Tại sao?
Chúng tôi ba thằng – quen nhau rồi thân nhau từ tuổi thanh xuân ở chốn quân trường cho đến ngày nay: đầu bạc răng long nơi đất khách, quê người. Bỗng dưng, sau khi xảy ra đại dịch Corona và “dịch” chống phân biệt chủng tộc, có một thằng tuyên bố: không thèm chơi với nhau nữa… Lạ chưa?
Nhớ lại ngày nào: cuộc đời chưa vương vấn bụi trần ai với bao hoài bão. Tuy cá tính mỗi đứa một khác: – Một thằng tính nóng như Trương Phi, hay kỳ co, cố chấp – Một thằng ở dưới đất mà hay nói chuyện trên trời, ăn cơm dương gian mà hay bàn chuyện âm phủ – Còn tôi là thằng sớm “ngộ” được cái lẽ vô thường trong kiếp nhân sinh và “thấm” câu chuyện “Tái ông thất mã”- thành, bại, được, thua, trong cõi đời chỉ là giấc mộng phù du…Cho nên tôi giữ được sự thanh thản…và dung hòa các ý kiến cực đoan, mỗi lần hai đứa kia cãi nhau dữ dội.. Nhờ đó giữ được tình bạn lâu bền. Nhưng nguyên nhân sâu xa để thân nhau và tình bạn ba đứa keo sơn là do cùng chung lý tưởng, cùng chung trường Mẹ và có hoàn cảnh giống nhau.
Những ngày ở quân trường, chỉ có một con đường tiến tới: học tập chuyên cần để được tốt nghiệp (không phải mang thân phận hẩm hiu bị đuổi ra khỏi trường sớm, mang lon Trung sĩ). Bảy ngày trong tuần thì hết năm ngày lăn lộn ở thao trường trong mùa học Quân sự. Mùa Văn hóa: ban ngày lên giảng đường, đêm về đèn sách… Chỉ còn hai ngày cuối tuần – nhưng có bao việc phải làm: tạp dịch doanh trại, đào giao thông hào, lau súng, lau giày…Gắng làm cho xong công tác để buổi chiều còn ra tiếp “em” đang chờ ở Câu lạc bộ/SVSQ. Thế là mất toi ngày Thứ Bảy. Sáng Chủ Nhật – diện bộ quân phục dạo phố: mùa Đông Jasper, mùa hè worsted – bút nịt, phù hiệu Alpha bằng đồng sáng chói, giày da bóng lộn, đầu tóc ngắn gọn, ra sân sắp hàng ngay ngắn chờ các quan to khám xét. Xui xẻo hôm nào, gặp quan khó tính – vạch lá tìm sâu – không cho hưởng ngày phép cuối tuần, coi như đi đoong ngày Chủ Nhật – gác kiếm buồn xo, nằm nhà đọc truyện kiếm hiệp Kim Dung – giải sầu…
Được ra phố, có đứa vui, thằng buồn. Vui là những đứa có bồ hẹn hò dạo phố, lên Sân Cù hay xuống Thung Lũng Tình Yêu tình tự. Buồn là những thằng chẳng ai ưa mà nó cũng chẳng ưa ai…Hắn dạo quanh khu Hòa Bình một vòng rồi vào rạp ciné – Ngủ! Ngủ để lấy lại sức cho tuần sau. Thế là xong một ngày Chủ Nhật.
Còn ba thằng chúng tôi – buồn, vui tùy thời. Hôm nào trời đẹp, phố xá đông vui, các “em đà lạt” rời nhà ra phố, khoe nét đẹp trời cho. Chúng tôi có dịp “liếc mắt đưa tình”- đó là nói theo lối văn chương, còn tiếng thông thường thời ấy là “đá lông nheo” hay “rửa mắt”… Như thế đã là vui. Hôm nào trời lạnh, sương mù che lối , ba thằng vào Café Tùng; hôm nào nắng to, trời nóng thì đến Nhà Thủy Tạ ăn kem, tán chuyện tầm phào “nhân gian phàm tục”. Chữ nghĩa khô khan trong các bài học: chính trị, kinh tế, xã hội… gác sang một bên để nói về một đề tài hấp dẫn hơn là “tình yêu và con gái”; còn lại là những chuyện bá vơ. Thế mà cũng có những lúc cãi nhau ỏm tỏi.
