Người Khmer Krom đòi Nam Bộ là ‘vô lý’

Cac Bai Khac

No sub-categories

Người Khmer Krom đòi Nam Bộ là ‘vô lý’
Tiến sỹ Nguyễn Văn Huy – Gửi cho BBC từ Pháp – 13:57 GMT – thứ  Tư, 17 tháng 9, 2014
Trong khoảng thời gian gần đây, cộng đồng người Khmer  Krom tại Campuchia đã liên tục tổ chức nhiều cuộc biểu tình trước sứ quán Việt  Nam phản đối chính sách đất đai của Việt Nam.

Nguyên do của những cuộc xuống đường này là phát biểu của ông Trần Văn  Thông, tham tán sứ quán Việt Nam tại Phnom Penh, nói rằng miền đất Nam  Bộ thuộc về Việt Nam từ lâu trước khi Pháp chuyển giao lại cho Việt  Nam.

Trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 09/09/2014, ông Thach Setha, Chủ tịch Cộng  đồng Khmer Krom ở Campuchia, cho biết : “Chúng tôi không đòi lại đất, mà chúng tôi muốn gửi thông điệp tới chính phủ  Việt Nam, yêu cầu họ phải tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, không được can  thiệp vào công chuyện của chúng tôi. Việt Nam không hiểu đúng về lịch sử của người Khmer, hoặc là họ cố tình muốn  quên lịch sử bằng cách tuyên bố rằng đất đai Kampuchea Krom thuộc về Việt Nam từ  lâu. Đất đai Kampuchea Krom là của chúng tôi, và bị người Pháp giao cho người Việt  Nam. Chúng tôi yêu cầu Việt Nam tôn trọng lịch sử, tôn trọng chủ quyền của chúng  tôi, công khai xin lỗi chúng tôi và không can thiệp vào chính trị của các quốc  gia khác”. Với tất cả sự trân trọng và lòng kính mến, người ta thực sự không hiểu ông  Thach Setha muốn nói gì.

Yêu sách của Khmer Krom

“Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy chay hàng hóa Việt Nam” – Ông Thach Setha

Yêu sách của ông Thach Setha, một trong những người lãnh đạo cuộc biểu tình  đồng thời là một nhà hoạt động thuộc đảng Cứu quốc của chính trị gia Sam Rainsy  và cựu Thượng nghị sĩ trong Quốc hội Campuchia, gồm ba vế: đất đai và chủ quyền  ; lịch sử Kampuchea Krom và yêu cầu không can thiệp vào chính trị của một quốc  gia khác. Cụ thể hơn, ông Thach Setha muốn “phía Việt Nam chính thức công khai xin lỗi  người Khmer Krom và công nhận lịch sử của chúng tôi bằng văn bản” và yêu cầu :  “không can thiệp vào việc nội bộ của các quốc gia khác của khối ASEAN”. Để làm áp lực, ông Thach Setha đe dọa: “Nếu như không có phản hồi hay giải quyết gì từ phía Việt Nam thì đầu tháng  10 này chúng tôi sẽ có biểu tình lớn để yêu cầu chính phủ Campuchia tạm cắt đứt  quan hệ với Việt Nam cho tới khi nào Việt Nam thừa nhận lịch sử của chúng tôi.  Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy chay hàng hóa Việt Nam”.

Thấy gì qua phát biểu này?

Những yêu sách của ông Thach Setha phần lớn dựa trên tài liệu của Cộng đồng  người Khmer Krom phổ biến trên mạng (https://vi-vn.KhmerKromNews), theo đó : Về đất đai và chủ quyền, “Kampuchea Krom, nguyên là một phần của Vương quốc  Kampuchea ở phía đông, hiện nay nằm dưới sự quản lý của chính quyền nước Cộng  hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Về lịch sử Kampuchea Krom, “Kampuchea Krom bị Thực dân Pháp cắt khỏi lãnh thổ  Kampuchea và cho xác (!) nhập vào lãnh thổ Việt Nam, chịu sự quản lý của chính  quyền Việt Nam bằng văn bản số 49-733, ký ngày 04 tháng 6 năm 1949 ở Thành phố  Toulon, Tỉnh Var, nước Pháp”.

