Ngày 30/4: Tại sao 47 năm sau vẫn chưa có thay đổi ở Việt Nam?
26/04/2022 –Từ thức – Ngày 30 tháng Tư – Đã đến lúc đặt câu hỏi nhức nhối: Tại sao 47 năm sau vẫn chưa có thay đổi ở Việt Nam? Tại sao thế giới đã biến đổi không ngừng, với một vận tốc chóng mặt, nhưng Việt Nam vẫn ù lì, dẫm chân một chỗ, vẫn còn là một trong những nước hiếm hoi bám chặt, như đười ươi giữ ống, một chủ nghĩa đã bị nhân loại chối bỏ?
1001 lý do
Người
ta đã nêu rất nhiều lý do, nhưng những lý do đưa ra có thực sự giải
thích hiện tượng đáng buồn là chế độ Cộng sản vẫn đứng vững ở Việt Nam?
– Lý do lịch sử: Việt Nam là nạn nhân của chế độ thuộc địa, nhu cầu đòi độc lập, cuộc tranh đấu đòi tự do đã đẩy đất nước rơi vào quỹ đạo Cộng sản quốc tế. Tệ hại hơn nữa, quỹ đạo Trung Cộng. Nhưng rất nhiều quốc gia đã là nạn nhân của chế độ thuộc địa, rất ít rơi vào rọ. Rất nhiều quốc gia đã bị chủ nghĩa Cộng sản cám dỗ lúc đầu, nhưng thức tỉnh kịp thời.
– Lý do địa lý: Việt Nam có cái bất hạnh là ở sát cạnh nước
Tàu, nhưng Việt Nam không phải là trường hợp duy nhất. Trung Cộng giáp
ranh với 14 quốc gia.
– Lý do chính trị: Chế độ Cộng sản tàn bạo,
cai trị bằng khủng bố, cái sợ trở thành một bản năng để sống còn, một
dân tộc tính; chính sách ngu dân, nhồi sọ của Cộng sản đã thành công
trong nghĩa vụ biến người dân thành một đàn cừu.
Nhưng chế độ độc
tài nào cũng tàn bạo, tàn bạo là một định nghĩa của độc tài. Điều đó đã
không ngăn được các chế độ độc tài thi nhau sụp đổ. Chế độ Cộng sản nào
cũng cai trị bằng khủng bố, tẩy não, điều đó đã không ngăn được Xô Viết
Nga tan rã, bức tường ô nhục Berlin sụp đổ, các nước Đông Âu tìm được tự
do.
– Lý do văn hoá: Văn hoá VN, đặc biệt là văn hoá Khổng giáo,
đã khiến người Việt phó mặc chuyện chính trị cho vua quan, chỉ lo việc
gia đình. Nhưng văn hoá Á Đông đã không cấm Nhật Bản trở thành một cường
quốc, văn hoá Khổng giáo, đã không cản Đài Loan, Đại Hàn trở thành
những nước dân chủ kiểu mẫu.
Văn hoá gia đình rất cao ở Do Thái (từ ngữ “người mẹ Do Thái” (la mère juive) là biểu tượng của văn hoá gia đình rất nặng của dân tộc này), đã không cấm người Do Thái có tinh thần quốc gia rất cao.
Tóm
lại, những vấn đề nêu trên có thực, nhất là khi nó tụ hợp tất cả trên
đầu một dân tộc (sẽ đi sâu hơn trong một bài khác), đã đóng góp vào đại
hoạ chung, nhưng không đủ để giải thích tại sao gần nửa thế kỷ sau ngày
30/4/75, vẫn không có thay đổi lớn tại Việt Nam, bất chấp những yếu tố
khách quan khiến người ta nghĩ, đáng lẽ Cộng sản phải sụp đổ.Ảnh:
Dân và quân VNCH bị quân CSVN bắt giữ, đi bộ trên đường phố Sài Gòn sau
khi thành phố này rơi vào tay phe cộng sản vào ngày 30-4-1975. Nguồn:
AFP/ Getty Images
Yếu tố khách quan
Những yếu tố khách quan khiến chế độ độc tài đáng lẽ phải khốn đốn:
– Internet, Facebook, nói chung mạng lưới xã hội, khiến thông tin khó bị bưng bít, sự thực khó che giấu, tẩy não khó thành công.
–
Lưu thông, du lịch toàn cầu dễ dàng, khiến người Việt (khác với người
Bắc Hàn) có cơ hội tiếp xúc với thiên hạ, để ý thức được thân phận cá
chậu, chim lồng của chính mình.
– Trên 4 triệu người Việt sống ở
nước ngoài, nhiều người về nước thường xuyên, trao đổi với gia đình, bè
bạn, khiến những trò tuyên truyền rẻ tiền đối với người dân trong nước
trở thành lố bịch.
– Nhờ kinh tế toàn cầu, kinh tế khả quan hơn
ngày xưa, một giai cấp trung lưu ra đời. Trên lý thuyết, giai cấp trung
lưu là động lực chính cho các phong trào dân chủ. Họ đủ sống để hết lệ
thuộc cơm áo, đủ trình độ để có nhu cầu đòi hỏi tự do, không thuộc guồng
máy Đảng để hết lòng bảo vệ chế độ. Ở những nước bình thường, một giai
cấp trung lưu đông đủ là điều kiện tối cần cho thể chế dân chủ.
– Một nửa dân tộc, sống ở miền Nam trước 75, có kinh nghiệm sống để so sánh một xã hội trong tay Cộng sản, vói một xã hội tự do.
– Sau nửa thế kỷ xâm chiếm miền Nam, người Cộng sản đã lộ nguyên hình là một bọn cướp ngày, một mafia đỏ, buôn dân bán nước.