Vừa qua tuổi học trò thơ mộng, bước vào đời qua ngưỡng cửa Quân trường với nhiều thử thách. Tâm hồn người SVSQ như một tờ giấy trắng mới viết lên đôi điều lý tưởng và vẽ lên đó trái tim đầy nhiệt huyết…
Thời gian ở Quân trường với bao kỷ niệm rồi cũng qua mau. Ba đứa cùng ra chiến trường. Chọn cùng Đơn vị – Sư Đoàn 5 BB. Và bây giờ cũng chỉ có một con đường để tiến tới: Thi hành nhiệm vụ và phục vụ lý tưởng Quốc Gia, Dân tộc.
Dần dà, tờ giấy trắng viết thêm nhiều chữ: Tại sao?
Những ngày đầu ra đơn vị, theo đoàn quân làm nhiệm vụ an dân, tôi cũng “say miền đất lạ”(1) như anh anh bộ đội miền Bắc mới vào miền Nam: Những đồn điền cao su Dầu Tiếng, Hớn Quản bạt ngàn – di hành cả ngày chưa ra khỏi. Rồi có lúc dừng quân dưới những vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, An Sơn, Bình Nhâm mát rượi – thơm phức mùi măng cụt, sầu riêng…
Nhưng rồi, chiến tranh đã tàn phá quê hương. Những lời ca phủ dụ: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (thơ của Phạm Tiến Duật – Hoàng Hiệp phổ nhạc trong bài ca Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây) nghe thấy xót xa… Than ôi! Trước mặt “con đường ra trận” là cạm bẫy, chông gai, là chết chóc, hận thù. Đằng sau “con đường ra trận” là cảnh tượng quê hương đổ nát, điêu tàn và để lại trong lòng người nỗi buồn vô hạn… Nghĩ lại mà thương cho tuổi trẻ Việt Nam.
Cuộc chiến leo thang, mỗi ngày thêm khốc liệt. Tôi được mai mối do bà già xếp đặt – cưới vợ để kiếm đứa con thừa tự. Còn ‘thằng kỳ co’ cứ nghêu ngao câu hát của Nhật Trường: “Đơn xin cưới, một tờ đơn xin cưới…Anh viết rồi, anh lại xé em ơi! Bởi anh không muốn thấy người yêu nhỏ bé, một sớm nào thành góa phụ ngây thơ…” ‘Thằng hay nói’ thường khích ‘thằng kỳ co’: “Thời buổi này mà mày còn ‘quân tử Tàu’. Phải hát: Đơn xin cưới, một tờ đơn xin cưới… Anh viết rồi, lại viết tiếp em ơi! Bởi anh không muốn thấy người yêu nhỏ bé, một sớm nào thành mệnh phụ phu nhân…” Thế nhưng đến ngày “tan hàng” ‘thằng kỳ co’ vẫn còn độc thân.
Sau ngày 30- 4- 1975, “trang giấy cuộc đời” viết thêm nhiều chữ: Tại sao? Và trên đó có thêm những dòng tủi hận. Ba thằng giờ đây cùng chung hoàn cảnh và cùng nỗi ưu tư trong chốn lao tù, làm cho tình bạn chúng tôi càng thêm gắn bó.
Trong suốt những năm dài ở tù, từ Nam ra Bắc ba thằng chúng tôi thường sống chung cùng trại, vì lúc ghi tên “tự nguyện” vào tù cùng ngày, cùng chỗ ( Phường 7- Quận Nhất – Sài Gòn) nên có dịp nâng đỡ nhau về tinh thần lẫn vật chất. Hai thằng chúng tôi có vợ tiếp tế, thăm nuôi; ‘thằng kỳ co’ là con “bà phước” (2). Nhưng chúng tôi có thức gì, nó có thức ấy. Chỉ ngặt cái tính kỳ co làm cho nó khổ – hết bị cùm thì vào chỗ kiên giam.
