Suy thoái mô hình Trung Quốc, hàm ý cho Việt Nam.

Cac Bai Khac

No sub-categories

Suy thoái mô hình Trung Quốc, hàm ý cho Việt Nam.

Bài bình luận của ông Phạm Quý Thọ – PGS,TS nguyên Trưởng Khoa Chính sách Công, Học Viện Chính sách & Phát triển, Bộ Kế hoạch- Đầu tư, Việt Nam
2023.10.09

Suy thoái mô hình  Trung Quốc, hàm ý cho Việt Nam

Cảng Tân Vũ ở Hải Phòng (minh họa)

Mô hình Trung Quốc đang suy thoái. Hơn cả sự “lo lắng” về những tác động tiêu cực từ tình hình kinh tế Trung Quốc đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, thế giới còn dự đoán bi quan về triển vọng phục hồi trong dài hạn bởi sự khủng hoảng mang tính cấu trúc của nền kinh tế và thể chế chính trị. Thời hoàng kim của mô hình Trung Quốc kết thúc đặt ra nhiều vấn đề cho cải cách ở Việt Nam – quốc gia có chế độ chính trị tương đồng.

Ở Trung Quốc người ta gọi mô hình này là Cải cách khai phóng (tiếng Trung giản thể: 改革开放) hay còn gọi là chính sách “cải cách và mở cửa” dưới thời Đặng Tiểu Bình từ 1978, và ở Việt Nam gọi là Đổi mới tại Đại hội 6 Đảng Cộng sản năm 1986. Mô hình phát triển này được giải thích đây là “con đường thứ ba”, nằm giữa chủ nghĩa tư bản (CNTB) và chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Từ điểm xuất phát kinh tế thấp, trước sai lầm chính sách dưới thời Mao nguy cơ sụp đổ chế độ toàn trị kiểu Xô-Viết với “mô hình Trung Quốc” những thành tích kinh tế “thần kỳ” đã được tạo ra trong thời kỳ dài. Năm 1978 tổng sản phẩm quốc nội GDP của Trung Quốc chỉ bằng 1% GDP của Mỹ, thì năm 2022 đã là 75% (khoảng 18.000 so với 24.000 tỷ đô la.) Theo số liệu chính thức của Ngân hàng Thế giới (WB), tỷ lệ người cực kỳ nghèo ở Trung Quốc năm 1981 ở mức 88,3%. Đến năm 2015 chỉ có 0,7% dân số Trung Quốc sống trong nghèo đói cùng cực. Trong giai đoạn này, số người nghèo đã giảm từ 878 triệu xuống dưới mười triệu… Việc duy trì tốc độ tăng với hai con số trong hơn một phần ba thế kỷ tính từ cuối những năm 1970, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này đã đóng góp vào 1/3 tăng trưởng kinh tế toàn cầu, là công xưởng toàn cầu cho nhiều quốc gia kể cả các nước tư bản phát triển phương Tây, Mỹ, cơ sở hạ tầng giao thông như đường sắt cao tốc “đẳng cấp”, kiểm soát xã hội và công dân…

Tuy nhiên “bước ngoặt” đã diễn ra từ khi Tập Cận Bình nắm quyền tối cao Đảng và nhà nước tại Đại hội 18 ĐCS TQ năm 2012. Sự phát triển theo “con đường thứ ba” gặp thách thức ngày càng lớn, dấu hiệu suy thoái rõ rệt và bất ổn. Trước hết, về kinh tế, giảm tốc tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP mang tính xu hướng, năm 2020 là 2,24%, năm 2021 là 8,11%* (cao so với cơ sở gốc thấp), năm 2022 = 3%, Quý 1 năm 2023 là 4,5%, và dự đoán cả năm có thể không thể đạt 5%… Đây là hệ quả của khủng hoảng mang tính cấu trúc: bất động sản, nợ công, giảm phát, tỷ lệ thất nghiệp cao… nghiêm trọng hơn cùng với chính sách an ninh kinh tế, trấn áp tư bản và ép buộc các nhà đầu tư.. Tiếp đến, về chính trị, tham nhũng nặng nề đồng hành với bất ổn ở “cung đình” khi hai vị trị quyền lực trọng yếu trong guồng máy cai trị bị điều tra vì suy thoái đạo đức (cựu bộ trưởng ngoại giao) và vì tham nhũng (nguyên bộ trưởng quốc phòng)…