–
Bất công xã hội, tham nhũng tới độ kinh hoàng, đã phơi bày trước mắt
mỗi người, qua những căn “lều của đầy tớ”, nghĩa trang bao la của lãnh
tụ, đời sống phè phỡn, bất nhân của giới cầm quyền.
– Môi trường, danh lam thắng cảnh bị tàn phá một cách khủng khiếp để làm kinh tài.
– Công nhân, phụ nữ bị bán, xuất cảng như những nô lệ.
– Tôn giáo bị đàn áp, luân lý rã rời, xã hội tan rã.
–
Tai hoạ lệ thuộc Trung Cộng càng ngày càng lớn, hiểm hoạ mất nước càng
ngày càng gần. Người Việt có bệnh chia rẽ kinh niên, nếu có điều gì đồng
thuận, đó là tinh thần chống Tàu, trong khi tập đoàn cầm quyền tình
nguyện làm tay sai cho Bắc Kinh.
Tất cả những yếu tố khách quan đó, quá đủ, đáng lẽ phải đưa đến sự sụp đổ nhanh chóng của chế độ.
Nhưng sự thực phũ phàng là chế độ vẫn đứng vững.
Kỷ
niệm 47 năm ngày mất miền Nam, đến lúc chúng ta phải đặt câu hỏi, khẩn
cấp, không nhân nhượng, không né tránh: tại sao Cộng sản chưa sụp đổ,
tại sao chưa có một thay đổi gì về chính trị, dân chủ, dân quyền ở Việt
Nam?
Nhà tù không tường
Tại sao, bất chấp
những yếu tố bất lợi nói trên, tập đoàn cầm quyền Hà Nội vẫn xây được
cái mà Aldous Huxley gọi là nhà tù khổng lồ không tường, để giam 90
triệu tù nhân?
Aldous Huxley: “Nhờ kiểm soát tư tưởng, nhờ
khủng bố thường trực để giữ cá nhân dưới sự phục tòng, ngày nay chúng ta
đã bước vào một chế độ độc tài hoàn hảo nhất, một chế độ có bề ngoài
dân chủ, một nhà tù không tường, trong đó tù nhân không nghĩ tới chuyện
vượt ngục, không nghĩ tới chuyện lật đổ bạo chúa. Một chế độ nô lệ,
trong đó, nhờ được tiêu thụ, được giải trí, những người nô lệ đâm ra yêu
thích tình trạng nô lệ của mình” (1).
Huxley không nói gì khác hơn Juvénal đã nói từ thời đế quốc La Mã: hãy cho dân bánh mì và các trò chơi (panem, circenses), họ sẽ hài lòng, bỏ quên mọi chuyện, vua chúa tha hồ cai trị.
Thời La Mã, ngoài bánh mì và trò chơi, lý thú nhất là trò giác đấu giữa các nô lệ.
Ngày nay giác đấu (gladiateurs) được thay bằng football, games đủ loại, bánh mì thay bằng ăn nhậu, tiêu pha, mua sắm.
Dân không đòi hỏi gì hơn.
Được
“đi bão” sau một trận bóng tròn, được xếp hàng ăn Mc Donald’s, mua giầy
Nike, Adidas, tuổi trẻ thấy mình có đủ tự do, hạnh phúc.
Ai đã không nghe người Việt trong nước khoe, một cách hãnh diện: “Ở VN ngày nay không thiếu gì cả, ông ơi. Có tiền là có mọi thứ”.
Ít
người nghĩ: thiếu một thứ, đáng quý hơn cả, là tự do, là cái hãnh diện
được suy nghĩ, hành động như một con người có nhân phẩm, một con người
có quyền làm người. Đáng gọi là con người.
Một chế độ độc tài cũng
có thể làm thoả mãn nhu cầu vật chất của chúng ta, nhưng chúng ta không
phải là súc vật, chỉ có nhu cầu vật chất.
Cộng sản đã thành công trong việc đào tạo một thế hệ bạc nhược, hèn yếu, vô cảm, vô trách nhiệm, ích kỷ, vô luân, thụ động.
Gramsci và thuyết “thống trị văn hoá”
Để
giải thích hiện tượng CS chưa có gì thay đổi ở VN, dân chủ tự do vẫn là
chuyện xa vời, có lẽ phải mượn lý thuyết Gramsci. Theo Gramsci, văn hoá
giải thích tất cả.
Muốn có cải cách chính trị, phải có nền móng
văn hoá, những yếu tố khác, thí dụ kinh tế, chỉ là thứ yếu. Muốn thay
đổi xã hội, không thể hà tiện một cuộc cách mạng văn hoá, thay đổi tư
duy. Nếu không, nếu có biến chuyển, chỉ là những cuộc đảo chánh, những
thay đổi nhất thời, những cuộc nổi loạn, sau đó sẽ đâu trở lại đó.
Theo Gramsci, có 2 điều kiện để người dân tích cực tham gia cách mạng:
1. Cùng chung một ý thức hệ
2. Tin rằng thay đổi sẽ có hậu quả tốt cho chính mình
Antonio
Gramsci (1891-1937) là một lý thuyết gia thiên tả người Ý, trước đây là
cẩm nang tranh đấu cho các phong trào cách mạng trên thế giới, ngày nay
là sách gối đầu giường cho các chính trị gia thuộc mọi khuynh hướng, từ
tả sang hữu, nhất là ở Âu Châu.
Tại Pháp chẳng hạn, phe cực hữu,
đã mở một trường học ở Lyon để đào tạo cán bộ, vì đồng ý với Gramsci là
nếu không tạo một nền móng văn hoá vững chắc, nếu tư tưởng quốc gia cực
đoan của họ không ăn rễ trong dân chúng, dù họ có thắng cử cũng chỉ là
những thắng lợi bề mặt, nhất thời.