Lãnh đạo Campuchia thường dựa vào TQ để bài Việt  Nam

Về danh xưng: “Vào thời đó, vùng đất Kampuchea Krom được gọi là Kampuchea  Ngập Nước hay Kampuchea Krom (Kampuchea Hạ), và còn được gọi là Đồng bằng Châu  thổ sông Mekong (Mekong Delta). Dưới thời Thực dân Pháp quản lý Đông Dương  (Indochina), vùng đất Kampuchea Krom được gọi là Basse Cochinchine (Cô-săng-sin  Hạ)”, với 68 965 km2. Về dân số: “Nếu căn cứ vào số liệu thống kê dân số theo từng địa phương của  Mặt trân Giải phóng Kampuchea Krom tiến hành vào năm 1968 thực hiện trên 21 tỉnh  – thành của Kampuchea Krom và thực hiện phương thức tính 20 năm thì cho đến  tháng 1 năm 2005, dân số người Khmer ước khoảng 14 571 000 (Mười bốn triệu năm  trăm bảy mươi mốt ngàn) người”.

Sự thật là thế nào?

Người Khmer Krom thường viện dẫn những lý do lịch sử và văn hóa để chứng minh  chủ quyền của họ trên lãnh thổ miền Nam. Cách tiếp cận này tuy hợp lý nhưng  không đúng. Hợp lý vì những nhóm dân cư bản địa đầu tiên trên vùng đất này là  con cháu những người Khmer trốn chạy các cuộc vây bắt nô lệ để xây dựng đền đài  quanh khu vực Seam Reap và Battambang từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, và sau đó  là những cuộc nội chiến hay tấn công của người Thái từ thế kỷ 14 đến thế kỷ  18. Nhưng không đúng vì các vương triều Khmer chưa bao giờ làm chủ khu vực đồng  bằng sông Cửu Long như thường tuyên bố.

“Có thể nói người Khmer chưa bao giờ làm chủ  đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mặc dù đã hiện diện trước đó”

Nhắc lại, đế quốc Angkor trong thời cực thịnh nhất, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ  12, là một đế quốc lục địa. Các trung tâm chính trị và tôn giáo được thiết lập  : – về phía tây, quanh khu vực phía bắc hồ Tonlé Sap (Battambang, Siem Reap),  sông Chao Phraya và lưu vực hai sông Menam và Irrawaddy, mà những đền đại nổi  tiếng là Angkor Wat và Angkor Thom được xếp vào di dản nhân loại; – về phía đông, từ vùng trung lưu sông Mekong (Kompong Cham) tới khu vực phía  nam hồ Tonlé Sap (Biển Hồ), Longvek, Udong, Kampong Cham và Banteay Prey Nokor  (Gia Định). Sau khi đế quốc Angkor bị Xiêm La xóa tên, năm 1439 vua Ponhea Yat  bỏ chạy về Wat Phnom Daun Penh (Phnom Penh) và thành lập kinh đô. – Vùng phía nam (đồng bằng châu thổ sông Cửu Long), cho đến nay chưa tìm thấy  dấu ấn cai trị của vuơng triều Khmer.

Những lý cớ chống Việt Nam

Lý cớ đầu tiên là đất đai. Tổ chức Khmer Krom không ngừng tố cáo Việt Nam  chiếm vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long của người Khmer. Củng cố lý cớ này  là sự hiện diện của khoảng 500 đền đài Khmer trên khắp châu thổ. Đây là vấn đề  rất được bàn cãi của những chuyên viên và những nhà nghiên cứu lịch sử, vì sự  thật không hẳn như vậy.

Về điểm này tưởng cũng nên nhắc lại một vài dữ kiện địa lý-lịch sử. Cách đây  hơn 300 năm, đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là một vùng sình lầy hoang dại, đầy  muỗi mồng và rắn độc nên ít người dám đến sinh cư lập nghiệp, trừ khi bị bắt  buộc như những người trốn chạy những cuộc ruồng bắt nô lệ thời đế quốc Angkor.  Những người này sống tập trung trên những vùng đất cao để tránh lụt lội, gọi  là giồng, và sinh sống bằng nghề làm rẫy. Không có tư liệu nào trong Văn khố  hoàng gia Khmer (Chroniques royales khmères) nhắc đến sự triều cống của những  nhóm dân cư sinh sống trên đồng bằng châu thổ sông Cửu Long (Mekong).