Trong tù, ‘thằng nói chuyện trên trời’ đâm ra “phây phả” nhờ cái tài nhớ dai – đêm đêm hắn kể chuyện Kiếm hiệp Kim Dung, được anh em cung cấp cà phê, thuốc lào, đôi khi được tán đường, khúc sắn… Tôi và ‘thằng kỳ co’ cũng được hưởng “lộc rơi”. Khi có lịnh cho thăm nuôi, ‘thằng hay nói’ lại thêm “khấm khá” nhờ: “Nói những chuyện trên trời và ăn cơm ‘tù’nói chuyện âm phủ” – Hắn xem bói! Không hiểu làm sao mà nó nói đâu trúng đó… Một hôm đang cuốc cỏ sắn trên đồi, hắn chỉ mặt một tên, nói: “Ngày mốt ngươi có thăm nuôi”. Quả nhiên ngày mốt, người tù ấy có vợ ra thăm nuôi. Và nó có chút quà… Cứ thế phát huy – nó nổi tiếng…thân chủ mỗi ngày một đông. Anh tù nào lâu ngày không được thăm nuôi, tìm đến nó hỏi thăm tin tức. Hắn lim dim như đang lên đồng, rồi phán: “Nhà ngươi phải đợi hai…tuần”. Không ngờ trúng phóc… Thế là được thân chủ “hậu tạ”.
Hắn nổi tiếng – lời hắn nói ra như thánh, như thần. Bởi vậy mới có chuyện cười ra nước mắt: Một ông Đại tá, nghe bạn tù kể: “Vài tháng nữa, Mỹ sẽ cho trực thăng đến trại bốc hết tù nhân ra Hạm Đội 7- Đó là lời của hắn!”. Ông bạn tù nhấn mạnh: “Đó là lời của hắn” giống như ông Linh mục, sau mỗi lần trích dẫn một câu trong Thánh kinh: “Đó là lời của Chúa”. Bởi vậy, ông Đại tá viết thư về nhà bảo vợ đem cho ông bộ đồ côm lê (complet), sơ mi, cà vạt để chờ ngày lên trực thăng, không phải tiếp tế đồ ăn nữa. Bà vợ làm y lời ông dặn. Ông ôm bộ côm lê đến hơn bốn tháng, bụng đói meo mà chưa thấy trực thăng đến đón. Bạn tù cười thương hại…Còn ông Đại tá bắt đầu chửi đổng…
Cũng may, ngày 2-9 năm ấy, hắn cùng mười lăm người nữa được thả, trong đó có tôi, nên không nghe lời đàm tiếu sau đó thế nào. Trên chuyến tàu xuôi Nam, tôi hỏi hắn: “Mày học được cái nghề nham độn, bói toán hồi nào mà xem mày nói có vẻ chuyên nghiệp” – “Học mẹ gì, ghiền thuốc lào mà ngửa tay xin coi trơ trẽn, nên tán phét kiếm bi thuốc lào, may sao: nói đâu trúng đó” – “Thì ra thế, tao cứ tưởng mày có thần nhập”. Hắn cười khoái trá…
Trong những ngày đầu về lại Sài Gòn, hai đứa tôi rách như xơ mướp – một vợ hai con chạy gạo mỗi ngày- làm đủ thứ nghề, đầu tắt mặt tối… vợ con vẫn đói. Cùng đường, hắn trở lại nghề thầy bói. Không ngờ Trời cho nó hưởng lộc – nói đâu trúng đó. Thế là, nó lại nổi tiếng – khấm khá mà khỏe tấm thân, bạn bè cũng được hưởng ké lộc Trời…
Một năm sau ‘thằng kỳ co’ được thả – thân tàn ma dại. Ba thằng gặp lại nhau mừng mừng… tủi tủi… Nhưng vẫn không bỏ cái tật châm chích, mặc dù trong lòng thương nhau như ruột thịt. ‘Thằng hay nói’ nhìn ‘thằng kỳ co’, bảo:
– Tao tưởng mày ở lại đất Bắc, lo cơm nước cho vua Hùng Vương và hưởng nhang khói nơi Đền Hùng.
– Chết cái chó nào được – phải sống để xem tụi nó chết chớ mày. ‘Thằng kỳ co’ đáp.
Tôi xen vào để hai đứa khỏi cãi nhau:
– Chuyện trước mắt là lo chăm sóc sức khỏe và nơi ăn chốn ở cho mày.
‘Thằng hay nói’ đề nghị:
– Bây giờ nó ở lại nhà tao – tao lo thuốc thang, vỗ béo cho nó năm, ba tháng. Khi nào “da trắng tóc dài” cho nó ra riêng tìm nơi nương tựa.