Tạm tóm tắt lý thuyết Gramsci qua 2 chữ “hégémonie culturelle” (thống trị văn hoá) (2).
Muốn tiến tới chính quyền và đứng vững lâu dài, phải đi tới thống trị văn hoá.
“Gramsci phân biệt xã hội ra 2 thành tố mà ông gọi là 1.Société politique, hay pouvoir politique (xã hội chính trị, quyền lực chính trị ) và 2. Société civile (Xã hội dân sự) .
Quyền lực chính trị, bao gồm các cơ chế nhà nước, bộ máy chính quyền: chính phủ, quân đội, công an, cảnh sát… Xã hội dân sự, là tất cả những gì thuộc địa hạt tư nhân, lãnh vực tinh thần, sở hữu của mỗi cá nhân, địa hạt của văn hoá, tôn giáo, tri thức, đạo đức, nhân sinh quan, triết lý sống tiềm tàng trong một xã hội. Tóm lại: Tư duy của một dân tộc.
Lật đổ một chính phủ, một tập đoàn cầm quyền, chiếm pouvoir politique, chỉ là một cuộc đảo chánh.
Muốn bền vững, muốn thay đổi xã hội, phải đấu tranh và chiến thắng trên địa hạt văn hóa, phải nắm société civile, phải thay đổi tư duy. Phải đặt một nền tảng văn hóa mới.
Chính quyền phải được một sự hậu thuẫn ngầm, đương nhiên, của một xã hội cùng chia sẻ những giá trị tinh thần tiềm tàng, sâu kín trong tiềm thức của một dân tộc.
Gramsci giải thích tại sao cách mạng “vô sản” chỉ thành công ở Nga nhưng thất bại ở Âu Châu. Bởi vì trong xã hội Nga, và nói chung, xã hội Đông Phương, nhà nước là tất cả, xã hội dân sự còn sơ khai, chỉ cần chiếm vài cơ sở huyết mạch là chiếm được quyền lực.
Trái lại, các nước Tây phương, xã hội dân sự, nói khác đi, quyền lực văn hoá phức tạp, sâu xa (với văn chương, nghệ thuật, triết học…), xã hội dân sự phong phú (với các hội đoàn, các nghiệp đoàn, báo chí, đảng phái…), nắm được chính quyền không dễ, áp đặt một chế độ mới là chuyện không thể xẩy ra.
Chính vì vậy, Cộng sản chỉ cần chiếm vài cơ sở chính yếu ở Nga đã thành công trong cách mạng 1917, người dân hầu như không hay biết gì. Nhưng sau đó, vì không có cỗi rễ văn hóa, không có sự đồng thuận tư duy, Staline không có cách gì khác hơn để duy trì quyền lực là sự khủng bố (terreur).
Không
có đồng thuận, nhà nước phải dùng terreur. Nhưng người ta không xây
dựng gì trên sự khủng bố. Tất cả tài nguyên, nhân lực quốc gia chỉ dành
cho ưu tiên hàng đầu: củng cố guồng máy đàn áp. Guồng máy quốc gia tê liệt, kinh tế khủng hoảng, luân lý suy đồi, xã hội băng hoại (Từ Thức. Gramsci: tất cả là một vấn đề văn hoá).
Hai mục tiêu
Áp dụng lý thuyết Gramsci, chúng ta có thể kết luận, sở dĩ chưa có thay đổi ở VN, Cộng sản vẫn đứng vững, bởi vì:
1. Văn hoá dân chủ chưa thực sự ăn sâu trong đầu óc dân Việt.
2. Đa số dân chưa tin những thay đổi chế độ sẽ cải thiện đời sống của mình.
Bổn phận của những người tranh đấu cho tự do, dân chủ là phải đóng góp vào việc thực hiện hai mục tiêu đó.
Đó
không phải là điều dễ, bởi vì người ta chỉ thực sự tha thiết với dân
chủ khi đã sống trong một xã hội dân chủ. Có người nói: “nếu chưa ăn
táo, bạn sẽ không nhớ, không thèm táo”.
Dân không tin thay đổi chế độ sẽ cải thiện đời sống của họ.
Tuyên
truyền, nhồi sọ đã khiến người dân trong các nước độc tài hài lòng với
đời sống của mình. Dân Bắc Hàn tin là nhờ cha con họ Kim mà dân Hàn khỏi
đói khổ như các dân tộc khác trên thế giới. Dân Nga tin là nhờ Putin mà
khỏi đói như thời Staline. Rất nhiều người Việt nghĩ ở VN ngày nay
không thiếu gì, miễn là có tiền, và mục đích ở đời là kiếm tiền.
Nếu
không đi tới mục tiêu đó, bằng bất cứ giá nào, dưới bất cứ hình thức
nào (hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội, media, văn học, nghệ thuật…),
sẽ không hy vọng thực sự có thay đổi lớn ở VN.
Có người sẽ phản
kháng: đó là việc làm quá lâu dài, trong khi tình trạng khẩn cấp như hoả
hoạn. Nhưng làm những việc khẩn cấp để chống độc tài không cấm người ta
làm những việc lâu dài hơn, khi ý thức đó là chuyện cơ bản. Tướng Pháp
Lyautey nói với quân sĩ: “hãy đi từ từ, chúng ta gấp lắm đấy”.
Chiến tranh vị trí
Theo
Gramsci, đấu tranh không còn là những cuộc giáp chiến, nhưng là những
cuộc chiến văn hoá, tranh thủ trí não, mỗi phe tìm cách bành trướng ảnh
hưởng của mình.
Yếu tố quyết định của trận chiến đó, Gramsci gọi
là “guerre de position” chiến tranh vị trí), trái với “guerre de
mouvement” (chiến tranh di động). Trong chiến tranh vị trí, võ khí là
văn hóa. Văn hoá được coi là địa bàn hoạt động, bộ tổng tham mưu.