“Bài Việt Nam có lẽ là mẫu số chung để các tổ  chức chính trị tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng và tổ chức chính trị bài Việt  Nam mạnh nhất là Đảng Sam Rainsy “

Trong thế kỷ 17, nội chiến và tranh chấp nội bộ giữa các vương tôn buộc những  phe tranh chấp tìm sự hỗ trợ của những thế lực mạnh hơn để triệt hạ đối thủ hay  để được bảo vệ. Đó là trường hợp của vua Jayajettha II (1619-1627) kết nghĩa với  chúa Nguyễn để được tiếp cứu khi bị Xiêm La tấn công. Bù lại, Jayajettha II  nhượng cho Sãi vương quyền khai thác lãnh thổ Prei Nokor trong vòng 5 năm để làm  nơi thu mua và vận chuyển thực phẩm ra miền Trung. Sau nhiều lần đánh bật quân  Xiêm ra khỏi lãnh thổ Chân Lạp trong những năm 1622-1623, việc thu hồi hai  nhượng địa Prei Nokor và Kompong Trabei không còn đặt ra nữa, vì vua Khmer rất  cần sự hiện diện của quân Việt trên lãnh thổ của mình. Phải chờ đến năm 1679, khi hai vị tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần  Thượng Xuyên) cùng với hai phó tướng Hoàng Tiến và Trần An Bình, với hơn 3.000  quân và 50 chiến thuyền, xin tị nạn và được chúa Nguyễn cho vào khai thác những  vùng đất hoang miền Đông Nam Bộ. Tại đây người Minh Hương đã cùng những di dân  Việt khẩn hoang, xây nhà, lập chợ, dựng đình. Với thời gian, những khu đất mới  này trở nên trù phú và thu hút đông đảo di dân khác tới, kể cả người Khmer trong  nội địa. Năm 1698, vùng đất Sài Gòn – Gia Định, tức miền Tây Nam Bộ, chính thức  được chúa Nguyễn xác lập chủ quyền. Năm 1671, một quan nhân nhà Minh khác tên Mạc Cửu cùng với 400 người đổ bộ  lên vùng đất hoang vu trong vịnh Thái Lan và xin thần phục vương triều Khmer.  Năm 1681, vua Jayajettha IV cho Mạc Cửu khai thác vùng đất dọc bờ biển phía nam  Campuchia ngày nay, gọi là Căn Khẩu, nhằm ngăn chặn những cuộc tấn công của hải  tặc. Sau nhiều lần bị hải tặc Xiêm La đánh phá và không được vua Khmer hỗ trợ,  năm 1724 Mạc Cửu xin thần phục chúa Nguyễn, vùng đất Căn Khẩu đổi tên thành Long  Hồ dinh, sau này là Hà Tiên. Con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ đã tận tình giúp  các vua Khmer đánh trả quân thù để bảo vệ ngôi báu, sau mỗi chiến công các vua  Khmer trao tặng đất đai để tưởng thưởng. Năm 1759, toàn bộ lãnh thổ đồng bằng  sông Cửu Long chính thức được sát nhập vào lành thổ nhà Nguyễn. Những giải thích dài dòng này để nói lên một sự thật các triều vương Khmer  không hề quan tâm đến vùng đất sình lầy đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, khi có  cơ hội là sẵn sàng trao tặng cho những người đã giúp họ giữ được ngôi báu. Dựa  vào yếu tố này, có thể nói người Khmer chưa bao giờ làm chủ đồng bằng châu thổ  sông Cửu Long mặc dù đã hiện diện trước đó.

‘Người ta thực sự không hiểu ông Thach Setha muốn nói  gì’

Lý cớ thứ hai là pháp lý. Dưới thời bảo hộ Pháp (1863-1953), các vị vua Khmer  đã nhiều lần yêu cầu hay van nài Pháp giao lại lãnh thổ Nam Kỳ cho Hoàng gia  Khmer (thư vua Ang Duong gởi cho hoàng đế Napoléon III ngày 25/11/1856, cuộc gặp  mặt giữa vua Norodom (cha) và Toàn quyền Đông Dương, tướng de La Grandière, năm  1864). Nhưng người Pháp từ chối bởi một lý do giản dị là chính nhà Nguyễn đã  giao phần đất này cho Pháp năm 1862 và sau đó năm 1874 chứ không phải các vua  Khmer, hơn nữa khi ký Hiệp ước bảo hộ vương quốc Cambốt năm 1863, hoàng gia  Khmer không hề đề cập tới phần lãnh thổ phía nam, mà người Pháp gọi là  Cochinchine (miền Nam Việt Nam).