Ở Việt Nam, tình hình về đại cục, dấy lên lo ngại có diễn biến tương tự. Đầu tháng 10/2023, tại Hà Nội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 8 khoá 13 (HNTW 8). Nội dung được quan tâm đặc biệt là tình hình kinh tế – xã hội hiện nay, trong đó Đảng thừa nhận “tình hình” là khó khăn, phức tạp. Những tin “không vui” liên tục được báo cáo như số lao động việc làm sụt giảm riêng trong quý 3 năm 2023 có “hơn 118.000 lao động bị mất việc”; Cầu tiêu thụ hàng hoá “yếu”, đặc biệt “chung cư, nhà ở riêng lẻ giao dịch thành công chỉ bằng 43% cùng kỳ năm 2022”; “Thu ngân sách nhà nước giảm 8,3% so với cùng kỳ năm 2022”… Tổng sản phẩm quốc nội GDP 9 tháng năm 2023 chỉ tăng 4,24% so với cùng kỳ năm trước cho thấy tăng trưởng kinh tế không thể đạt mục tiêu “pháp lệnh” từ 6 đến 6,5%… trong bối cảnh các trục đỡ như đầu tư công ì ạch, bất động sản dự báo khủng hoảng kéo dài…

Có những đánh giá về triển vọng của mô hình này được đưa ra từ các góc nhìn khác nhau, bi quan là nó sẽ sụp đổ cả về kinh tế và chính trị, lạc quan hơn là chế độ chính trị vẫn duy trì nhưng kinh tế có thể suy trầm hoặc không tăng trưởng kéo dài. Đối với Việt Nam nếu mô hình tồn tại, thì cần thay đổi nó theo cách nào đó. Bởi vậy, giải pháp chính sách trước sự tác động không tránh khỏi từ suy thoái đòi hỏi thay đổi “đột phá” về nguyên nhân thực sự của sự thành công hay thất bại của mô hình Trung Quốc. Như đã biết, nó ra đời từ sáng kiến của những nông dân đòi quyền sở hữu tư nhân chống lại học thuyết CNXH về tập thể hoá trong nông nghiệp. Sáng kiến này đã lan rộng sang các lĩnh vực khác như công nghiệp và thương nghiệp, làm sụp đổ kế hoạch hoá tập trung và phân phối bao cấp… Nghĩa là, nhu cầu về quyền tự do sản xuất kinh doanh nhiều hơn đồng thời với giảm thiểu sự kiểm soát, can thiệp của chính quyền đã mang lại những thay đổi kỳ diệu. Động lực của Đổi mới được khởi xướng “từ trên cao” chỉ là một phần của bức tranh. Nhiều “phong trào” tự phát thể hiện chiến thắng của các lực lượng thị trường trước chính sách của chính phủ và cải cách thể chế quan trọng đã được thúc đẩy “từ dưới lên.”  Sức mạnh của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ trong thực tế cải cách thay vì sự lãnh đạo “sáng suốt” của đảng và nhà nước như tuyên truyền.

Vận hành “con đường thứ ba” nền kinh tế Trung Quốc (với quy rất mô lớn) và Việt Nam (với quy mô nhỏ hơn nhiều) đã trở thành tư bản chủ nghĩa, bị lu mờ bởi “định hướng xã hội chủ nghĩa”, với nhà nước “thân hữu” trong “vỏ bọc” nghịch lý tham nhũng tràn lan đồng thời duy trì tăng trưởng. Trong một thời gian dài “tầm gửi” vào tăng trưởng kinh tế các quan tham đã làm giàu bằng quyền lực, họ “thực hành” một phương thức bóc lột tinh vi, mang tính hệ thống và trắng trợn. Cùng với các hình thức tham nhũng khác  kiểu tham nhũng này đang huỷ hoại chế độ Đảng CS toàn trị như căn bệnh ung thư di căn!

Mô hình Trung Quốc ảnh hưởng bao trùm và sâu sắc đối với sự phát triển kinh tế và xã hội ở Việt Nam. Liệu Việt Nam sẽ “chỉnh sửa” để tiếp tục theo nó thế nào vẫn còn phải chờ xem. Xu hướng xích gần phương Tây hơn và, đặc biệt động thái nâng vượt cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện, sẽ có tác động đến kinh tế và cải cách ở Việt Nam thế nào còn cần theo dõi. Theo các nguồn tin, sắp tới ông Tổng bí thư Tập Cận Bình sẽ công du Việt Nam. Là “bậc thầy” của chủ nghĩa thực dụng, liệu giới lãnh đạo Trung Quốc có thể sẽ cùng Việt Nam có tuyên bố chung về một “cộng đồng có chung vận mệnh”? “Đu dây” giữa hai cường quốc kinh tế khác biệt về ý thức hệ đang cạnh tranh chiến lược, Việt Nam liệu có thể xác định “con đường thứ ba” của riêng mình?

*  Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.

RFAViet