Khi
tư duy đó đã trở thành mẫu số chung, người dân sẽ phân tách thời cuộc,
thời sự, lịch sử dưới lăng kính đó. Người dân sẽ hành động dưới lăng
kính đó. Đưa những dữ kiện khách quan không đủ thuyết phục, phải thay
đổi tư duy.
Nếu người dân còn bị nhồi sọ, họ sẽ tìm mọi cách bào
chữa cho chế độ. Trước những bằng chứng hiển nhiên về những tệ hại trước
mắt, họ sẽ chui vào chỗ ẩn náu cuối cùng, nghĩ đó chỉ là lỗi lầm của
lãnh tụ này, bộ trưởng kia, không phải lỗi của chế độ. Trong bất cứ
trường hợp nào, việc thay đổi tư duy vẫn là mẫu số chung, không thể gạt
sang một bên, chờ một lúc khác
Theo Gramsci, chế độ sẽ và chỉ sụp
đổ khi nền tảng lung lay, và nền tảng chỉ lung lay khi đa số dân chúng
chối bỏ xã hội đang sống, đồng thuận về một xã hội tương lai.
Từ sóng ngầm tới đột biến
Nghiên cứu những cuộc cách mạng, người ta thấy có 3 yếu tố khiến một chế độ sụp đổ:
1. Làn sóng ngầm (sự bất mãn, căm thù tiềm tàng trong lòng dân)
2. Đột biến (một cơ hội, một sự kiện thời sự nào đó khiến đợt sóng ngầm bùng nổ)
3. Lãnh đạo (hay các tổ chức đã chuẩn bị từ lâu, để hướng dẫn các đột biến đi tới mục tiêu.
Tới nay, hầu hết người Việt chống Cộng chỉ ngồi chờ đột biến.
“Người ta có thể rút tỉa gì từ Gramsci? Khi nào tư duy của một dân tộc bị nhồi sọ gần một thế kỷ chưa thay đổi, chuyện thay đổi sẽ còn gian nan. Có thể những người bất mãn
với chế độ Cộng sản càng ngày càng đông, nhưng người ta khó xây dựng gì
vững vàng trên sự chống đối. Chỉ có thể xây dựng xã hội mới trên tư duy
mới, khi đa số tin tưởng ở những giá trị mới.
Người dân
chỉ chủ động trong việc xây dựng dân chủ, khi nghĩ dân chủ sẽ thay đổi
cụ thể đời sống cuả mình, tương lai của con cháu mình. Khi nào những ý
niệm dân chủ chỉ là những khẩu hiệu, sự thờ ơ vẫn còn, và chính sách khủng bố vẫn hữu hiệu.
Tóm lại, mặt trân văn hóa luôn luôn là một ưu tiên, ngay cả trong hoàn cảnh cấp bách.
Ismaïl Kadaré, nhà văn hàng đầu của Albanie, nói: ngay cả trong những lúc khốn cùng, người ta cũng phải có thái độ trân trọng đối với văn hóa” ( Từ Thức. Gramsci: tất cả là một vấn đề văn hoá).
Mặt trận tư duy
Có
người sẽ phản kháng: đó là việc làm quá lâu dài, trong khi tình trạng
khẩn cấp như hoả hoạn. Nhưng làm những việc khẩn cấp để chống độc tài
không cấm người ta làm những việc lâu dài hơn, khi ý thức đó là chuyện
cơ bản. Tướng Pháp Lyautey nói với quân sĩ: “hãy đi từ từ, chúng ta gấp lắm đấy”.
Đáng lẽ việc vận động để thay đổi tư duy là chuyện của trí thức.
Rất
tiếc, VN không có một “intelligentsia” (hàng ngũ trí thức), được coi
như lương tâm của dân tộc, có đủ kiến thức, và uy tín, để soi đường cho
dân tộc.
Trong tình huống đó, việc vận động để thay đổi tư duy là nghĩa vụ của mỗi người.
Trên
địa hạt của mình, với khả năng của mình, mỗi người có thể đóng góp vào
cuộc tranh thủ tư duy. Không thể giao chiến để chiếm đất, người ta có
thể, và phải giao chiến trên địa hạt trí não. Nghe có vẻ viển vông,
nhưng từ cổ chí kim, tư duy vẫn dẫn dắt nhân loại, đi tìm thiên đàng hay
xuống địa ngục.
______
Chú thích:
(1) Grâce
au contrôles des pensées, à la terreur constamment martelée pour
maintenir l’individu dans un état de soumission voulu, nous sommes
aujourd’hui entrés dans la plus parfaite des dictatures, une dictature
qui aurait les apparences de la démocratie, une prison sans murs dont
les prisonniers ne songeraient pas à s’évader, dont ils ne songeraient
même pas à renverser les tyrans. Système d’esclavage où, grâce à la
consommation et au divertissement, les esclaves auraient l’amour de leur
servitude’’. Aldous Huxley. Le Meilleur Des Mondes.
(2) Antonio Gramsci. Cahiers de prison.
Bình Luận từ Facebook
envoyé : 1 avril 2023 à 09:22
de : MY LOAN
Huxley, Orwell, Ionesco, mô hình nào cho Việt Nam?
Từ Thức
Đài
truyền hình Pháp-Đức ARTE gần đây đặt câu hỏi: Mô hình xã hội nào cho
thế giới, Huxley hay Orwell? Aldous HUXLEY và George ORWELL, hai nhà văn
tiên tri của thế kỷ 19, đã tiên đoán thế giới sẽ đi tới đâu dưới sự cai
trị của các chế độ độc tài, toàn trị. Ngày nay, tất cả những gì họ tiên
đoán đang xảy ra trước mắt, khắp nơi, đặc biệt là bên Tàu.
