“Những Mảnh Đời Sau Song Sắt” của Phạm Thanh Nghiên: Hồi Ký của một Nữ Tù Nhân Lương Tâm

Cac Bai Khac

No sub-categories

“Những Mảnh Đời Sau Song Sắt” của Phạm Thanh Nghiên: Hồi Ký của một Nữ Tù Nhân Lương Tâm
Đào Trường Phúc (Danlambao) – “Những Mảnh Đời Sau Song Sắt” – nhan đề mà Tủ Sách Tiếng Quê Hương chọn cho tác phẩm của Phạm Thanh Nghiên – có thể được hiểu là “cuốn hồi ký đầu tiên viết bởi một nữ tù nhân lương tâm về kinh nghiệm lao tù dưới chế độ cộng sản tại Việt Nam”.
Nói như thế phải chăng là phản lại bản chất của tác giả qua những lời tự thuật vốn rất nhẹ nhàng khiêm tốn của cô trong suốt tác phẩm?
Nhưng, với cương vị nhà xuất bản, chúng tôi không thể làm khác để nhấn mạnh một vài điểm liên quan đến nội dung cuốn sách:
Thứ nhất, chế độ cộng sản Việt Nam không bao giờ thừa nhận trước dư luận về sự hiện hữu của “tù nhân lương tâm” hoặc “tù chính trị”. Tất cả những người lên tiếng phản đối các chính sách hay hành vi bất nhân, bạo ngược, man trá của chế độ đều bị gọi là “tù hình sự”, bởi vì họ đã bị áp đặt các bản án hình sự (chiếu theo vài điều luật quái gở nhằm hình sự hóa mọi hoạt động đối kháng) và bị tống vào trại giam để ở tù chung với những tội phạm hình sự như giết người, buôn bán ma túy v.v…
Thứ hai, riêng về trường hợp Phạm Thanh Nghiên, cô bị bắt ngày 18-9-2008 trong lúc đang tọa kháng tại nhà của mình với biểu ngữ “Trường Sa – Hoàng Sa là của Việt Nam” và “Phản đối công hàm bán nước ngày 14/9/1958 của Phạm Văn Đồng”. Trước đó một tuần, cô đã bị cơ quan an ninh điều tra “triệu tập” đi “làm việc” liên tục mỗi ngày để hạch hỏi, đe dọa về các hoạt động đối kháng. Trước đó nữa, cô bị giam lỏng bởi một hàng rào công an ngày đêm đóng chốt quanh nhà, khiến cô không thể đi từ Hải Phòng về Hà Nội để dự cuộc biểu tình chống Trung Cộng ngày 14-9-2008, chính vì vậy mà cô quyết định phổ biến trên mạng “Lời Tuyên Bố Tọa Kháng” và thực hiện việc tọa kháng. Cô bị “tạm giam để điều tra” suốt 18 tháng trời, rồi ra tòa ngày 29-1-2010 để lãnh bản án hình sự 4 năm tù giam, 3 năm quản chế. Phiên tòa không đề cập chút gì đến hành động tọa kháng, mà lại buộc tội Phạm Thanh Nghiên về một bài viết của cô hồi tháng 3-2008. Đó là bài “Uất ức biển ta ơi”, một phóng sự về hoàn cảnh các thân nhân của 8 ngư dân ở Thanh Hóa đang đánh cá trong lãnh hải Việt Nam thì bị hải quân Trung Cộng bắn chết vào ngày 8-1-2005. Vì trước sau đảng và nhà nước CSVN vẫn giấu nhẹm vụ tàn sát thảm khốc này, do đó họ đã dàn dựng phiên tòa với hai nhân chứng bị công an cưỡng bức phản cung, nhằm áp đặt tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” cho người cầm bút dám vạch trần sự thật qua bài phóng sự.
Thứ ba, các sự kiện nêu trên cho thấy Phạm Thanh Nghiên chính là một tù nhân lương tâm tiêu biểu, nhưng bị giam giữ chung với những người tù hình sự, ngay từ giai đoạn tạm giam trong trại Trần Phú ở Hải Phòng cho đến khi cô bị chuyển đến trại tù số 5 của Bộ Công an ở Thanh Hóa.
Xin mở dấu ngoặc để nói thêm về ý niệm “tù nhân lương tâm”.