Cả ba đứa đồng ý như vậy… Sau ba tháng tá túc nhà ‘thằng hay nói’, ‘thằng kỳ co’ về ở với bà chị bên Phú Nhuận. Hắn thuê chiếc xích lô, chạy rông kiếm sống, cũng đắp đổi qua ngày. Thỉnh thoảng hai thằng tôi mời nó ghé nhà, ăn bữa cơm thân mật với gia đình. Tuy đạm bạc, nhưng cảnh sum họp, đầm ấm làm nó thèm một mái ấm gia đình, nhất là nó thích có một đứa con. Nhiều hôm thấy nó ôm nựng thằng con trai của tôi,
Mắt nó rưng rưng. Tôi hiểu lòng nó…
Từ đó, hai thằng tôi cùng với hai bà vợ, cố mai mối, tìm cho nó một ‘cô vợ’. Chính bản thân nó cũng nỗ lực…Nhưng thời gian lạnh lùng trôi qua, người ta nhìn nó dưới con mắt thương hại, chứ chưa gặp ai tỏ vẻ thương yêu…Có khi còn nghe những lời cay đắng: “nghèo mà ham hay đừng mơ mà thất vọng”. Nó ôm nỗi buồn cô đơn và mối hận đàn bà. Nó tự nhủ: “Cam phận hẩm hiu, chớ nên mơ đến một mái ấm gia đình”.
Thế rồi, một ngày có thông cáo: Các Sĩ quan của Quân lực VNCH đã trải qua trên ba năm trong các trại tập trung cải tạo của Việt cộng được đi định cư ở Hoa kỳ theo chương trình HO. Vậy là: “ Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời/ Hoa tàn mà lại thêm tươi/ Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa. (Kiều- Nguyễn Du).
Lúc này, hắn có nhiều “mối”: người xưa tìm về… bạn mới tìm đến… với những lời yêu thương tha thiết!? Có những cô gái tuổi đời chưa quá hai lăm, xinh như mộng… trước đây có nằm mơ cũng không gặp được. Thế mà giờ đây ngỏ lời: “nâng khăn sửa túi”.
“Trang giấy cuộc đời” ghi thêm sự hoài nghi và trần trụi. Hắn không trách “thế thái nhân tình”, chỉ buồn cho một thế hệ lao lung. Hắn hững hờ với đàn bà – nhuốm chút đắng cay. Hắn cam chịu số phận hẩm hiu, không nghĩ đến chuyện lập gia đình – chỉ chờ ngày ra đi…
Lần lượt, ba đứa lên đường theo chương trình HO, cùng định cư ở Quận Cam, Tiểu bang California – Bây giờ, “cuộc đời đã được sang trang”. ‘Thằng kỳ co’ không còn mang mặc cảm thua thiệt, không còn mang tâm trạng hoài nghi: “lòng người biển lận”. Không còn hờ hững với đàn bà. Hắn bắt gặp tình yêu chân thật – hắn cưới vợ… Xây dựng một mái ấm gia đình như ước mơ.
Những ngày đầu trên vùng đất mới còn bỡ ngỡ trước bao điều lạ lẫm… Nhưng lòng người thời đó sao mà nhân ái và hào sảng: Những người Mỹ bản xứ hết lòng hướng dẫn và giúp đỡ chúng tôi cả về mặt tinh thần lẫn vật chất. Đồng hương đến trước cũng hết lòng đùm bọc, yêu thương giúp chúng tôi sớm ổn định cuộc sống trong một xã hội văn minh. Và chúng tôi bắt đầu thực hiện “Giấc mơ Mỹ” (American Dreams). Bây giờ nhìn lại đoạn đường đã qua, lòng còn xúc động và nhớ ơn…
Như bao nhiêu người Việt được định cư trên miền “Đất hứa” đều được an cư lạc nghiệp, con cái học hành thành đạt, có việc làm tốt… Ba thằng chúng tôi không ngoại lệ. Tình bạn chúng tôi vẫn gắn bó. Từ ngày về hưu, ba thằng thường gặp nhau nói chuyện chăm sóc khu vườn sau nhà: hướng dẫn cách trồng cây thanh long sao cho sai quả, tặng nhau những giống cây ăn trái như bưởi, táo, hồng giòn v…v… Những buổi sáng cuối tuần, rủ nhau ra quán cà phê, nhâm nhi… tán phét chuyện lạ bốn phương, hay chuyện thời sự sốt dẻo. Nhưng bao giờ hai thằng ‘kỳ co’ và ‘nói chuyện trên trời’ cũng có ý kiến trái ngược nhau trong cùng một vấn đề. Nên tôi phải dung hòa ý kiến trước khi ra về.