Cả
hai đều nghĩ độc tài sẽ biến con người thành cái máy, không còn cá
tính, không còn nhân phẩm, không suy nghĩ, không phẫn nộ, không bất
bình, hoàn toàn vô cảm, chỉ biết cúi đầu tuân lệnh để được yên ổn thở,
sống và hưởng thụ.
Câu hỏi rất đáng đặt ra cho Việt Nam. Khẩn cấp.
XÃ HỘI TÊ GIÁC
Có lẽ phải thêm mô hình IONESCO. Trong tác phẩm Rhinocéros, Những
Con Tê Giác, Eugène Ionesco mô tả một xã hội trong đó mọi người trở
thành những con tê giác, mặt mũi giống nhau, hình dạng giống nhau, suy
nghĩ như nhau, nghĩa là không còn cá tính, không suy nghĩ, chỉ sống, cư
xử theo bầy đàn.
Trong
một thành phố, dân chúng dần dần biến thành những con tê giác phá
phách, hung bạo. Tê giác trở thành đa số. Những người còn lại lần lượt
đi theo, biến thành tê giác. Mỗi người có một lý do: vì sợ, vì phục tòng
đa số, vì ngây thơ, nghĩ là thế giới tê giác đẹp hơn, vui hơn thế giới
thực.
Cả
thành phố chỉ còn lại 3 người, cố gắng cầm cự: Dudard và cặp tình nhân
Bérenger, Daisy. Cuối cùng Dudard, được coi là trí thức, cũng tìm cách
bào chữa cho hành động phá hoại xã hội của tê giác để bỏ nhà nhập bày.
Như các trí thức bỏ cuộc, Dudard tự bào chữa: “Bổn phận của tôi là đi theo lãnh đạo và các đồng chí”. Daisy muốn ở lại với người tình, nhưng cũng đầu hàng, vì thấy bên ngoài đàn hát vui nhộn. Daisy coi tê giác như thần tượng: “Ce sont des Dieux”. (Đó là những bậc thánh).
Người duy nhất còn lại là Bérenger. Berenger cô độc, chiến đấu trong tuyệt vọng. Ôm súng chờ, Bérenger gào: “Tôi sẽ chiến đấu chống tất cả. Tôi là người cuối cùng, tôi sẽ là người tới cùng. Tôi không đầu hàng”.
Người đọc gấp sách, tự hỏi: Bérenger sẽ cầm cự bao lâu?
Ionesco
(1904-1994) là một nhà văn Pháp, gốc Lỗ Ma Ni (Roumanie), thuộc Hàn Lâm
Viện Pháp, ông công bố một cáo trạng lên án chính sách diệt chủng của
Đảng Cộng sản.
Cùng
với Samuel Beckett, Ionesco là người khai sinh trường phái kịch nghệ
phi lý (Théâtre de l’absurde). Những vở kịch của Ionesco đều phi lý, vô
nghĩa, nhưng nói lên sự thực hơn cả sự thực, từ Rhinocéros, Le roi se meurt, tới La Cantatrice Chauve
Rhinocéros tố cáo chế độ toàn trị biến con người thành những con vật. La Cantatrice Chauve (Nữ
ca sĩ trọc đầu) trong đó không có nhân vật nào là ca sĩ, không có ai
trọc đầu. Từ đầu tới cuối vở kịch là những đối thoại ngớ ngẩn, đầu Ngô
mình Sở, không câu nào liên hệ tới câu nào, không ai hiểu gì, từ khán
giả tới diễn viên.
Ionesco
muốn nói tới một thế giới hỗn loạn, mọi người không còn khả năng trao
đổi, đối thoại; chữ nghĩa, ngôn ngữ trở thành vô nghĩa, ngớ ngẩn, khiến
xã hội đã hỗn loạn trở thành hỗn loạn hơn. Như câu của Albert Camus: Mal
nommer des choses c’est ajouter au malheur du monde (Gọi tên sự vật
không chính danh là thêm hỗn loạn vào cái hỗn loạn của thế giới).
Người
là sinh vật duy nhất biết nói. Đáng lẽ ngôn ngữ phải là sợi dây nối
liền con người, các chế độ độc tài toàn trị đã đã làm băng hoại ngôn
ngữ, khiến ngôn ngữ thay vì là cái cầu, đã khiến người ta xa nhau hơn.
La Cantatrice Chauve chiếm
kỷ lục về thời gian trình diễn: gần 3 phần tư thế kỷ. Từ khi ra mắt năm
1957, vở kịch được trình diễn liên tục cho tới ngày nay, ở Théâtre de
la Huchette, khu Latin, Paris
HUXLEY, ORWELL, HAI CÁI NHÌN TRÁI NGƯỢC
Viết cách đây ba phần tư thế kỷ, tác phẩm Brave New World (1932, bản tiếng Pháp: Le Meilleur Des Mondes) của Huxley (1), và ‘’1984’’ (ra
đời năm 1949) của Orwell (2), đã mô tả sống động thế giới ngày nay, thế
giới được cai trị bằng những thuyết âm mưu kỳ quái, những fake news,
những dối trá được coi là sự thực, những sự kiểm soát khủng khiếp, từ
hành động tới tư tưởng của mỗi người dân, mỗi giây phút
Độc giả VN ít nghe nói tới Aldous Huxley, nhưng rất quen thuộc với George Orwell nhờ 2 tác phẩm dịch sang Việt ngữ: Animal Farm ( Trại Súc Vật) và ‘’1984’’.
Người Việt bắt gặp chính mình trong Trại Súc Vật,
một xã hội toàn trị, trong đó bất công, thối nát được hoá trang dưới
chiêu bài cách mạng, vô sản. Một xã hội dối trá, nham nhở, cười ra nước
mắt, trong đó ’’tất cả mọi người đều bình đẳng, nhưng có những người được…bình đẳng hơn thiên hạ đôi chút’’.