Ngày 28 tháng 5 năm 1961 được ghi nhận là lần đầu tiên ba chữ “prisoner of conscience” xuất hiện trong một bài viết của người sáng lập tổ chức Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International), cố luật sư Peter Benenson, với tựa đề “Những Tù Nhân Bị Bỏ Quên” (The Forgotten Prisoners) đăng trên tuần báo Người Quan Sát (The Observer) tại Anh Quốc, nhân dịp phát động một chiến dịch đòi ân xá cho những tù nhân lương tâm – mà Ân Xá Quốc Tế định nghĩa là: “Bất cứ người nào bị giam cầm thân xác (trong nhà tù hoặc ở một nơi khác) chỉ vì đã bày tỏ (bằng chữ nghĩa hoặc biểu tượng) một quan điểm mà người đó thành thật tin tưởng và quan điểm đó không cổ xúy hoặc tán trợ bạo lực”.
Chẳng những cuốn hồi ký của Phạm Thanh Nghiên đưa ra ánh sáng các thủ đoạn quỷ quyệt của bộ máy cầm quyền cộng sản (từ lực lượng công an đến hệ thống tòa án) nhằm tròng bản án “tù hình sự” lên đầu những người tranh đấu bất bạo động, mà cuốn hồi ký còn cho thấy rằng, những lời tuyên bố theo kiểu “ở Việt Nam không có tù nhân lương tâm hay tù chính trị” chỉ là trò dối trá để gạt gẫm dư luận mà thôi, còn trên thực tế thì các trại tù đều nhận chỉ thị thi hành triệt để chính sách “cô lập hóa” các tù nhân chính trị bằng cách dụ dỗ hoặc đe dọa những người tù hình sự ở chung với họ.
Thực tế này nói lên rằng bất cứ tình huống nguy hiểm nào cũng có thể xảy ra khi nhà cầm quyền cần mượn tay tù hình sự để trả thù và trù dập các tù nhân lương tâm đối kháng chế độ. Thế nhưng, cũng qua những trang hồi ký của Phạm Thanh Nghiên, người đọc lại nhận ra một điều thú vị khác. Đó là, “chính sách cô lập hóa”, kể cả bằng thủ đoạn chiêu dụ và bằng bạo lực, vẫn không thể ngăn được các tù nhân hình sự và tù nhân chính trị tìm đến với nhau trong sự chia xẻ tình người đồng cảnh ngộ, nghĩa là giữa những người cùng chung thân phận tù đày và cùng hứng chịu vô vàn oan ức, đắng cay, dưới một guồng máy cai trị bất công, thối nát, tàn bạo, phi nhân tính.
Những cảm xúc tích tụ qua kinh nghiệm bản thân cộng với bao nhiêu điều mắt thấy tai nghe đã trở thành động lực để Phạm Thanh Nghiên viết về “những mảnh đời sau song sắt”, và viết với tất cả sự thành thật để nói lên tiếng nói đúng nghĩa của một tù nhân lương tâm:
“Con người luôn có xu hướng “nói tốt về mình” và cảm thấy dễ dàng khi kể về những thành công hơn là những điều thất bại. Người ta hay lảng tránh hoặc giấu kín những sai lầm của bản thân, nhất lại là những sai lầm “ngoài mình không ai biết”. Nhưng, thành thật với chính mình phải được xem là điều kiện bắt buộc để trở thành một con người chính trực. Để thấy rằng, mục đích chính không phải trở thành người hùng mà là cách ta đối mặt và vượt qua những khoảnh khắc sợ hãi, mềm yếu của mình trước những thử thách đầy cam go, khốc liệt.