Văn bản pháp lý nào?

Tài liệu chủ quyền pháp lý mà Tổ chức Khmer Krom dựa vào là “Luật số 49-733  ban hành ngày 04/06/1949 về việc thay đổi quy chế vùng đất Nam Kỳ (Cochinchine)  trong Liên hiệp Pháp (Union française)”, theo đó lãnh thổ Nam Kỳ được sát nhập  vào lãnh thổ Liên hiệp Việt Nam và không còn là lãnh thổ hải ngoại thuộc  Pháp. Qua luật này, tổ chức Khmer Krom trách Pháp đã không trao trả Nam Kỳ cho vua  Khmer, do đó mỗi năm cứ đến ngày 04/06 họ tổ chức xuống đường biểu tình đòi Việt  Nam trả lại đồng bằng châu thổ sông Cửu Long cho Campuchia. Tất cả mọi phương  tiện đều được áp dụng, kể cả bạo loạn, trong mục đích tuyên truyền rằng “chính  quyền Việt Nam đàn áp sư sãi và tôn giáo”. Để gây hận thù dân tộc, tổ chức Khmer Krom còn dựng đứng những tội ác “ghê  rợn” của các chính quyền Việt Nam để tố cáo trước dư luận thế giới như : thiêu  sống 10.000 người Khmer năm 1945, giết rồi thả hàng ngàn xác người Khmer trôi  sông từ 1976 đến 1979, tàn sát hàng ngàn người Khmer tại Trà Vinh và Vĩnh Long  từ 1980 đến 1990.. với hy vọng được thế giới hỗ trợ và làm áp lực với Việt Nam  trả lại miền Nam cho họ. Lý cớ thứ ba là chính trị. Quan sát kỹ, những cuộc biểu tình chống Việt Nam  chỉ mạnh lên trước những cuộc bầu cử Quốc hội. Bài Việt Nam có lẽ là mẫu số  chung để các tổ chức chính trị tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng. Hiện nay, tổ  chức chính trị bài Việt Nam mạnh nhất là Đảng Sam Rainsy do ông Sam Rainsy lãnh  đạo. Sam Rainsy hiện nay là đối thủ chính trị chính của đương kim Thủ tướng Hun  Sen.

Hai phái Sam Rainsy và Hun Sen nay đã hợp tác

Cho đến một ngày gần đây, dưới sự kích động của đảng Sam Rainsy, chống Việt  Nam hiện nay không còn là một chiêu bài tranh cử nữa mà là một chính sách kỳ thị  chủng tộc rõ ràng. Để tránh bị mang tiếng thân Việt Nam, nghĩa là chư hầu, Đảng  Nhân dân Campuchia của đương kim Thủ tướng Hun Sen còn đi xa hơn khi ban hành  những luật lệ siết chặt nhập cư, hạn chế sự đi lại của người Việt Nam trên lãnh  thổ Campuchia và trục xuất những người Việt nhập cư bất hợp pháp. Một cách tiệm  tiến, chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Kher đang hình thành mà đối tượng là  cộng đồng người Việt sinh sống trên lãnh thổ Campuchia, an ninh của họ đang bị  đe dọa. Thêm vào đó, lãnh tụ đảng Sam Rainsy còn khơi động sự thù hận giữa Việt Nam  và Trung Quốc bằng cách đề cao những hành vi ức hiếp Việt Nam của Trung Quốc  trên Biển Đông và dành cho người Trung Quốc những ưu đãi về đầu tư cũng như về  kinh tế tài chính để loại thương nhân Việt Nam ra khỏi thị trường Campuchia, hay  đưa xuống hàng thứ yếu, nghĩa là phải dưới người Khmer.

Tại sao đi đến tình trạng này?