Bằng
cách nào các chế độ toàn trị biến con người thành những cái máy vô cảm,
chỉ biết tuân lệnh? Huxley, Orwell nghĩ hoàn toàn khác nhau.
ORWELL VÀ BIG BROTHER
Orwell, trong ‘’1984’’, tố
cáo một xã hội trong đó guồng máy cầm quyền, dưới con mắt của Big
Brother, kiểm soát nhất cử nhất động của người dân, đàn áp dã man những
người muốn ra khỏi lề phải, mon men tới lề trái, suy nghĩ hành động khác
thiên hạ. Tóm lại, cai trị, kiểm soát bằng kinh hoàng.
Orwell
là một nhà cách mạng, xuất thân từ giai cấp bình dân, muốn chống bất
công, thay đổi thế giới. Ông tình nguyện sang Tây Ban Nha kháng chiến
chống độc tài quân phiệt, cùng với những người Cộng Sản. Lúc đầu, ông
hăng say, thấy cách mạng tuyệt vời, dân từ mọi giai cấp sát cánh bên
nhau chống độc tài. Là cựu quân nhân của quân đội Anh ở Miến Điện, ông
đóng vai huấn luyện quân sự cho quân kháng chiến, trực tiếp tham gia
những cuộc hành quân, suýt bỏ mạng vì đạn xuyên qua cổ họng.
Dần
dần, sống bên cạnh các đồng chí, ông khám phá bộ mặt thực của những
người muốn dùng bạo lực, dối trá, cải trắng thành đen, coi mục đích tiến
tới chính quyền biện minh cho những phương tiện bất nhân, vô luân tàn
bạo nhất. Ông vỡ mộng, bỏ về nước.
Là
ký giả ở London, trong lúc tả phái hoành hành ở Âu Châu, Orwell kinh
hoàng trước sự dối trá của báo chí, media Cộng Sản. Sự thực khách quan
không còn nữa. Lịch sử được viết lại, nguỵ tạo trắng trợn. Dối trá trở
thành sự thực. Ngôn ngữ hoàn toàn bị cưỡng hiếp, trắng thành đen. Chiến
tranh là hoà bình. Hận thù là tình yêu. Bạo lực là công lý. Ngu dốt là
sức mạnh.
Orwell
trở thành nhà văn chống Cộng quyết liệt nhất, trong một thời đại đứng
về phe tả là lẽ tất nhiên của “trí thức tiến bộ”. Ông kiếm một hòn đảo
hẻo lánh, dù bệnh hoạn (bị lao phổi nặng), túng thiếu, cặm cụi viết 2
cuốn sách để đời: Animal Farm và 1984, để đánh thức thế giới. Ông từ trần ở tuổi 46, sau khi đã viết gần xong những ưu tư của mình.
Trong
1984, từng người dân bị theo dõi mỗi dây phút, khắp nơi, dưới một con
mắt vô hình, gọi là Big Brother. Không ai biết Big Brother là gì, ở đâu,
nhưng ai cũng biết mình bị theo dõi, từ đó không dám làm gì, nghĩ gì
khác với nhà nước. Trong chính phủ, bộ quan trọng nhất là Bộ Sự Thực
(Ministry of Truth), có nhiệm vụ … trá hình sự thực, viết lại lịch sử,
nguỵ tạo tin tức, hướng dẫn dân suy nghĩ, suy luận theo nhà nước.
HUXLEY VÀ NHÀ TÙ KHÔNG TƯỜNG
Huxley,
sinh năm 1894, hơn Orwell 9 tuổi, coi tác phẩm của Orwell có tầm vóc
quan trọng, nhưng không chia sẻ cái nhìn của Orwell.
Huxley không tin vào sự hữu hiệu của chính sách chỉ cai trị bằng kinh hoàng, bằng cách đạp vào mặt người dân.
Ông
nghĩ khủng bố là một yếu tố để cai trị, nhưng muốn cai trị lâu dài,
vĩnh viễn, phải biến chính người dân thành những chiến sĩ bảo vệ cho chế
độ, thay vì bất mãn, dù chỉ thụ động, bất mãn trong im lặng. Khỏi cần
cai tù, mỗi người dân sẽ trở thành cai tù cho chính mình, vì không muốn
mất quyền hưởng lạc, vì thoả mãn với đời sống vật chất của mình.
Cách
củng cố quyền lực hữu hiệu nhất theo Huxley là xoá bỏ những giá trị
tinh thần, thoả mãn những thú vui vật chất, những giải trí ấu trĩ nhất,
những nhu cầu tiêu thụ phù phiếm nhất. Đó là phương pháp cổ truyền thời
La Mã: hãy cho dân bánh mì và những trò vui (thí dụ trò giác đấu), người
dân sẽ quên mọi chuyện, ngoan ngoãn chấp nhận chính quyền.
Huxley, trong The
Brave New World: “Nhờ kiểm soát tư tưởng, nhờ khủng bố thường trực để
giữ cá nhân dưới sự phục tòng, ngày nay chúng ta đã bước vào một chế độ
độc tài hoàn hảo nhất, một chế độ có bề ngoài dân chủ, một nhà tù không
tường, trong đó tù nhân không nghĩ tới chuyện vượt ngục, không nghĩ tới
chuyện lật đổ bạo chúa. Một chế độ, trong đó, nhờ được tiêu thụ, được
giải trí, những người nô lệ đâm ra yêu thích thân phận nô lệ của mình”
(3).