“Tôi không định cất giữ những “bí mật” của riêng mình trong thời gian bị cầm tù mặc dù tôi hoàn toàn có thể và có quyền làm như thế. Nhưng, tôi sẽ kể cho bạn một cách trung thực nhất không chỉ những câu chuyện của chiến thắng, của khí phách và lòng quả cảm mà cả những câu chuyện về thất bại, về phút giây hèn yếu của tôi, một tù nhân lương tâm dưới thời cộng sản. Đơn giản vì sự thật cần phải được biết tới và tôn trọng. Nếu bạn (không may) trở thành một tù nhân lương tâm như tôi thì hy vọng, những trải nghiệm này sẽ giúp bạn có thêm một vài kinh nghiệm. Nhất định bạn sẽ chiến thắng, một chiến thắng trọn vẹn vì bạn giỏi hơn tôi, dũng cảm và thông minh hơn tôi nhiều…”
“…Nhắc đến hai chữ “nhà tù”, người ta liên tưởng ngay đến sự trừng phạt và khốn cùng. Cuốn sách nhỏ này, không có tham vọng làm thỏa mãn mọi hình dung hay đáp ứng những tìm hiểu cần thiết của quý độc giả về nhà tù cộng sản. Song, hy vọng rằng người đọc sẽ nhìn thấy một góc nho nhỏ trong nhà tù với những câu chuyện còn chưa kể hết trong khoảng thời gian bốn năm tù của tôi. Tất nhiên, tùy thuộc vào từng vùng miền cụ thể, hay mỗi giai đoạn lịch sử, câu chuyện tù của mỗi người mỗi khác. Cho dù như thế, cũng cần thẳng thắn thừa nhận với nhau rằng nhà tù cộng sản là hiện hữu của mọi khổ đau cùng cực, mọi nỗi uất hận nghẹn ngào. Là đau thương, rệu rã, mệt mỏi, tăm tối và cả chết chóc. Là sự tàn bạo và bất lực, là nhẫn tâm, thù oán, là trông đợi, tuyệt vọng, là nỗi chết. Và là “địa ngục”. Địa ngục của những con người vẫn còn đang hít thở, đi lại và cười khóc”.
Cuốn hồi ký của Phạm Thanh Nghiên chứa đựng những ghi nhận và cảm nghĩ khác hẳn với các tác phẩm thuộc thể loại “hồi ký tù” mà chúng ta từng đọc, không phải chỉ do văn phong độc đáo của cô, mà chính vì cô là một tù nhân lương tâm, là một phụ nữ dấn thân tranh đấu cho quyền làm người giữa một xã hội mà mọi giá trị nhân bản đều đảo lộn, là một người cầm bút dấn thân tranh đấu kêu gọi lòng yêu nước trong khi những kẻ cai trị đất nước luôn luôn sẵn sàng bán nước để bảo vệ quyền lợi và quyền lực cá nhân.
Khi bị ném vào chốn “địa ngục trần gian” để chia xẻ thân phận khốn cùng của các tù nhân hình sự, ý thức của một tù nhân lương tâm đã giúp Phạm Thanh Nghiên bắc được nhịp cầu cảm thông với nhiều bạn tù đến từ những góc đời tối tăm nhất của một xã hội băng hoại. Và ý thức ấy đã mang lại cho chúng ta những đoạn hồi ký đáng suy ngẫm:
“Người tù xa lánh tôi không phải vì ghét, mà vì sợ bị liên lụy. Song vẫn có những mối quan hệ, giao tiếp rất khéo léo, đủ để không bị phạt hay vào tầm ngắm của cai tù.
“…Mấy hôm trước cả Phân trại đã xôn xao vụ chị Chanh ở đội 29 bị cai tù gọi lên rằn mặt, đe dọa vì “tội” dám bán cho tôi chiếc hòm đựng đồ dùng cá nhân. Kết quả là sáng hôm qua, chị Chanh bị bêu mặt giữa sân chung, trước sự chứng kiến của hơn một ngàn người tù và tất cả các cai tù của Phân trại. Tuy chưa đến mức phải vào “nhà chó”, nhưng chị Chanh bị chuyển đội, và mất giảm án năm ấy sau khi bị đấu tố. Không khí sợ hãi bao trùm cả Phân trại. Người ta bảo nhau phải dè chừng và tránh xa “con phản động” nếu không muốn gặp tai họa.
“…Không riêng gì Mai, nhiều người tù khác cũng từng phải đi “uống cà phê” để nghe cai tù đe nẹt, cấm đoán về tội chơi (hoặc ngồi chơi) với tôi. Có người phải làm cam kết từ nay xin chừa không bén mảng đến “con phản động” nữa. Sau mỗi chầu cà phê như thế, chị nào cũng nhận được lời mặc cả “đừng nói lại với cái Nghiên”. Nhưng chả mấy cái miệng tù giữ được lời hứa. Không nói ngay thì cũng nói eo, không nói trực tiếp thì cũng nhờ đứa tù khác mách lại. Lúc mới lên trại, tôi cũng hơi buồn. Tính tôi hay chạnh lòng, tủi thân. Sau quen dần, kệ.