Có nhiều lý giải, nhưng giải thích chính vẫn là các dân tộc Đông Dương là nạn  nhân của chính sách chia để trị của người Pháp trong suốt thời gian đô hộ và bảo  hộ. Chế độ thực dân Pháp là thủ phạm kích thích sự thù ghét người Việt Nam của  những dân tộc khác. Đọc lại những tài liệu và sử sách viết về người Việt Nam,  không một tác giả người Pháp nào không nói Việt Nam là một dân tộc bành trướng,  lịch sử Việt Nam là lịch sử thôn tính những dân tộc yếu kém hơn. Họ viện dẫn  kinh nghiệm mất đất và mất văn hóa của người Chăm, người Khmer Nam Bộ, người  Thượng trên Tây Nguyên… Dưới thời Pháp thuộc, Đông Dương bị chia thành 5 vùng, trong đó Việt Nam bị  cắt ra làm ba miền (Bắc Trung Nam) để hạn chế người miền này tiếp xúc với người  miền kia, và họ đã phần nào thành công. Sau khi Pháp rời khỏi Việt Nam, sự hợp  tác giữa các dân tộc Đông Dương đã rất khó khăn và phải trải qua nhiều cuộc  chiến đẫm máu để giải quyết sự thống nhất. Vấn đề tồn đọng còn lại là xây dựng  niềm tin giữa các dân tộc và giữa người Việt Nam với nhau. Nếu chịu khó quan sát, tâm lý bài Việt Nam thường xuất phát từ những cấp lãnh  đạo hay trí thức do Pháp đào tạo : Sihanouk, Pol Pot, Sam Rainsy, Sarin  Chhak…

Campuchia viện dẫn ra các tài liệu của Pháp để nêu yêu sách lãnh thổ

Đầu tàu của chính sách bài Việt là quốc vương Norodom Sihanouk, đứa con tinh  thần của chế độ thực dân Pháp. Từ lúc còn tấm bé ông đã được người Pháp nuôi  dưỡng và đã hấp thụ tất cả những gì mà người Pháp muốn truyền bá : chống Việt  Nam. Trong suốt thời gian trị vì, không hiểu vì lý do gì nhà vua Sihanouk đã  liên tục chống phá trực tiếp hay gián tiếp các chính quyền miền Nam Việt Nam, và  chính quyền cộng sản Việt Nam sau 1975. Nhà vua sẵn sàng liên minh hay ủng hộ  với mọi phe phái, kể cả Khmer Đỏ, để chống Việt Nam. Sihanouk còn đào tạo ra được một thế hệ bài Việt tiếp nối, đặc biệt là Sarin  Chhak, tác giả “Những vùng biên giới của Cambodge” năm 1965. Dựa theo tài liệu  này, đầu năm 1967, Sihanouk chính thức công bố khu vực biên giới Campuchia-Việt  Nam, theo đó tỉnh Đắc Lắc, toàn khu hữu ngạn sông Bé đến Thủ Dầu Một, toàn bộ  tỉnh Tây Ninh và Long An và vùng đất phía tây thị xã Hà Tiên thuộc Campuchia.  Những phe nhóm Khmer chống Việt Nam khác cũng đã sử dụng bản đồ này để tố cáo  chính quyền Hun Sen ký những hiệp định về vùng nước lịch sử ký với Việt Nam năm  1982 và hiệp ước biên giới đất liền tháng 10/1985 bất lợi cho nhân dân  Campuchia. Nội dung những văn bản bản này thật ra không khác gì với những văn bản đã ký  với Pháp trước đó: vùng biên giới đất liền ghi lại tỉ mỉ hơn làn ranh đã có dưới  thời Pháp thuộc; trên biển hai bên giữ nguyên làn ranh Brévié đã có từ năm 1939.  Thật ra vấn đề không phải được hay mất đất và biển mà chỉ giản dị là tâm lý bài  Việt Nam đang lên cao trong sinh hoạt của những tổ chức chính trị đối lập với  chính quyền Hun Sen. Cũng nên lưu ý trong những văn bản này, Điều cuối cùng ghi:  “Trong trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Pháp được lấy làm  căn cứ”. Giải thích thứ hai là sự trù phú của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Nếu  đồng bằng này là một vùng đất nghèo nàn như dãy Cardamones phía tây, chắc không  người Khmer nào muốn đòi lại. Ước muốn sở hữu vùng đất trù phú là lẽ thường tình  của người đời, nhưng sự phát triển và giàu có của đồng bằng châu thổ sông Cửu  Long không phải tự nhiên mà có. Đó là công lao của người Minh Hương và di dân  Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến nay. Trong suốt thời gian đó, cộng đồng người  Khmer vui hưởng cuộc sống bình yên, những chùa chiền lớn, “wat” theo văn hóa  Xiêm La. Trong những sinh hoạt khác, cộng đồng người Khmer đứng bên lề những  tranh chấp và sinh hoạt chính trị.