Thường thì chúng tôi gặp nhau khoảng 9 giờ sáng. Một hôm ‘thằng kỳ co’ phone cho tôi: “Hôm nay mày ra sớm, khoảng 8 giờ, tao có chuyện quan trọng muốn nói riêng với mày, trước khi nó đến” – “Chuyên gì mà có vẻ bí mật thế?” – “Thì ra đó sẽ biết…”. Tôi đồng ý.
Buổi sáng trời trong, nắng sớm vừa lên, gió mát hiu hiu… Tuy còn sớm, nhưng trong quán đã có khách lai rai, hương thơm cà phê lan tỏa làm tôi nhớ đến quán Thu Hương, trên đường Hai Bà Trưng, Tân Định năm nào. Hắn đứng bên hiên chờ tôi. Vừa trông thấy hắn gọi: “Đúng giờ quá hén”. Hắn đưa tôi vào chiếc bàn cuối dãy. Chờ cô bé đến lấy “order” xong, hắn bắt đầu câu chuyện:
– Như mày đã biết, hồi nào đến giờ, tao với nó nói chuyện tào lao, châm chọc nhau thì nhiều, chứ ít khi nói chuyện đàng hoàng, mà đây là chuyện đàng hoàng, nên nhờ mày cố vấn.
– Chuyện gì mà quan trọng thế? Tôi hỏi.
– Cuối tuần rồi thằng con trai về tỉ tê… đòi mẹ cưới vợ cho nó. Con bồ cho biết là mẹ nó khó lắm, lễ nghi phải theo phong tục Việt Nam, nghĩa là có ba lễ: Nói, Hỏi, rồi mới Cưới. Hỏi kỹ ra mới biết là con gái của hắn. Hồi nào đến giờ, tao thấy mấy đứa nhỏ chơi thân với nhau như anh em, đâu ngờ tụi nó lén lút yêu nhau. Vậy cũng tốt, nhưng tao nghĩ đến việc phải “vòng tay” thưa vợ chồng nó ê mặt quá… Nhưng thôi thương con cũng phải đành. Chỉ ngại vợ nó người Huế, khó giàn trời, mày đã biết rồi… Vợ chồng tao người Nam có biết “răng, mô” cho phải phép, nên nhờ mày làm trung gian hỏi ý: “muốn sao tao làm vậy”, cho vui vẻ cả làng…
Vừa xong câu chuyện thì ‘thằng hay nói’ đến. Nó nhìn ‘thằng kỳ co’ nói oang oang:
– Ông Trump được Thượng Viện tha bổng rồi, mày có buồn không?
‘Thằng kỳ co’ “căm” lắm, nhưng ráng nhịn, vì hôm nay nó muốn bàn chuyện quan trọng cho thằng con trai, nên im lặng. Tôi phải lên tiếng:
– Hôm nay, bỏ chuyện chính chị, chính em sang một bên… Cùng bàn một chuyện quan trọng.
– Chuyện gì mà quan trọng dữ vậy? ‘Thằng hay nói’ hỏi.
– Chuyện yêu đương của mấy đứa nhỏ nhà tụi bay. Con trai nó, mê con gái mày, con gái mày cũng yêu con trai nó. Tụi mày tính sao?
‘Thằng hay nói’ cười cười nhìn thằng ‘kỳ co’, bảo:
– Chuyện đó dễ thôi. Đứa nào có con trai thì mang trà, rượu đến nhà gái “vòng tay” thưa gởi đàng hoàng là xong ngay.