Là
một trí thức thuộc giai cấp quý tộc Anh, Huxley sinh ra trong một gia
đình có nhiều khoa học gia nổi tiếng, kể cả Nobel Y khoa, Huxley tiên
đoán và kinh hãi thấy người ta sẽ dùng những tiến bộ kỹ thuật để kiểm
soát con người một cách hữu hiệu cùng cực.
Orwell
và Huxley thuộc 2 giai cấp khác nhau; Huxley, trí thức, thuộc giai cấp
quý tộc, “đẹp trai, học giỏi, con già giàu”, Orwell, một nhà hành động
thuộc giới bình dân, nhưng cả hai đều trăn trở trước đại hoạ của nhân
loại.
Hai
người đã gặp nhau, trao đổi, khi Orwell được học bổng vào trường Eton,
là nơi đào tạo những phần tử ưu tú của giai cấp thượng lưu, nơi đào tạo
giới lãnh đạo nước Anh. Huxley là giáo sư văn chương Pháp. Hai người bất
đồng ý kiến trên mọi chuyện, nhưng nhờ Huxley, Orwell khám phá và say
mê những tác giả Pháp như Maupassant, Zola, Anatole France. Orwell rời
Eton vì hết học bổng, và cũng vì thấy đó không phải là thế giới của
mình. Huxley cũng bỏ Eton sau 2 năm, vì không thích nghề dạy học, chỉ
muốn làm nhà văn.
MÔ HÌNH HUXLEY, ORWELL Ở NƯỚC TÀU
Huxley, Orwell, ai có lý?
Orwell với kinh nghiệm trước mắt, thấy rõ cái tàn bạo bệnh hoạn của độc tài toàn trị.
Huxley
là trí thức, thấy cái đại hoạ của một xã hội chỉ biết tiêu thụ. Nếu một
nhà độc tài muốn khai thác, thoả mãn các thị hiếu phù phiếm của người
dân, họ sẽ cai trị vĩnh viễn. Người nô lệ, một lúc nào đó, sẽ đứng dậy,
bứt phá xiềng xích, nhưng ai chống lại những thú vui, những trò tiêu thụ
cho họ có cảm tưởng mình là những người tự do?
Những
chuyện đang xảy ra tại các xứ độc tài, đứng đầu là Trung Cộng, cho thấy
những điều Huxley, Orwell tiên đoán đang thực hiện dưới mắt chúng ta
mỗi ngày. Và sự thực vượt xa trí tưởng tượng của những nhà văn giầu
tưởng tượng nhất.
Trung Cộng đang thực hiện cả hai mô hình Orwell, Huxley.
Một
mặt, nhà nước đàn áp dã man những người loạng quạng đi vào lề trái.
Không phải chỉ có một Bộ Sự Thật, nhưng có hàng triệu dư luận viên để
nguỵ tạo tin tức, vu cáo, bôi nhọ, nhục mạ, triệt hạ những người suy
nghĩ trái chiều. Không phải chỉ có một Big Brother vô hình, nhưng có
trên 400 triệu caméras tại khắp các ngõ nghách. Không ai tránh khỏi
cameras quá 7 phút, dù đi lại ở những khu hẻo lánh nhất. Công an, nhờ
cameras tối tân nhất, có thể, trong vài phút, nhận diện những người đang
bị theo dõi trong số 7, 80 ngàn khán giả trong một trận football.
Ngay
cả Orwell cũng không tưởng nổi một cuốn sổ xã hội (crédit social) của
mỗi công dân Tàu ngày nay. Mỗi người có một số điểm công dân, do
computers quản trị. Bị báo cáo có lời lẽ thiếu tin tưởng vào Đảng, leo
vào mạng coi những websites phản động, vượt đèn đỏ… sẽ bị mất một số
điểm. Mua một cuốn sách tư tưởng Tập Cận Bình, chăm chỉ tham dự những
buổi học tập đường lối của Đảng, sòng phẳng trả tiền điện, tiền nước
v.v… sẽ được tăng điểm. Những người có sổ xã hội tốt sẽ được hưởng vài
đặc quyền, đặc lợi, nhất là được yên ổn làm ăn. Những người có sổ xã hội
xấu sẽ gặp khó khăn, cho tới khi bị theo dõi, bị vào sổ đen, hết kiếm
việc làm, thuê nhà, mua vé xe lửa, ghi tên cho con vào trường học. Sổ xã
hội là một tiêu chuẩn để tuyển lựa nhân viên, lấy vợ lấy chồng, để
thành công hay thất bại.
Tại nhiều địa phương bên Tàu, người ta thí nghiệm dự án cho mỗi smart phone một
tiếng reo khác nhau, tuỳ theo số điểm trong sổ xã hội của mỗi người.
Nghe tiếng reo, người ta biết ngay người gọi là công dân tốt hay xấu, có
nên tiếp xúc hay không, có nên cộng tác, cho thuê nhà, cho vay tiền hay
không.
Đó là cai trị theo mô hình Orwell.
Theo mô hình Huxley, xã hội Tàu là xã hội tiêu thụ xả láng, hơn cả những nước tư bản.
Thị
trường béo bở nhất cho hàng hoá xa xỉ, đắt tiền như Vuiton, Chanel, Dom
Perignon, Tesla, Rolls Royce… là thị trường Tàu. Du khách Tàu được
chiều đãi nhất, bất chấp tư cách rừng rú của họ, vì mỗi du khách Tàu
tiêu xài trung bình mỗi lần ít nhất 5000 dollars trong chuyện shopping,
bỏ xa các du khách những nước giầu nhất. Siêu thị loại sang La Fayette,
Printemps ở Paris có khu dành riêng cho du khách Tàu, lựa sẵn những hàng
hoá đắt tiền người Tàu thích, mở cửa bất cứ giờ nào nếu có một đoàn du
khách ghé Paris nhưng chỉ có vài giờ làm shopping.
Tất
cả những trò chơi, thú vui của tư bản, từ golf tới football, từ
champagne tới rượu chát đều phát triển mạnh bên Tàu. Người Tàu, ít nhất
là người có tiền, thoả mãn, hãnh diện. Cũng như rất nhiều người Việt
hãnh diện: “Ở VN bây giờ cái gì cũng có ông ơi”. Đó là những người bảo vệ Đảng tích cực nhất, hơn cả Đảng viên.
Tóm
lại, áp dụng hai mô hình Orwell, Huxley, nước Tàu của Tập Cân Bình đang
thực hiện một xã hội toàn trị hoàn hảo nhất, đã Hán hoá dân tộc Tibet,
đã lập một trại cải tạo khổng lồ cho cả dân tộc Duy Ngô Nhĩ, đã xây
những nhà tù thật, tối tân, bên cạnh những nhà tù không tường. Tập cận
Bình đang thành công trong việc biến người Tàu thành những con tê giác.
CƯỠNG BỨC NGÔN NGỮ, BÓP NGHẸT NGÔN LUẬN
Một
trong những tệ hại dẫn đường tới độc tài toàn trị là cưỡng hiếp tự do
ngôn luận, tiêu diệt khả năng phán đoán, suy luận của người dân.
Tự
do ngôn luận là căn bản của các chế độ dân chủ. Thông tin trung thực là
võ khí để bảo vệ dân chủ. Đối thoại, thảo luận một cách xây dựng là
phương tiện hữu hiệu nhất để cải thiện xã hội.
Khi
nắm trong tay các media, nhà cầm quyền bóp chết xã hội, độc quyền cai
trị trên các xác chết biết đi, trên những con tê giác. Về hiện tượng
lũng đoạn ngôn luận, Huxley và Orwell cũng có cái nhìn khác nhau.
Orwell
tố cáo chuyện bưng bít thông tin. Huxley, trái lại, nghĩ đại hoạ là
hiện tương quá nhiều thông tin, cái giả cái thực lẫn lộn.
Học giả Mỹ Neil Postman, trong cuốn sách best seller “Amusing Ourselves to Death”, tóm tắt 2 quan điểm khác nhau về truyền thông của Huxley và Orwell:
– Cái sợ của Orwell là nạn cấm in sách; Huxley sợ sẽ không cần cấm sách vì không ai đọc sách nữa.
–
Orwell sợ thông tin bị bưng bít; Huxley sợ có quá nhiều thông tin,
khiến chúng ta trở thành thụ động (không suy nghĩ, phân tách nữa), và
ích kỷ (chỉ đọc và nghe những media hợp ý mình).
– Orwell sợ sự thực bị che dấu; Huxley sợ sự thực bị ngập lụt trong biển cả của những chyện tào lao.
–
Orwell sợ chúng ta sẽ có một văn hoá tù túng (a captive culture);
Huxley sợ một văn hoá nông cạn, nghèo nàn (a trivial culture).
Ngày nay, tất cả những e ngại của Orwell và Huxley, dù trái ngược nhau, đã trở thành sự thực.
Một
mặt người ta bưng bít sự thực, mặt khác, người ta cho tràn ngập những
tin tức vô bổ, những fake news, những tin tức dựng đứng phản khoa học,
phản lý trí của các thuyết âm mưu đủ loại.
Trước
đây, những cơ quan báo chí làm công việc gạn lọc, giải thích. Ngày nay,
ở những nước độc tài toàn trị, công việc đó là độc quyền của nhà nước.
Tại những nước tự do, với mạng lưới xã hội, bất cứ ai cũng trở thành
những nhà báo, những chuyên viên truyền thông. Không cần đọc một cuốn
sách, khỏi cần ra đường, khỏi cần tìm hiểu, ngồi trong góc nhà, gõ vài
hàng có thể dẫn đám đông đi như một bầu cừu của Panurge.
Tựa cuốn sách của Neil Postman về các đài truyền hình, Amusing Ourselves to Death (bản tiếng Pháp: Se distraire jusqu’à la mort s’ensuive. Hãy giải trí cho tới chết), nói
lên hiện tượng một đại chúng ngụp lặn trong những chương trình có mục
đích duy nhất là giải trí khán giả để bán hàng, quên tất cả những cái
còn lại liên hệ tới trí tuệ, kiến thức, văn hoá. Huxley không nói gì
khác về một thế giới do các chuyên viên đủ loại điều khiển, vô văn hoá,
không còn lý trí, trở thành đất dụng võ cho độc tài toàn trị.
Trung
Cộng ngày nay là hiện thân của 2 mô hình Huxley, Orwell cộng lại, với
tần số 1000, để đào tạo một xã hội tê giác theo kiểu Ionesco.
Đáng
lẽ đó chỉ là chuyện thiên hạ, cũng chẳng có gì đáng ưu tư. Vấn đề là
những gì xảy ra ở bên Tàu đã, và sẽ xảy ra nguyên con ở Việt Nam.
_________
Chú thích:
(1)
HUXLEY (1894-1963). Tiểu thuyết gia, thi sĩ, ký giả, triết gia. Tác
phẩm: 12 tiểu thuyết, 7 tuyển tập truyện ngắn, 8 tập thơ, 22 sách nghị
luận, 3 ký sự du lịch, 1 vở kịch. Nổi tiếng nhất: Brave New World.
(2)
GEORGE ORWELL (1903-1950). Tên thực: Eric Arthur Blair. Tác giả 9 tiểu
thuyết, ký sự và hàng trăm bài báo, nghiên cứu, nghị luận đủ loại. Nổi
tiếng nhất: Animal Farm, 1984.
(3) “Tại sao 47 năm sau vẫn chưa có thay đổi ở Việt Nam?” (Từ Thức)