“Chính người Thái đã tiêu diệt các triều vương  Angkor”

Có một điều khó hiểu là dân số người Khmer sinh sống tại Việt Nam hiện nay  khoảng 1,4 triệu người (2011), nhưng tài liệu của Khmer Krom cho biết là trên 14  triệu người (2005), nghĩa là gấp 10 lần và ngang bằng tổng dân số Campuchia  (15,14 triệu người năm 2013). Thật ra dựa vào yếu tố lịch sử để đòi lại đất chỉ  là lý cớ, sự giàu có của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mới là động cơ chính.  Tổ chức Khmer Krom không phải là người trồng cây ăn trái nhưng muốn thu tóm mọi  hoa lợi vào tay mình, chỉ giản dị là vậy. Giải thích thứ ba là yếu tố văn hóa. Tại sao người Khmer dễ ghét người Việt  Nam hơn người Thái, mặc dù tất cả những tai họa chính của dân tộc Khmer đều do  người Thái gây ra? Chính người Thái đã tiêu diệt các triều vương Angkor. Chính  sách cai trị của người Thái chắc chắn phải rất hung bạo để ký ức về triều đại  Angkor bị xóa hẳn trong tâm trí người Khmer trong suốt hơn 400 năm  (1431-1861). Chính người Thái đã góp phần làm hao kiệt di sản văn hóa của người Khmer,  phần lớn những di tích của nền văn minh Angkor được giới buôn lậu đưa qua Thái  bán. Cho tới một ngày gần đây, người Thái còn muốn chiếm di tích Preah Vihear  của người Khmer. Trong Thế chiến II, quân Pháp đã rất phải cực nhọc mới xua đuổi  quân Thái ra khỏi Battambang và Seam Reap. Cũng chính người Thái đã cho Khmer Đỏ  lập căn cứ trên lãnh thổ của mình để chống lại chính quyền Phnom Penh từ 1979  đến 1989. Có điều lạ là không người Khmer nào tỏ ra thù ghét người Thái.

Người mang ơn thường quay ngược khí giới chống lại Việt  Nam

Với người Việt Nam thì ngược lại, làm ơn đôi khi còn mang họa. Mỗi khi bị đe  dọa, người Khmer nhờ cậy người Việt Nam vào giúp đỡ. Khi kẻ thù bị đánh đuổi ra  khỏi lãnh thổ, những người mang ơn thường quay ngược khí giới chống lại Việt  Nam. Có cái gì không bình thường trong cách cư xử này. Có lẽ người Khmer thuộc văn hóa Ấn Độ nên chỉ thích giao lưu với người cùng  văn hóa (cũng như Việt Nam với Trung Quốc), Việt Nam thuộc văn hóa Trung Hoa nên  rất khó hiểu nhau và hợp tác. Nắm được lý giải này mới hiểu tại sao rất nhiều  người Việt Nam đã bỏ mạng để bảo vệ người Khmer, nhưng công lao này thường hay  quên lãng và đôi khi còn bị hiểu lầm. Khi rút quân khỏi Campuchia, hài cốt nhưng  người lính Việt Nam đều được mang về nước vì sợ bị phá hoại. Hành trình thông  cảm lẫn nhau có lẽ còn khá dài. Nhưng cho dù có thế nào đi nữa, hai dân tộc Campuchia và Việt Nam buộc phải  đi với nhau suốt đoạn đường dài còn lại. Không quốc gia nào chọn láng giềng,  chúng ta phải tìm cách sống chung với nhau trong khôn ngoan và hòa bình. Chủ  nghĩa dân tộc cực đoan và chính sách bài Việt Nam có thể thỏa mãn kết quả của  những cuộc tranh cử nhưng chỉ mang lại tiêu cực và không giải quyết được quan hệ  giữa hai dân tộc. Người ta chỉ gặt những gì được gieo trồng, do đó phải cẩn thận. Giải pháp hay  nhất để hóa giải tâm lý hận thù là tìm cách đối thoại với nhau trong tinh thần  tương kính, và nhất là tránh không bị chi phối bởi những định kiến. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tiến sỹ Nguyễn Văn Huy từ  Paris, Pháp.Diễn đàn BBC Tiếng Việt mong nhận được các ý kiến  khác nhau về chủ đề này, gồm cả các quan điểm phản bác lại tác giả  đã đăng.