Một lần nữa ‘thằng kỳ co’ “căm” với hai chữ “vòng tay”, nhưng nó ráng giữ im lặng để tôi lên tiếng:
– Hổi nào đến giờ tụi mình chơi thân, cứ gọi nhau “mày, tao”. Lẽ ra, qua tuổi bảy mươi, có sui, có gia, con cháu đầy đàn, nên thay đổi cách xưng hô cho con cháu tôn kính tuổi già… Các bà nhiều lần thấy khó chịu khi chúng mình gọi nhau “mày, tao” . Nay tụi mày sắp làm sui gia với nhau, nên sửa cách ăn nói, nghe cho phải phép, chứ cứ “mày mày, tao tao” mãi không tiện. Chẳng lẽ hôm đám hỏi, giữa quan viên hai họ mà nói: “Hôm nay ‘vợ chồng tao’ đến xin ‘vợ chồng mày’ làm đám hỏi cho con…” nghe sao được.
‘Thằng kỳ co’ trả lời:
– Thú thực đổi cách xưng hô: mày mày…tao tao bằng anh anh…tui tui nghe không “mặn” và mất hứng khi nói chuyện. Nhưng thôi, đến lúc đó sẽ tùy cơ ứng biến, tự động sẽ ra lời lịch sự…
– Đừng có chủ quan. Tao kể tụi mày nghe một giai thoại: “Hồi đó có anh thanh niên miền Nam, hiền lành chất phác, mới học ở Liên xô về, Lê Đức Thọ có ý muốn nâng đỡ, cho anh ta điều khiển buổi chào cờ đầu năm ở Phủ Chủ Tịch, coi như ra mắt bá quan văn võ. Tới giờ hành lễ, anh thanh niên ra trước sân cờ, dõng dạc, hô: Đụ… mẹ…Chào cờ! Chào!
Cả đám “quần thần” tá hỏa – ôm bụng cười thầm…
– Đấy, con người thường nói, hay làm theo phản xạ, nên phải tập ngay bây giờ. Tôi nhắc nhở hai đứa.
Chuyện chưa đi đến đâu, thì nạn dịch Corona bùng phát. Nằm nhà “trốn dịch”, đọc Email do hai thằng bạn cố tri gởi đến: chuyện Đông, Tây, kim, cổ; thời sự nóng bỏng – đọc mệt nghỉ! Khổ nỗi, là ‘thằng kỳ co’ gởi các tin tức và các bài bình luận bất lợi cho TT Trump; còn ‘thằng hay nói’ gởi điều ngược lại làm“điên cái đầu”…
Hồi nào đến giờ, cộng đồng người Việt ít khi đồng lòng về một vấn đề chính trị. Đó là điều bình thường trong một xã hội tự do – tranh luận cho vui, rồi thôi, ai về nhà đó, giữ lấy lập trường của mình. Nhưng từ ngày Ông Donald Trump đắc cử TT, trong cộng đồng người Việt chia thành hai phe rõ rệt: Phe “binh” – phe “chống”- choảng nhau kịch liệt đến nỗi: cha giận con, vợ ghét chồng, bạn bè từ nhau. Đó là hiện tượng lạ. Điều gì Ông Trump nói ra , “phe chống” bảo: “nổ”, “láo”. Còn “phe cuồng” bảo: “đó là chiêu độc”. Cứ thế chống nhau, rồi phát sinh một số tiếng nghe lạ tai như:“cuồng Trump”, “Truyền thông thổ tả (TTTT)” . “Fake News”…v…v…
Trong khí thế hừng hực của “phe cuồng”, “phe chống” trong mùa bầu cử, thì hằng ngày tin tức loan báo số người Mỹ chết vì dịch Corona cao nhất thế giới – đến phát khiếp! Rồi cũng giới truyền thông cho biết, đó là con số “phóng đại” vì ai chết trong thời gian này đều cho vào thống kê do Covid -19 gây ra (những người mắc các bệnh khác khoan chết, nhường chỗ mấy người nhiễm Corona đi trước?!). Mấy cha già nằm trong nhà ‘trốn dịch’ chẳng biết trời trăng mây nước, cũng “bình loạn” Mao Tôn Cương: “Phe cuồng Trump” bảo: Các Tiểu bang Dân Chủ thống kê quá mức để hạ uy tín Trump. “Phe chống” bảo rằng: Trump không có kế hoạch chống dịch hữu hiệu – “chống chậm” mà “mở sớm” làm dân Mỹ chết nhiều. Ôi thôi! “Bà Tám” lắm mồm…
Chưa hết! Trong lúc dịch Covid-19 đang hoành hành thì một người Mỹ gốc Phi Châu, George Perry Floyd, bị một cảnh sát da trắng chẹn đầu gối lên cổ đến chết ngạt, ở thành phố Minneapolis. Thế là một làn sóng biểu tình nổi lên khắp nước, lấy cớ chống “kỳ thị chủng tộc”- từ ôn hòa đến bạo động: cướp bóc, đốt phá, thậm chí phá hủy các tượng đài biểu trưng cho ký ức lịch sử lập quốc Hoa Kỳ. Rồi một nhóm người lập khu Tự trị Capitol Hill, ở thành phố Seattle, cảnh sát phải ra khỏi khu Tự trị. Họ tự quản lý khu vực – coi như vô chính phủ. Nhiều người bi quan, than thở: Đất nước Hoa Kỳ tan hoang hết rồi.