“Những người dám công khai gần gũi với tôi thường là thành phần cứng đầu, không còn gì để mất. Tức là họ không được giảm án hoặc sắp mãn hạn tù. Không được giảm án vì vi phạm nội quy trại giam. Có nhiều kiểu vi phạm: buôn bán, tiêu tiền mặt, đánh cãi chửi nhau, làm không đủ mức khoán, thiếu lễ tiết với cán bộ (không chào chẳng hạn), giúp đỡ bạn tù không xin phép v.v…
“Người bị Aids, bệnh nặng hay những người sắp chết cũng thích chơi với tôi. Thời gian là thứ không thể sờ mó được. Nhưng người tù sắp chết, hình như họ chạm được bằng tay và thấy được bằng mắt những ngày tháng đời người đang ngắn lại trong khoảng thời gian lao tù dài đằng đẵng. Nhìn thấy, và sờ thấy màu tím tái, cái khô rát trên môi miệng. Trên thân người trơ trụi với da bọc xương. Trong bước đi chậm dần, chậm dần và những cơn đau hành hạ mỗi ngày. Việc cai tù lấy giảm án ra để uy hiếp hay mặc cả với những người không còn gì để mất, thành thừa…”
oOo
Năm 2010, sau 18 tháng “tạm giam để điều tra” (trong đó có 4 tháng bị biệt giam), cộng thêm hơn 2 tháng chờ đợi sau khi đã ra tòa để lãnh án 4 năm tù, 3 năm quản chế, Phạm Thanh Nghiên bị chuyển đến Trại số 5 Thanh Hóa để tiếp tục ở tù cho đến ngày mãn án. Cũng như những tù nhân khác, cô bị cắt lìa với đời sống bên ngoài, và tất nhiên mọi tin tức đều bị bưng bít bởi hai lớp màn sắt chồng lên nhau – nhà tù nhỏ nơi cô đang bị giam giữ và nhà tù lớn là đất nước của cô. Khi bất ngờ nghe được một tin “bên ngoài” qua một người bạn tù mới nhập trại, nhưng lại là tin chẳng lành về hai người bạn tranh đấu vừa bị bắt, cô viết:
“Một trong những điều đáng sợ nhất là nhận được tin anh em của mình bị bắt. Trong suốt thời gian bốn năm ở tù, tôi nhẩm tính có hàng chục người bị bắt vì đấu tranh cho Nhân quyền, Dân chủ và Tự do tôn giáo. Không ít người trong số đó là người tôi thân quen hoặc từng may mắn được gặp mặt. Tổng cộng số năm tù cho những người đấu tranh ôn hòa này lên tới hàng trăm năm (…) Tôi không khỏi lo lắng và nghĩ tới những ngày tồi tệ của phong trào tranh đấu bên ngoài. Đếm trên đầu ngón tay, chỉ còn lại dăm ba người là… chưa bị bắt hoặc mới về hết án nhưng còn bị giam lỏng tại nhà
“Sự kiện bác sĩ Phạm Hồng Sơn và luật sư Lê Quốc Quân bị bắt sau hàng loạt những vụ bắt bớ khác ít nhiều khiến tôi xuống tinh thần. Chị Hương, một người bạn tù khác buồng nói với tôi: “Phải nghĩ tích cực lên chứ. Em chả bảo chị là nhiều người trong số những người bị bắt, em còn chưa từng nghe đến tên của họ là gì. Chứng tỏ đang có thêm nhiều người cùng đấu tranh như em. Thế thì cần mừng chứ sao lại ủ rũ vậy”.
Quả không sai chút nào: ngay từ lúc Phạm Thanh Nghiên đang ở tù và liên tục cho đến ngày hôm nay, lời khích lệ của người bạn tù đã được chứng minh bằng thực tế. Suốt 10 năm trở lại đây, con số những người dấn thân vào cuộc đấu tranh cho Tự do Dân chủ Nhân quyền tại Việt Nam quả thật chỉ ngày càng tăng lên chứ không hề có dấu hiệu giảm đi. Những tiến bộ không ngừng của kỹ thuật tin học, nhất là sự lan tỏa vượt bực của mạng xã hội (Facebook) từ 2011-2012, đã tạo điều kiện để phong trào đấu tranh dân chủ thực hiện được những liên lạc và nối kết rộng rãi đến mức nhà cầm quyền cộng sản không còn ngăn chận nổi; đồng thời mở đường cho việc phổ biến những tin tức vừa xác thực vừa mau lẹ từ trong nước ra hải ngoại và ngược lại, khiến cho hệ thống kiểm duyệt tin tức của chế độ lâm vào tình trạng bất lực, và cả một cơ chế truyền thông “lề đảng” cũng lung lay và buộc phải tìm phương cách mới để thích ứng.
