng 80% – với phần cứng của Mỹ tạo nên một số khác biệt – thì mức giảm gần như không đủ toàn diện để mang tính quyết định.
Khả năng tương tác và sự quen thuộc với vũ khí của Nga vẫn là một điểm mấu chốt vì sẽ mất nhiều năm để đào tạo các lực lượng vũ trang của Việt Nam trong các hệ thống vũ khí mới do Mỹ sản xuất. Các lực lượng vũ trang của Việt Nam, thiện chiến trong phần lớn thế kỷ 20, vẫn được coi là một trong những lực lượng tốt nhất ở Đông Nam Á.
Do đó, giới lãnh đạo Việt Nam có khả năng vẫn coi quan hệ đối tác với Nga là không thể thiếu đối với an ninh quốc gia. Ngoài việc phụ thuộc vào vũ khí của Nga và sự quen thuộc với các hệ thống vũ khí của họ, Việt Nam có thể hy vọng rằng Nga có thể là một lực lượng vừa phải đối với Trung Quốc trong bối cảnh quan hệ đối tác “không có giới hạn” của họ.
Tựu trung lại, Việt Nam thấy mình đang ngày càng bị Trung Quốc bao vây và đe dọa. Trung Quốc giáp với Việt Nam ở phía bắc, đã quân sự hóa Biển Đông ở phía đông, và được cho là đang nhắm tới việc thiết lập một căn cứ quân sự ở Campuchia về phía tây.
Đồng thời, Việt Nam có thể lo lắng rằng sự hỗ trợ quan trọng do Nga cung cấp để hiện đại hóa quân đội của họ ở Biển Đông nhằm bảo vệ trước các mối đe dọa từ Trung Quốc có thể bị cắt giảm theo yêu cầu của Bắc Kinh, đây sẽ là một đòn tàn phá đối với sự sẵn sàng quân sự của Việt Nam, đặc biệt là với đối với khả năng từ chối khu vực chống truy cập quan trọng.
Việt Nam đã tìm kiếm các mối quan hệ chặt chẽ hơn với Mỹ để giảm thiểu rủi ro này, nhưng với cam kết về ngoại giao đa phương, Việt Nam có thể muốn giữ tất cả các lựa chọn trên bàn và vẫn mở cửa cho tất cả các đối tác tiềm năng. Chắc chắn, ngoài Mỹ và Nga, Việt Nam đã tìm kiếm mối quan hệ tốt đẹp với một số cường quốc liên quan đến an ninh quốc gia của họ bao gồm Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Cảnh sát biển Việt Nam diễu hành tại Hà Nội. Hà Nội đã và đang tăng cường phòng thủ tại các khu vực ở Biển Đông có tranh chấp với Trung Quốc. Ảnh: AFP / Hoàng Đình Nam
Mặc dù Trung Quốc vẫn là mối đe dọa hiện tại và rõ ràng nhất của Việt Nam, đặc biệt là ở Biển Đông đang có tranh chấp, Hà Nội đặc biệt kín tiếng về quan hệ đối tác “không có giới hạn” giữa Trung Quốc và Nga được công bố hồi đầu năm nay. Người ta không biết liệu chủ đề có được thảo luận trong chuyến thăm của Ngoại trưởng Lavrov hay không.
Vì vậy, Hà Nội thấy mình đang đi một mạch quen thuộc. Mặc dù có vẻ như Việt Nam đang ở trong trại của Nga trong các khối Chiến tranh Lạnh Mới đang nổi lên, nhưng đặc điểm đó rất phức tạp bởi thực tế là Việt Nam phần lớn là người hưởng lợi và tương đối ủng hộ cái gọi là trật tự dựa trên quy tắc do Mỹ duy trì và bị Nga phá hoại .
Tuy nhiên, cuối cùng, chiến lược của Việt Nam với tư cách là một cường quốc tầm trung được đặt ở vị trí địa lý giữa một điểm nóng toàn cầu nhằm giảm thiểu rủi ro.
Về phần mình, Nga đang tìm cách làm sâu sắc hơn mối quan hệ với các quốc gia châu Á nhằm theo đuổi chiến lược Á-Âu nhằm giảm thiểu thiệt hại với phần lớn châu Âu trong cuộc chiến Ukraine. Ngoại trưởng Lavrov đã có mặt tại Mông Cổ để gặp gỡ các nhà lãnh đạo hàng đầu của đất nước trước khi tới Việt Nam.
Không giống như Đức, nước đã hủy bỏ đường ống Nordstream 2 gây tranh cãi, Mông Cổ được cho phép đường ống Soyuz-Vostok, một phần của dự án Power of Siberia 2 lớn hơn, chảy qua lãnh thổ của mình khi Nga tăng cường cung cấp năng lượng cho Trung Quốc.
Một kế hoạch dự án đã được hai bên ký kết vào ngày 28 tháng 2, chỉ vài ngày sau khi Nga xâm lược Ukraine mà không đề cập đến cái gọi là “hoạt động quân sự đặc biệt”. Các cuộc gặp liên tiếp giữa Mông Cổ và Việt Nam được cho là đã tạo động lực ngoại giao cho Nga hướng tới những gì chắc chắn sẽ là một cuộc tiếp đón nhiệt tình hơn tại các cuộc họp G20 ở Bali.
Nate Fischler là một phóng viên và nhà phân tích chính trị độc lập tại Châu Á. Theo dõi anh ấy trên Twitter tại @NateFischler
https://asiatimes.com/2022/07/why-vietnam-cant-and-wont-leave-russias-side/
Lê Văn dịch lại