Hiện tượng đám tang George Floyd, một tên mang nhiều tiền án bất hảo, nhưng được phe tả “phong thánh”, cho nằm trong hòm vàng, kiệu trên lưng ngựa trắng, tả hữu hai hàng xênh xang lễ bộ; dưới sân, Joe Biden, ứng viên TT- 2020 của Đảng Dân Chủ; bà Nancy Pelosi, Chủ tịch Hạ viện cùng một đám “chính trị gia thời cơ” quỳ gối tiễn đưa làm người ta tởm lợm “cái quỳ kiếm phiếu” vô liêm sỉ. Nhân dân Hoa Kỳ cảm thấy nhục… Người bình thường bảo rằng: Tên này sinh mạng Đế Vương, tử giờ Hoàng đạo. Kẻ thức giả cúi mặt than rằng: Đạo đức suy đồi, lương tri băng hoại… Còn những người ủng hộ Đảng Dân chủ bảo rằng: Đó là hành động thức thời của những chính trị gia chuyên nghiệp(?!)
Than ôi! “Phước bất trùng lai, hoạ vô đơn chí” đã đến với một siêu cường, một đất nước có quá khứ lẫy lừng và hào phóng. Hình ảnh những anh cao bồi (cowboy) hào hiệp, cỡi ngựa như bay, bắn súng như để, đi tìm vàng miền Viễn Tây – gây bao cảm hứng và ước mơ … Giờ đây, nhân dân trong nước hoang mang, người ngoài xúc xiểm. Anh Thủ Tướng “Ma dê- Cờ, Lờ, Vờ”, từ bên kia bờ Thái Bình Dương cũng hùa theo ví von mấy lời tự phụ: “Nếu cột đèn ở Mỹ biết đi sẽ về Việt Nam”. Khổ nỗi con cháu của “các ảnh” sang Mỹ du học, tốt nghiệp rồi mà không muốn về. Thế mới thấy sự đời lắm nỗi oái oăm…
Hai thằng bạn già cố tri của tôi cũng bị “cuốn vào vòng xoáy”: “thằng cuồng”, “thằng chống” ông thần Trump. Thôi thì đành vậy – biết nói làm sao – chờ qua “cơn bão bầu cử” ngày 3-11 tới đây, rồi đâu sẽ vào đó. Nhưng thình lình ‘thằng kỳ co’ gởi Mail : “ Tao không thèm chơi với nó nữa”. Tôi nghĩ chắc có chuyện xích mích giữa hai gia đình chúng nó.Thế thì sẽ ảnh hưởng đến việc hôn nhân cho hai đứa nhỏ – tôi lo…Nhưng khi tìm hiểu mới biết: “Ông thần Trump gây nên cớ sự”.. Tôi giận lắm, định mắng chúng nó một trận, nhưng lỡ vướng vào một trong bốn cái ngu là “làm mai” (ở đời có bốn cái ngu: làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu) nên dằn lòng, lựa lời phân giải. Thay vì nặng lời, tôi tìm chữ nhẹ nhàng: “tụi mày lú cả rồi…” hay “tụi mày cứ vớ vẩn”.