Đã thất bại trong việc bưng bít tin tức để che dấu sự thật, lại phải lúng túng đối phó với đủ mọi vấn đề từ nội bộ (đấu đá quyền lực, cạn kiệt ngân sách…) cho đến đối ngoại (áp lực nặng nề của Trung Cộng trên Biển Đông, rắc rối ngoại giao với Đức và Liên Hiệp Âu Châu), đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam bèn trở lại thủ đoạn dùng bạo lực để trấn áp dư luận. Mấy năm liên tiếp, gần đây nhất là từ tháng 6 đến tháng 8-2017, đã diễn ra hàng loạt các vụ hành hung, khủng bố, bắt bớ và xử án tù, nhắm vào giới đấu tranh ôn hòa và các cựu tù nhân lương tâm, đến độ các tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền phải lên tiếng báo động, như Human Rights Watch qua bản phúc trình 65 trang “No Country for Human Rights Activists: Assaults on Bloggers and Democracy Campaigners in Vietnam” và thông cáo báo chí “Vietnam: End Attacks on Activists and Bloggers”, cũng như Amnesty International qua bản phúc trình “Detained for Defending Human Rights”, báo động về các vi phạm mới nhất và nhắc lại trường hợp cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Đài bị bắt trở lại từ ngày 16-12-2015 cho đến nay chưa biết số phận ra sao.
Dư luận thế giới kinh hãi trước hình ảnh những người tay không vũ khí –kể cả phụ nữ – bị đàn áp bằng bạo lực, nhưng đó là phản ứng đương nhiên của tập đoàn lãnh đạo cộng sản mỗi khi cảm thấy bị đe dọa bởi bất kỳ tiếng nói nào khác biệt với lý luận một chiều của chế độ. Những người dấn thân vào cuộc đấu tranh dân chủ hiểu rất rõ điều đó, và họ giúp nhau trang bị tinh thần để đối đầu với tình huống xấu nhất, như Phạm Thanh Nghiên đã viết trong một đoạn hồi ký:
“Tôi xin tặng câu chuyện này cho bạn, những Tù Nhân Lương Tâm “dự bị” dưới chế độ cộng sản, để thấy được những khoảnh khắc của một người tù. Tôi luôn hy vọng, trong tương lai gần sẽ không còn nhiều người Việt Nam phải trải nghiệm cuộc đời mình trong chốn ngục tù đầy đau thương và mất mát như một cái giá để trả cho Khát vọng Tự do”.
Nhờ mạng lưới thông tin toàn cầu giúp phá vỡ bức tường bưng bít sự thật, dư luận thế giới hiện nay có thể biết tường tận rằng cái giá mà các tù nhân lương tâm tại Việt Nam phải trả cho sự lựa chọn con đường đấu tranh không chỉ dừng lại ở những năm tháng tù đày mà còn tiếp tục đeo đuổi cuộc sống hàng ngày của họ. Khi Phạm Thanh Nghiên được Human Rights Watch chọn vào danh sách nhận Giải thưởng nhân quyền Hellman/Hemmett (tháng 10-2009), cô đang ở trong trại tạm giam, chờ ngày ra tòa lãnh án 4 năm tù. Bảy năm sau đó, cô đã mãn án tù và – trên nguyên tắc – đã hết hạn 3 năm quản chế, thế nhưng cô và thân nhân của cô vẫn bị theo dõi, bị sách nhiễu, thậm chí bị hành hung một cách dã man.
Ngày 30-3-2017, Front Line Defenders (www.frontlinedefenders.org), một tổ chức nhân quyền quốc tế có trụ sở tại Dublin (Ái Nhĩ Lan) chọn Phạm Thanh Nghiên vào vòng chung kết cho giải thưởng “Những Người Bảo Vệ Nhân Quyền Bị Đàn Áp Năm 2017” cùng với 4 người ở các châu lục khác nhau.