Ngẫm sự đời mà ngán ngẩm! Tuy vậy tôi cũng cố gắng viết gởi cho hai đứa bạn một Email: “Tao vui khi thấy hai đứa quan tâm đến thời cuộc. Nhớ rằng trong tiến trình lịch sử nhân loại: nhà có trước, nước có sau. Khi có nước mà không giữ được thì nhà sẽ tan. Cho nên chuyện Nước Nhà hai vai đều nặng. Tuy quê hương Việt Nam vẫn canh cánh bên lòng, nhưng khi đặt chân lên đất nước này, và tuyên thệ làm công dân Hoa Kỳ thì chúng ta có bổn phận bảo vệ và góp phần tạo dựng phồn vinh cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Dù người trí tuệ, tài ba hay kẻ bần cùng khốn khổ, bị lưu vong hay tù đày – kẻ trước, người sau tìm đến vùng “Đất Hứa” không phân biệt sắc dân, màu da, hay chủng tộc. Tất cả đến đây để mưu cầu: Sự sống, Tự do và Hạnh Phúc – thực hiện “giấc mơ Mỹ” (American Dreams) . Vùng “Đất Hứa” không của riêng ai – Nó không thuộc về người “da trắng thượng đẳng”, cũng không thuộc về “người da đen đáng sống”. Những xảo ngôn “phân biệt chủng tộc”, các phong trào Ku Klux Klan (KKK) hay Black Lives Matter (BLM) chỉ là âm mưu chiếm đoạt thô bạo. Rồi nó sẽ suy tàn nhường chỗ cho “đời sống trí tuệ và lương tri”.
Những bạo loạn chúng ta chứng kiến trong thời gian gần đây, không phải lần đầu tiên xảy ra trên nước Mỹ. Trước đây có nhiều cuộc bạo động rộng lớn hơn. Nhưng tất cả các khuynh hướng đấu tranh đã “đồng qui” để Trí tuệ và Lương tri tìm ra định hướng mới. Rồi từ điểm đồng qui phát khởi những cải cách sâu rộng làm cho xã hội tốt đẹp hơn, kinh tế phát triển hơn, làm hưng phấn trí tuệ để không ngừng có những phát minh khoa học và kỹ thuật. Đó là cái kỳ diệu của nền Tự do, Dân chủ Hoa kỳ – làm cho nước Mỹ luôn trẻ trung và tân tiến.
Hiện tại, người ta tranh luận đúng, sai; người khen, kẻ chê ông Trump. Quan tâm điều đó là hữu ích. Nhưng chớ thấy những xáo trộn đang xảy ra mà nản lòng bảo rằng: Nước Mỹ đang đi dần đến chỗ suy tàn. Nghĩ thế là chúng ta chưa thấy hết cái tối ưu cốt lõi của nền Tự do, Dân chủ và chưa cảm nhận được cái huyền diệu mà Tạo Hóa đã dành cho miền “Đất Hứa”.
Chỉ vì bất đồng một vài quan điểm về các hiện tượng chính trị đương thời mà hờn giận rồi từ bỏ nhau… Một mai nghĩ lại, chúng ta sẽ thấy: đó là điều đáng tiếc. Giả dụ: tháng 11 này Ông Trump thắng cử – sẽ có đứa vui, thằng buồn… Nhưng buồn, vui nhiều nhất cũng chỉ kéo dài 4 năm. “Có nên đem 4 năm vui buồn thế sự để đánh đổi hơn 50 năm tình bạn chúng ta đã sống chết có nhau?”
Hai ngày sau, tôi được thằng ‘kỳ co’ hồi đáp: “Mày biết tại sao tao hăm không thèm chơi với nó nữa không? – Vì trong lúc tao nêu lên các khuyết điểm của Ông Trump, nó mắng tao: ‘Nói như Việt cộng’. Mày có biết: Ở trong nước bây giờ mắng nhau: đồ chó … đồ heo… đồ đĩ ngựa… không làm người ta ‘tức ứa gan’ bằng mắng: ‘cái đồ Việt cộng’- ‘Việt cộng’ trở thành tiếng “xỉ nhục” rất thời thượng.
(2) Những người tù không có thân nhân thăm nuôi.
(3) Ma dê = made, Cờ = Campochia, Lờ = Lào, Vờ = Việt Nam – Chữ của TT Ng Xuân Phúc phát biểu trong một buổi lễ…
LÊ ĐỨC LUẬN
(Tháng 7-2020)