Theo thông cáo báo chí của tổ chức này, “Front Line Defenders Award for Human Rights Defenders at Risk là giải thưởng hàng năm, khởi đầu từ năm 2005, nhằm công nhận thành tích của các nhà hoạt động bênh vực quyền con người, bất chấp rủi ro và thường xuyên bị đe dọa đến mạng sống, vẫn có những đóng góp đặc biệt để bảo vệ và quảng bá nhân quyền tại đất nước mình”. Năm nay ban giám khảo đã cứu xét các phiếu đề cử 142 nhà hoạt động nhân quyền từ 56 quốc gia. Cuối cùng 5 nhà hoạt động tại Ukraine (Emil Kurbedinov), Nicaragua (Francisca Ramírez Torres), Nam Phi (Nonhle Mbuthuma), Kuwait (Abdulhakim Al Fadhli) và Việt Nam (Phạm Thanh Nghiên) được chọn vào vòng chung kết.
Thông cáo viết: “…Phạm Thanh Nghiên, một blogger người Việt, đã trải qua bốn năm tù giam vì đã công khai viết ra những vi phạm nhân quyền đối với gia đình các ngư dân bị tuần duyên Trung Cộng giết hại. Sau khi ra tù, cô bị quản chế tại gia, trong thời gian đó cô đã thực hiện nhiều chiến dịch bảo vệ nhân quyền và là đồng sáng lập Mạng Lưới Blogger Việt Nam. Nhà của cô bị đột nhập, cô bị cản trở khi đi khám bệnh, chữa bệnh, cửa nhà bị khóa trái nên cô không ra ngoài được, và khi làm giấy đăng ký kết hôn, cô cũng bị chính quyền bác. Cô là nạn nhân của nhiều vụ tấn công gây thương tích nhằm ngăn chận những hoạt động tranh đấu mạnh mẽ nhưng ôn hòa của cô trong nỗ lực phơi bày các vụ vi phạm nhân quyền ở Việt Nam”.
Thông cáo trích dẫn lời phát biểu của ông Andrew Anderson, Giám đốc Điều hành Front Line Defenders: “5 nhà bảo vệ nhân quyền nằm trong danh sách chung kết của giải thưởng năm 2017 đã chứng tỏ sự kiên cường, ý chí bền bỉ khi đối mặt với nhiều nguy cơ nghiêm trọng, thường là những mối đe dọa đối với mạng sống của họ. Những nhà hoạt động nhân quyền này cũng như gia đình của họ đều phải chịu đựng các cuộc tấn công, các chiến dịch phỉ báng, quấy rối bằng pháp luật, hăm dọa an ninh cá nhân kể cả đe dọa tính mạng, và án tù. Họ cho biết rất cần được dư luận thế giới biết đến việc họ làm, nhất là vì họ thường xuyên bị chính quyền nước họ phỉ báng và xuyên tạc cuộc tranh đấu bất bạo động của họ. Việc Front Line Defenders đề cử giải thưởng nhằm giới thiệu trước công luận và bảo vệ 5 nhà hoạt động này, những người đóng vai trò quan trọng đối với các phong trào nhân quyền tại đất nước và cộng đồng của họ”.
Ngày 22-5-2017, tức mới cách đây vài tháng, trong loạt video do Front Line Defenders đưa lên YouTube để giới thiệu 5 ứng viên được chọn vào chung kết, một số nhà đấu tranh dân chủ tại Việt Nam đã trình bày những cảm nghĩ về nhân cách của Phạm Thanh Nghiên, song song với những lời Phạm Thanh Nghiên phát biểu về tình trạng đàn áp nhân quyền đang tiếp tục diễn ra trên đất nước cô, mà chính cô là một nạn nhân (*):
“Có lẽ rất khó hình dung và khó mà liệt kê hết những rủi ro, những hiểm nguy, những sự đàn áp mà những người đấu tranh phổ biến các vấn đề nhân quyền như tôi gặp phải. Nếu nói đến rủi ro thì tôi nghĩ rằng không riêng gì cá nhân tôi mà tất cả những người dân Việt Nam lên tiếng chỉ trích các chính sách sai lầm của nhà nước hiện hành, đặc biệt là lên tiếng bày tỏ quan điểm một cách mạnh mẽ về các vấn đề nhân quyền, dân chủ, thì đều là mục tiêu để bị nhà cầm quyền đàn áp, thậm chí bắt bỏ tù. Tôi đã từng bị kết án 4 năm tù giam và 3 năm tù nhà. Khi tôi bị quản chế thì bản thân tôi không được đi ra khỏi địa phương nơi cư trú, thậm chí là tôi bị nhốt ở trong nhà, không được đi ra khỏi nhà, không được đi khám, chữa bệnh.
“Cách đây chừng 1 năm, vào ngày 11 tháng 5 năm 2016, khi nổ ra cuộc biểu tình chống Formosa, bảo vệ môi trường, thì trên đường đi đến điểm biểu tình, chúng tôi bị bắt. Trong nhóm của tôi gồm có vợ chồng tôi và một vài người bạn – những người đấu tranh nhân quyền khác – đã bị công an mật vụ rất là đông dùng vũ lực bắt ngay giữa đường, thậm chí tôi còn bị một tên an ninh dí giầy vào mặt khi hắn quật ngã tôi xuống đất.
“Vào trong đồn công an thì chúng tôi đã bị giam cầm trái phép và đánh đập suốt 14 tiếng đồng hồ, bản thân tôi đã bị đánh 3 lần trong đồn công an ngày hôm đó. Riêng cá nhân tôi thì những điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe cũng như tinh thần của tôi. Suốt 4 năm kể từ khi ra tù đến bây giờ, tôi hầu như lúc nào cũng phải dùng thuốc, lúc nào cũng phải phụ thuộc vào thuốc, và không ít lần tôi phải nằm điều trị ở bệnh viện trong sự rình rập canh gác của công an mật vụ.
“Chúng tôi coi những điều như là đánh đập, bắt bớ, sách nhiễu, khủng bố, tù đầy là những điều đương nhiên chúng tôi gặp phải trên con đường tìm kiếm tự do và đòi hỏi nhân quyền. Ở các quốc gia khác thì những người hoạt động nhân quyền thường có được một mạng lưới để hỗ trợ lẫn nhau, nhưng tại Việt Nam thì hoàn toàn khác. Chúng tôi phải đối mặt với rất nhiều hiểm nguy. Thậm chí chúng tôi chỉ cần liên kết các cá nhân với nhau, gặp nhau, thì kể cả sự gặp gỡ thường xuyên cũng đã khó khăn, chứ còn nói gì đến mong ước có được môt mạng lưới để bảo vệ mình. Khi mình lên tiếng về một vấn đề tiêu cực trong xã hội thì ngay lập tức mình sẽ bị đối mặt với, ngoài những rủi ro, còn có thể là án tù. Và những điều luật mơ hồ sẽ được nhà nước dùng để trả thù, trừng trị chúng tôi, như “lật đổ chính quyền”, “chống nhà nước”, hay “lợi dụng các quyền tự do dân chủ để chống nhà nước…”
Dưới một chế độ tàn bạo như vậy, và trong những điều kiện hoạt động đầy bắt trắc như vậy, câu hỏi đặt ra là, động lực nào giúp cho những người đấu tranh dân chủ giữ vững được tinh thần bất khuất để nắm tay nhau đi tiếp con đường đầy chông gai thử thách mà họ đã lựa chọn? Đây là câu trả lời của Phạm Thanh Nghiên trên video của Front Line Defenders:
“Chúng tôi không thể sống và thức dậy mỗi sáng để đón nhận sự sợ hãi. Không còn cách nào khác. Chúng tôi phải bước qua. Và chính khát vọng tự do, khát vọng được sống với đầy đủ quyền con người của mình, đã thúc đẩy chúng tôi tiếp tục đi lên phía trước”.
Đọc hồi ký “Những Mảnh Đời Sau Song Sắt” của Phạm Thanh Nghiên, do vậy, không phải chỉ để thu lượm thêm một số dữ kiện về nhà tù cộng sản, mà còn là dịp ghi nhận thêm nhiều yếu tố giúp chúng ta theo dõi những chuyển biến chắc chắn sẽ tới từ cuộc đấu tranh kiên cường, quyết liệt của những con người tự nguyện dấn thân để đòi lại nhân quyền căn bản cho 90 triệu đồng bào, giành lại chủ quyền lãnh thổ cho tổ quốc, và trồng lại cây trái tình người trên những mảnh đất chết khô vì một chủ thuyết vô nhân tính.
_____________________________________
Những Mãnh Đời Sau Song Sắt – Phạm Thanh Nghiên
Sách song ngữ Việt-Anh
NXB Tủ Sách Tiếng Quê Hương – 512 trang – giá 25USD
• Liên lạc: VLAC / TS Tiếng Quê Hương. Địa chỉ: P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA. Email: uyenthaodc@gmail.com / uyenthao174@yahoo.com
• Sách cũng có bán trên trang mạng Amazon.com: